Tải bản đầy đủ (.doc) (156 trang)

Phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện đại trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.69 KB, 156 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng, mạng lưới bán lẻ truyền
thống đã tồn tại và phát triển cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bao
gồm các loại hình cơ bản như chợ, cửa hàng, cửa hiệu, sạp hàng… Hiện nay,
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, các loại hình bán lẻ truyền thống tồn tại là phổ biến.
Chợ truyền thống là loại hình bán lẻ có lịch sử phát triển lâu đời nhất, phổ biến
nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng và tiêu thụ hàng hoá, nhất là ở
khu vực nông thôn của tỉnh. Bên cạnh mạng lưới chợ, loại hình bán lẻ truyền
thống khác cũng khá phát triển là các cửa hàng, cửa hiệu nhỏ.
Cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế của đất nước, thị trường bán
lẻ đã có nhiều thay đổi sâu sắc. Với sự xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, thay vào đó là cơ chế thị trường, thị trường bán lẻ Việt Nam đã
thực sự thể hiện được vai trò của mình là đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người
dân và góp phần thúc đẩy sản xuất. Cùng với đó là sự đa dạng về loại hình phân
phối bán lẻ, bên cạnh những loại hình bán lẻ truyền thống như chợ, cửa hàng
bán lẻ truyền thống, các loại hình tổ chức bán lẻ hiện đại như siêu thị, trung tâm
thương mại, cửa hàng tiện lợi,… đã được hình thành và phát triển làm thay đổi
dần thói quen tiêu dùng của người dân và đưa lại diện mạo mới cho ngành
thương mại của đất nước.
Trong những năm qua, trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, các loại hình bán lẻ hiện
đại đã xuất hiện và không ngừng phát triển. Sự ra đời của các siêu thị, trung tâm
thương mại, cửa hàng tiện lợi,… trên địa bàn tỉnh đã tạo nên sự cạnh tranh sôi
động trên thị trường bán lẻ. Điều này đã tạo điều kiện cho người tiêu dùng trong
tỉnh được hưởng nhiều tiện ích, có thêm nhiều lựa chọn khi thực hiện mua sắm.
Không những mua được sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, chất lượng bảo


2



đảm, giá cả ưu đãi, người tiêu dùng còn được hưởng nhiều chương trình khuyến
mãi, giảm giá,... Bên cạnh đó, người dân trong tỉnh cũng bắt đầu được làm quen
với phương thức mua sắm hiện đại, chất lượng dịch vụ cao từ khâu tiếp thị, tư
vấn bán hàng đến chính sách sau bán hàng đều được quan tâm và chuyên
nghiệp; không gian, môi trường sạch sẽ, đảm bảo an toàn thực phẩm,... Mặt
khác, các các đơn vị sản xuất hàng hóa trên địa bàn tỉnh cũng có cơ hội thực
hiện quảng bá, tiêu thụ những sản phẩm thế mạnh, đặc sản của địa phương qua
các loại hình bán lẻ hiện đại này.
Phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ hiện đại ở tỉnh Phú Thọ trong bối
cảnh cả nước đang thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và chủ động hội nhập với khu vực và thế giới là một đòi hỏi thực tế
khách quan. Với sự phát triển của sản xuất và tiêu dùng, đặc biệt là mức tăng
của tiêu dùng và quá trình đô thị hoá của tỉnh Phú Thọ, cùng với triển vọng đầu
tư vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của các thành phần kinh tế vào địa bàn tỉnh đặt
ra yêu cầu cần phát triển đầy đủ, ổn định và hài hoà mạng lưới các cơ sở bán lẻ
hiện đại. Tuy nhiên, để phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện đại
tại địa bàn tỉnh Phú Thọ phải có những điều kiện tiên quyết cho các loại hình
bán lẻ hiện đại hình thành và lớn mạnh. Với lý do đó, nghiên cứu sinh đã chọn
đề tài “Phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện đại trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ” làm luận án tiến sĩ kinh tế của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề xuất giải pháp nhằm phát triển
mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện đại trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về điều kiện phát triển mạng lưới các cơ sở bán
lẻ hàng hóa hiện đại của một tỉnh;



3

- Đánh giá thực trạng các điều kiện phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ
hàng hóa hiện đại của tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006 - 2013;
- Xây dựng quan điểm, định hướng và đề xuất các giải pháp phát triển mạng
lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện đại trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về điều
kiện để mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện đại trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
phát triển.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: Đánh giá các điều kiện phát triển các cơ sở bán
lẻ hàng hóa hiện đại trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006 đến 2013 và
đề xuất các giải pháp cho thời kỳ đến năm 2020.
- Phạm vi về không gian: Địa bàn tỉnh Phú Thọ trong mối quan hệ với các
tỉnh lân cận như Vĩnh Phúc, Hà Nội...
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu các điều kiện để phát triển mạng lưới
các cơ sở bản lẻ hàng hóa hiện đại (tập trung chủ yếu vào phát triển hệ thống
siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi)
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cách tiếp cận
Để giải quyết các vấn đề nghiên cứu, nghiên cứu sinh sử dụng cách tiếp
cận thực tiễn, hệ thống, biện chứng và tổng hợp. Đối tượng nghiên cứu của luận
án là những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc phát triển mạng lưới các cơ sở
bán lẻ hiện đại trên địa bàn tỉnh Phú Thọ với nhiều nội dung liên quan như: lý
luận về bán lẻ hiện đại, lý luận về phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ hiện đại
trên địa bàn một tỉnh, thực trạng những yếu tố và điều kiện để mạng lưới các cơ
sở bán trên địa bàn Phú Thọ phát triển,... Do vậy cần phải sử dụng cách tiếp cận



4

thực tiễn, hệ thống, biện chứng và tổng hợp để: hệ thống những lý luận về phát
triển các cơ sở bán lẻ hiện đại, rút ra những đánh giá về các điều kiện để phát
triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ hiện đại trên địa bàn Phú Thọ, làm rõ xu hướng
phát triển của mạng lưới các cơ sở bán lẻ hiện đại, từ đó đề xuất giải pháp nhằm
phát triển mạng lưới này.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu: hệ thống hóa và khái quát hóa, thống kê, phân tích, tổng hợp,
diễn dịch, quy nạp, so sánh - đối chiếu, khảo sát và dự báo. Đồng thời nghiên
cứu sinh còn sử dụng hình thức nghiên cứu tại bàn kết hợp với kế thừa số liệu,
tài liệu của của một số tổ chức, cá nhân, cụ thể:
- Sử dụng phương pháp hệ thống hóa và khái quát hóa để kế thừa có chọn
lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố có liên quan đến
luận án trên cơ sở đó khái quát hóa những vấn đề về lý luận và thực tiễn của đề
tài, đồng thời sử dụng phương pháp tổng hợp để xây dựng những luận cứ có tính
độc lập và khoa học cho luận án.
- Sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp kết hợp với phương pháp phân
tích, so sánh - đối chiếu và quy nạp để đánh giá những điều kiện phát triển mạng
lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; phát hiện những vấn
đề còn hạn chế của các điều kiện này, từ đó đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế
để mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện đại của tỉnh Phú Thọ phát triển
trong thời gian tới.
- Phương pháp khảo sát, điều tra được sử dụng để thu thập thông tin sơ cấp
về sự phát triển của mạng lưới các cơ sở bán lẻ hiện đại trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ. Phương pháp này được kết hợp với phương pháp thống kê, phân tích và
tổng hơp để đánh giá thực trạng phát triển các cơ sở bán lẻ trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ thời gian qua.



5

- Phương pháp dự báo được sử dụng để nêu lên các xu hướng phát triển
của thị trường bán lẻ hiện đại, xu hướng phát triển của các loại hình tổ chức bán
lẻ trong tương lai và xu hướng vận động của các điều kiện để phát triển mạng
lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện đại trên địa bàn tỉnh Phú Thọ thời gian tới.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hóa, bổ sung và phát triển cơ sở lý luận về phát triển mạng lưới
các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện đại đối với một tỉnh, trong đó tập trung cơ sở lý
luận về điều kiện phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện đại như:
phân tích khái niệm về điều kiện phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa
hiện đại, khái niệm về phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ hiện đại, xác định
các tiêu chí đánh giá sự phát triển của mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện
đại đối với một tỉnh cụ thể.
- Tổng kết thực tiễn các điều kiện phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ
hàng hóa hiện đại của tỉnh Phú Thọ, qua đó rút ra những nhận định về thuận lợi
và khó khăn đối với phát triển của mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện đại
trên địa bàn tỉnh.
- Xây dựng hệ thống quan điểm, định hướng phát triển mạng lưới các cơ sở
bán lẻ hàng hóa hiện đại trên địa bàn tỉnh Phú Thọ thời kỳ đến năm 2020. Đề
xuất một số giải pháp để phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện đại
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đến năm 2020.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Tổng quan các vấn đề nghiên cứu, Kết luận, Mục
lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục bảng, biểu đồ và phụ lục, nội
dung của Luận án được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về điều kiện phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ
hàng hóa hiện đại trên địa bàn thị trường một tỉnh;



6

Chương 2: Đánh giá thực trạng điều kiện phát triển mạng lưới các cơ sở
bán lẻ hàng hóa hiện đại trên địa bàn tỉnh Phú Thọ;
Chương 3: Giải pháp phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện
đại trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.


7

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan
đến đề tài luận án
1.1. Các nghiên cứu của nước ngoài
Phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện đại đang là một xu thế
chung của thế giới, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế phát triển cao. Chính vì
vậy, chủ đề phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa hiện đại đã được các
nhà khoa học nghiên cứu và công bố kết quả trên các ấn phẩm. Nhìn chung, các
công trình nghiên cứu về bán lẻ nói chung và loại hình tổ chức bán lẻ hàng hóa
hiện đại nói riêng đều tập trung vào việc luận giải cơ sở khoa học của việc phát
các loại hình tổ chức bán lẻ hiện đại; đưa ra các điều kiện để xây dựng và phát
triển hệ thống bán lẻ; xây dựng các mô hình phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại
và quản trị bán lẻ hiện đại.
Dưới đây là tổng quan kết quả nghiên cứu của một số công trình nghiên
cứu ngoài nước:
C.Lonsdale, J.Sanderson and G.Watson, 2002, Supply Chain, Markets and
Power: Mapping buyer and supperlier power regimer” (Năng lực thị trường và
chuỗi cung ứng: Tương quan quyền lực giữa người mua và người bán). Nghiên

cứu này đã tập trung phân tích sự phát triển quan hệ và tương quan quyền lực
giữa người bán và người mua trong chuỗi cung ứng nói chung của thị trường,
thiết lập cơ sở cho việc xây dựng chuỗi cung ứng sản phẩm của hệ thống phân
phối hiện đại.
Dr Gerd Wolfram, 2003, “Metro group: Future store initiative” (Tập đoàn
Metro: Sáng kiến cho tương lai của siêu thị”. Nghiên cứu này đã giới thiệu, phân tích
kinh nghiệm, chiến lược xây dựng và sự phát triển trong tương lai của tập đoàn
Metro trên thị trường quốc tế, trong đó tập trung vào phát triển mạng lưới phân phối,


8

đáp ứng sự hài lòng của khác hàng về sản phẩm và chất lượng cung cấp dịch vụ…
Coriolis Research, 2004, “Tesco: Case Study in Suppermarket Excellence”
(Tesco: Nghiên cứu tình huống siêu thị danh tiếng); Anitha Y Institute of
Information Technology - Bangalove Electronic City, 2004, “7 - ELEVEN An
Enterprise Case Study” (Nghiên cứu trường hợp của các chuỗi cửa hàng tiện lợi 7
- ELEVEN ); Oliver, 2004, “Wal-Mart SVP of Human resources” (Nguồn nhân
lực cho các chuỗi cửa hàng của Wal-Mart SV); Ingrid Bonn, Graduate School of
Management, Griffith University, 2005, “Aldi in Australia”. Các công trình
nghiên cứu nêu trên đã tập trung nghiên cứu tình huống phát triển chuỗi siêu thị
Tesco và chuỗi cửa hàng tiện lợi 7-Eleven, cũng như phát triển nguồn nhân lực
của Wal Mart ở thị trường Hoa Kỳ. Các công trình nghiên cứu trên cũng đã đề
cập tới những lý thuyết quản trị chuỗi cung ứng nói chung, phương thức phát triển
hệ thống phân phối hiện đại, kinh nghiệm xây dựng thương hiệu,…
David Simchi-Levi, Philip Kaminsky & Edith Simchi-Levi, 2004,
“Managing the Supply Chain” (Quản trị chuỗi cung ứng). Nghiên cứu này đã
phân tích phương thức quản trị chuỗi cung ứng của hệ thống phân phối dạng
chuỗi siêu thị. Theo nghiên cứu này, quản trị chuỗi cung ứng (SCM) là quá trình
lên kế hoạch, thực hiện và kiểm soát các hoạt động của chuỗi cung ứng nhằm

mục đích đáp ứng các yêu cầu của khách hàng một cách hiệu quả nhất. Quản trị
chuỗi cung ứng diễn ra trong toàn bộ quá trình vận chuyển và lưu trữ nguyên
liệu, kiểm kê công việc đang thực hiện và các thành phẩm từ điểm gốc đến điểm
tiêu thụ. Nghiên cứu này cũng chỉ ra nội dung và những lợi ích của hoạt động
quản trị chuỗi cung ứng. Chẳng hạn, quy trình quản trị chuỗi cung ứng gồm: Lên
kế hoạch và kiểm soát; Cấu trúc công việc; Cơ cấu tổ chức; Cơ cấu thiết bị dòng
sản phẩm; Cơ cấu thiết bị dòng thông tin; Các phương pháp quản trị; Cấu trúc
lãnh đạo và quyền hạn; Cấu trúc rủi ro và thưởng; Văn hóa và thái độ…
Ling Li, Old Dominion University, USA: “Supperly Chain Managerment:


9

Concepts, techniques and Practices - Exchangcing Value Throught Collaboration”
(Quản trị chuỗi cung ứng: Trao đổi kinh nghiệm thông qua sự hợp tác). Nghiên cứu
này đã đề cập đến những kinh nghiệm trong quản trị chuỗi cung ứng nhằm thành
công trong cạnh tranh của một chuỗi cung ứng với các chuỗi cung ứng khác.
AT Kearney: “Những cánh cửa hy vọng của bán lẻ toàn cầu - Chỉ số phát
triển bán lẻ toàn cầu 2009”. Tài liệu xếp hạng các thị trường bán lẻ trên thế giới
dựa trên cơ sở đánh giá các nhóm chỉ tiêu để xác định chỉ số phát triển bán lẻ
của từng quốc gia (GRDI) như nguy cơ kinh tế, chính trị, độ hấp dẫn của thị
trường bán lẻ, mức bão hòa của thị trường bán lẻ và sự khác nhau giữa tăng
trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) và tăng trưởng bán lẻ. Theo báo cáo này
Việt Nam là một trong 10 thị trường bán lẻ phát triển nhanh nhất thế giới.
Fels, Allan: “Quản trị bán lẻ - Bài học từ các quốc gia đang phát triển”,
Asia Pacific Business Review, số 1 năm 2009. Tác giả đã tổng kết kinh nghiệm
về quản trị bán lẻ và rút ra bài học quản lý bán lẻ ở các nước đang phát triển.
Những kinh nghiệm được đề cập đến là tổ chức mạng lưới cửa hàng, đào tạo
nguồn nhân lực, kỹ năng quản lý, tiếp cận khách hàng, quảng bá hình ảnh…
Tsinnopoulos, C. Durham University Bussiness School, Mena, C. Cranfield

University, 2010, “Competing Supply Chain Stratergier: Tesco, Aldi and Liddl”
(Cạnh tranh của các hãng phân phối hàng đầu về chuỗi cung ứng: Tesco, Aldi
and Liddl). Đã đề cập từng khía cạnh riêng của vấn đề phát triển hệ thống phân
phối hiện đại và áp dụng cho thị trường các nước công nghiệp phát triển.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến vấn đề
bán lẻ hiện đại, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về phát triển mạng
lưới bán lẻ hiện đại ở tỉnh Phú Thọ.
1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới phát triển kinh tế đến nay, vấn đề phát
triển thị trường bán lẻ ở nước ta nói chung và vấn đề phát triển thị trường bán lẻ


10

hiện đại nói riêng đã và đang thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà
khoa học trong nước. Cụ thể:
PGS.TS. Lê Trịnh Minh Châu, “Các giải pháp phát triển hệ thống phân
phối hàng hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ, năm 2002. Đề tài đã làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về
quản lý hệ thống phân phối hàng hóa; Đánh giá thực trạng và chỉ ra các nguyên
nhân cản trở việc phát triển hệ thống phân phối hàng hóa của các doanh nghiệp
Việt Nam; Tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc phát triển hệ
thống phân phối, trong đó tập trung làm rõ cơ sở khoa học và các giải pháp phát
triển các mối liên kết dọc và liên kết ngang trong các hệ thống phân phối.
PGS.TS. Lê Xuân Bá, “Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, đề tài khoa học cấp Bộ, năm 2004.
Đề tài này đã tập trung làm rõ bản chất, nội dung của thể chế kinh tế thị trường
của Việt nam, trong đó đề cập đến các vấn đề pháp luật, cách thức tổ chức thị
trường, các lực lượng thị trường, cơ chế giám sát, thể chế cạnh tranh,…
TS. Nguyễn Thị Nhiễu, “Thực trạng và giải pháp phát triển hệ thống siêu

thị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,
năm 2005. Đề tài đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận về siêu thị, nghiên cứu
kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới về tổ chức quản lý
kinh doanh siêu thị; Xây dựng các tiêu chí phân biệt siêu thị với các loại hình
kinh doanh thương mại khác; Phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống siêu thị và
thực trạng quản lý nhà nước về siêu thị của nước ta hiện nay. Đề tài cũng đã đề
xuất được những vấn đề đổi mới quản lý nhà nước đối với siêu thị và quản trị
kinh doanh siêu thị nhằm phát triển hệ thống siêu thị của nước ta trong thời gian
tới.
ThS. Lê Minh Châu, “Giải pháp phát triển hệ thống cửa hàng tiện lợi vận
doanh theo chuỗi ở Việt Nam đến năm 2010”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp


11

Bộ, năm 2005. Đề tài đã làm rõ vấn đề lý luận về cửa hàng tiện lợi, các hình
thức thành lập cũng như đặc điểm của hệ thống cửa hàng tiện lợi vận doanh theo
chuỗi; Đánh giá được thực trạng phát triển hệ thống cửa hàng tiện lợi vận doanh
theo chuỗi ở nước ta những năm vừa qua và từ đó đề xuất được các giải pháp
phát triển hệ thống cửa hàng tiện lợi vận doanh theo chuỗi ở nước ta đến 2010.
TS. Lê Danh Vĩnh: “20 năm đổi mới cơ chế chính sách thương mại Việt
Nam, những thành tựu và bài học kinh nghiệm”, Nhà xuất bản Thống kê Hà
Nội, năm 2006. Cuốn sách đã phân tích những thành tựu và hạn chế trong quá
trình đổi mới cơ chế, chính sách thương mại ở nước ta. Qua đó, tác giả đã đề
xuất các kiến nghị tiếp tục đổi mới một cách mạnh mẽ về cơ chế, chính sách
thương mại trong thời gian tiếp theo.
TS. Nguyễn Thị Nhiễu “Nghiên cứu các dịch vụ bán buôn, bán lẻ của một
số nước và khả năng vận dụng vào Việt Nam”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ, năm 2007. Đề tài đã nghiên cứu kinh nghiệm phát triển dịch vụ bán buôn,
bán lẻ của một số nước trên thế giới trên các phương diện chế định pháp lý, mô

hình hoạt động và tổ chức quản lý, trên cơ sở đó đã đề xuất được một số giải
pháp đổi mới và hoàn thiện các chế định pháp lý, vận dụng và phát triển các mô
hình và phương thức tổ chức quản lý bán buôn, bán lẻ hiện đại với tư cách là các
phân ngành của ngành dịch vụ phân phối, trong đó tập trung nghiên cứu các điều
kiện, xu hướng phát triển và chính sách quản lý các dịch vụ này ở một số nước,
vận dụng phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
Lê Văn Hóa “Nghiên cứu các giải pháp nhằm phát triển thương mại thông
qua việc thâm nhập vào hệ thống phân phối đa quốc gia”, đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ, năm 2008. Đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát
triển thương mại và hệ thống phân phối qua đó đề xuất được một số giải pháp
nhằm phát triển thương mại quốc gia thông qua việc xâm nhập vào hệ thống
phân phối của tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam.


12

Phạm Hữu Thìn, “Giải pháp phát triển các loại hình tổ chức bán lẻ văn
minh hiện đại ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, năm 2008. Luận án đã làm
rõ một số nội dung cơ bản mang tính khoa học về loại hình tổ chức bán lẻ và
tính đa dạng của nó, luận giải và đưa ra khái niệm cũng như tiêu chí để xác định
và nhận dạng loại hình tổ chức bán lẻ văn minh, hiện đại, luận giải và rút ra
những đặc điểm chính của các loại hình tổ chức bán lẻ văn minh, hiện đại tiêu
biểu trên thế giới. Luận án đã tổng hợp và đưa ra khái niệm phát triển các loại
hình tổ chức bán lẻ văn minh, hiện đại đồng thời đề xuất các tiêu chí, chỉ tiêu cụ
thể để đánh giá sự phát triển của các loại hình tổ chức bán lẻ này. Thông qua
nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài (Trung Quốc, Thái Lan), Luận án đã rút
ra 9 bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về phát triển các loại hình tổ chức bán lẻ
văn minh, hiện đại. Luận án xác định những nhóm yếu tố tác động, những lý do
về sự cần thiết phải phát triển các loại hình tổ chức bán lẻ văn minh, hiện đại ở
Việt Nam cũng như các điều kiện, cơ hội và thách thức đối với sự phát triển các

loại hình tổ chức bán lẻ này ở Việt Nam. Luận án đã phân tích và rút ra những
xu hướng phát triển của ngành bán lẻ cũng như các loại hình tổ chức bán lẻ văn
minh, hiện đại trên thế giới cùng những xu hướng đang diễn ra trong sự phát
triển của các loại hình tổ chức bán lẻ này ở Việt Nam. Từ việc phân tích thực
trạng triển các loại hình tổ chức bán lẻ văn minh hiện đại ở Việt Nam, Luận án
đã chỉ ra những thành tựu, hạn chế, bất cập, nguyên nhân và những vấn đề cần
giải quyết trong sự phát triển và quản lý nhà nước đối với các loại hình tổ chức
bán lẻ văn minh, hiện đại ở Việt Nam. Cuối cùng, luận án đề xuất những quan
điểm, mục tiêu, tiêu chí, định hướng và những giải pháp vi mô và vĩ mô nhằm
phát triển các loại hình tổ chức bán lẻ văn minh, hiện đại ở Việt Nam.
TS. Từ Thanh Thủy, “Hoàn thiện môi trường kinh doanh nhằm phát triển
dịch vụ bán buôn, bán lẻ của Việt Nam”, đề tài khoa học cấp Bộ, năm 2009. Đề
tài đã nghiên cứu tổng quan về dịch vụ bán buôn, buôn lẻ ở Việt Nam, đánh giá


13

thực trạng và đề xuất hoàn thiện môi trường kinh doanh cho lĩnh vực dịch vụ này
theo một số tiêu chí chủ yếu từ góc độ thuận lợi hóa thương mại cho thương nhân.
Bộ Công Thương, “Phát triển thị trường trong nước đến năm 2010 và định
hướng đến 2020”, đề án trình Chính phủ, năm 2007. Đề án đã xây dựng các
quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển (các loại hình doanh nghiệp, loại
hình kết cấu hạ tầng thương mại, các mô tình tổ chức lưu thông hàng hóa) và
giải pháp phát triển thương mại trong nước.
Phạm Hồng Tú, “Phát triển thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng ở nông thôn
Việt Nam thời kỳ 2010 - 2020”, Luận án tiến sĩ kinh tế, năm 2011. Luận án đã hệ
thống hóa và góp phần bổ sung, phát triển cơ sở lý luận về phát triển thị trường bán
lẻ ở nông thôn dựa vào cơ sở lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới ở
Việt Nam; Luận án cũng đã phân tích, đánh giá một cách khoa học thực trạng phát

triển thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng ở nông thôn, các chính sách phát triển thị
trường của Nhà nước trong những năm qua và chỉ ra những kết quả đạt được,
những hạn chế và nguyên nhân để làm cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu. Từ đó
luận án đã đề xuất các quan điểm, mục tiêu, phương hướng hoàn thiện khung khổ
chính sách và phương hướng xây dựng cấu trúc thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng ở
nông thôn nước ta trong thời kỳ 2011 - 2020. Đề xuất một số nhóm giải pháp mới
và có giá trị thực tiễn cao đối với phát triển và hoạt động bán lẻ trên thị trường
nông thôn.
TS. Trần Hùng, “Các giải pháp phát triển hệ thống phân phối hiện đại
của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2006 - 2010”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ, năm 2006. Đề tài đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về hệ thống phân
phối hiện đại, vai trò của các hệ thống phân phối hiện đại trong việc nâng cao
khả năng cạnh trang của các doanh nghiệp thương mại nói riêng và ngành
thương mại Hà Nội nói chung, sự cần thiết phải phát triển hệ thống phân phối


14

hiện đại ở Hà Nội; Nghiên cứu khảo sát thực trạng hình thành và phát triển hệ
thống phân phối hiện đại ở Hà Nội; Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển hệ thống
phân phối hiện đại ở một số nước và một số hệ thống phân phối của các tập đoàn
lớn trên thế giới. Đề tài cũng đã đưa ra các quan điểm định hướng và đề xuất
được một số giải pháp phát triển hệ thống phân phối hiện đại ở Hà Nội trong
thời gian đến năm 2010 và những năm tiếp theo.
PGS.TS. Lê Quân, “Hoàn thiện hệ thống bán lẻ tiện ích tại các khu đô thị
mới ở Hà Nội”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, năm 2007. Đề tài đã làm rõ
cơ sở lý luận về bán lẻ tiện ích trong quá trình phát triển kinh tế và đô thị hóa;
Đúc rút được kinh nghiệm quốc tế về phát triển bán lẻ tiện ích; Nghiên cứu được
thực trạng hệ thống bán lẻ tiện ích tại các khu đô thị mới của Hà Nội. Đề tài
cũng đã đề xuất được một số giải pháp hoàn thiện hệ thống bán lẻ tiện ích tại các

khu đô thị mới của Hà Nội.
TS. Hoàng Văn Hải, “Giải pháp phát triển chuỗi cửa hàng tiện lợi ở các
khu đô thị mới Thành phố Hà Nội”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, năm
2008. Đề tài đã hệ thống hóa và hoàn thiện các cơ sở lý luận về chuỗi cửa hàng
thuận tiện ở đô thị mới. Phân tích và đánh giá thực trạng chuỗi cửa hàng thuận
tiện tại các khu đô thị mới của Hà Nội, điển hình ở ba khu vực đô thị mới: Định
Công, Trung Hòa - Nhân Chính, Mỹ Đình,… Qua đó đã xác lập được các vấn đề
đặt ra đối với chuỗi cửa hàng thuận tiện ở các khu đô thị mới Hà Nội. Đề tài đã
đề xuất được các giải pháp và khuyến nghị nhằm hoàn thiện chuỗi cửa hàng
thuận tiện tại các khu đô thị mới Hà Nội làm cơ sở cho các chính sách về quản
lý nhà nước và quản trị điều hành các doanh nghiệp phân phối.
PGS.TS. Phan Thị Thu Hoài, “Xu thế lựa chọn loại hình cửa hàng bán lẻ
của người tiêu dùng theo cách tiếp cận marketing ở các doanh nghiệp thương
mại trên địa bàn Thành phố Hà Nội”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, năm
2008. Đề tài đã nghiên cứu và xây dựng được một khung lý thuyết về hành vi lựa


15

chọn điểm bán và các nhân tố ảnh hưởng đến lựa chọn cửa hàng để mua sắm của
người tiêu dùng; Nghiên cứu được thực trạng hành vi và xu thế lựa chọn cửa hàng
mua sắm của người tiêu dùng trên địa bàn nội thành Hà Nội, đặc điểm của hoạt
động kinh doanh nói chung và hoạt động marketing của doanh nghiệp thương mại
bán lẻ trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Đề tài tập trung nghiên cứu hành vi chọn
cửa hàng bán lẻ theo các mô hình lựa chọn và các nhân tố ảnh hưởng với lựa chọn
cửa hàng bán lẻ của người tiêu dùng trên địa bàn thành phố Hà Nội ở khu vực nội
thành và đề xuất được các giải pháp marketing cho các doanh nghiệp thương mại
bán lẻ trên địa bàn nội thành Hà Nội nhằm khai thác hiệu quả những đặc điểm và
xu thế lựa chọn điểm bán và dịch vụ phân phối bán lẻ của người tiêu dùng.
Nguyễn Thanh Hải, “Nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp

thương mại bán lẻ hiện đại trên địa bàn Thành phố Hà Nội”, Luận án tiến sĩ
kinh tế, năm 2011. Luận án đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về bán
lẻ hiện đại, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại bán lẻ hiện
đại; Phân tích quan điểm đánh giá hiệu quả, xác định tiêu chuẩn và hệ thống chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại bán lẻ hiện
đại và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này
trong bối cảnh hiện nay; Luận án cũng đã khái quát được tình hình hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại bán lẻ hiện đại trên địa bàn Thành
phố Hà Nội, đã đi sâu phân tích, đánh giá về hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp thương mại bán lẻ hiện đại, đưa ra được các nhận định chung về những
vấn đề cơ bản cần được giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của các
doanh nghiệp này; Luận án cũng đã phân tích những cơ hội và thách thức của
môi trường kinh doanh đối với các doanh nghiệp thương mại bán lẻ hiện đại,
đưa ra quan điểm phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp thương mại bán lẻ hiện đại và đề xuất được một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này.


16

Phạm Huy Giang, “Phát triển hệ thống phân phối hiện đại dạng chuỗi siêu
thị bán lẻ trên địa bàn Thành phố Hà Nội”, Luận án tiến sĩ kinh tế, năm 2011.
Luận án đã xây dựng được mô hình tổng quát về hệ thống phân phối hàng hóa
bán lẻ và xây dựng được các nội dung cơ bản của các bộ phận cấu thành mô hình
hệ thống phân phối hiện đại dạng chuỗi siêu thị bán lẻ của một khu vực hay một
địa bàn nhất định trên ba góc độ: Tổ chức, quản trị và nguồn lực của hệ thống
phân phối; Luận án cũng đã phân tích và đánh giá thực trạng hệ thống phân phối
hiện đại dạng chuỗi siêu thị bán lẻ trên địa bàn nội thành Thành phố Hà Nội theo
mô hình đã phát triển và theo các nội dung đã xây dựng ở phần cơ sở lý luận, đã
đánh giá được những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân hạn chế sự phát triển các hệ

thống phân phối hiện đại dạng chuỗi siêu thị bán lẻ trên địa bàn Thành phố Hà
Nội. Đề xuất được các giải pháp có tính hệ thống nhằm phát triển hệ thống phân
phối hiện đại dạng chuỗi siêu thị bán lẻ theo các nội dung của mô hình đề tài đề
cập đến nhằm nâng cao hiệu quả của toàn hệ thống chuỗi và đáp ứng với các yêu
cầu phát triển của lĩnh vực thương mại của thành phố, đồng thời thỏa mãn được
toàn diện nhu cầu của người dân trên địa bàn thành phố Hà Nội và phù hợp với
điều kiện phát triển hiện tại của thành phố Hà Nội cũng như của nước ta.
2. Những vấn đề còn tồn tại trong các nghiên cứu có liên quan và hướng
nghiên cứu của luận án
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đều có
những nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu của Luận án. Nghiên cứu sinh
có thể kế thừa các kết quả nghiên cứu để giải quyết một số nội dung nghiên cứu
của đề tài như: Các khái niệm về bán lẻ; bán lẻ hiện đại; một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về phát triển kênh phân phối nói chung, bán lẻ và bán lẻ hiện đại nói
riêng;… Tuy nhiên, từ góc độ phát triển thị trường bán lẻ và bán lẻ hiện đại thì
chưa có công trình nào giải quyết một cách toàn diện và có tính hệ thống các vấn
đề lý luận và thực tiễn, cũng chưa có công trình nghiên cứu nào về phát triển các


17

cơ sở bán lẻ hiện đại gắn với các điều kiện kinh tế - xã hội của một tỉnh thuộc
vùng trung du miền núi còn nhiều hạn chế như Phú Thọ (Việt Nam). Nghiên cứu
này tập trung làm rõ con đường phát triển mạng lưới các cơ sở bán lẻ hàng hóa
hiện đại dựa trên cơ sở các điều kiện cụ thể của tỉnh Phú Thọ.


18

PHẦN NỘI DUNG, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN
MẠNG LƯỚI CÁC CƠ SỞ BÁN LẺ HÀNG HÓA HIỆN ĐẠI
TRÊN ĐỊA BÀN THỊ TRƯỜNG MỘT TỈNH
1.1. Khái niệm và các loại hình cơ sở bán lẻ hiện đại
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm bán lẻ
Theo từ điển American, Heritage định nghĩa: bán lẻ là bán hàng cho người
tiêu dùng, thường là với khối lượng nhỏ và không bán lại.
Theo NAICS, năm 2002, lĩnh vực bán lẻ (mã ngành 44-45) bao gồm những
cơ sở kinh doanh bán lẻ hàng hoá (thường không có hoạt động chế biến) và cung
cấp các dịch vụ hỗ trợ cho bán hàng. Quá trình bán lẻ là khâu cuối cùng trong
phân phối hàng hoá. Các nhà bán lẻ tổ chức việc bán hàng theo khối lượng nhỏ
cho người tiêu dùng.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, bán lẻ là hình thức bán từng cái, từng ít một trực
tiếp cho người tiêu dùng. Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia định nghĩa:
Bán lẻ bao gồm việc bán hàng cho cá nhân hoặc hộ gia đình để họ tiêu dùng, tại
một địa điểm cố định, hoặc không cố định và thông qua các dịch vụ liên quan.
Trong cuốn sách Quản trị Marketing, Philip Kotler đã định nghĩa: bán lẻ là
bao gồm tất cả những hoạt động liên quan đến việc bán hàng hoá hay dịch vụ
trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng vào mục đích cá nhân,
không kinh doanh.[37]
Theo phân loại sản phẩm chính tạm thời của Liên Hợp quốc (CPC - Central
Products Classification), bán lẻ là hoạt động bán hàng hoá cho người tiêu dùng


19

hoặc các hộ tiêu dùng từ một địa điểm cố định (cửa hàng, kiốt) hay một địa điểm
khác (bán trực tiếp) và các dịch vụ phụ liên quan.

Những khái niệm trên đây đã xác định bán lẻ là: bán với khối lượng nhỏ;
bán trực tiếp cho người tiêu dùng; bán lẻ hàng hoá và các dịch vụ có liên quan;
người tiêu dùng mua để phục vụ cho nhu cầu của cá nhân và hộ gia đình, không
dùng để kinh doanh (bán lại); không bao gồm tiêu dùng cho sản xuất (phân biệt
giữa hàng tư liệu tiêu dùng và tư liệu sản xuất); bán lẻ là công đoạn cuối cùng
trong khâu lưu thông để sản phẩm đến với người tiêu dùng; bán lẻ tại một địa
điểm cố định, hoặc không cố định và thông qua các dịch vụ khác.[32]
Danh mục mã CPC xác định rằng “dịch vụ chính do các nhà bán buôn và
bán lẻ thực hiện là bán lại hàng hóa kèm theo hàng loạt các dịch vụ phụ trợ có
liên quan khác như: bảo quản, lưu kho hàng hóa; sắp xếp và phân loại đối với
hàng hóa khối lượng lớn, bốc dỡ và phân phối lại đối với hàng hóa khối lượng
nhỏ; dịch vụ giao hàng; dịch vụ bảo quản lạnh; các dịch vụ khuyến mãi do
những người bán buôn thực hiện; và các dịch vụ liên quan đến việc kinh
doanh của người bán lẻ như chế biến phục vụ cho bán hàng, dịch vụ kho hàng
và bãi đỗ xe”.[58]
Các mô hình tổ chức bán lẻ rất đa dạng và những mô hình mới vẫn tiếp tục
xuất hiện. Tuy nhiên có các mô hình bán lẻ chủ yếu sau: bán lẻ tại cửa hàng, bán
lẻ không qua cửa hàng và các tổ chức bán lẻ khác.
* Bán lẻ qua các cơ sở bán lẻ
- Cửa hàng chuyên doanh là cửa hàng chuyên bán một chủng loại hẹp
sản phẩm, nhưng rất đa dạng. Ví dụ như các cửa hàng quần áo, cửa hàng dụng
cụ thể thao, cửa hàng đồ gỗ, cửa hàng sách, cửa hàng bán hoa,…
- Cửa hàng bách hóa tổng hợp là cửa hàng bán một số loại sản phẩm,
thường là quần áo, giày dép, mỹ phẩm, đồ trang sức, đồ gia dụng và đồ trang bị


20

nội thất, trong đó mỗi loại được bán ở những gian hàng riêng biệt do nhân viên
của từng gian hàng phụ trách.

- Siêu thị là một loại cửa hàng tự phục vụ, quy mô tương đối lớn, có chi
phí bán hàng thấp và mức lời thấp, được thiết kế để phục vụ tất cả mọi nhu
cầu của người tiêu dùng về thực phẩm, bột giặt, các sản phẩm bảo trì nhà cửa,
… Ở các nước phát triển, mỗi siêu thị bán khoảng chừng từ 10 đến 15 nghìn
mặt hàng.
- Cửa hàng hạ giá là cửa hàng bán những sản phẩm tiêu chuẩn (không
phải sản phẩm kém phẩm chất) thường xuyên với giá thấp và bán với khối
lượng lớn hơn. Để giảm chi phí, chủ cửa hàng sử dụng những cơ sở ở những khu
vực tiền thuê nhà rẻ, nhưng đông người qua lại, cắt giảm mạnh mức giá, quảng
cáo rộng rãi và bán những loại sản phẩm có chiều rộng và chiều sâu vừa phải.
- Cửa hàng bán giá thấp là cửa hàng bán cho người tiêu dùng với giá thấp
hơn giá bán lẻ bình quân trên thị trường. Hình thức phổ biến nhất của cửa hàng
bán giá thấp là cửa hàng của nhà máy thuộc quyền sở hữu của người sản xuất và
do người sản xuất điều hành, thường bán các loại sản phẩm dư thừa, mặt hàng
đã chấm dứt sản xuất hay sai quy cách.
- Phòng trưng bày catalog là phòng chuyên trưng bày các catalog cho
người mua xem và lựa chọn mua sản phẩm qua catalog. Chủ các phòng trưng
bày này bán hàng với hạ giá rất nhiều các loại sản phẩm có nhãn hiệu, lưu thông
nhanh, giá trị cao như đồ kim hoàn, dụng cụ điện, máy ảnh, túi xách, thiết bị
nhỏ, đồ thể thao,… Họ kinh doanh theo cách cắt giảm chi phí và mức lời để
có thể bán được giá thấp hơn nhưng khối lượng bán lớn hơn.
Về tổ chức phục vụ khách hàng, các cơ sở bán lẻ trên đây có thể chọn một
trong bốn mức độ dịch vụ để đa dạng hóa sự lựa chọn và thỏa mãn nhu cầu của
khách hàng:


21

+ Bán lẻ tự phục vụ đối với những sản phẩm thông dụng và trong chừng
mực nào đó đối với sản phẩm mua có lựa chọn. Tự phục vụ là yếu tố cơ bản của

các cửa hàng hạ giá. Nhiều khách hàng muốn tự mình lựa chọn, so sánh tại chỗ
để tiết kiệm chi phí.
+ Bán lẻ tự chọn, trong đó khách hàng tham gia tìm kiếm sản phẩm và hoàn
tất việc mua bán của mình sau khi thanh toán tiền hàng cho nhân viên bán hàng.
+ Bán lẻ phục vụ hạn chế có mức độ hỗ trợ bán hàng cao hơn, kể cả các
dịch vụ bán trả góp và nhận lại hàng đã mua.
+ Bán lẻ phục vụ đầy đủ có nhân viên bán hàng sẵn sàng giúp đỡ trong quá
trình lựa chọn, so sánh tại chỗ. Bán lẻ phục vụ đầy đủ có chi phí cao để duy trì
nhân viên phục vụ, và thường áp dụng cho những sản phẩm có nhu cầu đặc biệt
(hàng thời thượng, đồ kim hoàn, máy ảnh,…) với chính sách cho phép trả lại
hàng đã mua, bán trả góp, giao hàng tại nhà miễn phí, phục vụ tại chỗ đối với
hàng lâu bền, và những tiện nghi dành cho khách hàng như phòng ngồi nghỉ và
giải khát không mất tiền.
* Bán lẻ không qua cửa hàng
Loại hình bán lẻ không qua cửa hàng ngày càng phát triển nhanh chóng và
chiếm tỉ trọng ngày càng tăng trong doanh số bán lẻ. Những hình thức chủ yếu
của bán lẻ không qua cửa hàng bao gồm:
- Bán trực tiếp, là hình thức bán trực tiếp ra đời cách đây nhiều thế kỷ do
những người bán hàng rong thực hiện, và ngày nay vẫn còn được sử dụng khá
phổ biến, nhất là đối với hàng tiêu dùng. Một cách bán hàng trực tiếp được gọi
là marketing nhiều cấp hay hình thức “bán hàng hình tháp”, theo đó một doanh
nghiệp tuyển mộ những người kinh doanh độc lập làm người phân phối các sản
phẩm của mình, những người này lại tuyển mộ và bán hàng cho những người
phân phối phụ, rồi những người cuối cùng sẽ tuyển mộ những người khác để bán
sản phẩm của mình, thường là tại nhà khách hàng. Tiền thù lao của người phân


22

phối bao gồm một tỉ lệ phần trăm doanh thu của toàn bộ nhóm bán hàng do

người phân phối tuyển mộ cũng như số tiền kiếm được trong mọi trường hợp
bán trực tiếp cho các khách hàng bán lẻ. Bán trực tiếp là hình thức bán hàng rất
tốn kém và phải chi phí vào những việc thuê, huấn luyện, quản lý và động viên
lực lượng bán hàng.
- Marketing trực tiếp, marketing trực tiếp xuất phát từ marketing đơn hàng
qua bưu điện, nhưng ngày nay cách tiếp cận công chúng đã khác đi, chứ không
phải viếng thăm tại nhà hay công sở, và bao gồm marketing qua điện thoại,
marketing giải đáp trực tiếp trên truyền hình và mua hàng qua hệ thống internet.
- Bán hàng tự động, hình thức bán hàng tự động đã dược áp dụng cho
những loại sản phẩm khác nhau từ những sản phẩm thông dụng mua ngẫu hứng
(thuốc lá, nước giải khát, đồ uống nóng, bánh kẹo, đồ điểm tâm, báo chí) và
những sản phẩm và dịch vụ khác (đồ lót, áo phông, sơ mi, sách vở, album nhạc,
băng hình, đổi và rút tiền tự động,…). Máy bán hàng tự động được lắp đặt tại
nhà máy, công sở, khách sạn, nhà hàng, cây xăng, ga tàu xe và sân bay, phục vụ
suốt ngày đêm. Bán hàng tự động là một hình thức bán hàng tiện lợi nhưng khá
tốn kém và giá hàng thường cao vì phải thường xuyên nạp hàng ở những địa
điểm phân tán, tỉ lệ mất cắp cao, và không phải bao giờ cũng làm hài lòng người
mua, vì một thực tế là khách hàng không thể trả lại hàng.
- Dịch vụ mua hàng, đây là hình thức người bán lẻ không có kho hàng,
phục vụ những khách hàng đặc biệt, thường là nhân viên của các tổ chức lớn
như trường học, bệnh viện, các tổ chức của Nhà nước. Những thành viên của
dịch vụ mua này được quyền mua theo một danh sách chọn lọc nào đó của
người bán lẻ với giá chiết khấu. Chẳng hạn một người cần mua một máy vi tính
cá nhân sẽ nhận được một phiếu ở cơ sở làm dịch vụ mua này, đem đến người
bán lẻ đã hợp đồng trước đó và mua với giá chiết khấu. Người bán lẻ sẽ trả một
khoản lệ phí nhỏ cho cơ sở dịch vụ mua hàng.


23


1.1.1.2. Khái niệm bán lẻ hiện đại
Để đưa ra khái niệm về bán lẻ hiện đại, trước hết luận án làm rõ khái niệm
của từ “hiện đại”. Theo cố GS. Nguyễn Lân, “hiện” là “rõ ràng trước mắt”, “đại”
là “đời”; vì thế với chức năng là một tính từ, “hiện đại” có nghĩa là “thuộc về
thời đại hiện nay” [22]. Mặt khác, theo cố tác giả Nguyễn Văn Đạm, “hiện đại”
được hiểu theo hai nghĩa: một là “thuộc thời bây giờ” và hai là “mới nhất và
được coi là chưa bị vượt” (nhất là về khoa học kỹ thuật) [30]. Bên cạnh đó cũng
có một số cách lý giải khác về từ “hiện đại” như: kiểu mới nhất, ở thời hiện tại,
thuộc về hay gắn liền với thời hiện hành,… Trong các cách lý giải trên, cách lý
giải của cố tác giả Nguyễn Văn Đạm được xem là hợp lý và phù hợp nhất khi
nói về tính hiện đại của tổ chức bán lẻ. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về bán
lẻ hiện đại như sau: bán lẻ hiện đại là loại hình bán lẻ có tính chuyên nghiệp cao
trong tổ chức quản lý, vận hành kinh doanh, có áp dụng công nghệ hiện đại trong
hoạt động bán lẻ nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của khách hàng.
Biểu hiện tính hiện đại trong hoạt động bán lẻ là hoạt động bán hàng trực
tiếp đến người tiêu dùng, trong đó các cơ sở bán lẻ chủ yếu bán hàng theo phương
thức tự phục vụ hoặc kết hợp chọn lấy hàng trên giá cho khách hàng và để khách
hàng tự chọn hàng trên giá trưng bày để ngỏ với sự hỗ trợ của nhân viên bán
hàng. Nhiều trường hợp, người bán và người mua không cần tiếp xúc trực tiếp với
nhau mà việc mua bán vẫn có thể diễn ra. Hoạt động bán hàng ở các cơ sở bán lẻ
hiện đại còn có thể được thực hiện dưới hoặc kết hợp với các hình thức và
phương pháp bán hàng như bán hàng qua ti vi, bán hàng qua bưu điện, bán hàng
qua điện thoại, bán hàng trực tuyến (qua Internet), và bán hàng bằng máy bán
hàng tự động.
Tuy nhiên, với sự cách tân và áp dụng từng phần phương thức bán hàng
hiện đại nên có không ít trường hợp rất khó phân biệt hoặc phân loại một cách
chính xác giữa cơ sở bán lẻ hiện đại và cơ sở bán lẻ truyền thống, trên thực tế


24


loại cửa hàng hoạt động độc lập của hộ kinh doanh áp dụng phương thức bán
hàng tự chọn đang trở nên phổ biến.
1.1.1.3. Khái niệm cơ sở bán lẻ hiện đại
Hoạt động bán lẻ được thể hiện thông qua hai hình thức là bán lẻ qua cơ
sở bán hàng (gọi tắt là cơ sở bán lẻ) và bán lẻ không qua cơ sở bán hàng. Hình
thức bán lẻ thông qua các cơ sở bán lẻ là loại hình bán lẻ có không gian và địa
điểm cố định cần thiết để trưng bày và bán hàng, đồng thời người tiêu dùng hoàn
thành việc mua hàng chủ yếu ở địa điểm này. Hình thức bán hàng không qua
cửa hàng là loại hình bán lẻ, theo đó hàng hóa được chuyển trực tiếp từ nhà sản
xuất/phân phối đến người tiêu dùng không thông qua cơ sở bán hàng như bán
hàng trực tuyến qua internet, bán hàng qua truyền hình/ti vi, bán hàng qua điện
thoại, bán hàng qua bưu điện, bán hàng qua catalog, bán hàng tận cửa hay bán
hàng lưu động.
Theo Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 của Chính Phủ quy
định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động
liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, cơ sở bán lẻ được định nghĩa là đơn vị thuộc sở hữu của
doanh nghiệp để thực hiện việc bán lẻ. Theo các chuyên gia của Dự án Mutrap
III năm 2010, cơ sở bán lẻ được coi là tên gọi chung cho các loại hình chợ, cửa
hàng, trung tâm thương mại, máy bán hàng tự động hay các hình thức dưới tên
gọi khác được tổ chức để thực hiện hoạt động bán lẻ.
Như vậy, cơ sở bán lẻ được hiểu là tên gọi của đơn vị có không gian và
địa điểm cố định nhất định để trưng bày và bán hàng.
Từ phân tích trên, chúng ta có thể hiểu cơ sở bán lẻ hiện đại là tên gọi
chung cho các đơn vị có không gian và địa điểm cố định cần thiết để thực hiện
hoạt động bán lẻ với tính chuyên nghiệp trong quản lý và vận hành kinh doanh


25


cũng như được ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng.
1.1.1.4. Khái niệm mạng lưới các cơ sở bán lẻ hiện đại
Mạng lưới các cơ sở bán lẻ hiện đại được hiểu là tổng thể các cơ sở cung
ứng dịch vụ phân phối bán lẻ hiện đại trên một địa bàn địa lý nhất định. Trong
phạm vi của luận án này, mạng lưới các cơ sở bán lẻ hiện đại bao gồm: hệ thống
các siêu thị, hệ thống trung tâm thương mại và hệ thống các cửa hàng tiện lợi.
1.1.2. Các loại hình bán lẻ hiện đại
1.1.2.1. Siêu thị (Supermarket)
Kinh doanh siêu thị là một trong những loại hình kinh doanh hiện đại, ra
đời và phát triển trong quan hệ mật thiết với quá trình công nghiệp hoá và đô thị
hoá ngày càng cao ở quy mô thế giới. Sự ra đời của loại hình kinh doanh này
vào năm 1930 ở Mỹ sau đó mở rộng sang châu Âu được coi là một trong những
cuộc “cách mạng” hữu ích nhất đối với người tiêu dùng trong lĩnh vực lưu thông
phân phối ở thế kỷ XX.
"Siêu thị" là từ được dịch ra từ các thuật ngữ nước ngoài - "supermarket"
(tiếng Anh) hay "supermarché" (tiếng Pháp), là một loại cửa hàng bán lẻ áp
dụng phương thức tự phục vụ và hàng hóa chủ yếu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
hàng ngày.
Chính thức ra đời từ những năm 1930, tự phục vụ là một đặc trưng cơ bản
của siêu thị đã trở thành công thức chung cho ngành phân phối ở các nước phát
triển. Tự phục vụ đồng nghĩa với văn minh thương nghiệp hiện đại. Nó có nhiều
ưu điểm so với cách bán hàng truyền thống: doanh nghiệp có thể tiết kiệm được
chi phí bán hàng, đặc biệt là chi phí tiền lương cho nhân viên bán hàng (thường
chiếm tới 30% tổng chi phí kinh doanh). Tự phục vụ giúp người mua cảm thấy
thoải mái khi được tự do lựa chọn, ngắm nghía, so sánh hàng hóa mà không cảm
thấy bị ngăn trở từ phía người bán. Cũng chính vì áp dụng phương thức tự phục



×