Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.39 KB, 34 trang )

Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

A – Lời mở đầu
Từ khi Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, theo cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; ở nước
ta xuất hiện nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau như: doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các hợp tác xã nông nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ theo nghị định 66 HĐBT... Pháp
luật cho phép các doanh nghiệp kinh doanh bình đẳng với nhau trên thương
trường và tự do cạnh tranh với nhau. Đã có cạnh tranh tất nhiên sẽ dẫn đến
xu hướng “ mạnh được yếu thua”. Khi một doanh nghiệp không còn đáp
ứng được những đòi hỏi khắt khe, nghiệt ngã của thương trường, doanh
nghiệp đó sẽ bị đào thải.
Trong nền kinh tế thị trường với qui luật cạnh tranh, chọn lọc và đào
thải được ví như một vòng đấu khốc liệt, trong đó các doanh nghiệp – chủ
thể chính của các quan hệ kinh tế chính là các đối thủ không cân sức, kẻ
mạnh thắng thế sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển, còn những kẻ yếu hơn nếu
không muốn bị đào thải và loại ra khỏi cuộc chơi phải chủ động tìm kiếm
phương án cơ cấu, tổ chức lại, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu
quả hoạt động. Tuy vậy không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng thành
công trong việc “tự cứu mình” mà cần phải có sự trợ giúp từ bên ngoài mới
có thể thoát ra khỏi tình trạng bế tắc, và ngay cả những doanh nghiệp vững
mạnh, có tiềm năng đôi khi cũng gặp khó khăn nghiêm trọng trong sản
xuất kinh doanh. Do vậy, phá sản là hiện tượng tự hiệu chỉnh bên trong của
nền kinh tế thị trường.
Trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp đã làm ăn thua lỗ liên tiếp,


chỉ còn “sống thoi thóp”. Thậm chí đã có những doanh nghiệp chấm dứt
hoàn toàn mọi hoạt động, lẽ ra phải được Toà án tuyên bố phá sản những
lại lựa chọn các phương án khác như: sáp nhập, hợp nhất, giải thể doanh
nghiệp.
Luật phá sản doanh nghiệp (31/12/1993), được áp dụng vào thực tiễn
kể từ ngày 1/7/1994, hiện có những bất cập bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân: do Luật còn xa rời thực tiễn, không có tính khả thi, thiếu sự gắn kết,
nhất quán giữa các quy định trong cùng văn bản cũng như với quy định của
các văn bản pháp luật khác có liên quan. Có thể thấy những bất cập của
Luật xuất hiện ở hầu hết các giai đoạn của thủ tục giải quyết tuyên bố phá
sản doanh nghiệp – từ khi yêu cầu mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh
nghiệp đến khi tuyên bố phá sản doanh nghiệp của Toà án.
Vì vậy, em đã chọn đề tài: “Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam”. Với mục đích là tìm
hiểu sâu hơn và nâng cao trình độ nhận thức về pháp luật phá sản nói chung
và cụ thể là thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo
SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

pháp luật Việt Nam hiện hành. Qua đó thấy được thực trạng – những điểm
bất cập và hướng giải quyết những điểm bất cập ấy.
Bài viết hoàn thành đúng thời hạn, được tham khảo bởi một số văn

bản qui phạm pháp luật và các tài liệu khác có liên quan; đăc biệt là được
sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy giáo Phạm Văn Luyện. Vì vậy, do
“yếu tố chủ quan” về nhận thức và kinh nghiệm tự bản thân còn hạn chế
nên bài viết khó tránh khỏi những sai sót. Kính mong được sự chỉ bảo và
giúp đỡ của các thầy!
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2003.
SV: Vũ Thị Vân Huyền.

SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

B – Nội dung
I – Khái quát chung về phá sản và pháp luật phá sản.
1 – Phá sản.
1.1 – Lý luận chung về phá sản.
Phá sản, mặc dù được lý giải rất khác nhau về xuất xứ, song khái
niệm phá sản được sử dụng để chỉ sự đổ vỡ trong hoạt động kinh doanh của
một doanh nghiệp. Phá sản – với tính chất là một hiện tượng có tính qui
luật trong cơ chế kinh tế thị trường, trong một thời gian dài đã được nhiều
Nhà nước khuyến khích vì hiểu theo nghĩa lợi ích chung của nền kinh tế thì
đây là hiện tượng có ích, vì qua đó nó điều chỉnh lại cơ cấu nền kinh tế

quốc dân thông qua việc “nhổ đi những cây cỏ dại trong vườn hoa đẹp”.
Tuy nhiên sang những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, sự vận động của
nền kinh tế phát triển và nền kinh tế thế giới làm cho nhiều quốc gia phải
hoài nghi về lợi ích do phá sản đem lại. Quá trình phân công lao động ngày
càng cao theo chiều rộng và chiều sâu ở mỗi thị trường quốc gia và thị
trường toàn cầu đã làm tính phụ thuộc giữa các doanh nghiệp ngày càng
lớn. Sự xuất hiện các công ty đa quốc gia cùng với quá trình toàn cầu hoá
đã từng bước xoá nhoà đường biên giới về thị trường giữa các quốc gia trên
thế giới và vì vậy làm cho tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp
ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh như vậy,
phá sản không còn là công việc riêng của doanh nghiệp phá sản. Sự cho
phép “rút lui một cách đột ngột” của một doanh nghiệp ra khỏi thương
trường bằng cơ chế phá sản không phải bất cứ trường hợp nào cũng là giải
pháp được Nhà nước lựa chọn sau khi đã cân nhắc đầy đủ và thận trọng các
hệ quả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Để ngăn chặn và kiểm soát một
cách có hiệu quả những hậu quả bất lợi của việc phá sản doanh nghiệp, cơ
chế phá sản hiện đại đã chủ động can thiệp bằng pháp luật từ khi “doanh
nghiệp có những dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản.”
1.2 – Phá sản và xử lí phá sản:
Phá sản thuộc lĩnh vực kinh tế xã hội phức tạp, liên quan đến nhiều
đời sống xã hội. Vấn đề đầu tiên thấy nhưng khó giải quyết ở mọi quốc gia
- đó là vấn đề thất nghiệp của những người lao động trong doanh nghiệp bị
phá sản, gây hậu quả khôn lường cho xã hội. Như vậy phá sản thuộc lĩnh
vực xã hội.
Mỗi khi một doanh nghiệp bị phá sản thì những doanh nghiệp bạn
hàng cũng chịu ảnh hưởng sấu theo kiểu dây truyền và đã gây ảnh hưởng
sấu đến tiến trình sản xuất của xã hội. Xét về mặt này thì phá sản thuộc lĩnh
vực kinh tế.
Phá sản còn liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, pháp luật. Vì mỗi
khi doanh nghiệp bị phá sản thì phải nhờ toà án xét sử các vụ tranh chấp về

SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

công nợ khi giữa chủ nợ và con nợ khônh hoà giải được với nhau. Như xậy
phá sản liên quan đến hình luật.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, mỗi khi bị thiếu vốn các doanh
nghiệp thường phải vay tiền của Ngân hàng hoặc các quỹ tín dụng và phải
có tài sản để thế chấp. Vậy phá sản liên quan đến lĩnh vực Ngân hàng và
luật cầm cố. Nếu vật cầm cố là bất động sản thì phá sản còn liên quan đến
luật đất đai và kinh doanh nhà đất.
ở mọi quốc gia mỗi công dân hay kiều dân muốn đứng ra kinh
doanh một mặt hàng hay dịch vụ nào đấy, thì đều phải xin phép kinh doanh
và phải chịu thuế theo luật định, còn khi bị phá sản thì phải báo cáo với cơ
quan có trách nhiệm để khỏi phải nộp thuế và phải chịu các nghĩa vụ xã
hội khác. Xét về mặt này thì phá sản liên quan đến Luật thương mại và
Luật thuế….
Mỗi khi doanh nghiệp bị phá sản, thì số người thất nghiệp lại tăng
lên. Vì vậy phá sản còn liên quan đến Luật lao động và bảo hiểm bảo đảm
xã hội.
Như vậy phá sản là một hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp, đó là tình
tràng không có khả năng nộp thuế, không còn khả năng thanh toán công nợ
trong một thời hạn quy định. Vậy nên đã có nhiều biện pháp khác nhau để

sử lí các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
Đối với những xí nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài do đâù tư từ trước
năm 1990 không đúng hướng, nhưng cũng không có hướng chuyển đổi
kinh doanh phù hợp với yêu cầu của thị trường thì cho phép bán đấu giá.
Đối với những xí nghiệp có thể chuyển hướng hoạt động nhưng tạm
thời bị thua lỗ thì được hưởng các chính sách ưu đãi và hỗ trợ cần thiết.
Đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, không có khả năng
thanh toán, đã dùng nhiều biện pháp hỗ trợ nhưng không vực dậy được thì
có bốn quyết điịnh để xử lí theo quyết định 315- HĐBT theo trật tự: Sát
nhập, cho thuê, nhượng bán và giải thể.
Căn cứ vào tình hình sản xuất cụ thể, đòi hỏi phải chọn lọc và sắp
xếp lại, phải có những phương án sử lí đa dạng và thích hợp. Tuy vậy viẹc
chon lọc và sắp xếp lại các xí nghiệp vẫn gặp nhiều lúng túng do thiếu
những quy định và hướng dẫn cụ thể. Nhiều doanh nghiệp tư nhân hoặc
liên doanh với nước ngoài cũng gặp những khó khăn về tài chính, mắc nợ
hoặc không thanh toán được các khoản nợ đến hạn và đang đứng bên bờ
phá sản. Vì vậy cần phải có một đạo luật phá sản áp dụng chung cho tất cả
các loại doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
2- Pháp luật về phá sản.
2. 1- Sự cần thiết phải có luật phá sản ở Việt nam
Nhà nước chủ trương thực hiện phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường; đồng thời cho phép các doanh nghiệp
SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp


Website: KiloBooks.Com

của các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động bình đẳng và tự do cạnh
tranh lẫn nhau trên thị trường. Cạnh tranh tất yếu sẽ dẫn đếỡnu hướng “
mạnh được- yếu thua”. Vì vậy hiện tượng phá sản các doanh nghiệp trong
cơ chế thị trườnglà xu hướng tất yếu của quá trình cạnh tranh, đồng thời
cũng là quá trình đào thải tự nhiên các doanh nghiệp yếu kém ra khỏi nền
kinh tế, để hình thành các doanh nghiệp mới hoạt động có hiệu quả hơn.
Trước năm 1993, đối với các doanh nghiệp bị phá sản hoặc đang
đứng bên lề phá sản thì chưa có một văn bản nào của nhà nước quy định về
phá sản và thủ tục phá sản. Vì vậy việc sử lý đối các doanh nghiệp đó gặp
rất nhiều khó khăn. Việc sử lý các doanh nghiệp phá sản phải áp dụng
những quy điịnh có tính chất hành chính trong các văn bản pháp quy hiện
hành về giải thể xí nghiệp thì đỡ dẫn đến tuỳ tiện, xoá nợ để chốn tránh
trách nhiệm, tham ô chia chác,… Song việc áp dụng các quy định đó để xử
lý phá sản doanh nghiệp vừa dẫn đến các lại vừa không phù hợp với thông
lệ quốc tế. Ngoài ra có nhiều doanh nghiệp tư nhân, cá nhân và nhóm kinh
doanh do chưa có luật pháp thích ứng để xử lý các trường hợp vỡ nợ, nên
nhiều trường hợp đã phải tự xử lý theo “luật rừng”, gây nên rối loạn kinh tế
và trật tự xã hội.
Vì vậy việc ban hành kuật phá sản doanh nghiệp là rất cần thiết đối
với tất cả các doanh nghiệp được đăng kí theo pháp luật hiện hành và đang
hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, kể cả doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nó sẽ
góp phần cùng với các biện pháp khác để lập lại trật tự lỷ cương trong
thanh toán nợ, thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, ngăn
ngừa các hiện tượng tiêu cực, tuỳ tiện, làm ăn phi pháp. Tuy nhiên chỉ sau
khi áp dụng các biện pháp cần thiết mà doanh nghiệp vẫn không thoát khỏi
tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn mới tuyên bố phá

sản doanh nghiệp.
2.2- Luật phá sản doanh nghiệp( 31/12/1993)
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, doanh nghiệp
mắc nợ và những người có liên quan, xác định trách nhiệm của doanh
nghiệp mắc nợ khi giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, góp phần thúc
đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quảvà đảm bảo trật tự, kỷ cương xã
hội: Căn cứ vào Điều 84 của Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992:
Luật phá sản doanh nghiệp đã được Quốc hội nước CHXHCNVN khoá IX,
kỳ họp thứ tư thông qua ngày 31/12 1993.
Pháp luật phá sản là một tổng thể thống nhất các quy phạm pháp luật
nhằm hướng đến việc giải quyết đúng đắn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp. Trong đó luật phá sản đống vai trò trung tâm vì nó quy định những
vấn đề có tính nguyên tắc của trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp như: Phạm vi áp dụng của Luật, điều kiện mở thủ tục
phá sản, trình tự và các giai đoạn của quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố
SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

phá sản doang nghiệp, thứ tự yêu tiên thanh toán khi phân chia giá trị tài
sản phá sản….
Pháp luật phá sản luôn là một hệ thống mở và luôn vận động cho phù
hợp với các yêu cầu cho mỗi nền kinh tế trong các giai đoạn phát triển khác

nhau. Tuy nhiên sự hình thành nhanh chóng của các công ty xuyên quốc
gia cùng với tiến trình toàn cầu hoá trong điều kiện hiện nay đang đòi hỏi
các nền kinh tế phải có cách nhìn nhận hiện tượng phá sản thống nhất, sự
hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia để đảm bảo an ninh kinh tế chung trên
cơ sở hạn chế đến mức tối đa những hậu quả bất lợi do phá sản đem lại.
Biết rằng, Luật phá sản áp dụng đối với những đôí tượng nào là phụ
thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước:
Luật phá sản của Anh, Mĩ, úc áp dụng cho tất cả các cá nhân, pháp
nhân bất luận là nhà kinh doanh hay không là nhà kinh doanh nếu không
thanh toán được nợ đến hạn đều có thể tuyên bố phá sản.
Luật phá sản Liên Bang Nga áp dụng chỉ với nhà kinh doanh, gồm
doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh mới có thể bị tuyên bố phá sản.
Riêng ở Việt Nam, Luật phá sản thể hiện rõ đặc trưng về đối tượng
áp dụng của nó qua tên gọi: “Luật phá sản doanh nghiệp”. Như vậy chỉ
doanh nghiệp mới chịu sự chi phối của Luật phá sản. Sở dĩ có qui định như
vậy là khi xây dựng Luật phá sản chúng ta cho rằng nên tập trung sự quan
tâm và các đối tượng là các doanh nghiệp, bởi lẽ đây là chủ thể kinh doanh
chủ yếu trên thương trường, hơn nữa Toà án kinh tế mới được thành lập
nên ngại rằng việc đưa ra tất cả các cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị
định 66 – HĐBT vào đối tượng điều chỉnh của Luật phá sản thì Toà án kinh
tế không thể giải quyết được khối lượng công việc đồ sộ này.
Tuy nhiên, việc đưa Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam đi vào
thực tiễn cuộc sống là vấn đề hoàn toàn mâu thuẫn với quan điểm xây
dựng luật. Số vụ việc yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp so
với thực tế là quá ít. Luật có hiệu lực từ năm 1994, trong 6 năm thực hiện,
tính đến năm 2000, trên toàn quốc, các Toà án mới chỉ giải quyết chưa đầy
100 vụ yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Trong đó số vụ ra quyết
định bởi Toà án lại càng ít. Sở dĩ có tình trạng đó là do rất nhiều nguyên
nhân, mà không thể nói đến nguyên nhân từ Luật.
Tuy vậy, với tính cách là một bộ phận pháp luật trong pháp luật về

“môi trường kinh doanh”, pháp luật phá sản có vị trí đặc biệt quan trọng
không chỉ với các chủ thể kinh doanh mà còn đối với toàn bộ trật tự kinh tế
xã hội nói chung. Vai trò đó được thể hiện ở những mặt sau:
- Pháp luật phá sản trước hết là công cụ bảo vệ quyên và lợi ích hợp
pháp của chính doanh nghiệp mắc nợ.
- Pháp luật phá sản là công cụ bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của các chủ nợ.

SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

- Pháp luật về phá sản góp phần bảo vệ quyền và lợi ích người lao
động.
- Pháp luật phá sản góp phần bảo vệ trật tự kỉ cương của xã hội.
Như vậy Luật phá sản doanh nghiệp (21/12/1998) ra đời và được áp
dụng vào thực tiễn, bên cạnh những vai trò to lớn vẫn còn những điểm bất
cập gây khó khăn đối với các cơ quan Nhà nước khi xét xử.
2.3 – Một số văn bản qui phạm pháp luật có liên quan đến phá sản
doanh nghiệp.
- Nghị định số 189/CP ngày 23/12/1994 của chính phủ hướng dẫn
thi hành Luật phá sản DN.
- Nghị định số 92/CP ngày 19/12/1995 của chính phủ về giải quyết

quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
- Nghị định số 50/CP ngày 28/8/1996 của chính phủ về sửa đổi và bổ
xung một số điều của NĐ50 – 28/8/1996…
- Thông tư số 25 – TC/TCDN ngày 15/5/1997 của Bộ Tài Chính
hướng dẫn trình tự, thủ tục, nguyên tắc xử lý tài chính…
II – Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp
theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
** Việc giải quyết tuyên bố phá sản dựa trên bốn nguyên tắc cơ bản:
Thứ nhất: Ưu tiên việc hoà giải tự nguyện. Sau khi có đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp Nhà nước ưu tiên cho việc hoà giải tự
nguyện giữa chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ, nhận bảo lãnh và mua lại các
khoản nợ của doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản được ưu tiên
giải quyết đến trước ngày Toà án có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Thứ hai: Chỉ có T.A.N.D cấp tỉnh trở lên mới có thẩm quyền tuyên
bố phá sản doanh nghiệp. Thẩm quyền sử lý yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp theo Luật phá sản doanh nghiệp qui định: Chỉ T.A.N.D cấp
tỉnh, T.A.N.D.T.C là cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp.
Thứ ba: Nguyên tắc thi hành: phòng thi hành án thuộc sở Tư pháp,
Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc bộ tư pháp là cơ quan có thẩm quyền
thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Thứ tư: Nguyên tắc kiểm soát và giám sát việc xử lý yêu câu phá
sản. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trở nên mới có chức năng kiểm soát
và giám sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết việc phá sản
doanh nghiệp theo qui định của pháp luật.
** Thủ tục làm đơn, nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
Thứ nhất: Thủ tục làm đơn của chủ nợ: Sau 30 ngày kể từ khi gửi
giấy đòi nợ cùng hạn mà không được doanh nghiệp thanh toán, hoặc doanh


SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

nghiệp không trả lương cho người lao động 3 tháng liên tiếp thì các chủ nợ
có quyền viết đơn nộp lên toà án nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
Thứ hai: Thủ tục làm đơn của chủ doanh nghiệp. Trong trường hợp
đã thực hiện các biện pháp khắc phục khó khăn về tài chính và để thanh
toán các khoản nợ đến hạn, kể cả hoãn nợ mà doanh nghiệp không thoát
khỏi tình trạng mất khả năng trả nợ đến hạn thì chủ doanh nghiệp hoặc
người đại diện hợp pháp của họ làm đơn đến Toà án nơi có trụ sở chính của
doanh nghiệp xin tuyên bố phá sản.
Thứ ba: Trách nhiệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản của
Toà án. Trong quá trình giải quyết các vụ án có liên quan đến doanh
nghiệp, nếu phát hiện doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì Toà án
báo cho các chủ nợ hoặc doanh nghiệp đó biết để nộp đơn yêu cầu giải
quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Như vậy, Toà án chưa có quyền giải
quyết khi chưa có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Thứ tư: Trách nhiệm thông báo việc thụ lý đơn và yêu cầu cung cấp
tài liệu, chứng cứ. Toà án thụ lý đơn phải ghi vào sổ và cấp cho người nộp
đơn giấy báo đã nhận được đơn và các giấy tờ gửi kèm. Trong thời hạn 7
ngày, kể từ ngày nhận đơn Toà án thông báo bằng văn bản cho doanh

nghiệp mắc nợ biết, có bản sao đơn và các tài liệu liên quan kèm theo.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ khi nhận được thông báo của Toà án, doanh
nghiệp đó phải gửi báo cáo về khả năng thanh toán nợ. Trong trường hợp
thừa nhận mình đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì gửi các tài liệu
như yêu cầu đối với việc doanh nghiệp tự làm đơn xin tuyên bố phá sản.
Thư năm : Thẩm quyền từ chối mở thủ tục giải quyết đơn. Trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đơn. Chánh toà kinh tế cấp tỉnh xem xét đơn
và các tài liệu liên quan, nếu xét thấy không đủ căn cứ thì ra quyết định
không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Quyết
định này phải nêu rõ lý do, gửi cho người làm đơn và các doanh nghiệp
mắc nợ biết. Trong thời hạn 15 ngày, sau khi nhận được quyết định từ chối
giải quyết của Chánh toà kinh tế cấp tỉnh thì các bên có quyền khiếu nại lên
Chánh án TAND cấp tỉnh về quyết định này. Trong vòng 7 ngày, kể từ khi
nhận được đơn khiếu nại, chánh án TAND cấp tỉnh phải ra một trong các
quyết định sau:
- Giữ nguyên quyết định của Chánh toà kinh tế.
- Huỷ quyết định của Chánh toà kinh tế và yêu cầu xem xét lại.
Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày chánh án TAND cấp tỉnh ra quyết
định trên thì Chánh Toà án kinh tế phải ra quyết định mới và gửi cho chánh
án cũng như các đương sự. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được
quyết định khác của Chánh Toà kinh tế nếu các bên còn khiếu nại thì
Chánh án TAND cấp tỉnh xem xét. Trong thời hạn 7 ngày phải ra quyết
đinh khác, quyết định lần này có hiệu lực thi hành.

SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN


Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

Như vậy, việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp
phải dựa trên một số nguyên tắc và tuân theo những thủ tục nhất định.
Qua việc khảo sát pháp luật phá sản của một số nước có nền kinh tế
thị trường phát triển trên thế giới có thể đi đến kết luận: thủ tục phá sản
trong pháp luật các quốc gia đó rất thống nhất với nhau mặc dù còn rất
khác nhau về mặt nội dung điều chỉnh pháp luật. Sở dĩ như vậy là pháp luật
của
Các nước đó có những quan niệm tương đồng về những nhóm lợi ích
cần được bảo vệ và phương pháp bảo vệ một cách có hiệu quả những lợi
ích đó bao gồm các giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thụ tục yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn điều tra, đánh giá khả năng thanh toán
nợ của doanh nghiệp.
Giai đoạn thứ ba: - Nếu doanh nghiệp có khả năng phục hồi, toà án
sẽ mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp thông việc tổ chức hội nghị chủ nợ.
Nếu hội nghị chủ nợ tổ chức không thành thì toà án sẽ mở thủ tục tiếp theo.
- Nếu doanh nghiệp không có khả năng phục hồi, Toà án sẽ mở thủ
tục phá sản nhằm thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
Khác với thủ tục phá sản của các nước kể trên, pháp luật phá sản
Việt Nam được thiết kế theo một thủ tục duy nhất áp dụng chung cho tất cả
các doanh nghiệp mắc nợ. Theo đó, việc phục hồi doanh nghiệp thông qua
thiết chế Hội nghị chủ nợ là một thủ tục có tính chất bắt buộc trong trình tự
phá sản của một doanh nghiệp. Và như vậy, thủ tục phá sản doanh nghiệp ở
Việt Nam trải qua các bước:

Bước 1: Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp.
Bước 2: Điều tra, đánh giá khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp.
Bước 3: Phục hồi doanh nghiệp thông qua thiết chế Hội nghị chủ nợ.
Bước 4: Tuyên bố phá sản và thanh lý tài sản doanh nghiệp.

SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

Sơ đồ khái quát trình tự thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp theo
LDN:


Nộp đơn

Chủ nợ (ko có bảo đảm,có bảo
đảm một phần, đại diện Công
đoàn), chủ DN, đại diện hợp
pháp DN

(≤ 30 ngày)

Toà Kinh tế TAND tỉnh thụ lý
(nếu HS hợp lệ và nộp đủ lệ
phí theo qui định)

Thời hạn 30 ngày

Không

Có dấu hiệu phá sản

Quyết định ko mở yêu cầu tuyên
bố phá sản DN



(≤ 30 ngày)

≤ 15 ngày
≤ 7 ng


Quyết định mở yêu cầu tuyên
bố phá sản DN

≤ 7 ng

Khiếu nại

Quyết định ko mở yêu cầu tyuên bố phá
sản DN

- Chỉ định thẩm phán
- Thành lập tổ quản lý tài sản
- Ân định thời điểm ngừng thanh toán
- Đăng báo (3 số báo liên tiếp T.Ư, ĐP)
- Khoá DS chủ nợ (60 ngày kể từ ngày đăng báo đầu tiên)

Hội nghị chủ nợ hợp lệ lần
1 (≤ 1/2 số chủ nợ đại
diện, ≤ 1/3 tổng số nợ ko
có bảo đảm)

Không
(≤ 30 ng)

Đăng báo T.Ư, ĐP 3 số
báo liên tiếp

Hội nghị chủ nợ hợp lệ lần 2
(chủ nợ đại diện ≤ 2/3 tổng
số nợ ko có bảo đảm)


Không

Đình chỉ giải
quyết



Hoà giải và đưa ra giải pháp tổ chức lại DN

Hoà giải thành và đưa ra giải
pháp tổ chức lại DN

Không quá 2 năm

Hết hạn hoà giải, vượt quá tình
trạng phá sản và ko có khiếu nại của
chủ nợ


Không

Đ
Ă
N
G
B
A
O


Quyết định tuyên bố phá sản DN

≤ 30 ngày

Kháng nghị, khiếu nại quyết
định tuyên bố phá sản DN

không

Thi hành quyết định tuyên bố phá
sản DN

(≤ 10
ngày)


≤ 60 ngày

Ra quyết định phúc thẩm
(Toà Kinh tế T.A.N.D.T.C)

SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp


Website: KiloBooks.Com

1 – Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
Việc nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp là quyền của
các chủ nợ. Riêng đối với doanh nghiệp mắc nợ thì đó vừa là quyền lợi vừa
là nghĩa vụ.
1.1 Chủ nợ:
ở nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, việc phân loại
chủ nợ chỉ được tiến hành khi mở thủ tục phá sản, dựa trên cơ sở có hay
không có tài sản bảo đảm tại thời điểm mở thủ tục phá sản.
Chủ nợ không có bảo đảm là những chủ nợ trong quan giao dịch với
doanh nghiệp mắc nợ không có sự bảo đảm hoàn trả nợ bằng tài sản của
doanh nghiệp mắc nợ.
Chủ nợ có bảo đảm một phần là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm
bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ mà giá trị tài sản đảm bảo ít hơn
khoản nợ đó.
Chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài
sản của doanh nghiệp mắc nợ như: đã thế chấp cầm cố, bảo lãnh bằng tài
sản khi vay mượn, mua, sang nhượng tài sản khác.
Vậy trong số những chủ nợ này thì những ai có quyền nộp đơn yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo qui định pháp luật. Theo Điều 7
Luật phá sản doanh nghiệp (30/12/1993) thì chỉ có chủ nợ không có bảo
đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần mới có quyền nộp đơn lên Toà án nơi
đặt trụ sở chính của doanh nghiệp để yêu cầu Toà án giải quyết việc tuyên
bố phá sản doanh nghiệp. Nếu sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày gửi giấy
đòi nợ đến hạn mà không được doanh nghiệp thanh toán nợ.
Khi nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, chủ nợ phải gửi
kèm theo bản sao giấy đòi nợ, các giấy tờ, các tài liệu chứng minh doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Và các chủ nợ còn phải nộp

tiền tạm ứng lệ phí trong trường hợp này theo qui định của pháp luật.
Tuy vậy trên thực tế việc xác định và tiến hành phân loại chủ nợ
không phải là một công việc dễ dàng đối với toà án trong quá trình giải
quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Mặt khác thì việc xác định chủ nợ có
bảo đảm một phần dựa trên giá trị tài sản được dùng để bảo đảm nghĩa vụ
tại thời điểm xác lập giao dịch, mà như hiện nay là không phù hợp vì trước
sự vận động và phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường thì nó đã
gây ra các thiệt hại cho các chủ nợ. Vì vậy, có lẽ đó chỉ là giải pháp có tính
chất quá độ ở nước ta khi các thị trường hình thành chưa đồng bộ và đặc
biệt là thị trường về các yếu tố sản xuất.

SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

Người lao động cũng có quyền đệ đơn yêu cầu giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp với tính cách là chủ nợ không có bảo đảm.
Điều 8 Luật phá sản doanh nghiệp (30/12/1993) qui định: Trong trường
hợp doanh nghiệp không trả được lương cho người lao động 3 tháng liên
tiếp thì đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ
chức công đoàn có quyền nộp đơn đến Toà án nơi doanh nghiệp đặt trụ sở
chính yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Sau khi nộp
đơn, đại diện công đoàn được coi là chủ nợ (chủ nợ không có bảo đảm) –

khác với chủ nợ khác, người lao động không phải nộp tiền tạm ứng lệ phí.
1.2 – Doanh nghiệp mắc nợ:
Theo Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp (31/12/1993): Doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bi thua lỗ
trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần
thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Con nợ được hiểu là người chủ doanh nghiệp không có khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn. Trong Luật phá sản doanh nghiệp
(31/12/1993) của nước ta coi con nợ chính là “Doanh nghiệp mắc nợ” – họ
có thể tiếp tục tham gia tố tụng hoặc có thể uỷ quyền cho người khác mà
pháp luật gọi là “Đại diện hợp pháp của doanh nghiệp” – là người được chủ
sở hữu doanh nghiệp uỷ quyền theo qui định của pháp luật < Khoản 4 Điều
3 Luật phá sản doanh nghiệp (31/12/1993) >.
Theo khoản 1 Điều 9 Luật phá sản doanh nghiệp (31/12/1993):
Trong trường hợp đã thực hiện các biện pháp khắc phục khó khăn về tài
chính để thanh toán các khoản nợ đến hạn, kể cả hoãn nợ mà doanh nghiệp
vẫn không thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến
hạn, thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải
nộp đơn đến Toà án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu cầu việc
tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Đơn phải ghi rõ: Tên và địa chỉ trụ sở
chính của doanh nghiệp, họ và tên của chủ doanh nghiệp hoặc người đại
diện hợp pháp của doanh nghiệp; các biện pháp mà doanh nghiệp đã thực
hiện nhưng không thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn; kèm theo đơn phải có danh sách các chủ nợ và số nợ phải trả cho các
chủ nợ, địa chỉ của các chủ nợ, bản tường trình về trách nhiệm của giám
đốc, các thành viên của Hội đồng quản trị của doanh nghiệp đối với tình
trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, báo cáo tình hình kinh doanh 6
tháng trước khi không trả được nợ đến hạn, báo cáo tổng kết 2 năm cuối
cùng, nếu doanh nghiệp hoạt động chưa đến 2 năm thì gửi báo cáo tổng kết
tài chính của cả thời gian hoạt động và các hồ sơ kế toán liên quan ( Theo

Khoản 2 Điều 9 LPSDN 31/12/1993). Thêm vào đó thì các doanh nghiệp
còn phải nộp tiền tạm ứng lệ phí theo qui định của pháp luật.

SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

Tuy nhiên, trên thực tế, các doanh nghiệp khi đã lâm vào tình trạng
phá snả thì hầu hết không đủ điều khiện để thực hiện đúng trình tự theo quy
định của Luật phá sản doanh nghiệp (31/12/1993).
Hơn nữa, khi hướng dẫn các toà kinh tế thuộc Toà án nhân dân cấp
tỉnh, Toà án nhân dân tối cao yêu cầu: mọi trường hợp khi có đơn tới Toà
án để yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp thì đều phải có xác
nhận của cơ quan kiểm toán đối với báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Khi chưa có xác nhận của cơ quan kiểm toán thì Toà án không mở thủ tục
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Song tài liệu để phục vụ
kiểm toán rất nan giải vì không ít các doanh nghiệp không có hoặc không
còn sổ sách kế toán, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân. Thêm nữa là chi
phí kiểm toán rất cao và các doanh nghiệp khi đang lâm vào tình trạng phá
sản không có khả năng nộp khoản lệ phí này nên dẫn đến tình trạng không
có tài liệu kiểm toán. Do vậy trên thực tế, số doanh nghiệp trong tình trạng
phá sản rất nhiều nhưng số vụ Toà án thụ lý lại rất ít. Bên cạnh đó thì các
Toà án không đủ kinh phí để chi phí cho việc giải quyết yêu cầu tuyên bố

phá sản doanh nghiệp, thậm chí cả chi phí đăng báo, chi phí phục vụ kiểm
toán…
1.3 – Toà án thụ lý và giải quyết:
Theo qui định của luật phá sản doanh nghiệp (31/12/1993): Toà án
kinh tế thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh là cơ quan thụ lý và giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Toà án thụ lý đơn phải vào sổ và cấp cho người nộp đơn giấy báo đã
nhận được đơn và các giấy tờ kèm theo đơn. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ
ngày thụ lý đơn, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp
mắc nợ biết, có bản sao đơn và các tài liệu liên quan kèm theo 12 LPSDN 31/12/1993>.
2 - Điều tra, đánh giá khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp:
Mục đích của việc điều tra, đánh giá khả năng thanh toán nợ của
doanh nghiệp là để ra quyết định mở hay không mở thủ tục giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp, chánh toà kinh tế toà án nhân dân cấp tỉnh phải xem xét
đơn và các tài liệu có liên quan để ra một trong hai quyết định:
Một là: quyết định không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản nếu xét thấy không đủ căn cứ. Quyết định này phải thực hiện thành văn
bản, ghi rõ lý do và được gửi cho người làm đơn cũng như doanh nghiệp
mắc nợ.
Hai là: Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
nếu xét thấy đã đầy đủ căn cứ. Theo Điều 15 LPSDN, quyết định này phải
đảm boả nội dung sau đây:
SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42



Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

Thứ nhất là: Nêu rõ lý do mở thủ tục yêu cầu giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Thứ hai là: ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ của doanh
nghiệp.
Thứ ba là: Họ và tên của thẩm phán phụ trách việc yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp và các nhân viên của tổ quản lý tài sản chỉ định.
Mọi khiếu nại của đương sự đối với quyết định mở hay không mở
thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản sẽ được Chánh án Toà án nhân dân cấp
tỉnh giải quyết theo trình tự giải quyết khiếu nại (theo quy định trong Điều
15 LPSDN 31/12/1993).
2.1 – Nhiệm vụ của thẩm phán và tổ quản lý tài sản:
Việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp được tiến
hành thông qua hoạt động của thẩm phán và tổ quản lý tài sản. Tuỳ thuộc
tính chất và qui mô của vụ phá sản, Chánh toà án kinh tế Toà án nhân dân
cấp tỉnh chỉ định một thẩm phán hay tập thể gồm 3 thẩm phán để giải
quyết. Trường hợp chỉ định 3 thẩm phán thì một thẩm phán được giao
nhiệm vụ phụ trách. Theo qui định tại Điều 16 LPSDN, thẩm phán có
quyền và nhiệm vụ:
* Thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan để lập hồ sơ giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
* Giám sát, kiểm tra hoạt động của các nhân viên trong tổ quản lý tài
sản.
* Ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
trường hợp cần thiết theo qui định của pháp luật để đảm bảo tài sản của

doanh nghiệp mắc nợ.
* Triệu tập và chủ trì hội nghị chủ nợ.
* Ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
* Tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
* Nếu phát hiện có dấu hiệu phạm tội thì cung cấp tài liệu cho viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp xem xét để khởi tố hình sự.
Về nội dung, quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp bào gồm các việc chỉ định tổ quản lý tài sản. Vì vậy,
trước khi ra quyết định, Chánh toà kinh tế phải có công văn yêu cầu các cơ
quan liên quan cử người tham gia tổ quản lý tài sản. Thành phần tổ quản lý
tài sản gồm: Một cán bộ toà án kinh tế thuộc TAND cấp tỉnh làm tổ trưởng
( do Chánh toà kinh tế chỉ định). Một chấp hành viên phòng thi hành án (do
trưởng phòng thi hành án chỉ định); Chủ nợ có số tiền nhiều nhất (trường
hợp có nhiều chủ nợ có số nợ ngang nhau thì chọn trong só đó, cho đến khi
Hội nghị chủ nợ chính thức cử người đại diện); Một đại diện cho doanh
nghiệp mắc nợ; Một đại diện của công đoàn doanh nghiệp; Một đại diện

SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

của sở tài chính (do Giám đốc sở tài chính cử) và Một đại diện ngân hàng

nhà nước cấp tỉnh.
Ngoài ra, nếu xét thấy cần thiết Chánh án Toà kinh tế cấp tỉnh có thể
mời thêm các chuyên gia khác nhau tham gia vào tổ quản lý tài sản (kiểm
toán, giám định, bán đấu giá tài sản…).
Nhiệm vụ của tổ quản lý tài sản là giám sát, kiểm tra hoạt động của
doanh nghiệp từ khi có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp đến khi có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp
của Toà án. Bên cạnh đó, tổ trưởng tổ quản lý tài sản có quyền yêu cầu
thẩm phán ra quyết định buộc doanh nghiệp thực hiện hoặc không thực
hiện một số hành vi cụ thể nhằm bảo toàn tài sản.
Tuy nhiên, thực tế áp dụng LPSDN trong những năm qua đã chứng
tỏ rằng đây là một thiết chế kém hiệu quả, chậm trễ và tốn kém. Trong con
mắt các nhà luật gia về phá sản ở những nước có nền kinh tế thị trường
phát triển thì đây là một thíêt chế “không chuyên nghiệp” và bị ảnh hưởng
quả nhiều bởi tệ quan liêu và hành chính do cơ chế phối hợp giữa các thành
viên trong tổ là không rõ ràng. Song thiết chế này vẫn còn rất cần thiết đối
với Việt Nam khi mà hoạt động của các quản trị viên chuyên nghiệp trong
lĩnh vực phá sản chưa chuyên nghiệp để trở thành một nghề được xã hội
công nhận.
2.2 – ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ:
Việc ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ trong thủ tục phá sản
doanh nghiệp là việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì sau thời điểm
ngừng thanh toán nợ, các khoản nợ cũng như toàn bộ tài sản doanh nghiệp
phá sản sẽ được cố định và trên cơ sở đó, Toà án sẽ xác định chính xác số
nợ và tài sản còn lại của doanh nghiệp mắc nợ. Kể từ thời điểm ngừng
thanh toán nợ, doanh nghiệp không phải trả lãi các khoản nợ, các khoản nợ
chưa đến hạn, được coi là đến hạn (không tính lãi đối với thời gian chưa
đến hạn).
Theo điểm 5 mục III công văn số 457/ KHXX của TANDTC, thời
điểm ngừng thanh toán nợ là thời điểm doanh nghiệp nhận được quyết định

của Toà án về việc mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Kể
từ thời điểm ngừng thanh toán nợ, nghiêm cấm doanh nghiệp thực hiện các
hành vi: làm giảm giá trị tài sản còn lại; thanh toán nợ không có bảo đảm;
cất giấu, tẩu tán tài sản; từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; tạo ra nguồn
bảo đảm cho các khoản nợ trước đây không có bảo đảm. Tuy vậy, để bảo
toàn tài sản của doanh nghiệp mắc nợ một cách hiệu quả, thẩm phán phụ
trách việc giải quyết phá sản trên cơ sở sự đề nghị của tổ quản lý tài sản có
thể áp dụng một số các biện pháp khẩn cấp, tạm thời phù hợp.
2.3 - Đình chỉ các vụ án kinh tế có liên quan.
Theo điểm g khoản 1 Điều 39 pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế, Toà án sẽ đình chỉ việc giải quyết các vụ án kinh tế sau khi đã có
SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

quyết định của Toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp mà doanh nghiệp đó là đương sự của vụ án. Vì vậy đã loại bỏ
được việc khởi kiện riêng lẻ để thu hồi nợ của các chủ nợ và đảm bảo được
những mục tiêu của pháp luật phá sản doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trên thực tế nảy sinh một vấn đề là nếu giữa chủ nợ và
doanh nghiệp mắc nợ có tranh chấp về số nợ thì giải quyết như thế nào khi
Toà án đã mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ?
Hơn nữa, với qui định như trên thì việc giải quyết nhằm xác định số nợ

giữa doanh nghiệp mắc nợ và chủ nợ sẽ không thể tiến hành bằng một vụ
án với đầy đủ tất cả các thủ tục tố tụng theo đúng qui định của pháp luật.
Phù hợp với thông lệ quốc tế, pháp luật phá sản Việt Nam giải quyết tranh
chấp giữa chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ theo thủ tục khiếu nại danh sách
chủ nợ và được thảm phán phụ trách giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
trực tiệp giải quyết (Điều 22 _ LPSDN _ 31.12.1993). Trong trường hợp
này, chủ nợ có khoản nợ bị tranh chấp phải gánh chịu sự rủi ro do vụ việc
không được xét xử theo trình tự giải quyết một vụ án thông thường và
quyền lợi cá nhân của chủ nợ sẽ phải nhường chỗ cho mục đích chung của
pháp luật PSDN.
3 – Phục hồi doanh nghiệp thông qua thiết chế Hội nghị chủ nợ.
Ngay sau khi ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp, thẩm phán phải yêu cầu chủ doanh nghiệp hoặc đại
diện hợp pháp của danh nghiệp xây dựng phương án hoà giải và các giải
pháp tổ chức kinh doanh. Theo Điều 13 của Nghị định 189/CP, nội dung
của phương án bao gồm những nội dung:
* Kiến nghị về hoãn nợ, xoá nợ, giảm nợ, mua nợ, bảo lãnh nợ và
các biện pháp khắc phục tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của
doanh nghiệp, cam kết của doanh nghiệp mắc nợ về thời hạn, mức và
phương thức thanh toán nợ đến hạn.
* Các biện pháp tổ chức lại các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp bao gồm các biện pháp tài chính, tổ chức bộ máy, sắp xếp lại lao
động, cải tiến quản lý, hoàn thiện, đổi mới công nghệ và các biện pháp cần
thiết khác nhằm khăc phục tình trạng mất khả năng thanh toán nợ của
doanh nghiệp. Từng biện pháp phải có thời hạn, kế hoạch thực hiện cụ thể.
*Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, phương án
phải được gửi cho Toà án. Trên cơ sở đó, thẩm phán triệu tập và chủ trì Hội
nghị chủ nợ nghe chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh
nghiệp trình bày phương án và trả lời chất vấn của các chủ nợ. Ngoài
những cá nhân, tổ chức có tên trong danh sách chủ nợ, đại diện công đoàn

hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn và người bảo
lãnh, sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp mắc nợ cũng là thành viên
của hội nghị chủ nợ. Tuy nhiên, cần nhận thấy là, đại diện của công đoàn
SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

chỉ có quyền biểu quyết với tính cách là chủ nợ lương. Hội nghị chủ nợ chỉ
hợp lệ khi có sự tham gia của quá nửa số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3
tổng số nợ không có bảo đảm tham gia. Trong trường hợp đó, hội nghị chủ
nợ có thể hoãn một lần và phải được triệu tập trong thời hạn 30 ngày sau.
Nếu triệu tập lần 2 mà Hội nghị chủ nợ vẫn không thành do không đủ số
chủ nợ đại diện cho 2/3 tổng số nợ không bảo đảm tham gia thì Toà án có
thể xem xét đó là hành vi khước từ quyền đòi nợ của các chủ nợ và ra quyết
định đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Nếu
phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại kinh doanh của doanh nghiệp
được hội nghị nhất trí thông qua thì thẩm phán ra quyết định công nhận
biên bản hoà giải thành và tạm đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp.
4 – Tuyên bố phá sản và thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
4.1 – Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Theo Điều 36 LPSDN (30/12/1993), thẩm phán sẽ ra quyết định
tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong các trường hợp:

* Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp không
có phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp theo Điều 20 LPSDN.
* Chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp
vắng mặt tại hội nghị chủ nợ để trình bày phương án hoà giải và giải pháp
tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhưng không uỷ quyền
cho người khác tham gia hội nghị chủ nợ. Ngoài ra, trong trường hợp chủ
doanh nghiệp tư nhân bị chết mà người thừa kế vắng mặt tại hội nghị chủ
nợ không có lý do hoặc từ chối quyền thừa kế.
* Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án hoà giải và giải pháp
tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
* Hết thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp
vẫn kinh doanh không có hiệu quả và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
*Trong thời hạn tổ chức lại kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân
chết hoặc bỏ trốn mà không có người thừa kế.
Bên cạnh đó, trong quyết định tuyên bố phá sản ngoài việc phải đảm
bảo những yêu cầu về mặt thủ tục tại Điều 37 LPSDN, phải nêu rõ phương
án phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp. Quyết định tuyên bố phá sản
phải được gửi cho các chủ nợ, doanh nghiệp phá sản và Viện kiểm sát nhân
dân, cơ quan tài chính, lao động cung cấp phòng thi hành án và cơ quan đã
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Quyết định này phải được đăng
trên báo Trung ương và báo địa phương 3 số liên tiếp.
4.2 – Thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.

SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42



Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

* Thẩm quyền của phòng thi hành án và chức năng của tổ quản lý tài
sản:
Việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp thuộc thẩm
quyền của phòng thi hành án thuộc Sở tư pháp, nơi doanh nghiệp đặt trụ sở
chính. Sau khi nhận được quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp của
Toà án, trưởng phòng thi hành án ra quyết định tuyên bố phá sản, chỉ định
chấp hành viên phụ trách và thành lập tổ quản lý tài sản. Chấp hành viên
phụ trách việc thi hành tuyên bố phá sản doanh nghiệp là người chịu trách
nhiệm trước trưởng phòng thi hành án trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
của mình và có những quyền hạn: ra quyết định thu hồi và bán đấu giá tài
sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản; thực hiện phương án phân chia
theo quyết định của thẩm phán; ra quyết định phong toả các tài khoản của
doanh nghiệp phá sản ở ngân hàng và mở tài khoản mới để gửi số các
khoản tiền thu hồi được, các khoản cho vay của doanh nghiệp phá sản và từ
tiền bán tài sản phá giá, có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định thu hồi tài
sản mà doanh nghiệp đã cất dấu hoặc tẩu tán trong thời gian 6 tháng trước
ngày Toà thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Thành phần tổ
quản lý tài sản được quy định tại Điều 28 Nghị định 189/CP, gồm: 2 cán bộ
của phòng thi hành án, trong đó 1 chấp hành viên là tổ trưởng, 1 đại diện
cho doanh nghiệp mắc nợ, đại diện chủ nợ đã tham gia quản lý tài sản; một
đại diện của công đoàn doanh nghiệp, 1 đại diện của Sở tài chính; 1 đại
diện ngân hàng nhà nước cấp tỉnh. Và trong trường hợp cần thiết – cũng
giống như tổ quản lý tài sản thì tổ trưởng tổ thanh toán tài sản có thể mời
thêm một số cán bộ khác thàm gia vào hoạt động liên quan đến thanh toán

tài sản phá sản.
Tổ thanh toán tài sản nhân giao tài sản và các giấy tờ tài liệu có liên
quan từ tổ quản lý tài sản; thu hồi và quản lý toàn bộ tài sản cũng như hồ
sơ, sổ sách kế toán, giấy tờ và con dấu của doanh nghiệp mắc nợ; yêu cầu
chấp hành viên cho thu hồi tài sản do doanh nghiệp đã bán hoặc chuyên
giao bất hợp pháp; tổ chức việc bán đấu giá tài sản và thực hiện việc thanh
toán theo quyết định của thẩm phán. Trong các giao dịch liên quan đến việc
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, tổ thanh toán tài sản được sử dụng
con dấu của phòng thi hành án để làm nhiệm vụ.
* Bàn giao và quản lý tài sản phá giá:
Kể từ thời điểm Toà án ra quyết định tuyên bố phá sản, doanh nghiệp
hoàn toàn mất quyền quản lý tài sản. Tổ quản lý tài sản bảo quản tài sản
của doanh nghiệp cho đến khi hoàn thành việc bàn giao cho tổ thanh toán
tài sản. Việc bàn giao được thực hiện theo nguyên tắc bàn giao toàn bộ và
chi tiết đến từng tài sản. Nếu có trường hợp mất mát hư hỏng phải lập biên
bản cụ thể cho từng trường hợp, ghi rõ lý do và trách nhiệm cá nhân về việc
làm mất hay hư hỏng đó. Biên bản bàn giao tài sản có chữ kí của thẩm
phán, tổ trưởng tổ quản lý tài sản và tổ trưởng tổ thanh toán tài sản.
SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

* Định giá và tổ chức bán đấu giá tài sản:

Về nguyên tắc, phương án phân chia tài sản do tổ quản lý tài sản đề
nghị, được thẩm phán phê chuẩn trong quyết định tuyên bố phá sản và do
tổ thanh toán tài sản thực hiện. Việc thanh toán nợ cho các chủ nợ được
tiến hành theo phương án thanh toán cụ thể từng đợt do tổ trưởng tổ thanh
toán tài sản mở tại ngân hàng.
* Phân chia gía trị tài sản phá sản:
Về nguyên tắc, phương án phân chia tài sản do tổ quản lý tài sản đề
nghị, được thẩm phán phê chuẩn trong quyết định tuyên bố phá sản và do
tổ thanh toán tài sản thực hiện. Việc thanh toán nợ cho các chủ nợ được
tiến hành theo phương án thanh toán cụ thể từng đợt do tổ trưởng tổ thanh
toán lập và theo thứ tự ưu tiên do Luật phá sản quy định tại Điều 39:
Thứ nhất là: Các khoản lệ phí, chi phí theo quy định của pháp luật
cho việc phá sản doanh nghiệp.
Thứ hai là: Các khoản nợ lương,trợ cấp thôi việc, BHXH theo quy
định của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao động theo thoả ước
lao động tập thể và theo hợp đồng lao động đã ký kết.
Thứ ba là: Các khoản nợ thuế.
Thứ tư là: Các khoản nợ cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ.
Trong quá trình thanh toán, nếu giá trị còn lại của doanh nghiệp đủ thanh
toán cho tất cả các khoản nợ của chủ nợ thì mỗi chủ nợ được nhận đủ số nợ
của mình; Nếu không đủ thì mỗi chủ nợ được thanh toán một phần khoản
nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng; Ngược lại nếu sau khi thanh toán các
khoản nợ mà vẫn thừa thì phần thưa đó sẽ thuộc về chủ doanh nghiệp.
*Kết thúc việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp .
Chậm nhất bảy ngày, kể từ ngày thanh toán hết tài sản phá sản, tổ
trưởng tổ thanh toán tài sản phải báo cáo với trưởng phòng thi hành án về
việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Báo cáo này phải
được niêm yết công khai tại trụ sở phòng thi hành án. Sau 15 ngày, kể từ
ngày báo cáo thi hành quyết định tuyên bố phá sản được niêm yết nếu
không có chủ nợ nào khiếu nại thì trưởng phòng thi hành án ra quyết định

chấm dứt việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp và kết
thúc hoạt động của tổ thanh toán tài sản. Đồng thời trưởng phòng thi hành
án gửi báo cáo thi hành quyết định tuyên bố phá sản và báo cáo kết thúc
việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp cho toà án đã giải
quyết việc phá sản, cho các cơ quan có liên quan khác và cho cơ quan đã
cấp đăng ký kinh doanh để xoá tên doanh nghiệp.
Như vậy không phải bất cứ doanh nghiệp nào đã đănh ký kinh doanh
nhưng làm ăn thua lỗ muốn tuyên bố phá sản đều được chấp thuận ngay.
Việc một doanh nghiệp được toà án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện và phải qua đầy đủ các trình tự thủ tục

SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

nhất định cũng như các nguyên tắc và các quy định pháp luật cụ thể như đã
trình bày ở trên.
*** Một số vấn đề thực tiễn trong quá trình thi hành các quyết định
tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Để tiến hành giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Toà
kinh tế TAND cấp tỉnh phải tuân theo những trình tự thủ tục nhất định. Tuy
nhiên, khi một quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực pháp
luật. Chuyển sang phòng thi hành án lại nảy sinh những tồn tại cần phải

giải quyết. Đó là việc người mắc nợ tại doanh nghiệp bị phá sản gửi đơn
kiến nghị đến toà án và cơ quan chức năng khác gây bức súc không đáng
có khi cơ quan thi hành án thi hành quyết định phá sản doanh nghiệp đối
với họ.
Thực tế cho thấy những người có đơn kiến nghị đó hầu hết là những
người không đến làm việc theo giấy triệu tập của toà án hoặc có đến nhưng
lại không có chứng cứ để chứng minh là mình không nợ ít hơn số liệu trên
danh sách. Do vậy toà án không có cơ sở để thay đổi khoản nợ mà phải căn
cứ vào sổ sách kế toán cũng như những hồ sơ tài liệu đã được cung cấp một
cách hợp lệ để lập danh sách người mắc nợ. Như vậy mọi thủ tục về lập
danh sách người mắc nợ tại toà án là đúng pháp luật và có căn cứ hợp lệ và
người mắc nợ phải có nghĩa vụ trả nợ đúng như danh sách toà án đã lập và
chuyển cho cơ quan thi hành án.
Có thể nhận thấy rằng nguyên nhân sâu sa của vấn đề là do người
mắc nợ có địa vị, công việc chuyên trách khác nên họ không hiểu rõ về luật
pháp nói chung và luật PSDN nói riêng nên họ đã có những khiếu nại, kiến
nghị không đáng có và không thực hiện nghĩa vụ của mình, gây cản trở cho
cơ quan thi hành án.
III- Một số vấn đề bất cập và hướng hoàn thiện
Luật phá sản doanh nghiệp – Một số vấn đề
Luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày
31/12/1993, có hiệu lực từ ngày 1/7/1994.Tuy hệ thống pháp luật phá sản ở
nước ta được ban hành chậm hơn so với các nước trên thế giới và trong khu
vực nhưng đã góp phần quan trọng vào việc hình thành một cơ chế pháp lý
đồng bộ cho hoạt động sử lý nợ của các doanh nghiệp, bảo đảm trật tự kỷ
cương và làm cho môi trường kinh doanh trở nên lành mạnh hơn; đồng
thoèi góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng và từng bước hoàn thiện hơn
hệ thống pháp luật kinh tế thời kỳ đổi mới của nước ta. Tuy vậy thực tế áp
dụng pháp luật phá sản hiện hành mà nòng cốt là luật phá sản doanh nghiệp
1993 đã bộc lộ một số khiếm khuyết và hạn chế cơ bản như là;

Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản còn có nhiều quy định
phi kinh tế : Pháp luật phá sản Việt Nam quy định một thủ tục mà theo đó
bất cứ một doanh nghiệp nào bị toà án ra quyết định mở thủ tục giải quyết
SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

yêu cầu tuyên bố phá sản đều phải trải qua giai đoạn xây dựng phương án
hoà giải và giải pháp tổ chức lẩin xuất kinh doanh, họp hội nghị chủ nợ để
bàn bạc. Nếu hội nghị chủ nợ không thành thì toà án mới đưa ra quyết định
tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp đó. Hậu quà là trên thực tế mặc dù
tài sản của doanh nghiệp mắc nợ đã không còn gì đáng kể, bản thân chủ
doanh nghiệp hoặc người quản lý doanh nghiệp và các chủ nợ cũng không
muốn phục hồi nhưng vẫn bắt buộc phải thực hiện đầy đủ mọi thủ tục theo
quy định của pháp luật. Như vậy việc tổ chức lại doanh nghiệp trở thành
một thủ tục mang tính hành thức, gây lãng phí thời gian và tiền bạc.
Pháp luật phá sản có nhiều quy định bất hợp lý: Về điều kiện mở thủ
tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản; về hồ sơ yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp; về thẩm quyền của chánh Toà án kinh tế trong việc giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ; về vấn đề đình chỉ giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
Pháp luật phá sản doanh nghiệp thiếu nhiều quy định cần thiết (mang
tính bất cập ): Thực tế có nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết

việc phá sản doanh nghiệp nhưng lại không có cơ sở pháp lý để giải quyết,
như là:
Việc thi hành các quyết định về dân sự và kinh tế đã được Toà án
tuyên trước khi có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản.
Việc giải quyết tranh chấp về dân sự và kinh tế giữa chủ nợ và
doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản chưa triệt để.
Căn cứ để đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản chưa đầy đủ.
Việc giải quyết kiếu nại giữa các bên đối với quyết định không mở
thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp không được quy
định rõ ràng, cụ thể.
Quyền khiếu nại danh sách chủ nợ chưa được qui định rõ.
Vấn đề giám sát, kiểm tra đối với doanh nghiệp trong quá trình tổ
chức lại doanh nghiệp chưa được qui định chặt chẽ.
Chưa có quy định rõ ràng về phương án phân chia giá trị tài sản còn
lại của doanh nghiệp.
Nhiều qui định của LPSDN, các VB hướng dẫn thi hành và cả những
qui định trong các văn bản pháp luật có liên quan mâu thuẫn nơi nhau: Vấn
đề kiểm toán khi yêu cầu tuyên bố phá sản (có sự khác nhau trong qui định
của LPSDN, Điều 11 – NĐ18 và Hướng dẫn của TANDTC); về đối tượng
bị tuyên bố phá sản (có sự khác nhau theo quy định tại: Điều 11 – LPSDN,
Khoản 1 - Điều 35 – Luật TM); về ưu tiên thanh toán giá trị tài sản còn lại
của doanh nghiệp cho người lao động (có sự khác nhau theo quy định tại:
Điều 39 – LPSDN, Điều 2 – NĐ92/CP 19/12/95 và Điều 5 – NĐ92/CP,
Điều 107 – BLLĐ).

SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42



Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

Nhiều qui định của pl ps có tính thực thi kém do thiếu chế tài cần
thiết hoặc do không có đủ thời gian để thực hiện: không qui định thời gian
cụ thể là bao lâu thì DN phải nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản và cũng
không quy định chế tài đối với trường hợp DN không thực hiện nghĩa vụ
đó; nhiều thời hạn lại quy định quá ngắn ( Điều 13, Điều 15 và Điều 12).
Pháp luật phá sản hiện hành tồn tại biệt lập và không có mối liên kết
cần thiết với pháp luật khác có liên quan, Điều này dẫn đến một thực trạng
tiêu cực là: có nhiều vấn đề pháp luật phá sản chưa giải quyết được nhưng
cũng không thể vận dụng được các quy định của văn bản pháp luật khác để
lấp chỗ trống và giải quyết…
Trước bối cảnh như vậy đã có một số vấn đề được sửa đổi, bổ xung
một số vấn đề mang tính bất cập của Luật PSDN 1993;
Thứ nhất: Về phạm vi áp dụng của Luật PSDN 1993, chỉ áp dụng
cho các DN. ở nước ta có trên một triệu chủ thể kinh doanh có đăng ký
kinh doanh mà không phải là DN (như: thương nhân theo Luật TM 1997,
các hộ kinh doanh cá thể theo NĐ 02 – CP – 3/2/200). Hậu quả là khi các
chủ thể kinh doanh không phải là DN lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh toán, họ có thể bị các chủ nợ tự do tranh giành “xiết nợ” thậm chí có
thể bị xử theo “luật rừng”, còn giữa các chủ nợ thì đòi nợ theo kiểu “mạnh
ai nấy đòi” và dẫn đến tình trạng mất trật tự và an ninh xã hội. Vì vậy
hướng giải quyết là cần
Thứ hai: Về việc đình chỉ và tạm đình chỉ giải quyết phá sản.
Luật PSDN 1993, chỉ quy định có 2 trường hợp Toà án được đưa ra

quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản (Điều 31, 35) và 1
trường hợp Toà án được đưa ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản khi Hội nghị chủ nợ thông qua phương án hoà giải
(Điều 20,30). Nhưng thực tế cho thấy, Luật PSDN thiếu nhiều căn cứ để
Toà án đình chỉ hoặc tạm đình chỉ việc giải quyết phá sản. Trong thực tế đã
có nhiều tình huống phát sinh mà Toà án xét thấy cần phải chấm dứt hoặc
tạm ngưng việc giải quyết phá sản một thời gian nhưng không được vì
không có căn cứ pháp luật. Vì vậy cần phải bổ xung thêm các căn cứ để
Toà án đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết phá sản như: trường hợp Toà án
thụ lý nhầm, đã ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản sai; trường hợp doanh nghiệp mắc nợ đã thoát khỏi tình trạng phá
sản…
Thứ ba: Về danh sách chủ nợ. Luật PLDN 1993, không co squy định
cho phép thẩm phán sửa đổi, bổ sung sanh sách củ nợ sau khi đã khoá sổ
(Điều 22- Luật PLDN) trong khi có nhiều trường hợp thẩm phán xét thấy
cần bổ sung, sửa đổi danh sách này. Chẳng hạn: Các chủ nợ vì lý do khách
quan, chính đáng mà không thể gửi giấy đòi nợ tronh thời hạn luật định đẻ
có tên trong danh sách củ nợ;…Vì vậy cần phải bổ sung quy định cho phép

SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com


thẩm phán bổ sung danh sách chủ nợ cho đến khi trước lúc có quyết định
tuyên bố phá sản.
Thứ tư: Giải quyết tranh chấp giá trị nợ: Luật PSDN 1993, chưa có
quy định về việc giải quyết tranh chấp giá trị nợ giữa chủ nợ và con nợ khi
lập hồ sơ, lập danh sách các đối tượng mắc nợ doanh nghiệp. Hậu quả là
thực tế đã gây khó khăn, lúng túng cho thẩm phán khi sử lý. Vì vậy cần
phải bổ sung trong luật phá sản doanh nghiệp quy định cho thẩm phán phụ
trách việc phá sản đó có quyền quyết định số nợ có tranh chấp; nếu đương
sự có khiếu nại thì Chánh án Toà án cấp tỉnh cử tập thể 3 thẩm phán xem
xét và ra quyết định cuối cùng.
Thứ năm: Đối với doanh nghiệp đanh bị Toà án giải quyết phá sản.
Luật PSDN 1993, không có quy định về việc doanh nghiệp đang bị Toà án
giải quyết phá sản là đương sự phải thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp
luật thì có phải chịu các biện pháp cưỡng chế thi hành án như bình thường
hay không? Cơ quan thi hành án có thể kê biên tài sản của doang nghiệp để
thi hành án trong khi Toà án đang giải quyết phá sản hay không? Do vậy
cần bổ sung quy định trong luật PSDN rằng: Nếu người phải thi hành án là
DN đang bị giải quyết phá sản thì các chủ thể được thi hành án được coi là
chủ nợ và quyền lợi của họ được giải quyết như các chủ thể khác.
Thứ sáu: Giấ trị tài sản còn lại cuă doanh nghiệp bị phá sản . Luật
PSDN 1993, không quy định giá trị tài sản còn của doanh nghiệp bị phá sẩn
là gì và xác điịnh để phan chia nó như thế nào(Điều 39 LPSDN) nên các
thẩm phán đã có những cách hiểu không giống nhau về giá trị tài sản còn
lại và đã dẫn đến việc phân chia tài sản phá sản vừa không thống nhất, vừa
không bảo đảm nguyên tắc pháp chế và làm ảnh hưởng đến các quyền lợi
của các đượng sự. Vì vậy cần phải quy định rõ trong LPSDN về giá trị tài
sản còn lại của doanh nghiệp là giá trị tài sản sau khi đã thanh toán cho các
chủ nợ được bảo đảm bằng chính tài sản bảo đảm đó.
Thứ bẩy: Thứ tự phân chia tài sản còn lại. Khoản 4&5 Điều 39 Luật
PSDN đã quy định không hợp lý, lại vừa thừa, vừa thiếu khi thanh toán cho

các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ. Vì vậy, cần phải sửa đổi lại thứ
tự ưu tiên thanh toán 4&5 Theo Điều 39- Luật PSDN hiện hành cho hợp lý
hơn:
Thứ tư 4: Thanh toán cho các khoản nợ không được bảo đảm
Thứ tự 5: Thanh toán cho chủ sở hữu của doanh nghiệp bị phá sản.
Có thể xem xét việc coi Nhà nước cũng là chủ nợ khônh bảo đảm đối
với các khoản nợ thuế và thanh toán cùng thứ tự ưu tiên với các khoản nợ
không có bảo đảm khác vì Nhà nợ chủ nợ có khả năng mạnh nhất trong các
chủ nợ.
Thứ tám: Thẩm quyền của toà phúc thẩm TANDTC. Luật
PSDN1993 chưa quy định cụ thể thẩm quyền của toà phúc thẩm TANDTC
khi giải quyết khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định tuyên bố PSDN và
SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


Đề án môn học PLKDVN

Thủ tục… phá sản doanh nghiệp

Website: KiloBooks.Com

quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thì toà phúc thẩm
TANDTC có quyền huỷ quyết định đó và ra quyết định tuyên bố phá sản
hay không? Vì vậy luật PSDN cần phải sửa đổi quy định cụ thể thẩm quyền
của tào phúc thẩm trong việc giải quyết phá sản nhưng không có quyền giải
quyết khiếu nại đối với quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết phá sản
của toà án cấp tỉnh.
Điều kiện mở thủ tục phá sản doanh nghiệp- những bất cập và hướng

hoàn thiện.
Những bất cập của luật óDN 1993 có thể thấy rõ ở hầu như tất cả các
giai đoạn của thủ tục tố tụng một vụ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp. Trong đó không thể không nói đến những bất cập về điều
kiện mở thủ tục phá sản DN. Theo quy định của pháp luật để Toà ans có
thể ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp phải đảm bảo một số nhữnh yêu cầu nhất định:
Thứ nhất: Về hình thức:
* Chỉ có một số đối tượng nhất định có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan mới có quyền nộp đơn, gồm: Doanh nghiệp mắc nợ, chủ nợ không có
bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và đại diện người lao động tại
doanh nghiệp mắc nợ.Toà án trong quá trình giải quyết các vụ án có liên
quan, nếu phát hiện doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản sẽ phải thông
báo cho daonh nghiệp và cchủ nợ biết để nộp đơn.
* Như vậy chủ nợ có bảo đảm dù biết doanh nghiệp đang lâm vào
tình trạng phá sản dù muốn nộp đơn yêu cầu Toà án mở thủ tục giải quyết
PSDN cũng không có quyền, dẫn đến hậu quả là làm hạn chế, chậm trễ việc
mở thủ tục. Do đó nên quy định tất cả các chủ nợ đều có quyền nộp đơn
yêu cầuToà án tuyên bố PSDN.
* Trong quá trình giải quyết các vụ việc có liên quan, Toà án phát
hiện DN đang lâm vào tình trạng phá sản cũng không có quyền mở thủ tục
giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp đó mà phải thông báo cho doanh
nghiệp và các chủ nợ biết để họ làm đơn yêu cầu Toà án tuyên bố PSDN.
Thực tế xảy ra trường hợp Toà án thông báo nhưng không nhận được đơn
yêu cầu từ chủ thể nào và Toà án đã không thể mở thủ tục mặc dù biết rõ là
doang nghiệp đang lâm vào tình trạng “vô phương cứu chữa”. Do vậy cần
thay đổi quy định rằng: Toà án được quyền mở thủ tục phá sản doanh
nghiệp đối với những trường hợp cần thiết; Viện kiểm sát nhân dân trong
quá trình thực hiện chức năng truy tố cũng có quyền yêu cầu Toà án mở thủ
tục PSDN nếu xét thấy DN đã lâm vào tình trạng phá sản.

* Tuy đã có quy định là doanh nghiệp phải có nghĩa vụ nộp đơn yêu
cầu Toà án tuyên bố phá sản nếu sau khi đã thực hiện các biện pháp tài
chính mà vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn, nhưng lại không quy định thời hạn cho việc nộp đơn và biện pháp
SV. Vò ThÞ V©n HuyÒn

Líp: LuËt Kinh doanh - K42


×