Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Báo cáo ngành vận tải biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.99 KB, 9 trang )


BÁO CÁO NGÀNH VẬN TẢI BIỂN



- 1 -


Tp.HCM,ngày 15 tháng 8 năm 2011


BÁO CÁO NGÀNH
VẬN TẢI BIỂN
































BÁO CÁO NGÀNH VẬN TẢI BIỂN



- 2 -
Khoản Mục NỘI DUNG
Tổng quan về
ngành vận tải
biển Việt
Nam: khoảng
80%/ tổng
khối lượng
hàng hóa vận
chuyển là
bằng đường
biển
- Vận tải biển đóng vai trò quan trọng trong việc xuất nhập khẩu hàng hóa (Việt Nam có kim

ngạch xuất nhập khẩu tăng trưởng với tốc độ gần 20%/năm) nhất là khi thương mại quốc tế
của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng trong vòng 15 năm trở lại đây từ sau khi mở cửa,
hội nhập với nền kinh tế thế giới, đặc biệt từ sau khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức
thương mại thế giới (WTO).
-
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế đều đặn khoảng 8% năm và tốc độ tăng trưởng kim ngạch
xuất nhập khẩu khoảng từ 20% đến 25% năm. Giao thương hàng hóa tăng trưởng nhanh
chóng, và trong đó chủ yếu được vận chuyển bằng đường biển (khoảng 80% tổng khối lượng
hàng hóa vận chuyển) là những tiền đề quan trọng trong phát triển ng ành vận tải biển của
Việt Nam
.
- Điểm nhấn quan trọng của ngành hàng hải nói chung và vận tải biển nói riêng là bộ luật hàng
hải 2005 được ban hành (quy định về quy định về tàu biển, thuyền bộ, cảng biển, vận tải biển,
thuê tàu, bảo hiểm hàng hải, dịch vụ hàng hải, an toàn hàng hải, an ninh hàng hải...). Nó có ý
nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình phát triển, hội nhập của nền kinh tế quốc dân và Ngành
Hàng hải nói riêng. Đây là sự kiện đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật hàng hải nước
ta, đặc biệt là trước xu thế toàn cầu hóa hoạt động hàng hải thế giới đang ngày càng gia tăng
và vai trò “đầu mối”, vừa là “cầu nối” của kinh tế hàng hải đối với nền kinh tế quốc dân cũng
như kinh tế biển nói riêng đang đòi hỏi được phát huy. Theo Cục Hàng Hải Việt Nam thì tổng
kết thành quả sau 05 năm hoạt động từ năm 2006-2010, ngành vận tải biển của Việt Nam đã
có những bước tiến mạnh mẽ và bền vững. Trong đó, số lượng tàu, hàng hóa được vận
chuyển thông qua đường biện ngày càng tăng qua các năm.


62,291
86,619
98,593
108,016
119,744
53,756

0
20,000
40,000
60,000
80,000
100,000
120,000
Số lượng tàu vào, rời cảng biển giai đoạn
2006-Q2/2011
(đvt: lượt) - Nguồn: Cục hàng hải VN
2006 2007 2008 2009 2010 Q2/2011



BÁO CÁO NGÀNH VẬN TẢI BIỂN



- 3 -

154,497,732
181,116,296
196,579,572
251,218,000
259,144,580
144,125,364
0
50,000,000
100,000,000
150,000,000

200,000,000
250,000,000
300,000,000
Số lượng hàng hóa qua cảng biển giai đoạn
2006-Q2/2011
(đvt: tấn) - Nguồn: cục hàng hải VN
2006 2007 2008 2009 2010 Q2/2011


Các loại hình
vận tải biển
thông dụng:
có 03 loại
hình là vận tải
hàng rời, vận
tải hàng lỏng
và vận tải
container.
Có 03 loại vận tải biển thông dụng như:
+ Vận tải hàng rời:
Loại hàng hóa được xem là đối tượng vận chuyển chính của hoạt động vận tải biển là quặng sắt
(phục vụ cho ngành công nghiệp thép) và than đá (nhiên liệu đốt).Trong các cỡ tàu, loại tàu
Capesize (trọng tải > 134.000 DWT) vận chuyển 50% - 60% sản lượng là quặng sắt trong khi tỷ
lệ này đối với loại tàu Panamax (59.000 DWT – 89.000 DWT) là 30% đối với quặng sắt và 30%
đối với than.
+ Vận tải hàng lỏng:
Đối tượng vận chuyển chủ yếu của ngành là dầu thô với hơn 60% khối lượng vận chuyển, còn
lại là các sản phẩm khác từ dầu như xăng, gas, khí đốt hóa lỏng,...Nhu cầu tiêu thụ toàn cầu
đặc biệt là tại các thị trường chính Bắc Mỹ và Châu Âu (>50% tổng tiêu thụ toàn cầu) luôn có vai
trò quan trọng đối với diễn biến giá dầu cũng như giá cước vận tải các loại hàng này. Doanh

nghiệp vận tải dầu Việt Nam sẽ gặp khó khăn hơn khi nhà máy lọc hóa dầu Dung Quất đã bắt
đầu đi vào hoạt động (dự kiến sẽ cung cấp 30% nhu cầu tiêu thụ xăng dầu ở Việt Nam, và đây
cũng chính là số lượng giảm trong việc nhập khẩu xăng dầu).
+ Vận tải container:
Đối tượng vận tải là các hàng hóa được chứa trong container với những kích thước, tiêu chuẩn
khác nhau theo quy định quốc tế. Sự ra đời và tiêu chuẩn hóa của container như công cụ mang
hàng đã giúp tiết kiệm đáng kể chi phí vận tải, đảm bảo tính thuận tiện và khả thi của việc sử
dụng kết hợp nhiều phương thức vận tải. Cũng từ đó cho ra đời khái niệm vận tải đa phương
thức, theo đó hàng hóa không cần phải dỡ ra và xếp lại vào công cụ mang hàng (container) khi
chuyển tiếp giữa các hình thức vận tải (chẳng hạn từ tàu lên xe tải).

BÁO CÁO NGÀNH VẬN TẢI BIỂN



- 4 -
Thực trạng
đội Tàu Biển
Việt Nam:
Đến hết quý
2/2011, Việt
Nam có 1.689
tàu với tổng
trọng tải trên
7,5 triệu DWT
- sau khi bộ luật hàng hải 2005 được ban hành đã tạo điều kiện thuận lợi đối với hoạt động của
các loại hình dịch vụ hàng hải (đại lý, hoa tiêu, cung ứng, lai dắt, giao nhận, môi giới, bảo
hiểm, cứu hộ, logistic ...). Năm 2005 có 413 doanh nghiệp cung cấp các loại hình dịch vụ hàng
hải nhưng đến năm 2010 thì con số này đã tăng lên 649 doanh nhiệp thuộc các thành phần
kinh tế tham gia (nhà nước: 121, trách nhiệm hữu hạn: 314, cổ phần :197, liên doanh: 09 ...).

- Hàng năm đội tàu biển của các công ty kinh doanh vận tải biển đều được đầu tư phát triển bổ
sung thêm cả về số lượng, tổng trọng tải theo hướng trẻ hóa, hiện đại hóa và chuyên dụng
hóa nên đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu lưu thông hàng hóa, hành khách trong nước và
tham gia vận tải quốc tế so với thời kỳ trước đây.
- Theo thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam đến hết tháng 06/2011 thì Việt Nam gồm 1.689
tàu với tổng trọng tải trên 7,5 triệu DWT (trọng tải an toàn), tổng dung tích gần 4,4 triệu GT;
tổng số thuyền viên hiện có gần 41,4 nghìn người, trong đó có 2.956 thuyền trưởng, 2.523
máy trưởng các hạng trong độ tuổi lao động. Xét về tổng trọng tải, đội tàu mang quốc tịch Việt
Nam đứng thứ 60/152 trên thế giới và đứng thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á. Nhờ nỗ lực đầu
tư đội tàu của các doanh nghiệp trong nước gần đây, độ tuổi trung bình của đội tàu Việt Nam
được cải thiện đáng kể. Hiện nay, với độ tuổi trung bình khoảng 12,9 năm, đội tàu Việt Nam
đứng thứ 2 sau Singapore trong khu vực ASEAN.
3,447,474
4,384,880
5,579,524
6,218,397
7,182,775
7,512,561
0
2,000,000
4,000,000
6,000,000
8,000,000
Tổng trọng tải đội tàu biển Việt Nam
giai đoạn 2006-Q2/2011
(Đtv: tấn)- Nguồn: cục hàng hải VN
2006 2007 2008 2009 2010 Q2/2011


- Cùng với sự phát triển mạnh về đội tàu, sản lượng hàng hoá do tàu biển Việt Nam vận chuyển

hàng năm đều tăng so với thời kỳ trước đây. Năm 2005 đạt 42 triệu tấn, trong đó vận tải trong
nước đạt 16 triệu tấn, vận tải quốc tế đạt 26 triệu tấn. Đến quý 02/2011 sản lượng vận chuyển
hàng hóa đạt trên 44 triệu tấn - tăng gần 16,8 %, trong đó vận tải quốc tế đạt trên 30 triệu tấn -
tăng trên 13,7 %, vận tải trong nước đạt 14,5 triệu tấn - tăng 24,9 %.





BÁO CÁO NGÀNH VẬN TẢI BIỂN



- 5 -
49,480,000
61,350,000
69,284,522
81,056,074
88,919,900
44,121,351
0
10,000,000
20,000,000
30,000,000
40,000,000
50,000,000
60,000,000
70,000,000
80,000,000
90,000,000

Sản lượng vận tải biển giai đoạn 2006-Q2/2011
Đvt: tấn - nguồn: cục hàng hải VN
2006 2007 2008 2009 2010 Q2/2011


Doanh nghiệp
kinh doanh
vận tải biển
Việt Nam:
Trong những năm qua, việc cạnh tranh giành thị phần vận tải của các hãng tàu trong nước gặp
nhiều khó khăn. Hiện có đến 90% hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng
đường biển. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng chuyên chở được 18%
tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, đó là do nguyên nhân:
+ Đội tàu của chúng ta chủ yếu là tàu hàng khô, trừ một số tàu mới được đầu tư gần đây, đa
số các tàu từ thế hệ cũ, trọng tải nhỏ nên sức cạnh tranh kém, năng lực khai thác của đội
tàu trong nước chưa cao. Mặc khác lượng hàng nội địa khan hiếm, chi phí trên một đơn vị
vận tải cao, hiện trạng thiếu sự hợp tác giữa các doanh nghiệp vận tải biển với các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam đã hạn chế sự tiếp cận của đội tàu đối với ngay cả hàng
hóa trong nước.
+ Trong khi các hãng tàu nước ngoài (hiện có khoảng 40 tàu) với tiềm lực tài chính mạnh,
tuyến hoạt động dài, chi phí cho đơn vị sản phẩm thấp.

Thị phần thị trường vận tải biển tại
Việt Nam
70%
30%
Thị phần
DN trong
nước
Thị phần

DN nước
ngoài


×