Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Câu 1đại đoàn kết dân tộc theo quan điểm HCM liên hệ thực tế VN hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.03 KB, 19 trang )

Câu 1:Đại đoàn kết dân tộc theo quan điểm HCM? Liên hệ thực tế VN hiện nay?
*) Những quan điểm của HCM về đại đoàn kết dân tộc:
1.
Đoàn kết là vấn đề chiến lược của CMVN
Đoàn kết là vấn đề cơ bản xuyên suốt lâu dài nhằm tạo ra sức mạnh bảo đảm cho CM giành thắng lợi
Đoàn kết dân tộc là chính sách dân tộc ko pải thủ đoạn chính trị
HCM thực sự quan tâm đến đoàn kết. trong suốt cuộc đời hoạt động CM, Người dành đến 40% bài viết về đoàn kết, sử
dụng khoảng 2000 lần cụm từ “đoàn kết”,”đại đoàn kết”. người luôn nhận thức đại đoàn kết dân tộc là vấn đề sống còn,
quyết định thành công của CM. Người thường khẳng định “ Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”,” Đoàn kết là
điểm mẹ. điểm này mà thực hiện tốt đẻ ra con cháu đều tốt”
Thực tiễn: chỉ rõ khi nào dân tộc ta phát huy sức mạnh đoàn kết thì CM mới thành công và ngược lại CM thất bại
1.
Đại đoàn kết dân tộc là 1 mục tiêu, 1 nhiệm vụ hàng đầu của CM
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc pải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng. Đại đoàn kết
dân tộc ko chỉ là mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của
quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển
những đòi hỏi khách quan, tự pát của quần chúng nhân dân thành sức mạnh vô địch trong cuộc đtranh giải póng dân
tộc, giải póng con người.
1.
Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Người đưa ra khái niệm dân rất rộng:
+) all mọi người ko pân biệt tuổi tác, giới tính, dtoc, tôn giáo,đảng pái, giai cấp
+) all mọi người ko pân biệt nơi cư trú, địa dư hành chính: ko pân biệt nông thôn, hay thành pố…
+) dân đồng nghĩa với đồng chí, đồng bào, cùng chí hướng
+) Dân gắn liền với nhân dân lao động
Đoàn kết toàn dân là pải tập hợp, giáo dục, giác ngộ cảm hóa nhân dân vì nhận thức , dân trí chưa cao hành vi chưa
đúng. Trong cảm hóa, giáo dục thì pải tránh căn bệnh xem nhẹ quần chúng, hạ thấp vai trò của quần chúng, không quan
tâm đến giáo dục giác ngộ nhưng đồng thời pải tin vào dân, dựa vững vào dân
Chú ý cải thiện đời sống cho nhân dân
Trong đoàn kết toàn dân pải chú ý tăng cường liên minh công nông và đặt dưới sự chỉ đạo của Đảng cộng sản
1.


Đoàn kết dân tộc pải có tổ chức, có lãnh đạo
Tổ chức thực hiện khối đại đoàn kết dtoc chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá
nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân VN phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tự do,
hạnh púc của nhân dân
Tùy theo từng giai đoạn CM, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận dtoc thống nhất có tên gọi khác nhau. Đảng lãnh đạo
muốn lãnh đạo mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, trong Đảng pải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn
kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết toàn dân
1.
Đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế
Đoàn kết quốc tế nhằm tạo lên sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho CM thành công
Trong đoàn kết quốc tế cần chống tư tưởng bành trướng, bá quyền chống tư tưởng kì thị dân tộc
Trong đoàn kết dân tộc tuân thủ nguyên tắc độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ các bên cùng có lợi
Trong quan hệ quốc tế luôn luôn hướng tới mục tiêu chung là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ XH
Câu 2:Nội dung ĐĐKDT theo quan điểm HCM?
Từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của vấn đề đại đoàn kết, nên Hồ Chí Minh đề cập nội dung đại đoàn kết khá phong
phú, có thể khái quát ở mấy điểm chính sau.
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò to lớn trong khối đại đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân nên phải thu phục được đại bộ phận giai cấp
mình, để giai cấp ấy lãnh đạo được quần chúng. Đảng phải tổ chức, lãnh đạo các đoàn thể nhân dân. Đảng phải vận
động quần chúng nhân dân cùng với mình giải phóng nhân dân thoát khỏi ách áp bức bóc lột, thoát khỏi nghèo đói.
Muốn làm được điều đó, Đảng phải làm cho dân chúng giác ngộ, tự thấy khả năng to lớn của mình, biết đoàn kết một
lòng thành sức mạnh đấu tranh chiến thắng mọi kẻ thù.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, để làm được như vậy, Đảng phải đoàn kết, không bè phái, phải nâng cao trình độ lý luận, khả
năng hoạt động thực tiễn, phải thật trong sạch vững mạnh. Chỉ như vậy dân mới tin, đi theo Đảng, đoàn kết xung quanh
Đảng.
Hai là, phát huy vai trò của Nhà nước với đoàn kết toàn dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng muốn đoàn kết mấy chục triệu đồng bào, phải có một cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn
kết và hành động nhất trí. Cơ cấu ấy là do toàn dân bầu cử, lựa chọn người ưu tú đại diện cho mình vào cơ quan nhà



nước để gánh vác công việc quốc gia. Người nói nhờ dân ta đoàn kết một lòng và Chính phủ lãnh đạo khôn khéo, mà
chúng ta bẻ gãy xiềng xích nô lệ, giành được độc lập tự do.
Người nhấn mạnh : Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân
không ai dẫn đường. Cho nên chính phủ và nhân dân phải đoàn kết thành một khối. Chính phủ và nhân dân phải đồng
tâm nhất trí, ra sức tổ chức công tác mở mang kinh tế, thực hành đời sống mới. Hồ Chí Minh đã xây dựng Chính phủ
đại diện cho các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Người khẳng định, để thực
hiện tốt nhiệm vụ cách mạng, Nhà nước phải phát huy quyền dân chủ của nhân dân; bảo đảm quyền dân sinh của toàn
dân để phát huy tính tích cực sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người đều tham gia quản lý nhà nước. Phải thực sự
tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Mọi cơ quan Nhà nước phải dựa
vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, hướng về phục vụ nhân dân.
Ba là, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Đoàn kết phải có tổ chức. Muốn huy động mọi người đoàn kết phải đưa họ vào tổ chức. Hồ Chí Minh quan niệm nội
dung đoàn kết phải tích cực, thiết thực bằng cách đưa mọi người vào trong tổ chức, đó là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Người cho rằng phải mau mau tổ chức lại các tổ chức trong Mặt trận. Nông dân phải vào "Nông dân cứu quốc". Thanh
niên phải vào "Thanh niên cứu quốc". Phụ nữ phải vào "Phụ nữ cứu quốc". Trẻ em phải vào "Nhi đồng cứu quốc".
Công nhân phải vào "Công nhân cứu quốc". Các bậc phụ lão văn sĩ phải vào "Việt Nam cứu quốc hội". Những hội ấy
phải do Việt Nam độc lập đồng minh lãnh đạo. Vào tổ chức rồi, người có tiền giúp tiền, kẻ có sức giúp sức. Đồng tâm
hiệp lực, muôn người một lòng, nhân cơ hội ấy mà khôi phục lại Tổ quốc, mà làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh Việt Nam độc lập đồng minh (hoặc Việt Minh) có nghĩa là liên minh vì độc lập của nước Việt
Nam. Mặt trận bao gồm tất cả mọi người yêu nước, không phân biệt khuynh hướng chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo, giai
cấp xã hội, nam nữ, tuổi tác.
Để Mặt trận có sức mạnh, Hồ Chí Minh cho rằng phải có kỷ luật tự giác mà mỗi cá nhân, hội viên, đoàn thể phải tuân
theo. Mặt trận phải thật dân chủ. Hoạt động của Mặt trận phải nhằm vào điểm chính sao cho có hiệu quả thiết thực. Các
tổ chức thành viên Mặt trận phải thân ái đoàn kết giúp đỡ nhau. Cương lĩnh của Mặt trận phải thể hiện mục đích đoàn
kết, đấu tranh cho hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội.
Cương lĩnh ấy phải thiết thực, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, hoạt động phải vững chắc, thu hút quảng đại
mọi người dân tham gia sản xuất, thực hành tiết kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mục đích phấn đấu của Mặt trận dân
tộc thống nhất là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh. Vì vậy Mặt trận là
một nội dung lớn của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.
Mặt trận nhằm đoàn kết giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức ; đoàn kết những người và gia đình có

công với nước; đoàn kết các tôn giáo ; các dân tộc ; cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ; các tầng lớp khác trong
xã hội. Bằng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau, tùy từng giai đoạn lịch sử cụ thể, Mặt trận có những biện pháp
thích hợp tập hợp các tầng lớp nhân dân xung quanh Đảng để vượt qua những khó khăn thử thách hoàn thành các mục
tiêu cách mạng đề ra. Hồ Chí Minh đã sáng tạo trong việc lập ra các tổ chức thích hợp của Mặt trận để đoàn kết mọi
tầng lớp nhân dân, các nhân sĩ, trí thức, những người có đạo thuộc các tôn giáo khác nhau ; những người thuộc các dân
tộc khác nhau đều chung lòng yêu nước, yêu đồng bào vì sự nghiệp chung mà đoàn kết.
Câu 3:Quan điểm của HCM anh chị hãy làm rõ những chuẩn mực đạo đức của người cách mạng? liên hệ bản
thân.
Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh – đó là : Trung với nước, hiếu
với dân; Yêu thương con người; Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư; Tinh thần quốc tế trong sáng. Những phẩm chất
đạo đức này thống nhất trong đạo đức mỗi con người.
1. Trung với nước, hiếu với dân:
Nếu như lòng yêu nước là nhận thức và tình cảm đạo đức thì “trung với nước, hiếu với dân” là hành vi đạo đức. Nhận
thức, tình cảm đạo đức là cơ sở của hành vi đạo đức. Với người cách mạng, đây là phẩm chất, là chuẩn mực hàng đầu.
Dưới thời phong kiến, trung là với vua, hiếu là với cha mẹ. Hồ Chí Minh bàn đến “trung” và “hiếu” cũng với ý nghĩa là
bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm của con người nhưng đã gạt bỏ nội hàm hạn hẹp của quan niệm cũ, gạt bỏ những hạn
chế trong tư tưởng đạo đức của Nho giáo và đưa vào những nội dung đạo đức mới.
Cụ thể, “trung với nước, hiếu với dân” là: Phải đặt lợi ích của cách mạng, của Tổ quốc lên trên hết; phải quyết tâm đấu
tranh cho sự phồn vinh của đất nước, hạnh phúc của nhân dân; phải tin tưởng ở sức mạnh ở quần chúng nhân dân,
khẳng định và tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền dân chủ; phải gương mẫu và hướng dẫn nhân dân thực hiện
tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước...
2. Yêu thương con người:
Hồ Chí Minh vừa là con người của tư tưởng, vừa là con người của hoạt động thực tiễn. Lòng yêu thương con người của
Bác vừa bao la biển trời, lại vừa gần gũi với từng số phận con người.
Lòng yêu thương con người, lòng nhân ái, sự cảm thông, chia sẻ - mỗi con người chúng ta đều hơn một lần cảm nhận
được. Mỗi người sống trong xã hội ai cũng hướng tới hạnh phúc, hướng tới những điều tốt đẹp. Điều thực sự đáng sợ là
khi ta không thể cảm thông, chia sẻ đối với người khác. Bởi cuộc sống đâu chỉ toàn những điều vui. Như thế yêu


thương là hạnh phúc của con người. Lòng thương yêu con người là cơ sở của những hành vi xã hội đẹp.

Yêu thương con người là bản chất của nhân dân lao động, là nét đẹp của chủ nghĩa xã hội.
3. Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư:
Hồ Chí Minh đề cập đến “cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư” một cách thường xuyên. Vì đó là ý thức và hành vi đạo
đức của mỗi người với chính mình, với công việc. Đó là vấn đề hàng ngày hàng giờ và suốt quá trình đấu tranh cách
mạng. Đó là biểu hiện và minh chứng cho phẩm chất đạo đức “trung với nước, hiếu với dân”.
- Cần kiệm: “Cần” yêu cầu con người có ý thức và hành vi lao động nghiêm túc, đạt năng suất cao; làm tốt công việc
mà xã hội đã giao phó; không lười biếng; không gian dối, lừa đảo. “Kiệm” yêu cầu tiêu dùng đúng mức, phù hợp với
khả năng tài chính và vật chất mà con người có được, không xa hoa, lãng phí; “kiệm” cũng không có nghĩa là bủn xỉn,
“vắt cổ chày ra nước” dẫn đến những hạn chế trong công việc và đời sống.
- Liêm chính:
Liêm: Nói đến “liêm” là nói đến sự trong sạch trong đạo đức. Với người dân bình thường, “liêm” yêu cầu không gian
dối, trộm cắp. Đối với những người làm chức việc cho nhà nước thì “liêm” nghĩa là không tham ô, tham nhũng.
Chính: là nói đến sự ngay thẳng, trung thực chính mình và với người khác. Mình có chính trực thì mới yêu cầu người
khác chính trực được.
- Chí công vô tư: đó là hết lòng vì công việc, vì sự công bằng, không thiên vị, không chạy theo lợi ích cá nhân mà phải
đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của tập thể lên trước.
Hồ Chí Minh cho rằng giữa các khái niệm “cần” - “kiệm” – “liêm” – “chính” – “chí công” – “vô tư” có sự liên hệ chặt
chẽ, tác động lẫn nhau. Đó là phẩm chất đạo đức của mỗi người. Và đặc biệt quan trọng với Đảng viên, với cán bộ,
quan chức Nhà nước, bởi trong công cuộc cách mạng, trong quá trình thực hiện các chủ trương chính sách, các dự án
kinh tế, nếu thiếu “cần”- “kiệm”- “liêm”- “chính”- “chí công”- “vô tư” họ sẽ thành hủ bại, sâu mọt đục khoét của nhân
dân. Thực tế ngày nay, chủ nghĩa cá nhân, thói quan liêu, hoang phí, nạn tham ô, tham nhũng hết sức trầm trọng - thực
sự là nguy cơ lớn đối với công cuộc cách mạng , đòi hỏi sự đấu tranh phải quyết liệt.
4. Tinh thần quốc tế trong sáng:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất, hòa quyện giữa chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đạo đức cộng
sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân và của xã hội
xã hội chủ nghĩa.
Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rộng lớn và sâu sắc. Đó
là sự tôn trọng và thương yêu tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù,

bất bình đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc. Người khẳng định: bốn phương vô sản
đều là anh em; giúp bạn là giúp mình; thắng lợi của mình cũng là thắng lợi của nhân dân
thế giới. Người đã góp phần to lớn, có hiệu quả xây đắp tình
đoàn kết quốc tế, tạo ra
một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, kiến tạo một nền văn hóa hòa
bình trên thế giới.
Câu 4:Bằng kiến thức đã học hãy phân tích phẩm chất đạo đức “cần kiệm liêm chính chí công vô tư và thương
yêu con người, sống có tình nghĩa” vận dụng vào việc rèn luyện tu dưỡng đạo đức của bản thân.
Phân tích phẩm chất: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức cũ, được Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc, đưa vào
những yêu cầu và nội dung mới. Người chỉ ra
rằng: phong kiến nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không thực hiện; ngày nay, ta đề
ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho
nước, cho dân. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một biểu hiện sinh động của
phẩm chất "trung với nước hiếu với dân".
Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai. Kiệm là tiết kiệm vật tư, tiền
bạc, của cải, thời gian, không xa xỉ, không hoang phí. Liêm là trong sạch, không tham
lam tiền của, địa vị, danh tiếng. Chính là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Các đức
tính đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cần mà không kiệm giống như một chiếc
thùng không đáy. Kiệm mà không cần thì lấy gì mà kiệm. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của
chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:
"Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời


Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người"1

Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì, nếu cán
bộ, đảng viên mắc sai lầm, khuyết điểm thì sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung của cách
mạng, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Mặt khác, những người trong các công sở đều có
nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ
bại, biến thành sâu mọt của dân.
Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh
thần, sự văn minh tiến bộ của một dân tộc. Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời
sống mới, nền tảng của thi đua yêu nước; là cái cần để làm việc, làm người, làm cán bộ,
để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại.
Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng
bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành chí
công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo
đức cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là chỉ muốn "mọi người vì mình" mà
không biết "mình vì mọi người". Nó là một thứ giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả
giặc ngoại xâm. Nó là bạn đồng minh của chủ nghĩa đế quốc và thói quen truyền thống
lạc hậu. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy
hiểm, như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, xa hoa, tham danh
trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần
chúng, độc đoán chuyên quyền... Tóm lại, "chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn
ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng
lợi - để ngóc đầu dậy". Chủ nghĩa cá nhân là mối nguy hại cho cá nhân con người, cho
một đảng và cả dân tộc. Hồ Chí Minh viết: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người,
ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân"1. Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu
tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Tuy nhiên, cần có nhận thức đúng đắn đâu là chủ nghĩa cá nhân, đâu là lợi ích cá
nhân. Hồ Chí Minh cho rằng: đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo

lên lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có cá tính riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của
bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của
tập thể thì không phải là xấu. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chỉ ở trong chế độ xã
hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống của riêng mình, phát
huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình.
c) Thương yêu con người
Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là từ thực tiễn đấu
tranh cách mạng của các dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng, trên đời này có nhiều người,
nhiều công việc, nhưng có thể chia thành hai hạng người: người thiện và người ác, và
hai thứ việc: việc chính và việc tà. Làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người
ác. Từ đó, Người kết luận: những người bị áp bức, bị bóc lột, những người làm điều
thiện thì dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tôn giáo có khác nhau, vẫn có thể thực hành
chữ "bác ái", vẫn có thể đại đoàn kết, đại hòa hợp, coi nhau như anh em một nhà.
Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng kiểu
tôn giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản,
dành cho các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ.
Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng
lớn, vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận con người. Hồ Chí Minh luôn sống
giữa cuộc đời và không có cái gì thuộc về con người đối với Hồ Chí Minh lại là xa lạ.
Người quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc mặc, ở,
học hành, giải trí của mỗi người dân, không quên, không sót một ai, từ những người bạn
thuở hàn vi, đến những người quen mới. Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh
luôn gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc
cho con người.
*) Liên hệ với quá trình rèn luyện tu dưỡng của bản thân?


Câu 5:Nguyên tắc xây dựng đạo đức mới “nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức” anh chị vận dụng
nguyên tắc này như thế nào trong quá trình tu dưỡng đạo đức?
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức

Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng tuyệt vời về nói đi đôi với làm. Người quan
tâm đặc biệt, hàng đầu tới vấn đề đạo đức. Người để lại nhiều bài viết, bài nói về đạo
đức và quan trọng hơn là Người thực hiện trước hết, nhiều nhất những tư tưởng
ấy.
Ngay trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản, bàn về tư cách một người
cách mệnh, Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ "nói thì phải làm". Người còn làm nhiều hơn
những điều Người nói, kể cả việc làm mà không nói. Mỗi việc làm, mỗi hành vi của
Người đều tiềm ẩn những tư tưởng đạo đức sáng ngời. Đây là một bài học quý giá cho
mỗi chúng ta muốn tìm hiểu những tầng sâu bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức thì không chỉ dừng lại ở những bài viết, bài nói, mà phải khám phá những
hành vi đạo đức của Người, nghiên cứu những bài nói, bài viết của bạn bè quốc tế,
những học trò của Người.
Tại sao nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức?
Đạo đức cách mạng là đạo đức luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường
của giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích của cách mạng. Điều này phân biệt một cách
rạch ròi với thói đạo đức giả, đạo đức của giai cấp bóc lột với những đặc trưng bản chất
là nói nhiều, làm ít, nói mà không làm, nói một đằng, làm một nẻo, đem lại lợi ích
không phải cho quần chúng nhân dân lao động, mà cho thiểu số những kẻ bóc lột.
Nói đi đôi với làm còn nhằm chống thói đạo đức giả. Sáu mươi năm qua, từ khi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đến nay, nơi này, nơi khác, trên những
mức độ khác nhau ở cán bộ, đảng viên ta vẫn còn tồn tại hiện tượng nói không đi đôi
với làm. Điều này sẽ dẫn tới nguy cơ làm mất lòng tin của dân đối với Đảng và chế độ
mới. Ngay từ tháng 10 năm 1945, Hồ Chí Minh đã nói tới những kẻ "vác mặt làm quan
cách mạng". Sau này, trong nhiều lần bàn tới việc cần tẩy sạch bệnh quan liêu, mệnh
lệnh, Người chỉ rõ: "Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối "quan" chủ.
Miệng thì nói "phụng sự quần chúng", nhưng họ làm trái ngược với lợi ích quần chúng,
trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ"1.
Nêu gương đạo đức, nói đi đôi với làm là một nét đẹp của văn hóa phương Đông.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: "Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm,

và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền"2.
Noi theo tấm gương của V.I. Lênin, Hồ Chí Minh cũng đào tạo các thế hệ cách mạng
người Việt Nam không chỉ bằng lý luận cách mạng, mà bằng chính tấm gương đạo đức
cao cả.
Theo Hồ Chí Minh hơn bất kỳ một lĩnh vực nào khác, trong lĩnh vực đạo đức đặc
biệt phải chú trọng "đạo làm gương". Làm gương có nhiều cấp độ, phạm vi và hệ quy
chiếu khác nhau. ở đâu cũng có người tốt, việc tốt. Giai đoạn cách mạng nào cũng cần
có nhiều tấm gương. Tùy theo nhiệm vụ và tình hình cụ thể mà tấm gương đó được biểu
hiện ở những mặt nào, trong chiến đấu, lao động, học tập, cuộc sống đời thường trong
gia đình, ngoài xã hội... Việc bồi dưỡng, nêu gương "người tốt, việc tốt" là rất quan
trọng và cần thiết, không được xem thường. Nhiều giọt nước hợp lại mới thành suối,
thành sông, thành biển cả. Không nhận thức được điều đó là "chỉ thấy ngọn mà quên
mất gốc". Xây dựng đạo đức mới, nêu gương đạo đức phải rất chú trọng tính chất phổ
biến, rộng khắp, vững chắc của toàn xã hội và những hạt nhân "người tốt, việc tốt" tiêu
biểu.
Câu 6:Một trong những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới là: phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, hãy trình bày và
vận dụng nó trong quá trình tu dưỡng đạo đức bản thân.
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Tu dưỡng đạo đức là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc và văn hóa phương
Đông. Hồ Chí Minh đã nói về ưu điểm của Khổng Tử là "vấn đề tu dưỡng đạo đức cá
nhân". Quan điểm của Khổng Tử là "chính tâm, tu thân". Có "tu thân" mới làm được
những việc lớn khác như "trị quốc, bình thiên hạ". Hồ Chí Minh nói: "Chúng ta phải
nhớ câu "Chính tâm, tu thân" để "trị quốc bình thiên hạ". Chính tâm tu thân tức là cải
tạo. Cải tạo cũng phải trường kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng trong bản thân
của mỗi người. Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con


người cũ để trở thành con người mới không phải là một việc dễ dàng... Dù khó khăn
gian khổ, nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành công"2.
Đạo đức cách mạng, đạo đức mới khác đạo đức cũ ở chỗ nó gắn với thực tiễn cách

mạng và phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Vì vậy, việc rèn luyện, tu dưỡng bền bỉ
suốt đời phải như công việc rửa mặt hàng ngày là một trong những yêu cầu có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu. Hồ Chí Minh viết: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.
Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người"1. Vì vậy,
Người đòi hỏi "gian nan rèn luyện mới thành công". "Kiên trì và nhẫn nại... Không nao
núng tinh thần".
Cái ác luôn ẩn nấp trong mỗi người. Vì vậy, không được sao nhãng việc tu dưỡng,
mà phải rèn luyện suốt đời, bền bỉ. Đặc biệt trong thời kỳ hòa bình, khi con người đã có
ít quyền hạn, nếu không ý thức sâu sắc điều này, dễ bị tha hóa, biến chất. Hồ Chí Minh
so sánh: "Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm
bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư
tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng
như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ"2. Nếu không chú ý điều này, sa vào chủ nghĩa cá
nhân thì có thể ngày hôm qua có công với cách mạng, nhưng ngày hôm nay lại có tội
với nhân dân.
Đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng và đem lại hạnh phúc, tự do cho con
người, đó là đạo đức của những con người được giải phóng. Vì vậy, tu dưỡng đạo đức
phải gắn liền với hoạt động thực tiễn, trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương
tâm và trách nhiệm của mỗi người. Chỉ có như vậy thì việc tu dưỡng mới có kết quả
trong mọi môi trường, mọi mối quan hệ, mọi địa bàn, mọi hoàn cảnh.
Câu 7:Phân tích quan điểm HCM về chiến lược “trồng người”.
. Xây dựng con người là chiến lược hàng đầu của cách mạng
Hồ Chí Minh nêu bật ý nghĩa của chiến lược xây dựng con người mới. Trên cơ sở
khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, Hồ Chí Minh rất
quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người. Người nói tới "lợi ích
trăm năm"và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc
chiến lược, cơ bản lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách.

Như vậy, con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa
nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm
trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp.
Người khẳng định: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa.
Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra. Nhưng
ở đây trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì "trước hết cần có những con người
xã hội chủ nghĩa". Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây
dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người xã hội chủ nghĩa,
làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài không ngừng hoàn
thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi
người.
Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa "xây dựng chủ nghĩa xã hội" và "con
người xã hội chủ nghĩa".
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn
bó chặt chẽ với nhau. Một là kế thừa những giá trị tốt
đẹp của con người truyền
thống (Việt Nam và phương Đông). Hai là hình thành những phẩm chất mới như:
có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức cách mạng; có trí tuệ và bản lĩnh để làm
chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.
Hồ Chí Minh quan niệm"Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người".
Để "trồng người", có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào tạo là biện pháp quan
trọng bậc nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho


thế hệ trẻ. Ngược lại giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu tới thế hệ trẻ. Hồ Chí Minh nói về
vai trò của giáo dục: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu; dốt thì dại, dại thì hèn... Cho
nên phải chống giặc dốt cũng như chống giặc đói, giặc ngoại xâm, giặc nội xâm.

Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt
đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai
mặt đức, tài thống nhất với nhau, không tách rời nhau, trong đó "đức" là gốc, là nền
tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc
làm... Có như vậy mới có thể "học để làm người".
"Trồng người" là công việc "trăm năm", không thể nóng vội "một sớm một
chiều", không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến
đâu hay đó.
Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc
đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy không
được coi nhẹ, sao nhãng sự nghiệp giáo dục. Theo tinh thần của V.I. Lênin: "Học,
học nữa, học mãi" và của Khổng Tử: "Học không biết chán, dạy không biết mỏi", Hồ
Chí Minh cho rằng: "Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học".
Câu 8:Quan điểm của HCM về vai trò con người? với cương vị công tác của mình anh chị đóng góp như thế nào
trong việc chăm sóc để phát huy nhân tố con người?
. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng
a) Con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
Mục tiêu cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết, trên hết là giải phóng dân
tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền
đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn,
mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn. Bởi vì, Người cho rằng, nếu
nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý
gì; vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm
cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Trong Di chúc, Người viết: "Đầu tiên là
công việc đối với con người".
Khẳng
định con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng thì một
điều quan

trọng là mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính
đáng của con người. Có thể đó là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân tộc và
lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân.
b) Con người là động lực của cách mạng
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn
thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa
to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con người
được thức tỉnh, giác ngộ, giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản
lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng
ngàn năm của dân tộc Việt Nam...
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh
đạo. Vì vậy, vai trò của
Đảng cách mạng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng là vô cùng quan trọng. Qua các phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng sẽ
nhân sức mạnh của con người lên gấp bội.
Trong khi nhận thức sâu sắc, đầy đủ vai trò động lực của con người thì phải thấy
mối quan hệ biện chứng giữa con người - mục tiêu và con người - động lực. Càng chăm
lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ phát huy con người - động lực tốt bấy
nhiêu. Ngược lại, tăng cường
được sức mạnh của con người - động lực thì sẽ nhanh
chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
Cõu 9:Trỡnh bày những hiểu biết của mỡnh về tư tưởng HCM với vấn đề Y đức? là một người công tác trong
ngành y anh chị có hướng rèn luyện phấn đấu như thế nào cho bản thân.
1 Hiểu biết của bản thân về tư tưởng HCM với vấn đề Y đức
- Y đức là phẩm chất tốt đẹp, cao quý của người thầy thuốc được thể hiện qua thái độ, tinh thần trách nhiệm, hết lòng
thương yêu, chăm sóc người bệnh. Lời Bác Hồ dạy: "Lương y như từ mẫu". Y đức không ở đâu xa, đó là thái độ giao
tiếp, cung cách phục vụ, chăm lo cho sức khoẻ của bệnh nhân.



- Cả cuộc đời Hồ Chí Minh luôn phấn đấu cho sự nghiệp cao cả giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi ách áp
bức, bóc lột, nghèo đói, bệnh tật. Vì vậy, ngành y tế - ngành chăm lo sức khoẻ con người là một trong những ngành
được Người quan tâm đến nhiều nhất. Những tư tưởng, quan điểm của Người rất toàn diện, sâu sắc về y học, y tế và đã
trở thành nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt động của ngành y tế suốt từ những ngày đầu cách mạng đến tận mai sau.
Những tư tưởng, quan điểm đó là: Xây dựng nền y học Việt Nam khoa học, dân tộc, đại chúng, vấn đề y đức là vai trò
của y học dự phòng, vấn đề kết hợp đông y với tây y, kết hợp dân - quân y trong sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc sức
khoẻ nhân dân…
- Y đức là vấn đề trung tâm, vấn đề cốt lõi trong quan điểm về y tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Không nghề nào quan
trọng và ảnh hưởng sâu sắc đến sức khoẻ và tính mạng con người như nghề y, không nghề nào mà sai lầm hay thiếu sót
lại ảnh hưởng lớn đến sự sống còn, đến sức khoẻ con người như nghề y. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà Người đã quan tâm sâu sắc đến bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, đến ngành y. Cách
mạng vừa thắng lợi, thù trong, giặc ngoài rình rập, mọi việc còn ngổn ngang trăm mối, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn phát
động phong trào đời sống mới, khởi xướng phong trào "khỏe vì nước". Người chỉ rõ: "Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước
nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công".
- Có thể nói rằng, không một nội dung nào sâu sắc hơn, ngắn gọn hơn, súc tích hơn, đúng đắn hơn, nói lên được sự cao
cả, thiêng liêng của ngành y tế, của người thầy thuốc như lời của Người về y đức. Bao tấm gương đẹp, tận tuỵ, hết
lòng, hết sức phục vụ người bệnh trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, điển hình như Phạm Ngọc
Thạch, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức từng giai đoạn, từng thời kỳ đã được thể chế hoá cụ thể thành những việc rõ ràng
trong công tác phục vụ người bệnh, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
- Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ngành y và xây dựng đội ngũ y, bác sĩ nhân viên y được thể hiện rất rõ trong
bức thư Người gửi Hội nghị cán bộ y tế vào các năm 1953 khi nhân dân ta chuẩn bị kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, và vào năm 1955, khi hoà bình đã lập lại nhân dân miền Bắc bắt đầu bước vào thời kỳ mới, xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Những quan điểm nổi bật của Người về xây dựng ngành y và cán bộ nhân viên y tế là:
+ Thứ nhất: Cần xây dựng đội ngũ cán bộ y tế, bác sĩ, y tá, những người giúp việc có tình thương yêu, săn sóc người
bệnh như anh em ruột thịt của mình, cần phải tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân. Về chuyên môn: Cán bộ y tế cần học
tập, nghiên cứu để luôn luôn tiến bộ, chú trọng những vấn đề thiết thực và thích hợp với hoàn cảnh. Về chính trị, cần
trau dồi tư tưởng và đạo đức cách mạng, có tinh thần yêu nước, yêu dân, yêu nghề, thi đua học tập và công tác.
+ Thứ hai: Cần phải xây dựng một nền y học cách mạng. Những năm nước ta bị thực dân thống trị, thì y học cũng như
các ngành khác đều bị kìm hãm. "Nay chúng ta độc lập, tự do, cán bộ cần giúp đồng bào, giúp chính phủ xây dựng một

nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân ta. Y học ngày càng phải dựa trên nguyên tắc: Khoa học, dân tộc và đại
chúng".
+ Thứ ba: Phòng bệnh cũng cần thiết như trị bệnh. Về cách điều trị bệnh cần kết hợp các phương pháp cổ truyền với
các phương pháp hiện đại của thế giới. "Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng
thuốc ta, thuốc bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc Đông
và thuốc Tây".
+ Thứ tư: Về tổ chức bộ máy ngành Y, cần chỉnh đốn và kiện toàn bộ máy từ trên xuống dưới làm cho nó gọn gàng,
hợp lí, ít tốn của mà làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân. Cần lựa chọn và đào tạo nhiều cán bộ mới trong thanh
niên nam nữ, dạy cho họ làm những công việc chuyên môn cần thiết.
+ Thứ năm: Cán bộ, nhân viên ngành Y phải thật thà đoàn kết: "Đoàn kết giữa cán bộ cũ và mới. Đoàn kết tất cả những
người trong ngành y tế, từ các bộ trưởng, thứ trưởng, bác sỹ, dược sỹ cho đến các anh chị giúp việc". Bởi vì công việc
và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân
dân.
- Chủ tich Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một thời đại mới, một nền văn hoá mới, đạo đức cách mạng mới trong lịch sử
dân tộc. Đạo đức Hồ Chí Minh là sự khoan dung, nhân hậu, là lòng thương người hết mực. Trong tình thương yêu con
người đó, mọi người đều có chỗ. Người không bỏ sót ai, không quên ai, nhất là những người lao khổ, bần cùng, ốm
đau, bệnh tật. Người nói: "Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng, gộp những đau khổ riêng của mỗi
người, mỗi gia đình thì thành nỗi đau khổ của tôi". Chỉ tấm lòng cao cả, thương người lớn lao như vậy mới có thể thấu
hiểu được nỗi đau đớn của người ốm đau, bệnh tật, mới có thể nêu lên y đức của của người thầy thuốc cao cả, thiêng
liêng sâu sắc như vậy.
- Người luôn mong muốn "Lương y phải như từ mẫu", người thầy thuốc săn sóc người bệnh như người mẹ săn sóc con
cái mình. Với tinh thần đó người căn dặn các thế hệ những người thầy thuốc rằng: "Người bệnh phó thác tính mệnh của
họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh tật và giữ gìn sức khỏe cho đồng bào.
Đó là nhiệm vụ rất vẻ vang".
9.2 Rèn luyện bản thân
- Đối với những người thầy thuốc trẻ hôm nay cần phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, có những suy nghĩ
và hành động trong sáng, giữ gìn phầm chất đạo đức tốt đẹp của người thầy thuốc.


- Nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với bệnh nhân, phục vụ bệnh nhân tận tình ân cần chu đáo, lấy việc chăm sóc, bảo

vệ sức khoẻ của bệnh nhân làm niềm vui, niềm hạnh phúc của cá nhân mình, có như thế mới xứng đáng với những lời
dạy của Bác Hồ về y đức, với truyền thống vẻ vang của ngành y, xứng đáng với vẻ đẹp trong sáng của chiếc áo blu mà
hằng những thầy thuốc Việt Nam ngày vẫn khoác lên mình.
- Xây dựng và phát triển mối liên hệ mật thiết với các đồng nghiệp, phấn đấu vì những giá trị trong tập thể chuyên môn.
- Có thái độ khiêm tốn, hoà nhã không phân biệt đối xử vị trí công tác giữa các thành viên, giữa người giỏi hoặc kém
hơn mình…
- Học hỏi những điều hay những đóng góp của đồng nghiệp để hoàn thiện hơn về bản thân.
- Khi uỷ quyền chăm sóc hay điều trị người bệnh, thầy thuốc phải đảm bảo người được uỷ quyền có đủ khả năng theo
dõi quá trình diễn biến sức khoẻ của người bệnh, đồng thời phải cung cấp đầy đủ thông tin về người bệnh cho người
được uỷ quyền.
Câu 10:Trình bày khái niệm văn hóa và các chức năng cơ bản của văn hóa theo quan điểm HCM.
Tháng 8-1943, khi còn trong nhà tù của
Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí Minh nêu ra một định nghĩa về văn hóa:
"Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn"1.
Người còn dự định xây dựng nền văn hóa dân tộc với năm điểm lớn:
"1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền
5. Xây dựng kinh tế".
Khái niệm trên cho thấy: Văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất, bao gồm toàn
bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra; văn hóa là động lực giúp
con người sinh tồn; văn hóa là mục đích cuộc sống loài người; xây dựng văn hóa dân
tộc phải toàn diện, đặt xây dựng "tinh thần độc lập tự cường" lên hàng đầu.

chức năng của văn hóa
Chức năng của văn hóa mới rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn
hóa có ba chức năng chủ yếu sau đây:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp.
Văn hóa thuộc đời sống tinh thần của xã hội. Tư tưởng và tình cảm là vấn đề chủ
yếu nhất của đời sống tinh thần của xã hội và con người. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, văn
hóa phải thấm sâu vào tâm lý quốc dân để thực hiện chức năng hàng đầu là bồi dưỡng
nâng cao tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, đồng thời loại bỏ
những tư tưởng sai lầm, tình cảm thấp hèn. Tư tưởng và tình cảm rất phong phú, nhưng
phải đặc biệt quan tâm tới những tư tưởng và tình cảm chi phối đời sống tinh thần của
mỗi con người và cả dân tộc.
Lý tưởng là điểm hội tụ của tư tưởng lớn. Hồ Chí Minh khẳng định văn hóa phải
làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, tự cường, độc lập, tự do; phải làm cho quốc dân "có
tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng". Đó là lý tưởng độc
lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người. Một khi con người đã phai nhạt lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội thì không còn ý nghĩa gì đối với cuộc sống cách mạng.
Tình cảm lớn, theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương nhân loại
bị đau khổ, áp bức. Đó là tính trung thực, thẳng thắn, thủy chung; đề cao cái chân, cái
thiện, cái mỹ... Tình cảm đó thể hiện trong nhiều mối quan hệ: với gia đình, quê hương,
dân tộc, nhân loại, với bạn bè, đồng chí, quan hệ thầy trò...
Tư tưởng và tình cảm có mối quan hệ gắn bó với nhau. Tình cảm cao đẹp là con
đường dẫn tới tư tưởng đúng đắn; tư tưởng đúng làm cho tình cảm cao đẹp hơn, làm cho
con người ngày càng hoàn thiện. Văn hóa còn góp phần xây đắp niềm tin cho con
người, tin ở bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tin vào nhân


dân, tin vào tiền đồ của cách mạng.
Hai là, nâng cao dân trí.
Văn hóa luôn gắn với dân trí. Không có văn hóa không có dân trí. Văn hóa nâng

cao dân trí theo từng nấc thang, phục vụ mục tiêu cách mạng trước mắt và lâu dài.
Nâng cao dân trí bắt đầu từ việc làm cho người dân biết đọc, biết viết. Tiếp đến là
sự hiểu biết các lĩnh vực khác nhau về chính trị, kinh tế, văn hóa... Từng bước nâng cao
trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, khoa học - kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế
giới... Đó là quá trình bổ sung kiến thức mới, làm cho mọi người không chỉ là chuyển
biến dân trí mà còn nâng cao dân trí,điều mà khi chính trị chưa được giải phóng thì
không thể làm được.
Tùy từng giai đoạn cách mạng mà mục đích của nâng cao dân trí có điểm chung
và riêng, nhưng tất cả đều nhằm mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước có văn hóa cao và đời sống tươi vui
hạnh phúc1. Mục tiêu đó hiện nay Đảng ta chỉ rõ vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh".
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt
đẹp, những phong cách, lối sống lành
mạnh, luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, không ngừng hoàn
thiện bản thân mình.
Những phẩm chất tốt
đẹp làm nên giá trị của con người. Mỗi người phải biến tư
tưởng và tình cảm lớn thành phẩm chất cao đẹp. Đó có thể là phẩm chất chính trị, phẩm
chất đạo đức, phẩm chất chuyên môn, nghiệp vụ.
Có những phẩm chất đạo đức chung cho mọi người Việt Nam trong thời đại mới:
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Lại có những phẩm chất đạo đức dành cho các
lĩnh vực hoạt
động khác nhau của con người: phẩm chất nhà giáo, phẩm chất thầy
thuốc...
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh phẩm chất đạo đức, chính trị của cán bộ, đảng
viên. Bởi vì, nếu không có những phẩm chất đó thì không thể biến lý tưởng thành hiện
thực. Phẩm chất thường được biểu hiện qua phong cách, tức là lối sinh hoạt, làm việc,
hoạt động, xử sự của con người. Phẩm chất và phong cách thường gắn bó với nhau, và
chỉ khi nào con người có phẩm chất tốt đẹp, phong cách lành mạnh thì mới thúc đẩy sự

nghiệp cách mạng đi lên.
Muốn có được những phẩm chất và phong cách đó, tự bản thân con người rèn
luyện chưa đủ, mà hoạt động văn hóa đóng chức năng rất quan trọng. Văn hóa phải
tham gia chống được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, chống sự lạm dụng quyền
lực, tham quyền cố vị dẫn tới sự tha hóa con người. Văn hóa giúp cho con người phân
biệt cái tốt với cái xấu, cái lạc hậu và cái tiến bộ... Từ đó văn hóa hướng con người
vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ.
Câu 11:Trình bày học thuyết Âm dương ngũ hành của triết học Trung Hoa cổ đại
Thuyết Âm - Dương, Ngũ hành
ở Trung Hoa, những quan niệm triết lý về "âm - dương", "ngũ hành" đã được lưu truyền từ rất sớm. Tới thời
Xuân thu - Chiến quốc, những tư tưởng về Âm dương - Ngũ hành đã đạt tới mức là một hệ thống các quan niệm về bản
nguyên và tính biến dịch của thế giới.
a. Tư tưởng triết học về Âm- Dương
Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của vạn vật; đó là sự
tương tác của hai thế lực đối lập nhau là Âm và Dương.
"Âm" là một phạm trù rất rộng, phản ánh khái quát những thuộc tính phổ biến của vạn vật như: nhu, thuận, tối,
ẩm, phía dưới, phía phải, số chẵn (2,4,6...). "Dương" là phạm trù đối lập với "Âm", phản ánh khái quát những tính chất
phổ biến của vạn vật như: cương, cường, sáng, khô, phía trên, phía trái, số lẻ (1,3,5...). Nhưng hai thế lực Âm - Dương
không tồn tại biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau theo ba nguyên lý căn bản.
+ Âm - Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi là nguyên lý của sự thống nhất của hai mặt đối lập
là âm và dương). Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao
hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến đổi Âm - Dương đã bao hàm
trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
Hai nguyên lý này thường được các học giả phái Âm - Dương khái quát bằng vòng tròn khép kín (tượng trưng
cho Thái cực, trong đó được chia thành hai nửa (đen trắng) và trong nửa này đã bao hàm nhân tố của nửa kia (trong
phần đen có nhân tố của phần trắng và ngược lại), biểu hiện cho nguyên lý trong Dương có Âm và trong Âm có Dương.


+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý: Dương tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó và

ngược lại; đồng thời "Âm thịnh thì Dương khởi", "Dương cực thì Âm sinh".
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng, phong phú của vạn vật, phái Âm - Dương đã đưa ra
lôgíc tất định: Thái cực sinh Lưỡng nghi (Âm - Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương - Thiếu Âm - Thiếu
Dương - Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái ( Càn - Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài); Bát quái sinh vạn
vật (vô cùng vô tận).
Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh trong tác phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64
quẻ kép. Mỗi quẻ kép là một động thái, một thời của vạn vật và nhân sinh, xã hội như: Kiền, Khôn, Bĩ, Thái, Truân...;
Sự chú giải Kinh Dịch là của nhiều bậc trí thức ở nhiều thời đại khác nhau với những xu hướng khác nhau. Điều đó tạo
ra một "tập đại thành" của sự chú giải, bao hàm những tư tưởng triết học hết sức phong phú và sâu sắc.
b. Tư tưởng triết học về Ngũ hành
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi
nguyên với những tính chất khác nhau, những tương tác (tương sinh, tương khắc) với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khô, cay, phía Tây, v.v.; Thủy tượng trưng cho tính chất
đen, mặn, phía Bắc, v.v.; Mộc tượng trưng cho tính chất xanh, chua, phía Đông, .v.v.; Hỏa tượng trưng cho tính chất
đỏ, đắng, phía Nam,.v.v.; Thổ tượng trưng cho tính chất vàng, ngọt, ở giữa,.v.v.
Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng sinh - khắc với nhau theo hai nguyên
tắc:
+ Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh
Thổ.v.v.
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim; Kim khắc Mộc và Mộc khắc
Thổ.v.v.
Sự hợp nhất giữa tư tưởng triết học Âm - Dương và Ngũ hành đã làm cho mỗi thuyết có sự bổ túc, hoàn thiện hơn, thể
hiện điển hình ở chỗ: các quẻ đơn (Càn - Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài) đều được quy về Ngũ hành để
biện giải và ngược lại, Ngũ hành cũng mang tính cách Âm - Dương. Chẳng hạn: Kiền - Đoài thuộc hành Kim; chấn Tốn thuộc hành Mộc v.v. và Kim cũng có Kim Âm và Kim Dương; Mộc cũng có Mộc Âm và Mộc Dương.
Câu12: Vai trò của triết học trong đời sống xã hội
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội đợc thể hiện qua chức năng của triết học như chức năng nhận thức, chức
năng đánh giá, chức năng giáo dục, nhưng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận.
4.1. Chức năng thế giới quan và phơng pháp luận của triết học
Trong cuộc sống của con ngời và xã hội loài ngời, thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bằng một hệ thống
quan niệm về thế giới, con ngời tìm cách khám phá những bí mật của giới tự nhiên. Có thể ví thế giới quan nh một thấu
kính, qua đó con ngời nhìn nhận, xét đoán mọi sự vật, hiện tợng của thế giới xung quanh và tự xem xét chính mình. Từ

đó, xác định thái độ, cách thức hoạt động, sinh sống của chính mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân
sinh quan tích cực.
Triết học ra đời với t cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển nh một quá trình tự
giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đem lại. Đó là chức năng thế giới quan của
triết học.
Sự phát triển của thực tiễn và khoa học đã dẫn đến sự ra đời của một lĩnh vực đặc thù của khoa học lý thuyết và triết
học - Đó là phương pháp luận. Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống những quan điểm chỉ đạo
việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Xét theo phạm vi tác dụng, phơng pháp luận có thể chia thành ba cấp độ:
+ Phương pháp luận ngành (hay phơng pháp luận bộ môn) là phơng pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó.
+ Phương pháp luận chung là phơng pháp luận đợc sử dụng cho một số ngành khoa học.
+ Phương pháp luận chung nhất là phơng pháp luận đợc dùng làm điểm xuất phát cho việc xác định các phơng pháp
luận chung, các phương pháp luận ngành và các phương pháp hoạt động khác của con người.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con ngời trong thế giới đó; với việc
nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và t duy, triết học thực hiện chức năng phơng pháp luận
chung nhất. Mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phơng pháp, là một lý
luận về phơng pháp.
4.2. Vai trò của triết học Mác - Lênin
Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ
nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét tự nhiên cũng nh đời sống xã hội và tư duy con ngời.
Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện chứng và phơng pháp biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau.
Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó,
triết học Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy vật không chỉ là
lý luận về phơng pháp mà còn là lý luận về thế giới quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở


thành nhân tố định hớng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát điểm của phơng
pháp luận.
Như vậy, trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và phơng pháp luận thống nhất hữu cơ với nhau, làm cho triết học
Mác trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị, một "công cụ nhận thức vĩ đại".

Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa học; sự phát triển của khoa học tạo điều kiện
cho sự phát triển của triết học. Ngợc lại, triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan và phơng pháp luận đúng đắn cho
sự phát triển khoa học.
Ngày nay, khi khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ thì sự gắn bó giữa triết học Mác - Lênin và khoa học càng trở
nên đặc biệt quan trọng. Lý luận triết học sẽ khô cứng và lạc hậu nếu tách rời các tri thức khoa học chuyên ngành. Ngợc lại, nếu không đứng vững trên lập trờng duy vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì trớc những phát hiện mới,
ngời ta dễ mất phơng hớng và đi đến những kết luận sai lầm về mặt triết học.
Đời sống xã hội hiện đại đang có những biến đổi sâu sắc; việc nắm vững triết học Mác - Lênin giúp chúng ta tự giác
trong quá trình trau dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và năng lực tư duy sáng tạo của mình, tránh những sai lầm do chủ
nghĩa chủ quan và phơng pháp tư duy siêu hình gây ra.
Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin không phải là đơn thuốc vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Bởi
vậy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần tránh cả hai khuynh hớng sai lầm: hoặc xem thờng triết học hoặc là
tuyệt đối hóa vai trò của triết học. Nếu xem thờng triết học sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện
pháp cụ thể nhất thời, dễ mất phơng hớng, thiếu chủ động và sáng tạo. Còn nếu tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa
vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng máy móc những nguyên lý, quy luật chung mà không tính đến tình hình cụ thể trong
những trờng hợp riêng, dẫn đến những vấp váp, dễ thất bại.
Câu 13:Trình bày các vấn đề cơ bản của triết học? cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
trong triết học.
2.1. Vấn đề cơ bản của triết học
Ngay từ thời cổ đại đã nảy sinh vấn đề quan hệ giữa linh hồn con ngời với thế giới bên ngoài. Triết học ra đời cũng giải
quyết vấn đề đó, nhng ở tầm khái quát cao hơn là mối quan hệ giữa tw duy và tồn tại. Theo Ăngghen: "Vấn đề cơ bản
lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa t duy với tồn tại"( C. Mác và Ăngghen:
Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, t.21, tr.403); bởi vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và xuất phát điểm để giải
quyết các vấn đề khác của triết học. Đồng thời sẽ là tiêu chuẩn để xác định lập trờng thế giới quan của các triết gia và
các học thuyết của họ.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trớc, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai: ý thức con ngời có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan hay không? Nghĩa là con ngời có khả
năng nhận thức hay không?
Việc trả lời hai câu hỏi trên đã dẫn đến sự hình thành các trờng phái và các học thuyết triết học khác nhau.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học gắn liền với việc phân chia các học thuyết triết học thành hai
trờng phái triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
a. Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trớc, ý thức có sau; thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập
với ý thức con ngời và không do ai sáng tạo ra; còn ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con người; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.
Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và cho đến nay, lịch sử phát triển của nó luôn gắn liền với sự phát
triển của khoa học và thực tiễn, tồn tại dới nhiều hình thức khác nhau.
+ Chủ nghĩa duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích thế giới. Hạn chế của
nó là còn mang tính trực quan, trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số
chất cụ thể. Ví dụ nh quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit...
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII: Do ảnh hởng của Cơ học cổ điển nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này
chịu sự tác động mạnh mẽ của phơng pháp t duy siêu hình, máy móc - phơng pháp nhìn nhận thế giới trong trạng thái
biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực, nhng CNDV siêu hình vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc
đấu tranh chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Ví dụ nh quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp
thế kỷ XVIII.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó đợc
V.I. Lênin tiếp tục phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trớc đó và vận dụng các thành tựu
của khoa học đơng thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục đợc những hạn chế của chủ
nghĩa duy vật trớc đó, thể hiện là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó không chỉ phản ánh đúng đắn
hiện thực mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lợng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.
b. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần có trớc và quyết định giới tự nhiên. Giới tự nhiên chỉ là một dạng tồn


tại khác của tinh thần, ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại với hai hình thức chủ yếu là:
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của cảm giác, ý thức con ngời, khẳng định mọi sự vật, hiện tợng
chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của chủ thể. Ví dụ quan niệm của Beccơly.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhng đó không phải là ý thức cá nhân mà là
tinh thần khách quan có trớc và tồn tại độc lập với con ngời, quyết định sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và t duy. Nó thờng đợc mang những tên gọi khác nhau nh ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối hay lý tính thế giới.Ví dụ quan
niệm của Platon, Hêghen.
Cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc xã hội của

chủ nghĩa duy vật là các lực lợng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng; nguồn gốc nhận thức của nó là mối liên hệ
với khoa học. Còn nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là các lực lợng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ; nguồn gốc
nhận thức của nó là sự tuyệt đối hóa một mặt của quá trình nhận thức (mặt hình thức), tách nhận thức, ý thức khỏi thế
giới vật chất.
Trong lịch sử triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, tạo nên động lực bên
trong cho sự phát triển của t duy triết học. Đồng thời, nó biểu hiện cuộc đấu tranh về hệ t tởng giữa các giai cấp đối lập
trong xã hội.
c. Bên cạnh các nhà triết học nhất nguyên luận(duy vật hoặc duy tâm) giải thích thế giới từ một nguyên thể hoặc
vật chất hoặc tinh thần, còn có các nhà triết học nhị nguyên luận. Họ xuất phát từ cả hai nguyên thể vật chất và tinh
thần để giải thích mọi hiện tợng của thế giới. Theo họ, thế giới vật chất sinh ra từ nguyên thể vật chất, thế giới tinh thần
sinh ra từ nguyên thể tinh thần. Họ muốn dung hòa giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nhng cuối cùng họ
rơi vào chủ nghĩa duy tâm khi thừa nhận ý thức hình thành và phát triển tự nó, không phụ thuộc vào vật chất.
Câu 14 :Triết học là gì? Sự biến đổi của triết học qua các giai đoạn lịch sử?
1. . Khái niệm “Triết học”, nguồn gốc của triết học
Triết học ra đời gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN) tại một số trung tâm
văn minh cổ đại như Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp.
Theo người Ấn Độ, triết học đọc là darshana, có nghĩa là sự chiêm ngưỡng, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt
con ngời đến với lẽ phải. Còn ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ "triết". Đó không phải là sự
miêu tả, mà là quá trình tranh luận để tìm bản chất của đối tượng.
Ở phương Tây, thuật ngữ "Triết học" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "Philôsôphia”, nghĩa là "yêu mến sự thông
thái". Triết học đợc xem là hình thái cao nhất của tri thức, có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật.
Khái quát lại, triết học là một hình thái ý thức xã hội; là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con ngời về
thế giới; về vị trí, vai trò của con ngời trong thế giới ấy.
Với quan niệm đó, triết học cổ đại không có đối tượng nghiên cứu riêng của mình, mà đợc xem là "khoa học của mọi
khoa học".
Từ thế kỷ XV - XVI đến thế kỷ XVIII, các bộ môn khoa học chuyên ngành, nhất là khoa học thực nghiệm phát
triển mạnh mẽ, dần dần tách ra khỏi triết học, từng bước làm phá sản tham vọng muốn đóng vai trò "khoa học của mọi
khoa học" của một số học thuyết triết học lúc bấy giờ, đặc biệt là triết học Hêghen.
Đầu thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời đã đoạn tuyệt hoàn toàn với quan niệm trên và xác định đối tợng nghiên
cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu

những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Quan niệm macxit cho rằng:"Triết học là một trong những
hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con ngời
đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy".
Khác với các khoa học cụ thể chỉ đi vào nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt của thế giới, triết học xem xét thế
giới nh một chỉnh thể và đem lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng
lý luận. Mặc dù có sự khác nhau giữa các hệ thống triết học, nhưng điểm chung của chúng là đều nghiên cứu những
vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và con người, mối quan hệ của con ngời nói chung, của tư duy nói riêng với thế
giới.
Như vậy, với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, khái quát nhất, triết học không thể ra đời cùng với
sự xuất hiện của xã hội loài nười. Triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau:
Thứ nhất, lao động đã phát triển đến mức có sự phân chia lao động xã hội thành lao động trí óc và lao động
chân tay, tạo điều kiện và khả năng nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết,
thành lý luận và trên cơ sở đó triết học đã ra đời. Đó là khi chế độ Công xã nguyên thuỷ đã bị thay thế bằng chế độ
Chiếm hữu nô lệ - chế độ xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi mới ra
đời, triết học tự nó đã mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp xã hội nhất định.
Thứ hai, con ngời đã có sự phát triển cả về thể lực và trí lực, có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng


khái quát hóa, trừu tượng hóa để có thể rút ra đợc cái chung từ vô số các sự vật và hiện tợng riêng lẻ, xây dựng nên các
học thuyết, lý luận.
Điều đó khẳng định rằng, với t cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học đã ra đời từ thực tiễn và do nhu cầu
của thực tiễn quy định.
Câu 15:Trình bày những đặc điểm của triết học cổ trung đại.
Câu 16:Những đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ trung đại
. Đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
Thứ nhất, triết học Trung Hoa cổ, trung đại luôn nhấn mạnh tinh thần nhân văn, chú trong đến các tư tưởng triết
học liên quan đến con người, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
Thứ hai, triết học Trung Hoa cổ, trung đại chú trọng đến lĩnh vực chính trị -đạo đức của xã hội, coi việc thực
hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người. Có thể nói, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn
đến sự kém phát triển về nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng của Trung Hoa.

Thứ ba, triết học Trung Hoa cổ, trung đại nhấn mạnh sự thống nhất hài hòa giữa tự nhiên và xã hội, phản đối sự
"thái quá" hay"bất cập".
Thứ tư, đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học Trung Hoa cổ, trung đại là nhận thức trực giác,
coi trọng tác dụng của cái "Tâm", coi đó là gốc rễ của nhận thức.
Câu 17 :Nêu khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội? tại sao nói “ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn
tại xã hội”?
1. Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội.
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố, trong đó có các yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất,
điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân cư, trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ
bản nhất.
2. Khái niệm ý thức xã hội
Ý thức xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ các mặt, các bộ phận khác nhau của lĩnh vực tinh thần xã
hội như quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống... của cộng đồng xã hội; mà những bộ phận
này nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Các ý thức cá nhân đều
phản ánh tồn tại xã hội với mức độ khác nhau. Do đó, nó không thể không mang tính xã hội. Song ý thức cá
nhân không phải lúc nào cũng thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của cộng đồng, của một thời
đại xã hội nhất định.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập
vào nhau và làm phong phú nhau.
3. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng vẫn
còn tồn tại dai dẳng; điều đó biểu hiện ý thức xã hội muốn thoát ly khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã hội, biểu
hiện tính độc lập tương đối. Sở dĩ có biểu hiện đó là do những nguyên nhân sau:
Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội không phản
ánh kịp sự thay đổi đó và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói
chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một

số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp và lực lượng phản tiến bộ thường lưu giữ một số tư
tưởng có lợi cho họ nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Như vậy ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên trong sự nghiệp xây dựng
xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và hành động phá
hoại những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ.
Câu18: Tư tưởng triết học của Nho gia về đạo đức chính trị, về thiên mệnh?
- Về đạo đức
Nho giáo sinh ra từ một xã hội chiếm hữu nô lệ trên đường suy tàn, vì vậy, Khổng
Tử đã luyến tiếc và cố sức duy trì chế độ ấy bằng đạo đức.
"Đạo" theo Nho gia là quy luật biến chuyển, tiến hóa của trời đất, muôn vật. Đối
với con người, đạo là con đường đúng đắn phải noi theo để xây dựng quan hệ lành
mạnh, tốt đẹp. Đạo của con người, theo quan điểm của Nho gia là phải phù hợp với tính
của con người, do con người lập nên. Trong Kinh Dịch, sau hai câu "Lập đạo của trời,
nói âm và dương", "Lập đạo của đất, nói nhu và cương" là câu "Lập đạo của người, nói


nhân và nghĩa".
"Nhân nghĩa" theo cách hiểu thông thường thì "nhân là lòng thương người",
"nghĩa" là dạ thủy chung; bất nhân là ác, bất nghĩa là bạc; mọi đức khác của con người
đều từ nhân nghĩa mà ra cũng như muôn vật muôn loài trên trời, dưới đất đều do âm
dương và nhu cương mà ra.
Đức "nhân" xét trong mối liên hệ với đức "nghĩa" thì "nhân" là bản chất của
“nghĩa”, bản chất ấy là thương người.
Đức "nghĩa"xét trong mối liên hệ với "nhân" thì "nghĩa" là hình thức của "nhân".
"Nghĩa" là phần ta phải làm. Đó là mệnh lệnh tối cao. Với Nho gia, "nghĩa" và "lợi" là hai
từ hoàn toàn đối lập. Nhà Nho phải biết phân biệt "nghĩa" và "lợi" và sự phân biệt này là
tối quan trọng trong giáo dục đạo đức.
"Đạo Nhân" có ý nghĩa rất lớn với tính của con người do trời phú. Tính của con
người do trời phú mà cứ buông lơi, thả lỏng trong cuộc sống thì tính không thể tránh

khỏi tình trạng biến chất theo muôn vàn tập tục, tập quán. Trong hoàn cảnh ấy con người
có thể trở thành vô đạo, dẫn đến cả nước vô đạo và thiên hạ vô đạo. Vì vậy, Khổng Tử
khuyên nên coi trọng "giáo" hơn "chính", đặt giáo hóa lên trên chính trị.
"Đức" gắn chặt với đạo. Từ "đức" trong kinh điển Nho gia thường được dùng để
chỉ một cái gì thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người trong tâm hồn ý thức cũng như
hình thức, dáng điệu, v.v.. Có thể diễn đạt một cách khái quát kinh điển Nho gia về mối
quan hệ giữa đạo và đức trong cuộc sống con người: đường đi lối lại đúng đắn phải
theo để xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp là đạo; noi theo đạo một cách nghiêm
chỉnh, đúng đắn trong cuộc sống thì có được đức trong sáng quý báu ở trong tâm.
Trong kinh điển Nho gia, ta thấy năm quan hệ lớn, bao quát gọi là "ngũ luân" đã
được khái quát là: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em (hoặc trưởng ấu), bầu bạn.
Khi nói đến những đức thường xuyên phải trau dồi, căn cứ hai chữ "ngũ thường" trong
Kinh Lễ, nhiều danh nho đã nêu lên năm đức (gọi là ngũ thường): Nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín.
Tóm lại, nội dung cơ bản đạo đức của Nho gia là luân thường. "Luân" có năm điều
chính gọi là "ngũ luân", đều là những quan hệ xã hội, trong đó có ba điều chính là vua
tôi, cha con, chồng vợ gọi là tam cương. Trong ba điều lớn này có hai điều mấu chốt là
quan hệ vua tôi biểu hiện bằng chữ trung, quan hệ cha con biểu hiện bằng chữ hiếu.
Giữa trung và hiếu thì trung là ưu tiên. Chữ trung đứng đầu ngũ luân. "Thường" có năm
điều chính gọi là "ngũ thường", đều là những đức tính do trời phú cho mỗi người: Nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín. Đứng đầu ngũ thường là nhân nghĩa. Trong nhân nghĩa thì nhân là
chủ. Đạo của Khổng Tử trước hết là Đạo nhân. Luân và thường gắn bó với nhau, nhưng
trên lý thuyết và trong thực tiễn luân đứng trước thường.
- Về chính trị
Chủ trương làm cho xã hội có trật tự, Khổng Tử cho rằng trước hết là thực hiện
"chính danh". Chính danh có nghĩa là một vật trong thực tại cần phải cho phù hợp với
cái danh nó mang. Vậy, trong xã hội, mỗi cái danh đều bao hàm một số trách nhiệm và
bổn phận mà những cá nhân mang danh ấy phải có những trách nhiệm và bổn phận phù
hợp với danh ấy. Đó là ý nghĩa thuyết chính danh của Khổng Tử.
Về cách trị nước an dân, Nho gia kiên trì vương đạo và chủ trương lễ trị.

"Lễ" hiểu theo nghĩa rộng là những nghi thức, quy chế, kỷ cương, trật tự, tôn ti của
cuộc sống chung trong cộng đồng xã hội và cả lối cư xử hàng ngày. Với nghĩa này, Lễ
là cơ sở của xã hội có tổ chức bảo đảm cho phân định trên dưới rõ ràng, không bị xáo
trộn, đồng thời nhằm ngăn ngừa những hành vi và tình cảm cá nhân thái quá.
"Lễ" hiểu theo nghĩa một đức trong "ngũ thường" thì là sự thực hành đúng những
giáo huấn kỷ cương, nghi thức do Nho gia đề ra cho những quan hệ "tam cương", "ngũ
luân", "thất giáo" và cho cả sự thờ cúng thần linh. Đã là người thì phải học lễ, biết lễ và
có lễ. Con người học lễ từ tuổi trẻ thơ. Với ý nghĩa này, "Lễ" là nội dung cơ bản của lễ
giáo đạo Nho.
Lễ với những cách hiểu trên là cơ sở, là công cụ chính trị, là vũ khí của một phương
pháp trị nước, trị dân lâu đời của Nho giáo. Phương pháp ấy gọi là "lễ trị". Lễ, có thể đưa
tất cả hoạt động vào nền nếp, có thể ngăn chặn mọi lỗi lầm sắp xảy ra. Vì vậy, những
điều quy định về lễ vốn ra đời rất sớm, nhiều và tỷ mỷ hơn những điều về pháp luật. Với
đối tượng đông đảo là nông dân lao động, lớp trẻ và phụ nữ, Đạo Nho cho họ là đối tượng


dễ “sai khiến” thì những quy định về lễ mà rườm rà, phiền phức, cay nghiệt sẽ làm cho họ
mất đi nhiều về phẩm chất con người.
Về Thiên Mệnh(chưa có)
Câu 19:Trình bày những quan điểm về đạo làm người trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam.
Một trong những vấn đề được các nhà tư tưởng Việt Nam trong lịch sử đặc biệt
quan tâm là "đạo" (có khi gọi là "đạo trời", "đạo người"). Họ phải quan tâm đến "đạo"
bởi nó là cơ sở tư tưởng để hành động chính trị, để đối nhân xử thế. Trong ba đạo truyền
thống: Nho, Phật, Lão - Trang, thì sau thời kỳ Lý - Trần, người ta hướng về đạo Nho
trước hết.
Nho giáo với các nguyên lý chính trị và đạo đức của nó đáp ứng được các yêu cầu
đương thời. Do đó, kẻ sĩ đều chọn con đường của đạo Nho và luôn đề cao đạo làm
người của Nho.
Cũng đều là lựa chọn đạo Nho nhưng ở mỗi người một khác. Các nguyên lý thì có
sẵn trong các tác phẩm kinh điển nhưng họ có sự lựa chọn khác nhau và giải thích

khác nhau. Các nhà yêu nước và nhân đạo chủ nghĩa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Ngô Thì Nhậm... thì thường phát huy những khái niệm nào đó của nhà Nho có
sức diễn đạt được nội dung yêu nước, yêu dân, yêu con người và tin ở năng lực con người.
Các nhà Nho khác thì chỉ chú trọng các khái niệm, các nguyên lý nói lên tính chất tôn ti
trật tự và đẳng cấp khắc nghiệt trong Nho giáo. Do vậy, cũng đều là nhà Nho nhưng
giữa họ có những lập trường triết học và chính trị khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Khi vào đời, các nhà tư tưởng Nho học đều khẳng định đạo Nho, đều lấy đạo Nho
làm lý tưởng sống của mình. Nhưng cuộc sống khiến họ không thể kiên trì một
mình đạo Nho. Bởi lẽ khi bước ra khỏi lĩnh vực chính trị, khi phải giải quyết các vấn đề
sống - chết, may - rủi, phúc - họa, thường - biến, những vấn đề gắn với cuộc sống đời
thường của mỗi người thì đạo Nho không đáp ứng được. ở đây Phật giáo lại có sức hấp
dẫn. Người ta tìm đến đạo Phật, lấy Phật giáo làm chỗ dựa tinh thần. Và khi thất thế trên
đường danh lợi, họ lại tìm đến đạo Lão - Trang để có niềm an ủi và để được tự do, tự tại.
Thế giới quan Nho - Phật - Lão thường là thế giới quan chung của họ. Vì vậy, trong quan
niệm về đạo, ngoài đạo Nho ra, còn bao hàm cả Phật và Lão - Trang.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta "Đạo" được xem như quốc hồn, quốc tuý,
được biến thành biểu tượng của truyền thống yêu nước, thương nòi. Yêu "đạo" được
xem là yêu nước, vì đạo mà chiến đấu, mà hy sinh. Đã có biết bao tấm gương tử vì đạo,
tức là hy sinh để bảo vệ độc lập cho đất nước. Nhưng vì "đạo" đó là thế giới quan cũ, không
giúp hiểu được xu thế của thời đại, không hiểu rõ được kẻ thù của dân tộc, không chỉ ra
được con đường hữu hiệu để cứu nước, vì vậy lúc bấy giờ yêu "đạo" bao nhiêu thì càng
ngậm ngùi bấy nhiêu. Vấn đề đặt ra cho thời kỳ này là phải có một "đạo" khác ngang
tầm với thời đại. Đó là một trong những điều kiện để chủ nghĩa Mác - Lênin du nhập vào
Việt Nam.
Câu 20:Phân tích mối liên hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội?
2.1. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định
Công lao to lớn của Các Mác và Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, vì đã giải
quyết một cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội và xậy dựng quan điểm của
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các ông đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát
triển trên cơ sở của đời sống vật chất, không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong đầu óc của

con người, mà phải tìm trong hiện thực vật chất.
Chẳng hạn, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp
kém, mọi người còn làm chung, hưởng chung nên chưa có tư tưởng tư hữu xuất hiện. Nhưng khi chế độ công
xã nguyên thuỷ tan rã, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời, xã hội phân chia giàu nghèo, bóc lột và bị
bóc lột thì ý thức con người biến đổi căn bản; nảy sinh và phát triển tư tưởng tư hữu, ăn bám, bóc lột, chủ
nghĩa cá nhân, tư tưởng chủ nô ra đời. Khi xã hội chiếm hữu nô lệ suy tàn, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ
được thay thế bằng quan hệ sản xuất phong kiến thì hệ tư tưởng phong kiến chiếm giữ vị trí đặc trưng trong
đời sống tinh thần xã hội, hệ tư tưởng chủ nô dần dần phá bị xoá bỏ. Khi quan hệ sản xuất phong kiến bị
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thay thế thì vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội của hệ tư
tưởng phong kiến bị xoá bỏ, được thay thế bởi hệ tư tưởng tư sản.
Như vậy: “không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ
quyết định ý thức của họ”Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng,
lý luận xã hội, quan điểm chính trị, pháp quyền.v.v. sớm muộn sẽ biến đổi theo. Tồn tại xã hội quyết định ý


thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Cho nên ở những thời
kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó là do
những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
2.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử
không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh tác dụng tích cực của ý thức xã
hội đối với đời sống kinh tế - xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong mối quan hệ
với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối biểu hiện ở những điểm sau đây:
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng vẫn
còn tồn tại dai dẳng; điều đó biểu hiện ý thức xã hội muốn thoát ly khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã hội, biểu
hiện tính độc lập tương đối. Sở dĩ có biểu hiện đó là do những nguyên nhân sau:
Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội không phản
ánh kịp sự thay đổi đó và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói
chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.

Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một
số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp và lực lượng phản tiến bộ thường lưu giữ một số tư
tưởng có lợi cho họ nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Như vậy ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên trong sự nghiệp xây dựng
xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và hành động phá
hoại những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ.
b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết học Mác - Lênin đồng
thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa
học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức,
chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Sở dĩ có thể vượt trước được là do đặc điểm của tư tưởng khoa
học quy định. Tư tưởng khoa học thường khái quát tồn tại xã hội đã có và hiện có để rút ra những quy luật
phát triển chung của xã hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà còn dự báo đúng
tồn tại xã hội mai sau.
Chẳng hạn, ngay từ khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đang ở trong thời kỳ phát triển tự do cạnh
tranh, Các Mác đã dự báo quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ bị quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế.
Khi nói, tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội thì không có nghĩa ý thức xã hội không
còn bị tồn tại xã hội quyết định. Mà là, cho đến cùng nó luôn bị tồn tại xã hội quy định.
c. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển
Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi thời
đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của
các thời đại trước. Thí dụ, chủ nghĩa Mác đã kế thừa những tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực tiếp là
nền triết học Đức, kinh tế học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó. Những
giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước, Các giai cấp tiên tiến
thường kế thừa những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Thí dụ, khi làm cuộc cách mạng tư sản
chống phong kiến, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản
của thời đại cổ đại. Ngược lại, những giai cấp lỗi thời thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, lý thuyết phản
tiến bộ của thời kỳ lịch sử trước. Thí dụ, vào nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các thế lực tư sản phản

động đã khôi phục và phát triển những trào lưu triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới như chủ
nghĩa Cantơ mới, chủ nghĩa Tômát mới, để chống lại phong trào cách mạng của giai cấp công nhân.
Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ thì không những phải vạch ra tính chất
phản khoa học của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện tại, mà còn phải chỉ ra những nguồn
gốc lý luận của chúng trong lịch sử.
Do ý thức xã hội có tính kế thừa, nên khi nghiên cứu một tư tưởng nào đó phải dựa và quan hệ kinh tế
hiện và phải chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Có như vậy mới hiểu rõ vì sao một nước
có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ cao. Thí dụ, nước Đức ở đầu
thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã đứng ở trình độ cao hơn về triết học.
Nắm vững quan điểm kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới của
nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng. Đảng ta đã khẳng định, trong điều kiện mở rộng giao lưu
quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc khác trên


thế giới, làm giàu đẹp hơn nền văn hoá Việt Nam .
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng
Ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác nhau, theo nguyên lý mối liên hệ thì giữa
các bộ phận không tách rời nhau, mà thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động đó làm cho ở mỗi
hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không phải là kết quả phản ánh một cách trực tiếp của tồn tại
xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử
cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu sẽ tác động mạnh đến các hình thái khác. Chẳng
hạn ở thời cổ đại Tây Âu thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt. Thời Trung Cổ ở Tây Âu thì tôn
giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật, pháp quyền... Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa
học đang tác động đến các lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội.
e. Ý thức xã hội tác động trở tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức
xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội đối
với tồn tại xã hội. Ph.Ăng ghen viết: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật v.v đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh

hưởng đến cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể;
vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp
mang ngọn cờ tư tưởng và vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng. Chẳng hạn hệ tư tưởng tư
sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội các nước Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản trở thành vũ
khí về mặt tư tưởng của giai cấp vô sản đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.
Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện qua hai chiều hướng. Nếu ý thức xã hội tiến
bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ cản trở sự phát triển của tồn
tại xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra
bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội, nó bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc, tầm
thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Câu 21: Trình bày ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu của mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội?
ý nghĩa phương pháp luận
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời
sống xã hội. Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến
hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cần thấy rằng, thay đổi
tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội; mặt khác, cũng cần
thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay
đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời
sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi
mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai
trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan
duy ý chí trong việc xây dựng văn hoá, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có
thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải
tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển

được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Câu 22:Trình bày hoàn cảnh ra đời của triết học Hy lạp cổ đại.
Tư tưởng triết học ra đời ở xã hội Hy Lạp cổ đại, xã hội chiếm hữu nô lệ với
những mâu thuẫn gay gắt giữa tầng lớp chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc.
Những cuộc xâm lăng từ bên ngoài đã làm suy yếu nền kinh tế thủ công Hy Lạp.
Do thuận lợi về đường biển nên kinh tế thương nghiệp khá phát triển.
Một số ngành khoa học cụ thể thời kỳ này như toán học, vật lý học, thiên văn,


thuỷ văn, v.v. bắt đầu phát triển. Khoa học hình thành và phát triển đòi hỏi sự khái quát
của triết học. Nhưng tư duy triết học thời kỳ này chưa phát triển cao; tri thức triết học và
tri thức khoa học cụ thể thường hoà vào nhau. Các nhà triết học lại cũng chính là các
nhà khoa học cụ thể. Thời kỳ này cũng diễn ra sự giao lưu giữa Hy Lạp và các nước
ảrập phương Đông nên triết học Hy Lạp cũng chịu sự ảnh hưởng của triết học phương
Đông.
Sự ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại có một số đặc điểm như: gắn
hữu cơ với khoa học tự nhiên, hầu hết các nhà triết học duy vật đều là các nhà khoa học
tự nhiên; sự ra đời rất sớm chủ nghĩa duy vật mộc mạc, thô sơ và phép biện chứng tự
phát; cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm biểu hiện qua cuộc
đấu tranh giữa đường lối triết học của Đêmôcrít và đường lối triết học của Platôn, đại
diện cho hai tầng lớp chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc; về mặt nhận thức, triết học Hy
Lạp cổ đại đã theo khuynh hướng của chủ nghĩa duy giác.
Câu 23:Trình bày nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học của Hêraclit?
Hêraclit (520 - 460 tr. CN)
Hêraclit là nhà biện chứng nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại. Khác với các nhà triết học
phái Milê, Hêraclit cho rằng không phải là nước, apeirôn, không khí, mà chính lửa là
nguồn gốc sinh ra tất thảy mọi sự vật. "Mọi cái biến đổi thành lửa và lửa thành mọi
cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng". Lửa không chỉ là
cơ sở của mọi vật mà còn là khởi nguyên sinh ra chúng. "Cái chết của lửa - là sự ra

đời của không khí, và cái chết của không khí là sự ra đời của nước, từ cái chết của
nước sinh ra không khí, từ cái chết của không khí - lửa, và ngược lại"1. Bản thân vũ
trụ không phải do chúa Trời hay một lực lượng siêu nhiên thần bí nào tạo ra. Nó
"mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn đang không ngừng bùng cháy và tàn
lụi". Ví toàn bộ vũ trụ tựa như ngọn lửa bất diệt, Hêraclit đã tiếp cận được với quan
niệm duy vật nhấn mạnh tính vĩnh viễn và bất diệt của thế giới.
Dưới con mắt của Hêraclit, mọi sự vật trong thế giới của chúng ta đều thay đổi,
vận động, phát triển không ngừng. Luận điểm bất hủ của Hêraclit: "Chúng ta không thể
tắm hai lần trên cùng một dòng sông".
Hêraclit thừa nhận sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập nhưng trong các
mối quan hệ khác nhau. Chẳng hạn, "một con khỉ dù đẹp đến đâu nhưng vẫn là xấu nếu
đem so nó với con người"2. Vũ trụ là một thể thống nhất, nhưng trong lòng nó luôn luôn
diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các sự vật, lực lượng đối lập nhau. Nhờ các cuộc đấu
tranh đó mà mới có hiện tượng sự vật này chết đi, sự vật khác ra đời. Điều đó làm cho
vũ trụ thường xuyên phát triển và trẻ mãi không ngừng. Vì thế đấu tranh là vương quốc
của mọi cái, là quy luật phát triển của vũ trụ. Bản thân cuộc đấu tranh giữa các mặt đối
lập luôn diễn ra trong sự hài hoà nhất định.



×