Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Việt Yên - tỉnh Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 122 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Giáo dục phổ thông giữ một vai trò quan trọng trong việc tạo dựng
mặt bằng dân trí, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của một
quốc gia. Trong thời đại ngày nay, với tốc độ phát triển như vũ bão của
khoa học kỹ thuật và công nghệ, việc nhanh chóng hoà nhập vào cộng đồng
khu vực và thế giới đòi hỏi giáo dục phổ thông phải có những bước tiến
mới mạnh mẽ nhằm giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên
hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Khi khẳng định nhiệm vụ của giáo dục, Nghị quyết lần thứ 2 Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã chỉ rõ: "Giáo dục và đào tạo
hiện nay phải có một bước chuyển nhanh chóng về chất lượng và hiệu quả
đào tạo, về số lượng và quy mô đào tạo, nhất là chất lượng dạy học trong
các nhà trường, nhằm nhanh chóng đưa giáo dục- đào tạo đáp ứng yêu
cầu mới của đất nước. Thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước".
[ 21] Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: "Tiếp tục nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và
học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá".[22]
Nâng cao chất lượng dạy học là nhiệm vụ cơ bản đầu tiên của các
nhà trường, đây chính là điều kiện để nhà trường tồn tại và phát triển. Thực
chất của công tác quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy học, công
việc này được tiến hành thường xuyên, liên tục qua từng giờ dạy học, qua

1



các học kỳ và từng năm học, đây là điều kiện tất yếu để đưa nhà trường đáp
ứng yêu cầu của mục tiêu đào tạo.
Chất lượng dạy học ở các trường THPT hiện nay và chất lượng đào
tạo nói chung đã có nhiều tiến bộ trên một số mặt về khoa học tự nhiên và
kỹ thuật. Nhiều nơi đã xuất hiện những nhân tố mới, phong trào học tập sôi
nổi, dân trí từng bước được nâng lên. Tuy nhiên chất lượng giáo dục nói
chung và chất lượng dạy học nói riêng còn nhiều yếu kém, bất cập. Đáng
quan tâm là chất lượng, hiệu quả dạy học còn thấp, chưa đáp ứng được
những đòi hỏi ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước theo định hướng XHCN. Trình độ kiến thức, kỹ năng thực
hành, phương pháp tư duy khoa học và thể lực của đa số học sinh còn yếu.
Đội ngũ quản lý giáo dục năng lực còn hạn chế, không theo kịp với
sự đa dạng và phức tạp của các hoạt động giáo dục trong quá trình đổi mới
quản lý giáo dục, quản lý nhà trường để nâng cao chất lượng dạy học.
Việt Yên là huyện trung du của tỉnh Bắc Giang. Thực tiễn trong
những năm qua việc nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT đã
đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, tuy nhiên chưa đồng đều ở các trường trong
cả huyện. Số học sinh trúng tuyển vào các trường đại học - cao đẳng còn
thấp, số học sinh đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi tỉnh, quốc gia chưa
cao. Vấn đề đặt ra cho những người làm công tác quản lý nhà trường là
phải tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu tìm ra những biện pháp
quản lý hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng dạy học, nhanh chóng đáp ứng
những yêu cầu đổi mới của địa phương và đất nước.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu, chúng tôi mạnh dạn chọn đề
tài: "Các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các
trường THPT huyện Việt Yên - tỉnh Bắc Giang" với hy vọng đóng góp

2



một phần nhỏ bé vào việc xây dựng các biện pháp quản lý nhằm nâng cao
chất lượng dạy học ở trường THPT đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
toàn xã hội, thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của nhà trường mà Đảng, Nhà
nước và nhân dân giao cho.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Đề tài nghiên cứu đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao
chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang góp
phần nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động dạy học và chất lượng dạy học ở các trường
THPT huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Những biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở các trường THPT
huyện Việt Yên - tỉnh Bắc Giang hướng vào việc nâng cao chất lượng dạy
học ở các trường này.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC

Chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Việt Yên hiện nay vẫn
còn có những hạn chế. Nếu áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, đồng bộ
các biện pháp quản lý được đề xuất trong đề tài nghiên cứu thì chất lượng
dạy ở các trường này sẽ được nâng cao.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc quản lý nhằm nâng cao chất
lượng dạy học.
5.2. Khảo sát đánh giá thực trạng việc quản lý hoạt động dạy học và
chất lượng dạy học ở các trường THPT của huyện Việt Yên tỉnh Bắc

Giang.
3


5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy
học ở các trường THPT huyện Việt Yên - tỉnh Bắc Giang.
6. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những biện pháp quản lý của hiệu
trưởng nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Việt
Yên - tỉnh Bắc Giang.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp phân tích tổng hợp lý thuyết.
- Phương pháp hệ thống hoá lý thuyết.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục.
7.3. Phương pháp sử dụng toán thống kê để xử lý các kết quả khảo sát.
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
- MỞ ĐẦU
- CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận của việc quản lý nâng cao chất lượng dạy

học ở trường THPT.
- CHƯƠNG 2: Thực trạng chất lượng dạy học và quản lý nâng cao

chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang.

- CHƯƠNG 3: Các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy

học ở các trường THPT huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
- PHỤ LỤC

4


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG THPT
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI

1.1.1. Quản lý
a. Khái niệm
Quản lý là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ tính chất xã
hội của lao động.
Ngay từ khi con người bắt đầu hình thành nhóm đã biết phối hợp các
nỗ lực cá nhân để thực hiện mục tiêu duy trì sự sống. Từ khi xuất hiện nền
sản xuất xã hội, nhu cầu phối hợp các hoạt động riêng lẻ càng tăng lên.Bất
cứ một tổ chức, một lĩnh vực nào từ sự hoạt động của nền kinh tế quốc dân,
hoạt động của một doanh nghiệp, một đơn vị hành chính sự nghiệp… đến
một tập thể thu nhỏ như tổ sản xuất, tổ chuyên môn bao giờ cũng có hai
phân hệ: Người quản lý và đối tượng được quản lý, sự cần thiết của quản lý
được C. Mac viết: "Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung nào
tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ
đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng

chung, phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận
động của những cơ quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm riêng
lẻ tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc
trưởng". (C. Mác và Ăngghen - Toàn tập, tập 23 trang 34-NXB Chính trị
Quốc gia).
Như vậy C.Mác đã chỉ ra bản chất quản lý là một hoạt động lao động
để điều khiển lao động, một hoạt động tất yếu quan trọng trong quá trình
phát triển của xã hội loài người. Quản lý trở thành một hoạt động phổ biến,
mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và có liên quan đến mọi người.

5


Đó là một loại hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa trên
sự phân công và hợp tác để làm một công việc nhằm đạt một mục tiêu chung.
Khái niệm quản lý với nhiều cách tiếp cận khác nhau:
Theo giáo sư Hà Sĩ Hồ: Quản lý là một quá trình tác động có định
hướng (có chủ định) có tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể có,
dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ
cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới
mục đích đã định.
Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý là tác động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động
( nói chung là khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự
kiến" [24,tr35].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: Bản chất của hoạt động quản lý nhằm
làm cho hệ thống vận hành theo mục tiêu đặt ra và tiến đến các trạng thái
có tính chất lượng mới.
Quản lý = Quản + Lý
Trong đó : - Quản là chăm sóc, giữ gìn sự ổn định .

- Lý là sửa sang, sắp xếp, đổi mới phát triển.
Hệ ổn định mà không phát triển thì tất yếu dẫn đến suy thoái. Hệ
phát triển mà không ổn định tất yếu dẫn đến rối ren.
Vậy: Quản lý = ổn định + phát triển
Có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý, song tựu trung các định
nghĩa trên đều thể hiện:
- Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình lao
động xã hội. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội
loài người tồn tại, vận hành và phát triển.
- Yếu tố con người giữ vai trò trung tâm của hoạt động quản lý.

6


- Quản lý là một hoạt động được tiến hành trong một tổ chức hay một
nhóm xã hội.
- Quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật chính vì vậy
trong hoạt động quản lý người quản lý phải hết sức sáng tạo, linh hoạt,
mềm dẻo để chỉ đạo hoạt động của tổ chức đi tới đích.
Như vậy quản lý phải bao gồm các yếu tố sau: Phải có mục tiêu đặt
ra cho cả đối tượng và chủ thể làm căn cứ định hướng cho mọi hoạt động
của tổ chức, phải có nội dung, phương pháp, phương tiện và kế hoạch hành
động, một môi trường nhất định.
b. Các chức năng quản lý
Có nhiều ý kiến khác nhau về phân loại chức năng quản lý, tuy
nhiên tựu trung lại có 4 chức năng cơ bản: Lập kế hoạch; tổ chức; lãnh đạo;
kiểm tra.
Lập kế hoạch

Kiểm tra


Thông tin

Tổ chức

Lãnh đạo

Sơ đồ 1: Các chức năng trong chu trình quản lý
- Chức năng kế hoạch: Là một chức năng, một khâu quan trọng nhất
trong hoạt động quản lý, lập kế hoạch là hoạt động nhằm thiết lập các mục
tiêu cần thiết cho sự phấn đấu của một tổ chức ,chỉ ra các hoạt động, những
biện pháp cơ bản và các điều kiện cần thiết để thực hiện mục tiêu đó. Kế

7


hoạch là nền tảng của quản lý, là sự quyết định lựa chọn đường lối hành
động của một tổ chức và các bộ phận của nó phải tuân theo nhằm hoàn
thành các mục tiêu của tổ chức.
- Chức năng tổ chức: Tổ chức là quá trình sắp xếp, phân bổ công
việc quyền hành và các nguồn lực cho các thành viên của tổ chức để họ có
thể đạt được các mục tiêu của tổ chức một cách hiệu quả. ứng với những
mục tiêu khác nhau đòi hỏi cấu trúc tổ chức đơn vị cũng khác nhau.Nhờ tổ
chức hiệu quả mà người quản lý có thể phối hợp điều phối tốt hơn nguồn
nhân lực và các nguồn lực khác. Một tổ chức được thiết kế phù hợp sẽ phát
huy được năng lực nội sinh và có ý nghĩa quyết định đến việc chuyển hoá
kế hoạch thành hiện thực.
- Chức năng lãnh đạo: là quá trình nhà quản lý dùng ảnh hưởng của
mình tác động đến con người trong tổ chức làm cho họ nhiệt tình, tự giác,
nỗ lực phấn đấu để đạt được mục tiêu của tổ chức. Vai trò của người lãnh

đạo là phải chuyển được ý tưởng của mình vào nhận thức của người khác,
hướng mọi người trong tổ chức về mục tiêu chung của đơn vị.
- Chức năng kiểm tra: Kiểm tra là một chức năng quan trọng của
quản lý, quản lý mà không kiểm tra thì coi như không có quản lý. Nhờ có
hoạt động kiểm tra mà người quản lý đánh giá được kết quả công việc, uốn
nắn, điều chỉnh kịp thời những hạn chế từ đó có biện pháp phù hợp điều
chỉnh kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo.
c. Các nguyên tắc quản lý
Các nguyên tắc quản lý là các quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn
hành vi mà các cơ quan quản lý, các nhà lãnh đạo phải tuân thủ trong quá
trình quản lý.

8


Nguyên tắc tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc quan trọng tạo khả năng quản lý một cách khoa
học có sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cơ quan quyền lực với sức mạnh
sáng tạo của quảng đại quần chúng trong việc thực hiện mục tiêu quản lý.
Tập trung trong quản lý được hiểu là toàn bộ hoạt động của hệ thống được
tập trung vào cơ quan quyền lực cao nhất, cấp này có nhiệm vụ vạch đường
lối, chủ trương, phương hướng mục tiêu tổng quát và đề xuất các giải pháp
cơ bản, chủ yếu để tiến hành thực hiện.
Nguyên tắc tập trung được thể hiện thông qua chế độ một thủ trưởng
- người chịu trách nhiệm trước tập thể cán bộ, công nhân viên về toàn bộ
hoạt động của đơn vị, tổ chức mình. Dân chủ trong quản lý được hiểu là sự
huy động trí lực của mọi thành viên trong tổ chức để tiến hành quản lý.
Dân chủ được thể hiện ở chỗ: Các chỉ tiêu, phương án đều được tập thể
tham gia bàn bạc, kiến nghị các biện pháp thực thi trước khi đi đến quyết
định. Các tổ chức quần chúng, người lao động còn được tham gia thực hiện

các chức năng quản lý: tham gia xây dựng kế hoạch, kiểm tra, giám sát.
Tập trung và dân chủ có quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với nhau,
có dân chủ phát huy tốt sức sáng tạo của quần chúng, động viên quần
chúng tích cực lao động và tham gia bàn bạc thống nhất hành động thì tập
trung càng cao và ngược lại. Tuy nhiên, trong thực tiễn, nguyên tắc này
thường nảy sinh hai thái cực: tập trung quá dẫn tới quan liêu, độc đoán,
chuyên quyền và dân chủ quá dẫn tới vô chính phủ. Cả hai thái cực này dẫn
đến làm suy yếu hiệu lực quản lý. Bởi vậy, để thực hiện tốt chức năng lãnh
đạo, người quản lý phải phối hợp hài hoà nguyên tắc tập trung và dân chủ.
Nguyên tắc kết hợp hài hoà các lợi ích xã hội
Quản lý trước hết là quản lý con người. Con người có những lợi ích,
những nguyện vọng và những nhu cầu nhất định, do đó một trong những

9


nhiệm vụ quan trọng của quản lý là chú ý đến lợi ích của con người để
khuyến khích, kích thích tính tích cực của họ. Lợi ích là một động lực to
lớn nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của con người vì vậy trong quản
lý phải kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích chung
toàn xã hội.
Nguyên tắc hiệu quả
Hiệu quả là cơ sở kinh tế cho sự tồn tại và phát triển của một tổ chức.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để một cơ sở vật chất kỹ thuật, một nguồn tài
sản, một lực lượng lao động hiện có của tổ chức có thể tạo ra một thành
quả lớn nhất, chất lượng tốt nhất và hiệu quả cao nhất. Hiệu quả không
những là nguyên tắc quản lý mà còn là thước đo trình độ tổ chức, lãnh đạo
và tài năng quản lý.
Nguyên tắc nắm khâu trọng yếu
Nguyên tắc này đòi hỏi người quản lý phải có khả năng phân tích chính

xác các tình thế của hệ thống trong quá trình xây dựng và phát triển để tìm ra
các khâu, các việc chủ yếu, những vấn đề then chốt có ý nghĩa quan trọng
trong sự thành bại của tổ chức. Nắm vững nguyên tắc này người quản lý khắc
phục được tình trạng dàn trải chung chung, tập trung vào những vấn đề then
chốt quyết định trong việc quản lý tổ chức thực hiện mục tiêu.
Nguyên tắc kiên định mục tiêu
Đây là nguyên tắc đòi hỏi người quản lý các tổ chức có ý chí kiên
định thực hiện cho được mục tiêu đã xác định. Bởi vì một tổ chức dù có
mục tiêu đúng đắn nhưng không phải lúc nào cũng được xã hội chấp nhận,
đồng tình ủng hộ. Nếu người quản lý thiếu tự tin, không quyết tâm thì mục
tiêu không dễ đạt được.
d. Các phương pháp quản lý
Phương pháp quản lý là tổng thể các cách thức tác động có chủ định
của chủ thể quản lý lên đối tượng nhằm thực hiện các mục tiêu đã định.
10


Phương pháp quản lý có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý. Quá
trình quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo đúng
nguyên tắc, nhưng các nguyên tắc đó lại được vận dụng và được thông
quan các phương pháp quản lý nhất định. Vì vậy vận dụng các phương
pháp quản lý có hiệu quả là một nội dung của quản lý. Mục tiêu, nhiệm vụ
chỉ được thực hiện thông qua các tác động của phương pháp quản lý, vai
trò của phương pháp còn ở chỗ nhằm khơi dậy những động lực, kích thích
tính năng động, sáng tạo của mỗi cá nhân.
Theo tác giả Trần Quốc Thành các phương pháp đặc thù của quản lý gồm:
Phương pháp thuyết phục
Phương pháp thuyết phục là phương pháp tác động vào nhận thức
của con người bằng lý lẽ làm cho con người nhận thức đúng đắn và tự
nguyện thừa nhận các yêu cầu của quản lý từ đó có thái độ và hành vi phù

hợp với các yêu cầu đó. Đây là phương pháp cơ bản để giáo dục con người,
nhà quản lý chỉ tác động đến đối tượng quản lý bằng lời lẽ của mình để
thay đổi nhận thức của đối tượng.
Phương pháp kinh tế
Phương pháp kinh tế là sự tác động của nhà quản lý đến đối tượng
thông qua các lợi ích kinh tế tạo động lực thúc đẩy con người tích cực hoạt
động. Đặc điểm của phương pháp này là nó tác động lên đối tượng quản lý
không bằng cưỡng bức hành chính mà bằng con đường tự nguyện, nhà
quản lý tác động đến đối tượng thông qua các mức độ lợi ích và cho đối
tượng lựa chọn theo khả năng của họ, sử dụng phương pháp này có ưu
điểm không hạn chế về quan hệ tổ chức và không phụ thuộc về mặt hành
chính đồng thời phương pháp này tăng cường được tính chủ động cho cá
nhân và tập thể, giảm bớt được sự kiểm tra đôn đốc vụn vặt chi li của nhà
quản lý.

11


Phương pháp hành chính - tổ chức
Phương pháp này là cách thức tác động của chủ thể quản lý đến đối
tượng trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực hành chính. Đây là phương
pháp cưỡng bức đơn phương, một bên ra quyết định, một bên phục tùng,
mức độ cưỡng bức tuỳ theo từng trường hợp, tính chất của bộ máy. Phương
pháp này thề hiện sức mạnh của tổ chức, xác lập trật tự, kỷ cương của bộ
máy, giúp cho các quyết định quản lý được thi hành nhanh chóng và chính
xác, tăng hiệu quả hoạt động quản lý.
Phương pháp tâm lý - giáo dục
Phương pháp tâm lý - giáo dục là cách thức tác động đến đối tượng
quản lý thông qua đời sống tâm lý cá nhân: tâm tư, tình cảm, nguyện
vọng… của họ. Phương pháp dựa trên cơ sở các chức năng quy luật tâm lý

của co người. Phương pháp tâm lý - giáo dục có ý nghĩa to lớn trong quản
lý vì đối tượng quản lý trước hết là con người. Do vậy khi tác động tới con
người trước hết phải sử dụng các tác động tâm lý nhằm khai thác tiềm năng
của con người, kích thích ý thức tự giác, sự say mê của con người chủ động
sáng tạo trong hoạt động của mình. Phương pháp tâm lý - giáo dục không
tồn tại tự thân mà thường phối hợp với các phương pháp khác, nhưng
hướng chủ yếu là tác động vào tâm lý con người, vào lòng tự trọng và
lương tâm nghề nghiệp của người lao động.
Trên đây là các phương pháp đặc thù của quản lý, trong thực tiễn
quản lý cho thấy không có phương pháp nào là vạn năng, phương pháp nào
cũng có mặt ưu điểm, mặt nhược điểm. Bởi vậy, chủ thể quản lý cần biết
phối hợp các phương pháp một cách linh hoạt nhằm khai thác được những
mặt mạnh, hạn chế được những nhược điểm của từng phương pháp. Vận
dụng các phương pháp có thành công hay không phụ thuộc vào tài năng
của nhà quản lý, nghệ thuật sử dụng các phương pháp đòi hỏi nhà quản lý

12


sự sáng tạo, còn bản thân các phương pháp không phải là cái quyết định
thành công của nhà quản lý.
1.1.2. Quản lý giáo dục và quản lý nhà trường
a. Quản lý giáo dục
Khoa học quản lý là một khoa học sử dụng tri thức của nhiều môn:
Tâm lý học, Xã hội học, Triết học…
Khoa học quản lý giáo dục là một chuyên ngành của khoa học quản
lý nói chung đồng thời cũng là bộ phận của khoa học giáo dục, nhưng là
một khoa học tương đối độc lập.
Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang, khái niệm quản lý giáo dục là
khái niệm đa cấp (bao hàm cả quản lý hệ giáo dục quốc gia, quản lý các

phân hệ của nó, đặc biệt là quản lý trường học).
“Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo
đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất
của nhà trường xã hội chủ nghĩa việt nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình
dạy học- giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên
trạng thái mới về chất”. [ 24, tr35 ].
Theo Giáo sư Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là tổ chức các
hoạt động dạy học. Có tổ chức được các hoạt động dạy học, thực hiện
được các tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể hoá đường lối giáo dục của Đảng
và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của
đất nước” [26,9].
Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt
tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất. Quản lý giáo dục theo

13


nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội
nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.
Khái quát lại, nội hàm của khái niệm quản lý giáo dục chứa đựng
những nhân tố đặc trưng bản chất sau: Phải có chủ thể quản lý giáo dục, ở
tầm vĩ mô là quản lý của nhà nước mà cơ quan trực tiếp quản lý là Bộ, Sở,
phòng giáo dục, ở tầm vi mô là quản lý của hiệu trưởng nhà trường.
Phải có hệ thống tác động quản lý theo một nội dung, chương trình
kế hoạch thống nhất từ trung ương đến địa phương nhằm thực hiện mục
đích giáo dục trong mỗi giai đoạn cụ thể của xã hội phải có một lực lượng
đông đảo những người làm công tác giáo dục cùng với hệ thống cơ sở vật

chất tương ứng.
Quản lý giáo dục có tính xã hội cao. Bởi vậy, cần tập trung giải quyết
tốt các vấn đề xã hội: Kinh tế, Chính trị, Văn hoá, An ninh quốc phòng
phục vụ công tác giáo dục.
Nhà trường là đối tượng cuối cùng và cơ bản nhất của quản lý giáo dục,
trong đó đội ngũ giáo viên và học sinh là đối tượng quản lý quan trọng nhất.
b. Quản lý nhà trường
Vấn đề cơ bản của quản lý giáo dục là quản lý nhà trường vì nhà
trường là cơ sở giáo dục, nơi tổ chức thực hiện mục tiêu giáo dục. Khi
nghiên cứu về nội dung khái niệm quản lý giáo dục thì khái niệm trường
học được hiểu là tổ chức cơ sở mang tính nhà nước - Xã hội trực tiếp làm
công tác giáo dục- đào tạo thế hệ trẻ cho tương lai của đất nước.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý nhà trường là tập hợp
những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh
và cán bộ khác,nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do nhà nước đầu tư, lực
lượng xã hội đóng góp và do lao động xây dựng vốn tự có. Hướng vào việc
đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào

14


tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa
nhà trường tiến lên trạng thái mới".[23,tr43]
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là lao động
của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức lao động của giáo viên,
học sinh và các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các
nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà
trường” [34,tr 205].
Tóm lại: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành

theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối
với ngành giáo dục với thế hệ trẻ và với từng học sinh”.
Bản chất của hoạt động quản lý trong nhà trường là quản lý hoạt
động dạy học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng
thái khác để dần tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo.
Quản lý nhà trường là một hoạt động được thực hiện trên cơ sở những
quy luật chung của quản lý, đồng thời cũng có những nét đặc thù riêng của
nó. Quản lý nhà trường khác với các loại quản lý xã hội khác, được quy định
bởi bản chất hoạt động sư phạm của người giáo viên, bản chất của quá trình
dạy học, giáo dục trong đó mọi thành viên của nhà trường vừa là đối tượng
quản lý vừa là chủ thể hoạt động của bản thân mình. Sản phẩm tạo ra của
nhà trường là nhân cách của người học được hình thành trong quá trình học
tập, tu dưỡng và rèn luyện theo yêu cầu của xã hội và được xã hội thừa nhận.
Quản lý nhà trường là phải quản lý toàn diện nhằm hoàn thiện và phát
triển nhân cách của thế hệ trẻ một cách hợp lý, khoa học và hiệu quả. Thành
công hay thất bại của nhiệm vụ đổi mới nâng cao hiệu quả giáo dục trong nhà
trường phụ thuộc rất lớn vào điều kiện cụ thể của nhà trường. Vì vậy muốn
thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục người quản lý phải xem xét đến

15


những điều kiện đặc thù của nhà trường, phải trú trọng tới việc cải tiến công
tác quản lý giáo dục để quản lý có hiệu quả các hoạt động trong nhà trường.
1.1.3. Khái niệm dạy học và quản lý hoạt động dạy học
a. Khái niệm dạy học.
Theo Phạm Minh Hạc "Dạy học là một chức năng xã hội, nhằm
truyền đạt và lĩnh hội kiến thức, kinh nghiệm xã hội đã tích luỹ được, nhằm
biến kiến thức, kinh nghiệm xã hội thành phẩm chất và năng lực cá nhân"
[11,tr18].

Theo Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt: "Quá trình dạy học là một quá
trình sư phạm bộ phận, một phương tiện để trau dồi học vấn, phát triển
giáo dục và giáo dục phẩm chất, nhân cách thông qua sự tác động qua lại
giữa người dạy và người học nhằm truyền thụ và lĩnh hội một cách có hệ
thống những tri thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo, nhận thức và thực
hành".[20,tr25]
Theo Nguyễn Ngọc Quang: Dạy học được nghiên cứu theo quan
điểm là một quá trình. Dạy học bao gồm hai quá trình đó là quá trình dạy
của thày và quá trình học của trò. Hai quá trình này có mối quan hệ biện
chứng, tồn tại vì nhau, sinh ra vì nhau và thúc đẩy nhau phát triển.
- Học là quá trình tự giác tích cực, tự lực chiếm lĩnh khái niệm khoa
học của học sinh biến nó từ kho tàng văn hóa xã hội thành học vấn riêng
của bản thân, học sinh sẽ hình thành cho mình một thái độ mới trong việc
đánh giá các giá trị tinh thần vật chất của thế giới khách quan, một phẩm
chất đạo đức mới, dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên. Đó là quá tình
tự điều khiển tối ưu, sự chiếm lĩnh khái niệm khoa học, bằng cách đó hình
thành cấu trúc tâm lý mới, phát triển nhân cách toàn diện.
- Dạy học là sự tổ chức điều khiển quá trình học sinh chiếm lĩnh, lĩnh
hội tri thức hình thành và phát triển nhân cách. Quá trình dạy học có vai trò
chủ đạo được thể hiện với ý nghĩa là tổ chức và điều khiển sự học tập của
16


học sinh giúp học sinh nắm kiến thức,hình thành kỹ năng, thái độ. Dạy có
chức năng kép là truyền đạt thông tin dạy học và điều khiển hoạt động học.
Hoạt động dạy học là hoạt động trung tâm chi phối tất cả các hoạt
động khác trong nhà trường. Do đó là con đường trực tiếp và thuận lợi nhất
để giúp học sinh lĩnh hội chi thức của loài người.
Hoạt động dạy học làm cho học sinh nắm vững tri thức khoa học một
cách có hệ thống cơ bản, có những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trong học tập,

lao động và đời sống. Hoạt động này làm phát triển tư duy độc lập sáng tạo,
hình thành những năng lực cơ bản về nhận thức và hành động của học sinh,
hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, lòng yêu tổ quốc, yêu
CNXH, đó chính là động cơ học tập trong nhà trường và định hướng hoạt
động của học sinh.
Vì vậy, có thể nói hoạt động dạy học trong nhà trường đã tô đậm
chức năng xã hội của nhà trường, đặc trưng nhiệm vụ của nhà trường và là
hoạt động giáo dục trung tâm, là cơ sở khoa học của các hoạt động giáo dục
khác trong nhà trường.
b. Quản lý hoạt động dạy học
Dạy học và giáo dục trong sự thống nhất là hoạt động trung tâm của
nhà trường. Mọi hoạt động đa dạng và phức tạp của nhà trường đều hướng
vào hoạt động trung tâm đó. Vì vậy trọng tâm của việc quản lý trường học
là quản lý hoạt động dạy học và giáo dục. Đó chính là quản lý hoạt động
lao động sư phạm của người thầy và hoạt động học tập, rèn luyện của trò
mà nó được diễn ra chủ yếu trong hoạt động dạy học.
Quản lý hoạt động dạy học là quản lý một quá trình xã hội, một quá
trình sư phạm đặc thù, nó tồn tại như là một hệ thống, bao gồm nhiều thành
tố cấu trúc như: Mục đích và nhiệm vụ dạy học, nội dung dạy học, phương
pháp dạy học và phương tiện dạy học, thầy với hoạt động dạy, trò với hoạt
động học tập, kết quả dạy học.
17


Quản lý hoạt động dạy học là phải tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cơ
bản sau đây:
- Cụ thể hoá mục tiêu dạy học qua các nhiệm dạy học nhằm nâng cao
tri thức, kỹ năng, bồi dưỡng thái độ và hình thành phát triển những năng
lực phẩm chất tốt đẹp cho người học.
- Quản lý việc xây dựng và thực hiện nội dung dạy học. Nội dung

dạy học phải đảm bảo bao gồm hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
mà người học cần phải nắm vững trong quá trình dạy học.
- Quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên (Biên soạn giáo trình,
giáo án, chuẩn bị đồ dụng dạy học, lên lớp, kiểm tra học sinh học tập ).
- Quản lý hoạt động học tập của học sinh (nề nếp, thái độ, kết quả học
tập).
- Quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động dạy học.
1.1.4. Khái niệm chất lượng, chất lượng giáo dục và chất lượng
dạy học
a. Chất lượng
Chất lượng: Theo từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa "Chất
lượng là phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật
chỉ rõ nó là cái gì? Tính ổn định tương đối của sự vật phân biệt nó với sự
vật khác. Chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng được
biểu thị ra bên ngoài qua các thuộc tính. Nó là sự liên kết các thuộc tính
của sự vật lại làm một, gắn bó các sự vật như một tổng thể, bao quát toàn
bộ sự vật và không tách khỏi sự vật. Sự vật trong khi vẫn còn là bản thân
nó thì không thể mất chất lượng của nó. Sự thay đổi về chất lượng kéo theo
sự thay đổi của sự vật về căn bản. Chất lượng của sự vật bao giờ cũng
gắn liền với tính quy định về số lượng của nó và không thể tồn tại ngoài
tính quy định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng có sự thống nhất của số lượng
và chất lượng". [36,tr 419]
18


"Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một người, một sự
vật, sự việc. Đó là tổng thể những thuộc tính cơ bản khẳng định sự tồn tại
của một sự vật, phân biệt nó với sự vật khác". [ 39,tr7]
b. Chất lượng giáo dục
- Chất lượng giáo dục phổ thông: "Chất lượng giáo dục phổ thông là

chất lượng sản phẩm cuối cùng của quá tình giáo dục phổ thông, đó là
chất lượng học vấn của cả một lớp người mà bộ phận lớn là vào đời ngay
sau khi ra trường, sự kế tiếp của bộ phận này sau mỗi năm học tạo ra sự
chuyển hoá từ lượng sang chất của trình độ dân trí, bộ phận còn lại nhỏ
hơn được tiếp nhận vào quá trình đào tạo chuyên nghiệp, sự kế tiếp của bộ
phận này tạo ra sự chuyển hoá từ lượng sang chất của đội ngũ nhân lực có
hàm lượng trí tuệ cao với tất cả dấu ấn nhân cách của họ, của quá trình
giáo dục phổ thông".[7,tr9]
- "Chất lượng giáo dục là trình độ và khả năng thực hiện mục tiêu
giáo dục đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của người học và của sự phát
triển toàn diện của xã hội".[37,tr7]
- "Chất lượng là mức độ của các mục tiêu được đáp ứng. Chất lượng
càng cao nghĩa là gia tăng về hiệu quả. Chất lượng giáo dục là một phạm
trù động thay đổi theo thời gian, không gian và theo bối cảnh. Chất lượng
giáo dục có thể đặc trưng riêng cho từng đối tượng, quốc gia, địa phương,
cộng đồng, nhà trường. Tuỳ theo từng đối tượng mà cách nhìn chất lượng,
hiệu quả khác nhau".[38, tr8]
Chất lượng giáo dục được nhìn dưới góc độ nguồn lực và các loại
đầu vào khác (số liệu nguồn lực vật chất, số lượng và trình độ giáo viên,
tình hình trang thiết bị).
Chất lượng giáo dục nhìn từ góc độ nội dung, biểu hiện qua các
thuộc tính (khối lượng kiến thức, trình độ học vấn, kỹ năng, những thông
tin cần có trong giáo dục).
19


Chất lượng giáo dục nhìn từ góc độ đầu ra hoặc từ kết quả cuối cùng
(dựa vào các tiêu chí thành tích về học tập, tỷ lệ lên lớp, tốt nghiệp, thu
nhập và tình trạng việc làm).
Chất lượng giáo dục nhìn từ góc độ là sự gia tăng thêm (ảnh hưởng

của nhà trường, hệ thống giáo dục đối với học sinh).
Vậy chất lượng giáo dục là sự phù hợp với mục tiêu giáo dục. Chất
lượng giáo dục gắn liền với sự hoàn thiện của tri thức - kỹ năng - thái độ của
sản phẩm giáo dục đào tạo và sự đáp ứng yêu cầu đa dạng của nền kinh tế xã
hôi của nó trước mắt cũng như trong quá trình phát triển. Chất lượng giáo dục
gắn với hiệu quả trong và hiệu quả ngoài của giáo dục đào tạo. Chất lượng
giáo dục có tính không gian, thời gian và phù hợp với sự phát triển.
c. Chất lượng dạy học
Giáo dục phổ thông được tiến hành bằng nhiều hình thức, nhưng
hình thức đặc trưng cơ bản nhất của giáo dục phổ thông là hình thức dạy
học. Kết quả trực tiếp của quá trình dạy học là học vấn bao gồm cả phương
pháp nhận thức, hành động và năng lực chuyên biệt của người học. “Chất
lượng dạy học chính là chất lượng của người học hay tri thức phổ thông
mà người học lĩnh hội được. Vốn học vấn phổ thông toàn diện vững chắc ở
mỗi người là chất lượng đích thực của dạy học ”.[7,tr10].
Khái niệm chất lượng dạy học liên quan mật thiết với khái niệm hiệu
quả dạy học. Nói đến hiệu quả dạy học tức là nói đến mục tiêu đã đạt được
ở mức độ nào, sự đáp ứng kịp thời yêu cầu của nhà trường, chi phí tiền của,
sức lực và thời gian cần thiết ít nhất nhưng lại mang lại kết quả cao nhất.
Chất lượng dạy học được nhìn từ góc độ là giá trị tăng thêm, cách nhìn này
muốn nói lên tác động ảnh hưởng của nhà trường với người học. Chất
lượng dạy học được đánh giá bởi sự phát triển của các yếu tố cấu thành nên
quá trình dạy học, sao cho các yếu tố đó càng tiến sát mục tiêu đã định bao
nhiêu thì kết quả của quá trình ấy càng cao bấy nhiêu. Để thực hiện việc
20


đánh giá, người ta chuyển mục tiêu dạy học sang hệ thống tiêu chí. Thông
thường dựa trên 3 tiêu chí cơ bản cơ bản: Kiến thức - Kỹ năng - Thái độ.
Chất lượng dạy học ở trường phổ thông được đánh giá chủ yếu về hai

mặt học lực và hạnh kiểm của người học. Các tiêu chí về học lực là kiến
thức, kỹ năng vận dụng và thái độ. Về bản chất, hạnh kiểm phản ánh trình
độ phát triển của ý thức trong mối quan hệ với những người khác, nhà
trường, gia đình, xã hội và bản thân. Có 4 tiêu chí: Sự hiểu biết về các
chuẩn mực hiện hành, năng lực nhận dạng hành vi, các tác động chi phối
hành động, sự thể hiện thái độ tình cảm.
Đánh giá chất lượng dạy học là việc rất khó khăn và phức tạp, cần có
quan điểm đúng và phương pháp đánh giá khoa học. Khi đánh giá chất
lượng dạy học phải cần căn cứ vào mục tiêu dạy học của từng cấp học, bậc
học đối chiếu sản phẩm đào tạo được đối với mục tiêu của cấp học, bậc
học. chất lượng dạy học càng cao càng làm phong phú thêm kiến thức, kỹ
năng, thái độ, giá trị và hành vi của người học.
Chất lượng dạy học liên quan chặt chẽ đến yêu cầu kinh tế xã hội của
đất nước, Sản phẩm dạy học được xem là có chất lượng cao khi nó đáp ứng
tốt mục tiêu giáo dục mà yêu cầu kinh tế - xã hội đặt ra với giáo dục THPT.
Nền kinh tế nước ta đang chuyển đổi cả về cơ cấu và cơ chế quản lý.
Các lĩnh vực của đời sống xã hội đổi mới toàn diện và sâu sắc đòi hỏi
ngành giáo dục phải tạo ra được chất lượng mới khác trước. Trong công
cuộc đổi mới, ngành học phổ thông đã và đang triển khai thực hiện những
chủ trương, biện pháp về đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, quy
trình dạy học và đã cố gắng từng bước tăng cường điều kiện và phương tiện
để đảm bảo nâng cao chất lượng dạy học.
1.2. YÊU CẦU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG THPT
TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

21


1.2.1. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của trường THPT trong sự nghiệp
giáo dục đào tạo

Bậc trung học phổ thông là bậc học nối tiếp của trung học cơ sở, học
sinh đã có kiến thức cơ bản của chương trình phổ thông cơ sở. Một số học
sinh không có đủ điều kiện học tiếp, trực tiếp tham gia lao động trong các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, còn lại đa số các em tiếp tục học
lên tiếp trương trình trung học phổ thông, hoàn thiện về tri thức, để dự tuyển
vào các trường Đại học, cao đẳng và các trường trung học chuyên nghiệp.
Bậc trung học phổ thông có một số đặc điểm cần lưu ý:
- Học sinh đã có một lượng vốn kiến thức cơ bản nhất định, sử dụng
cách học đã chiếm lĩnh được để học các môn học cơ bản, các môn học này
được xây dựng trên những cơ sở khoa học, được hình thành trong lịch sử
loài người và của thế hệ đi trước, chúng được xây dựng phù hợp với đặc
điểm của từng môn học, phát triển tâm lý và trí tuệ của lứa tuổi.
- Giáo dục trung học phổ thông đã phát triển mạnh mẽ ở nhiều loại
hình, được đa dạng hoá, đa số học sinh trong độ tuổi được huy động đến
trường. Học sinh tốt nghiệp bậc trung học phổ thông được phân luồng như
sau:
+ Tiếp tục học ở các trường đại học, cao đẳng.
+ Tiếp tục học ở các trường trung học nghề.
+ Vào đời tham gia lao động trong các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội.
Vì vậy giáo dục THPT có nhiệm vụ: “Giúp học sinh củng cố và phát
triển những kết quả giáo dục của trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ
thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp
tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung học nghề hoặc
đi vào cuộc sống” [16,tr18].
Vị trí của bậc trung học phổ thông:
22


- Đây là bậc học đang chuyển sang sự đa dạng về loại hình, đa dạng

hoá các trường học, ở cấp học này, cần phải tính đến sự nối kết liên tục
chương trình giáo dục trung học cơ sở, với chương trình mà học sinh sẽ
được học ở bậc trung học phổ thông.
- Là bậc học có nhiệm vụ tạo nguồn đáng kể cho đào tạo ở cấp trung
học nghề, cao đẳng, đại học nhằm phục vụ cho công nghiệp hoá- hiện đại
hoá đất nước, cần có sự tăng cường trong nội dung giáo dục, nội dung đào
tạo và giáo dục hướng nghiệp.
- Là một bậc học chịu áp lực lớn về nhu cầu học tiếp của trung học
cơ sở đang phổ cập 60%- 70% học sinh ở độ tuổi 11- 15, hoàn thành phổ
cập vào năm 2010 (của cả nước), chuẩn bị tham gia hoàn thành phổ cập
trung học trong đó bậc trung học phổ thông vào năm 2020.
Vai trò của trường trung học phổ thông trong sự nghiệp GD- ĐT:
Báo cáo chính trị đại hội Đảng IX đã nêu: “Phát triển GD- ĐT là một
trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, là điều kiện tiên quyết để phát triển nguồn lực con người yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” .[32]
Để đạt được những mục tiêu cơ bản của phát triển KT- XH của đất
nước, giáo dục trung học phổ thông đóng vai trò hết sức quan trọng trong
việc đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế quốc dân.
Chính vì vậy, văn kiện Đại hội Đảng VIII đã nêu rõ: “ Phương
hướng chung của lĩnh vực GD- ĐT trong những năm tới là phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH- HĐH tạo điều kiện cho nhân dân
đặc biệt là thanh niên có việc làm”.
Giáo dục phổ thông trực tiếp góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho
xã hội. Trên nền tảng đã đạt được ở các bậc học dưới, giáo dục trung học
phổ thông tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần nhân cách học sinh lên một
tầm cao mới theo hướng phát triển toàn diện nhân cách con người Việt
23



Nam. Bởi vậy mục tiêu đào tạo ở cấp độ này phải được quan tâm đặc biệt
là:
- Hình thành ở người học một hệ thống tri thức phổ thông toàn diện,
theo kịp trình độ tiên tiến của thế giới hiện đại, đồng thời kế thừa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc.
- Học sinh hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, hình
thành kỹ năng lao động theo hướng kỹ thuật- tổng hợp và những kỹ năng
nghề nghiệp phù hợp điều kiện kinh tế- xã hội hiện đại.
- Hình thành động cơ học tập vì ngày mai lập nghiệp, vì sự dân giầu,
nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chỉ có như vậy, giáo dục trung học phổ thông mới hoàn thành sứ
mạng là chuẩn bị một cách tốt nhất cho học sinh bước vào đời, với đầy đủ
bản lĩnh con người mới của xã hội hiện đại.
Giáo dục trung học phổ thông là khâu đặc biệt quan trọng, giúp học
sinh củng cố và phát triển kết quả giáo dục trung học cơ sở, hoàn thành học
vấn phổ thông, hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp. Giáo
dục trung học phổ thông giữ vai trò “bản lề” của cả một đời người. Tuỳ
theo kết quả học tập, rèn luyện, sự phấn đấu và nguyện vọng, học sinh có
thể lựa chọn một hướng đi thích hợp cho mình. Nhà trường có nhiệm vụ
chuẩn bị một cách tốt nhất, dù cho lựa chọn hướng đi nào, học sinh cũng có
đủ trình độ, bản lĩnh vững vàng, sẵn sàng học tập và công tác tốt. Bậc trung
học phổ thông là nơi tạo ra những hạt giống tốt cho các trường dạy nghề,
cao đẳng, đại học và đội ngũ lao động có văn hoá cho địa phương, đất
nước, đó chính là nguồn lực người. Hiện nay, chất lượng giáo dục là một
vấn đề mà toàn xã hội đã và đang quan tâm. Trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, đất nước ta phải đối diện với yêu cầu của sự phát triển
KT- XH nhanh, mạnh trên mọi lĩnh vực của đời sóng xã hội và đứng trước
một thử thách cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới. Do vậy
24



giáo dục phải đổi mới và đi trước một bước, tạo tiền đề cho sự phát triển
KT- XH. Bậc trung học phổ thông đóng vai trò hết sức quan trọng và cần
phải được trú trọng nâng cao hơn nữa vai trò của trung học phổ thông trong
hệ thống giáo dục quốc dân.
1.2.2. Yêu cầu của việc quản lý chất lượng dạy học ở trường
trung học phổ thông trong giai đoạn mới
Nghị quyết Đại hội Đảng IX khẳng định “Tiếp tục nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ
thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục”. Nâng cao chất lượng là
thực hiện tốt 3 nhiệm vụ: Cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng và hình
thành thái độ. Thực hiện tốt các nhiệm vụ này chính là nâng cao chất lượng
dạy học, đó là hiệu quả của giờ lên lớp.
Giáo dục - đào tạo nước ta đang có sự chuyển biến mạnh mẽ về mục
tiêu, nội dung, phương pháp, nhằm phù hợp với nền khoa học công nghệ
đang phát triển mạnh mẽ. Việc quản lý dạy học trong các trường trung học
phổ thông cũng cần có những thay đổi phù hợp, không những đáp ứng
những đòi hỏi mới của nền kinh tế mà còn trước một bước những yêu cầu
của nền KT- XH đang phát triển. Để nâng cao chất lượng dạy học, các nhà
quản lý cần quan tâm tới các yêu cầu quản lý dạy học sau:
- Chú trọng tới việc lập kế hoạch: Xác định mục tiêu, chuẩn mực và
thông qua đó, các biện pháp thực hiện mục tiêu phải được tiến hành ngay
từ trong quá trình xây dựng kế hoạch năm học của nhà trường, chỉ đạo các
bộ phận, từng cá nhân lập kế hoạch cụ thể, đúng qui trình, phù hợp với
nhiệm vụ và điều hành hoạt động theo kế hoạch. Các kế hoạch này phải xác
định được nhiệm vụ, lý do tồn tại và phát triển, cần thấy được các điều kiện
bên trong cũng như bên ngoài ảnh hưởng đến quá trình thực hiện, những
biện pháp, cách thức, hướng đi và các biện pháp ưu tiên thực hiện để đạt
mục tiêu. Các kế hoạch phải dự báo được khả năng về các điều kiện, các
25



×