Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Chương 3 - Kỹ thuật nuôi nhuyễn thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.88 KB, 8 trang )


21
CHƯƠNG III
KỸ THUẬT NUÔI CẤY NGỌC TRAI NHÂN TẠO


Ngọc Trai là vật trang sức được ưu chuộng từ lâu. Thời xa xưa con người đã biết
thu hoạch ngọc Trai ở biển và cho tới nay dù trãi qua nhiều thế kỷ Trai ngọc vẫn là
nguồn lợi vô cùng to lớn. Do việc khai thác đơn thuần dựa vào tự nhiên đã không
thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng mà có nơi còn làm cho nguồn lợi ngày càng cạn kiệt,
nên việc nuôi cấy ngọc Trai nhân tạo đã được áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế
giới. Mặc dù ở nước ta có nhiều loài Trai có khả năng tạo ngọc như: Trai cánh
(Sinohyriopsis), Trai không răng (Anodonta), Trai ngọc (Pinctada)... nhưng sản
lượng ngọc trai còn quá thấp. Để tăng sản lượng chúng ta không thể dựa vào khai
thác mà phải chủ động nuôi Trai để sản xuất ngọc nhân tạo.
Lịch sử nuôi Trai lấy ngọc đã có từ lâu đời và phát triển qua ba giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: trước 1853 là giai đoạn khai thác ngọc tự nhiên. Giai đoạn này
người ta bắt Trai tự nhiên về thả nuôi ở một nơi nhất định sau 3-4 năm thì
khai thác lấy ngọc. Con người chỉ có vai trò giữ giống còn quá trình hình
thành ngọc là tự nhiên, cong người hoàn toàn không có tác động gì đến quá
trình tạo ngọc của Trai.
- Giai đoạn 2: từ 1853-1925 là giai đoạn sản xuất ngọc bán cầu. Giai đoạn
này người ta cấy một dị vật vào giữa vỏ và màng áo Trai và nuôi trong các
lồng. Sau một thời gian Trai sẽ tiết ra xà cừ bao lầy dị vật tạo nên ngọc hình
bán cầu. Phương pháp này do Kokichi Mikimoto đề xuất.
- Giai đoạn 3: Từ 1925 đến nay là giai đoạn sản xuất ngọc tròn nhờ cải tiến
kỹ thuật của Tokisi Nisicavo.
Ngọc tự nhiên và ngọc nhân tạo chỉ khác nhau tác nhân tạo ra ngọc mà không khác
nhau về chất lượng nên giá trị sử dụng là như nhau.
1 CÁC GIẢ THUYẾT TẠO NGỌC.
1.1 Thuyết nội nhân.


Theo thuyết này, nguyên nhân tạo ngọc là do yếu tố bên trong gây ra. Khi màng áo
bị mắc bệnh, một phần tế bào biểu bì của màng áo bị bong ra và chìm dần vào mô
liên kết. Các tế bào này tiết ra ngọc tạo thành túi ngọc.
1.2 Thuyết ngoại nhân.
Thuyết ngoại nhân cho rằng nguyên nhân tạo túi ngọc là do bên ngoài gây ra một
cách ngẫu nhiên. Khi có một dị vật (cát, ký sinh trùng) từ bên ngoài xâm nhập vào
khoảng giữa màng áo và vỏ rồi chìm dần vào mô liên kết cùng một phần tế bào

22
biểu bì của màng áo. Các tế bào này tiết ra ngọc bao lấy dị vật tạo thành túi ngọc.
Thuyết này là cơ sở khoa học cho việc cấy ngọc nhân tạo.

Hình 3.1. Quá trình tạo ngọc tự nhiên


Hình 3.2. Cơ sở khoa học của cấy ngọc nhân tạo

1.3 Thuyết mô phân tiết ngọc.
Khi mô phân tiết ngọc bị một kích thích ngoại lai sẽ tạo ra sinh sản dị trạng tạo
thành túi ngọc. Như vậy sự hình thành túi ngọc chỉ là việc kích thích các tế bào tiết
ngọc (kích thích vật lý hay hóa học) tạo ra sinh sản dị trạng mà không cần dị vật.
4. Cơ chế hình thành tầng xà cừ (ngọc trai)
Các tế bào biểu bì mặt ngoài màng áo (thượng bì) có chức năng vận chuyển
protein, đường đa (polysaccaride), các ion kim loại và gốc muối đến xoang giữa
màng áo. Tại đây sẽ xảy ra các phản ứng:
Ca
2+
+ CO
3
2-

= CaCO
3


23
Ion kim loại + gốc muối = Muối kim loại
CaCO
3
và muối kim loại kết hợp với nhau tạo thành phiến đá vôi sắp xếp có trật
tự. Polysaccaride và protein kết hợp lại tạo thành chất kết nối các phiến đá vôi lại
với nhau. Chính sự sắp xếp xen kẻ giữa hai thành phần hữu cơ (protein và
polysaccarid) và vô cơ (phiến đá vôi) tạo nên màu sắc óng ánh cho ngọc trai.

Hình 3.3. Cơ chế hình thành tầng xà cừ
1.4 Các loại ngọc
Dựa vào vị trí hình thành và hình dạng của ngọc người ta chia ngọc thành các loại như
sau:
1.4.1 Ngọc tròn
Loại này thường có dạng tròn được hình thành bên trong các mô của cơ thể Trai và
ngọc không cố định vào vỏ. Dựa vào vị trí và sắc thái có thể chia làm 4 loại:
- Ngọc túi: hình thành ở mép màng áo, kích thước to, chất lượng tốt nhất.
- Ngọc tai: hình thành ở tai vỏ phía dưới bản lề nên còn gọi là ngọc nề. Loại
này có thể hình thành 2-3 viên cùng một nơi, chất lượng không tốt lắm.
- Ngọc thịt: hình thành trong các sợi cơ, có thể có hàng chục đến hàng trăm
viên cùng một chổ, kích thước nhỏ, chất lượng không tốt nên chỉ dùng làm
thuốc.
-
Ngọc bụng: hình thành gần nội tạng, chất lượng không tốt.



24
1.4.2 Ngọc bán cầu
Loại ngọc này dính vào mặt trong của vỏ nên còn gọi là ngọc dính, hình dạng bán
cầu, chất lượng tương đối tốt
2 ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC TRAI NGỌC
Trai ngọc Pinctada martensii (Dunker): trai phân bố ở Nhật bản, Nam Ấn Độ,
Quảng Đông (TQ). Ở Việt Nam Trai phân bố ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh
Hóa, Bình Thuận, Khánh Hòa, Quảng Nam-Đà Nẵng, Bà Rịa-Vũng Tàu, Côn Đảo,
Phú Quốc. Trai sống ở vùng dưới triều độ sâu khoảng 15-20m nơi có nồng độ
muối khoảng 25-30%o, chất đáy là cát, sỏi pha vỏ động vật thân mềm vá ít sóng
gió. Mùa vụ sinh sản từ tháng 4-10. Thức ăn chủ yếu của Trai là thực vật phù du.
Trai có tầng xà cừ ở giữa vỏ dày, nhẵn bóng, mép màu vàng nhạt. Là loài dùng để
sản xuất ngọc nhân tạo.
Trai ngọc môi vàng Pinctada maxima: người Trung Quốc gọi là đại trân châu.
Loài này phân bố ở Tây Bắc Úc, Indonesia, Philippines, Vịnh Thái Lan, Ấn Độ,
Đài Loan. Ở nước ta Trai môi vàng có ở đảo Bạch Long vĩ, Phú Quí, Phú Quốc.
Chúng sống ở độ sâu 25-35m, nơi có đáy sỏi, cát. Mặc ngoài vỏ của Trai có màu
nâu, mặt trong có màu ánh bạc, xung quanh mép vỏ có màu ánh vàng. Chúng là
đối tượng để sản xuất ra loại ngọc quí. Hiện nay có một số cơ sở nuôi cấy ngọc ở
Vũng Rô (Phú Yên).
Trai ngọc môi đen Pinctada margaritifera: phân bố ở Đông Thái bình Dương,
Panama, Mexico, Xu đăng, Tahiti. Ở nước ta có ở Thanh Hóa, Sông Cầu (Phú
Yên, Phan Thiết (Bình Thuận), Nha Trang và Cam Ranh (Khánh Hòa). Trai sống ở
độ sâu khoảng 50-60m, nơi có nồng độ muối 30%o.
Khi tuyến sinh dục của Trai thành thục chúng phóngsản phẩm sinh dục (trứng và
tinh trùng) vào môi trường nước. Trứng thụ tinh sẽ phát triển qua các giai đoạn ấu
trùng phù du (tương tự như ở Hầu). Khoảng 25 ngày sau ấu trùng biến thái chuyển
sang giai đoạn sống bám. Ấu trùng bám thường tiết ra 3-4 rễ tô chân để bám vào
giá thể. Trai 1 tuổi bắt đầu sinh sản, thời gian sinh sản từ tháng 4-10.
Thức ăn của Trai chủ yếu là tảo ngoài ra Trai còn ăn các chất lơ lững trong nước

như xác bã hữu cơ có kích thước nhỏ. Trai bắt mồi theo theo phương thức thụ
động nhưng có chọn lọc theo kích. Quá trình chọn lọc thức ăn cũng tương tự như
cách chọn lọc thức ăn của Hầu (xem chương 2). Tuổi thọ của Trai khoảng 12 năm.
III. KỸ THUẬT CẤY NGỌC.
Trước khi tiến hành cấy cần chuẩn bị trai mẹ bằng cách nuôi Trai trong các lồng
bằng tre hay lưới. Việc cấy nhân chỉ được thực hiện khi Trai đạt tiêu chuẩn về kích

25
thước, thời gian và tình trạng của tuyến sinh dục. Nếu khi cấy nhân mà tuyến sinh
dục của trai đang ở giai đoạn thành thục thì Trai dể bị chết hay bị rơi nhân hoặc
ngọc được tạo thành không đạt chất lượng. Vì vậy cần chọn Trai mẹ có tuyến sinh
dục không thành thục để cấy nhân
.
2.1 Chuẩn bị Trai mẹ.
Có hai cách chuẩn bị Trai mẹ:
- Cách thứ nhất: ức chế tuyến sinh dục, thường được tiến hành vào đầu mùa
sinh sản. Thời gian này nhiệt độ bắt đầu tăng sau mùa Đông lạnh nhưng
tầng nước sâu nhiệt độ vẫn còn thấp. Nuôi Trai ở tầng nước sâu, với điều
kiện nhiệt độ thấp sẽ ức chế sự phát triển của tuyến sinh dục.
-
Cách thứ hai: kích thích tuyến sinh dục phát triển nhanh, thường được áp
dụng vào mùa Trai đẻ rộ. Kích thích sự phát triển của tuyến sinh dục bằng
cách nuôi trai ở tầng nước mặt có nhiệt độ cao (28-32oC). Sau một thời gian
ngắn Trai sẽ thành thục và sinh sản. Sau khi Trai đã sinh sản thì chúng ta có
thể tiến hành cấy nhân. Tuy nhiên sau khi sinh sản Trai thường yếu đi nên
hiệu quả của việc cấy nhân sẽ không cao.

2.2 Chọn lọc Trai mẹ.
Chọn Trai mẹ có kích thước phù hợp cho vào bể, đặt bụng Trai ngửa lên trên và
duy trì nhiệt độ nước khoảng 28-30

oC
. Khoảng 1 giờ sau Trai sẽ mở vỏ, dùng kẹp
mở miệng vỏ Trai (khoảng 1-1,5cm) để kiểm tra tuyến sinh dục. Nếu đạt yêu cầu
thì chèn miệng vỏ và đưa về phòng thí nghiệm để tiến hành cấy nhân.
2.3 Cắt màng áo.
Trai dùng để cấy ngọc gồm hai loại, Trai kỹ thuật và Trai nguyên liệu. Trai kỹ
thuật là Trai dùng để cấy nhân vào còn Trai nguyên liệu là Trai dùng để lấy mảnh
màng áo. Tỉ lệ của hai loại này là 2:1-5:1. Trai nguyên liệu là loại khoảng 1-2
tuổi, Trai càng to càng tốt nhưng không nên vượt quá 5-6 tuổi. Việc chọn Trai
nguyên liệu có ảnh hưởng rất lớn đến thời gian tạo ngọc và chất lượng sản phẩm
sau này.
Lớp xà cừ của vỏ trai do toàn bộ biểu bì mặt ngoài màng áo (mặt tiếp xúc với vỏ)
tiết ra, nhưng chất lượng tùy theo vị trí của màng áo mà quá trình hình xà cừ nhanh
hay chậm và chất lượng của lớp xà cừ cũng khác nhau. Theo kết quả thí nghiệm
bằng đồng vị phóng xạ Ca
45
thì mép màng áo là nơi hấp thu nhiều Ca
45
nhất (trao
đổi chất mạnh nhất). Vì vậy, hiện nay trong kỹ thuật cấy ngọc đều dùng lớp tế bào
ở mép màng áo để cấy. Tuy nhiên, trên mép màng áo ở từng vị trí khác nhau cũng
cho chất lượng xà cừ khác nhau. Một thí nghiệm khác cũng cho thấy mép màng áo
ở phần bụng có khả năng phục hồi nhanh nhất và cho chất lượng ngọc tốt nhất.

Dùng dao mổ luồn vào cát đứt cơ khép vỏ, chú ý không nên để dao đụng vào màng
áo nếu không màng áo sẽ co lại. Lật vỏ ra cắt lấy phần bụng của màng áo, tẩy sạch

×