Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Đề án kinh tế chính trị- nền kinh tế mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.5 KB, 53 trang )

NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

PHẦN 1 – PHẦN MỞ ĐẦU
Trong quá trình nghiên cứu, đánh giá để tìm ra con đường
đúng đắn nhất dưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội , chúng ta đã
tìm thấy trong lịch sử một tư duy lý luận và thực tế hết sức đúng
đắn, đó chính là chính sách kinh tế mới của Lênin-NEP.
NEP đóng vai trò cơ sở lý luận chung cho các nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội từ các nấc thang khác nhau. Vì vậy nghiên cứu
và tìm hiểu NEP đóng vai trò quan trọng, để từ đó đưa ra đường
lối , chính sách và các quyết định đúng đắn và sáng suốt .
Việc áp dụng NEP trong những năm vừa qua đã chứng minh
tính đúng đẵn của chính sách này, tuy nhiên con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là con đường đầy khó khăn , vất vẳ , đòi hỏi phải
được thực hiện chính xác từng bước đi . Do vậy nghiên cứu NEP
vẫn là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong mọi giai doạn, và nghiên
cứu sự vận dụng NEP vào diều kiện Việt Nam từ đó rút ra bài học
kinh nghiệm cho giai đoạn sau, càng quan trọng hơn. Vì vậy, tôi
quyết định lựa chọn đề tài “Chính sách kinh tế mới của Lênin và
vận dụng nó ở Việt Nam” cho bài nghiên cứu của mình. Đây là
một đề tài rất lớn, Cơ sở lý luận bao trùm mọi vấn đề trong quá
trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong phạm vi bài nghiên cứu
nhỏ, chắc chắn không thể chứa đựng được hết nội dung của nó.
Do vậy tôi chỉ đi sâu nghiên cứu những nội dung cơ bản của chính

-1-


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

sách kinh tế mới và dừng lại ở việc xem xét việc vận dụng nó vào


điều kiện Việt Nam .
Do những thiếu sót về kinh nghiệm làm bài, những khiếm
khuyết về kiến thức lý luận cũng như thực tiễn, chắc chắn bài viết
của tôi còn rất nhiều điểm thiếu sót. Tôi mong nhận được sự giúp
đỡ, góp ý kiến sửa đổi của quý vị để bài viết của ôi ngày càng
hoàn thiện . Tôi xin chân thành cám ơn .
Tác giả
Phạm thị thu trang

-2-


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
I-TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI

Đại hội X của Đảng Cộng sản Nga họp từ ngày 8 đến ngày 16
tháng 3 năm 1921 đã đánh đấu bước ngoặt lịch sử của nước Nga
Xô viết – bước chuyển từ chính sách cộng sản thời chiến sang
chính sách kinh tế mới (NEP)
1-Bối cảnh ra đời ,tính tất yếu và cơ sở của NEP
1.1-Bối cảnh ra đời của NEP
1.1.1-Hoàn cảnh nước Nga sau chiến tranh
Sau những cuộc chiến tranh khốc liệt (chiến tranh thế giới
lần thứ nhất 1914-1918 và nội chiến 1918-1920), nước Nga đã
lâm vào cuộc khủng hoảng hết sức nặng nề cả về phương diện
kinh tế,

chính trị lẫn xã hội .

Trong cuộc chiến tranh đó, trên 20 triệu người (một phần

bảy dân số nước Nga khi đó) đã bị thiệt mạng, trong đó có gần
30% là nam giới đang ở độ tuổi lao động. Nguồn của cải vật chất
bị tiêu huỷ trong các cuộc chiến tranh đó cũng hết sức lớn. Một
phần tư tài sản quốc dân bị tiêu hủy, thu nhập quốc dân giảm gần
hai lần so với trước chiến tranh. Đại đa số xí nghiệp công nghiệp
lâm vào tình trạng đình đốn, ngừng hoạt động, đặc biệt là các
ngành công nghiệp nặng. So với trước chiến tranh, sản lượng của
các ngành công nghiệp nặng giảm bảy lần. Ngành giao thông vận
tải ở vào tình trạnh tê liệt gần như hoàn toàn và chính sự tê liệt đó
-3-


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

đã khiến cho nền kinh tế đang ở tình trạng tổn thất nặng nề càng
trở lên nghiêm trọng. Nhiên liệu thiếu, lương thực, thực phẩm
không đủ cung cấp .Và chính những khó khăn về cung cấp lương
thực thực phẩm cho các thành phố ngày một tăng đã dẫn tới tình
trạng phần lớn dân cư ở thành phố lâm vào cảnh sống vất vưởng,
nhiều người trong đó có cả công nhân lành nghề đã lũ lượt kéo về
nông thôn. Đội ngũ giai cấp vô sản do bị cùng cực về đời sống đã
giảm đi quá nhiều về số lượng. Mặc dù vẫn là chỗ dựa vững chắc
của chính quyền Xô viết, song trong đội ngũ những người vô sản,
ở một bộ phận nào đó, đã xuất hiện tình trạng tha hoá, biến chất và
tỏ ra bất mãn với chính quyền Xô viết. Thậm chí trong hàng ngũ
những người công nhân đã nảy sinh tư tưởng hoài nghi, thất vọng,
thiếu tin tưởng vào đường lối xây dựng và phát triển kinh tế của
chính quyền Xô viết. Khi nội chiến vừa kết thúc, nguy cơ trực tiếp

phục hồi thế lực của bọn phản động không còn nữa, thì chính
quyền Xô viết lại phải đối đầu với những con người mới, những
con người trước kia đã sát cánh, đã hết sức ủng hộ mình, những
người nông dân, do những bất hợp lý của chính sách “kinh tế
cộng sản thời chiến” trong giai đoạn mới .
1.1.2- Chính sách :”kinh tế cộng sản thời chiến” và những
vấn đề bất hợp lý của nó trong tình hình mới
1.1.2.1-Nội dung của chính sách “kinh tế cộng sản thời
chiến”
-4-


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

Cuối năm 1918 ở nước Nga có nội chiến (bọn địa chủ và
tư bản bị lật đổ đã nổi dậy chống chính quyền Xô viết ). Từ bên
ngoài có sự can thiệp của 14 nước đế quốc do Anh, Pháp cầm đầu
nhằm bóp nghẹt Nhà nước Xô viết còn non trẻ. Cuộc nội chiến và
can thiệp nước ngoài đã làm cho nước Nga càng thêm khó khăn
chồng chất .
Để đối phó với tình trạng đó, Lê-nin đã ra khẩu hiệu :”Tất
cả cho tiêu diệt kẻ thù” và thi hành chính sách “kinh tế cộng sản
thời chiến”. Nội dung cơ bản của chính sách này bao gồm các vấn
đề như:
-Trưng thu lương thực thừa của nông dân, Nhà nước độc
quyền mua bán lúa mì để cung cấp cho thành thị và quân đội.
- Nhà nước kiểm soát cả việc sản xuất và phân phối sản
phẩm không những đại công nghiệp mà cả trung và tiểu công
nghiệp .
- Quốc hữu hoá cả những xí nghiệp vừa và nhỏ, có từ 5

công nhân trở lên nếu có động cơ và 10 công nhân trở lên nếu
không có động cơ.
- Cấm trao đổi và buôn bán sản phẩm trên thị trường, nhất
là lúa mì, thực hiện chế độ tem phiếu, trực tiếp phân phối bằng
hiện vật cho người tiêu dùng, xoá bỏ ngân hàng Nhà nước .
- Đặt chế độ lao động cưỡng bức với nguyên tắc : “không
làm thì không ăn”.
-5-


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

Nhờ thực hiện chính sách: “inh tế cộng sản thời chiến” mà Nhà
nước Xô viết mới có lương thực để cung cấp cho quân đội và nhân
dân, đảm bảo đánh thắng thù trong giặc ngoài. Khi đánh giá về
chính sách đó, Lê-nin đã nói :”trong điều kiện chiến tranh mà
chúng ta đã lâm vào thì về cơ bản chính sách đó là đúng” 1.Tuy
nhiên chính sách “kinh tế cộng sản thời chiến “hoàn toàn không
phải là một giai đoạn tất yếu trong chính sách kinh tế của thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một chính sách tạm thời.
Cuối năm 1920, nội chiến kết thúc, nước Nga chuyển sang
thời kì kiến thiết trong hoà bình. Chính sách: “kinh tế cộng sản
thời chiến” không những đã không phát huy tác dụng mà còn bộc
lộ những bất hợp lý.
1.1.2.2- Những ảnh hưởng của chính sách “kinh tế cộng sản
thời chiến” trong tình hình mới
-Về phương diện kinh tế-xã hội
Dưới chế độ trưng thu lương thực thừa, sản xuất nông
nghiệp bắt đầu suy sụp. Trong giai cấp nông nhân đã có không ít
người cho rằng: sản xuất để làm gì khi sản phẩm làm ra bị trưng

thu hầu hết. Những người nông dân công khai bày tỏ dự định
không mở rộng sản xuất, thậm chí có người tỏ ra lo sợ chế độ
trưng thu lương thực thừa và bày tỏ ý định ngừng sản xuất. Đó là
nguyên nhân làm cho diện tích gieo trồng lúa mì giảm đi một cách
1

V.I.Lênin:Toàn tập Nxb. Tiến bộ Matxcơva,tập34,tr 200

-6-


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

đáng kể, còn việc gieo trồng cây công nghiệp thì hoàn toàn không
còn nữa. Sự bất mãn của những người nông dân đối với chế độ
trưng thu lương thực thừa ngày càng tăng và trên thực tế, nó đã
biến thành những cuộc bạo loạn, trong đó đáng chú ý là cuộc bạo
loạn ở Tambốp-tỉnh sản xuất lúa mì chủ yếu của nước Nga lúc bấy
giờ. Hàng chục nghìn người đã tham gia cuộc bạo loạn đó và họ
đòi bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa ngay tức khắc. Tuy
nhiên, đó chưa phải là đỉnh cao của những cuộc bạo loạn này.
Cuộc bạo loạn của các thuỷ thủ tại căn cứ hải quân Crônstát vào
tháng 3 năm 1921 mới được coi là đỉnh cao của những cuộc bạo
loạn diễn ra ở nước Nga khi đó. Điều đáng nói về cuộc bạo loạn
này là ở chỗ, sau khi chiến tranh kết thúc, nhiều binh sĩ đã từng
anh dũng bảo vệ chính quyền Xô viết khỏi tay bọn phản cách
mạng nay được giải ngũ lại đứng vào hàng ngũ của những kẻ bạo
loạn. Cái đã khiến cho những binh sĩ này trở thành những kẻ bạo
loạn là việc áp dụng chế độ trưng thu lương thực với gia đình họ ở
nông thôn. Không phải ngẫu nhiên mà những người tham gia cuộc

bạo loạn đã đưa ra khẩu hiệu đòi bãi bỏ chế độ trưng thu lương
thực thừa, thực hiện chế độ tự do buôn bán sản phẩm đặc biệt là
lúa mì.
Mặt khác, sự phân phối sản phẩm bình quân ở thành phố và
những khu công nghiệp khi đồng rúp mất giá đã gây nên những
trở ngại không nhỏ cho phát triển sản xuất công nghiệp. Nguyên
-7-


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

tắc phân phối theo lao động bị xâm phạm đã dẫn tới phá vỡ kỉ luật
lao động, năng suất lao động bị giảm sút, sản xuất công nghiệp bị
đình đốn,..Tóm lại việc thực hiện chinh sách “kinh tế cộng sản
thời chiến” kéo dài đã làm tình hình kinh tế – xã hội nước Nga
lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng và cần có biện pháp giải
quyết.
-Về phương diện chính trị
Thực chất của mô hình kinh tế xã hội khi thực hiện chính
sách “kinh tế cộng sản thời chiến” là ở chỗ, nó dẫn đến quá trình
nhà nước hoá toàn phần. Trong đội ngũ giai cấp công nhân, nhiều
người thiếu công ăn việc làm đã tìm đường trở về nông thôn làm
cho giai cấp vô sản Nga đã ít về số lượng lại lâm vào tình trạng
phân tán, một bộ phận bị mất gốc gai cấp. Tình hình đó đã ít nhiều
làm suy yếu cơ sở xã hội của chuyên chính vô sản, đe doạ sự tồn
tại của chính quyền Xô viết. Nó nguy hiểm đến mức chính Lê-nin
đã công khai thừa nhận :”Nếu không nhận rằng tình trạng giai cấp
vô sản mất gốc là một khuyết điểm thì thật là lố bịch, ngu xuẩn và
phi lý”1
Tình hình kinh tế, chính trị , xã hội của nước Nga trong

giai đoạn này lâm vào cuộc khủng hoảng gay gắt, không dễ dàng
khắc phục trong một thời gian ngắn. Thêm vào đó, sự trỗi dậy của
các thế lực phản cách mạng cũng đã gây những khó khăn không
1

V.I.Lênin :toàn tập,Nxb. Tiến bộ,Matxcơva,tập43,tr372

-8-


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

nhỏ trong công cuộc phát triển kinh tế của chính quyền Xô viết.
Chúng ra sức lợi dụng sự bất mãn của nông dân, sự giao động của
những người cộng sản không kiên định lập trường cách mạng để
chống phá cách mạng, phá hoại công cuộc xây dựng kinh tế khi
đất nước chuyển từ chiến tranh sang hoà bình .Điều đó khiến cho
tình hình xã hội càng trở nên phức tạp .
Thực tiễn đó cho thấy “chính sách cộng sản thời chiến”
không phải và không thể là chính sách đáp ứng được những đòi
hỏi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mà giai cấp vô sản
Nga có sứ mệnh phải thực hiện. Nó chỉ là giải pháp mang tính
nhất thời, bắt buộc phải thực hiện trong bối cảnh nước Nga Xô
viết non trẻ đang đứng trước bờ vực thẳm của cuộc nội chiến khốc
liệt. Chính Lê-nin đã thừa nhận rằng “chiến tranh và tình trạng tàn
phá đã buộc chúng ta phải thi hành chính sách cộng sản thời
chiến. Nó không phải và không thể là chính sách kinh tế phù hợp
với nhiệm vụ kinh tế của giai cấp vô sản. Nó là một biện pháp tạm
thời”1 .Và tình trạng khủng hoảng của nước Nga vào đầu năm
1921 đã cho phép Lê-nin coi đó không chỉ là thất bại trong công

cuộc xây dựng kinh tế, mà còn là thất bại trong chủ trương tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Ông viết : “Mùa xuân 1921, chúng ta
thấy rõ rằng chúng ta đã thất bại trong cái ý định dùng phương
pháp “xung phong”, nghĩa là dùng con đường ngắn nhất, nhanh
nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và phân phối theo
1

V.I.Lênin:Toàn tập Nxb. Tiến bộ Matxcơva,tập 43,tr 265

-9-


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

nguyên tắc xã hội chủ nghĩa” 2 .Từ đó ,ông đi đến khẳng định cần
phải thay thế chính sách cộng sản thời chiến bằng một chính sách
kinh tế mới có khả năng đưa nước Nga ra khỏi khủng hoảng trầm
trọng về kinh tế, chính trị và xã hội –chính sách kinh tế mới-NEP.

1.2-Tính tất yếu phải có chính sách kinh tế mới
Sẽ là trái với tự nhiên nếu cho rằng chính sách kinh tế mới
là sự “thay đổi tình thế” đột ngột. Những sự tìm kiếm một chính
sách mới là lâu dài. Chính sách kinh tế mới không phải được hình
thành ngay lập tức mà nó được cụ thể hoá dần dần, Nếu như thoạt
tiên, trước hết nói về những biện pháp chống khủng hoảng khẩn
cấp mọi người mới hiểu chính sách kinh tế mới như là chiến lược
tối ưu của bước chuyển sang chủ nghĩa xã hội. Tiếp nữa, mặc dù
chính sách kinh tế mới đi trái với những nguyên tắc cơ bản của
chính sách “cộng sản thời chiến” nhưng nó có những yếu tố kế
thừa thời kì trước. Một trong những yếu tố đó là sắc lệnh về thuế

hiện vật do Lê-nin đề nghị vào tháng 10 năm 1918. Sự thật do
hoàn cảnh nên sắc lệnh này không được thực hiện. Hơn nữa rất lâu
trước khi thông qua chính sách kinh tế mới có một số đảng viên
Bôn-sơ -vich đã bày tỏ ý kiến phản đối việc trưng thu, tán thành
thu thuế bằng hiện vật. Trong điều kiện nước Nga lúc bấy giờ vấn
đề không chỉ dừng lại ở việc khẳng định sự cần thiết phải thay thế
2

Như trên, tập 44, tr 256

- 10 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

chế độ trưng thu lương thực thừa với tư cách là khâu đầu tiên, là
bước qúa độ từ trạng thái kinh tế hỗn loạn sang trạng thái kinh tế
mới. Không chỉ dừng lại ở chỗ chỉ ra vì sao phải thực hiện chế độ
tự do buôn bán, tự do trao đổi sản phẩm, sử dụng quan hệ hàng –
tiền với tư cách là “điểm chủ yếu”, “điểm có ý nghĩa quan trọng
và căn bản” ,là “đòn xeo chủ yếu của chính sách kinh tế mới” , là
cái để thiết lập hình thức liên minh công nông, là cái cần thiết để
người lao động mở rộng sản xuất và cải thiện đời sống của họ và
hơn nữa, là vấn đề không thể tránh khỏi, “vấn đề kinh tế và chính
trị quan trọng nhất trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
một nước tiểu nông”. Cũng không chỉ dừng lại ở việc đánh giá cao
vị trí vai trò của tư bản nhà nước mà phải khẳng định NEP là tính
tất yếu cho công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã
hội ở thời kì quá độ và đồng thời khẳng định sự thành công của
NEP ở nước Nga sẽ là “bài học kinh nghiệm bổ ích cho các cuộc

cách mạng vô sản sau này”.
1.3- Cơ sở của NEP
1.3.1 Cơ sở lý luận của NEP
Luận chứng cho chính sách kinh tế mới đó –NEP V.I.Lênin đã chỉ rõ :khi bước chuyển sang hoà bình được thực hiện trong
bối cảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế đã trở lên trầm trọng,
chúng ta cần phải nhận thấy một cách sâu sắc rằng, xây dựng một
nhà nước chuyên chính vô sản trong điều kiện một nước có nền
- 11 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

kinh tế phát triển, sản xuất lớn chiếm ưu thế sẽ dễ dàng hơn trong
một nước mà kinh tế phát triển, nền sản xuất nhỏ chiếm ưu thế.
Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong bối cảnh
đó đòi hỏi phải có hàng loạt biện pháp thích hợp và chúng ta
không cho phép nhắm mắt làm ngơ trước những khó khăn hết sức
nan giải và cũng không được phép cho rằng có lực lượng đông
đảo là giai cấp vô sản với nhiệt tình cách mạng của họ thì muốn
làm gì cũng được, mà phải thấy rằng giai cấp vô sản là một việc
còn xây dựng và phát triển kinh tế lại là một việc khác. Đồng thời
chúng ta cũng không được quyên rằng ở nước Nga hiện có những
giai cấp khác nhau, rằng cuộc phản cách mạng vô chính phủ là
một bậc thang chính trị dẫn đến chính quyền của bọn bạch vệ.
Rằng sự thật đó phải được nhìn nhận một cách thẳng thắn, tỉnh
táo, phải hiểu rõ ràng để vượt qua tình trạng khủng hoảng và tạo
đà cho bước phát triển kinh tế tiếp theo, không những chúng ta
phải tạo ra được sự đoàn kết, tính thống nhât, sự bình tĩnh và kỉ
luật đến mức tối đa tron đảng vô sản mà phải đưa ra được, thực
hiện được một loạt biện pháp kinh tế mà trước đây chưa thể thực

hiện được do bị hoàn cảnh chiến tranh chi phối, do buộc phải thi
hành chính sách “cộng sản thời chiến”.
Bước chuyển từ chính sách cộng sản thời chiến sang NEP
mà biện pháp kinh tế đầu tiên, quan trọng nhất cần phải được áp
dụng –thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực
- 12 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

được coi như là một biện pháp tuyệt đối cần thiết, tuyệt đối phải
chấp nhận là một tất yếu khách quan, diễn ra hoàn toàn do bối
cảnh cũng như các điều kiện thực quy định. Khẳng định điều này,
tại Đại Hội III Quốc tế Cộng sản,V.I.Lê-nin đã nói :”chúng tôi
thay đổi chính sách kinh tế là hoàn toàn căn cứ vào những điều
kiện thực tế và sự tất yếu do hoành cảnh tất yếu đề ra”1
Thực vậy, về thực chất, NEP đã đặt ra một vấn đề, có thể
nói là hết sức mới mẻ đối với chủ nghĩa Mác-vấn đề sự cần thiết
và khả năng phải sử dụng các biện pháp “quá độ gián tiếp” với
nhiều nấc thang trung gian. Trước hết, điều đó có liên quan đến
nền sản xuất hàng hoá nhỏ ở một nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội mà tuyệt đại đa số là nông dân .
1.3.2- Cơ sở thực tế của chính sách kinh tế mới
Cơ sở thực tế của chính sách kinh tế mới được xuất phát
chính từ hoàn cảnh cụ thể của Liên Xô lúc bấy giờ đòi hỏi phải có
một chính sách mới như một cứu cánh để đưa nước Nga ra khỏi
cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc, dẹp trừ các thế lực phản
động, tạo điều kiện phát triển kinh tế nhằm thực hiện nhiệm vụ
hàng đầu đưa nước Nga tiến lên chủ nghĩa xã hội .
2-Nội dung của chính sách kinh tế mới

2.1-Đối tượng của chính sách kinh tế mới
Với NEP, từ một nước mà nông dân chiếm đại đa số, quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế nông dân với sở hữu nhỏ của
1

V.I.Lênin:Toàn tập Nxb. Tiến bộ Matxcơva,tập44,tr 54

- 13 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

“hàng triệu, hàng triệu nông dân”, không những có quyền tồn tại,
mà còn được phép phát triển.Với quan niệm đó Lê-nin rằng nông
dân chính là đối tượng chính của chính sách kinh tế mới.Điểm
xuất phát trong chính sách kinh tế mới, theo ý kiến của Lê-nin,
phải là sự đáp ứng những lợi ích của đa số nông dân ở nước Nga
Xô viết, bởi vì chỉ nông dân mới có thể cung cấp cho đất nước
lương thực, có nghĩa là cái mà đất nước cần hơn cả. “Phải bắt đầu
từ nông dân”,Lê-nin đã nhấn mạnh. Lê-nin thấy chính sách kinh tế
mới có ưu điểm là “thuận tiện hơn với nông dân”,”quen thuộc
hơn”.Nhiệm vụ khôi phục công nghiệp, nhất là phát triển công
nghiệp, đã được hoãn lại một thời gian tương ứng nào đó và được
đưa xuống hàng thứ yếu. Ông khẳng định, công cuộc xây dựng xã
hội mới ở một nước tiểu nông nhất thiết phải bắt đầu từ việc phát
triển kinh tế nông dânvà bảo đảm cho nền kinh tế tiểu nông đó
phát triển.Ông cho rằng, “việc nhượng bộ đến mức tối đa để cho
người sản xuất nhỏ có điều kiện tối ưu để họ có thể tính toán về sự
sản xuất của mình tốt hơn và xác định hợp lý quy mô sản xuất là
điều quan trọng bậc nhất”1 .Chẳng những thế, ông còn coi “việc

kiến lập sự liên minh giữa nền kinh tế mới mà chúng ta đang hết
sức cố gắng để xây dựng nên với nền kinh tế nông dân”2 là toàn
bộ ý nghĩa của NEP, là nhiệm vụ căn bản, quyết định, chi phối tất
cả các nhiệm vụ khác do NEP đặt ra.
1

V.I.Lênin:Toàn tập Nxb. Tiến bộ Matxcơva,tập43,tr34

2

- 14 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

2.2-Nội dung của chính sách kinh tế mới
Chính sách kinh tế mới –với tư cách là đường lối xây dựng
và phát triển kinh tế, tạo cơ sở vật chất –kĩ thuật cho chủ nghĩa xã
hội đã ra đời tạo ra những biến đổi trong đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội nước Nga .Nội dung chủ yếu của nó là :

2.2.1-Thay thế chế độ trưng thu lương thực bằng thuế
lương thực
2.2.1.1-Nội dung và cơ sở của thuế lương thực
Lê-nin đã xác định, đối tượng chính của chính sách kinh tế
mới là nông dân cho nên, trước hết phải dùng những biện pháp tức
thời và nghiêm chỉnh để phục hồi lực lượng sản xuất của nông
dân. Điều đó không thể thực hiện được nếu không có sự sửa đổi
nghiêm chỉnh trong chính sách lương thực. Một trong những điều
sửa đổi đó là thay thế việc trưng thu lương thực thừa bằng thuế

lương thực.
Theo chính sách này, người nông dân chỉ nộp thuế lương thực cố
định trong nhiều năm. Mức thuế này căn cứ vào điều kiện tự nhiên
của đất đai canh tác. Nói cách khác thuế nông nghiệp chính là địa
tô mà người nông dân canh tác trên ruộng đất thuộc sở hữu toàn
dân phải trả cho Nhà nước. Số lương thực còn lại người nông dân
được tự do buôn bán trên thị trường.
- 15 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

Thuế lương thực là một trong những hình thức của bước quá
độ từ chủ nghĩa “cộng sản quân sự” chủ nghĩa cộng sản đặc biệt
do tình trạng cùng khốn cực khổ, tình trạng hoang tàn và tình
trạng chiến tranh buộc chúng ta phải thi hành- để bước sang chế
độ trao đổi xã hội chủ nghĩa bình thường. Và chế độ này lại là một
trong những hình thức của bước quá độ từ chủ nghĩa xã hội – với
những đặc thù do tình trạng tiểu nông chiếm ưu thế trong dân
chúng tạo nên ,-sang chủ nghĩa cộng sản
Luận chứng cho sự cần thiết phải thay chính sách trưng thu
lương thực thừa bằng thuế lương thực,V.I.Lê-nin chỉ rõ: “Khi
chúng ta nói cần phải đặt mối quan hệ giữa chúng ta với người
nông dân trên cơ sở thuế lương thực, chứ không phải trên cơ sở
trưng thu,- thì nhân tố chủ yếu của chính sách đó là gì ? Đó là ở
chỗ: dưới chế độ trưng thu, nền kinh tế tiểu nông không có một cơ
sở kinh tế bình thường mà phải sống lay lắt trong nhiều năm, vì
người tiểu nông không còn thích thú củng cố và phát triển hoạt
động của mình, cũng như nâng cao sản lượng kết quả là chúng ta
mất một cơ sở kinh tế”1. Bởi lẽ chế độ trưng thu lương thực thừa

thực chất là lấy của nông dân tất cả những lương thực thừa, thậm
chí đôi khi cả những lương thực không phải là thừa mà một phần
những lương thực cần thiết cho sinh sống của họ,và trong bối cảnh
nước Nga khi đó, lấy để cung cấp cho quân đội và để nuôi công
nhân.
1

V.I.Lênin:Toàn tập Nxb. Tiến bộ Matxcơva,tr 370-371

- 16 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

Do chiến tranh và khủng hoảng kinh tế nặng nề, chính
quyền Xô viết không có khả năng và không thể cung cấp cho nông
dân những sản phẩm công nghiệp để đổi lấy lượng lúa mì cần thiết
để cung cấp cho thành thị, công nhân, và binh lính. Bởi thế, chính
quyền Xô viết cần đặt ra thuế lương thực, nghĩa là thu dưới danh
nghĩa thuế một lượng lương thực tối thiểu, cần thiết; phần còn lại
sẽ được đổi bằng các sản phẩm công nghiệp. Sự trao đổi đó chính
là biện pháp khuyến khích, kích thích, thúc đẩy người nông dân
tích cực sản xuất. Vì Nhà nước sẽ không trưng thu tất cả số lương
thực thừa của người nông dân, mà chỉ thu một số thuế, thêm vào
đó, số thuế này được Nhà nước ấn định trước, nên người nông dân
sẽ tích cực sản xuất hơn. Đồng thời, việc thực hiện chế độ thuế
lương thực sẽ đem lại cho người nông dân một đòn bẩy kinh tế
khuyến khích, thúc đẩy, khích lệ họ đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh từ nguồn thu chính đáng của họ .
Cùng với việc ban hành sắc lệnh về thuế lương thực khi bắt

tay vào công cuộc xây dựng đất nước theo NEP, vào mùa thu năm
1922, Chính quyền Xô viết dưới sự lãnh đạo của Lê-nin đã ban
hành luật ruộng đất nhằm khẳng định việc quốc hữu hoá ruộng đất
mà sắc lệnh về ruộng đất đã tuyên bố vào thang 10 năm 1917,
đồng thời trao cho nông dân quyền sử dụng ruộng đất không hạn
chế về thời gian, cấm chỉ việc tuỳ tiện trưng thu ruộng đất, kể cả
các cơ quan Nhà nước. Việc mua, bán ruộng đất bị cấm và chỉ
- 17 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

trong những hoàn cảnh nhất định mới được phép thuê và làm thuê.
Với bộ luật này, các hình thức sử dụng đất đai của người nông dân
đã được hợp pháp hoá và bộ luật này cũng tuyệt nhiên không
hướng người nông dân vào việc khẩn trương tiến hành tập thể hoá.
Nhờ đó, những người nông dân Nga đã yên tâm sản xuất và phát
triển sản xuất.
2.2.1.2-Kết quả thực hiện thuế lương thực
Chế độ trưng thu lương thực thừa được thay thế bằng thuế
lương thực đã đem lại kết quả to lớn, đặc biệt với nông thôn Nga.
Nhờ thi hành Chính sách thuế lương thực mà người nông dân đã
quan tâm đến phát triển sản xuất và qua đó, đời sống của họ được
cải thiện,việc cung cấp lương thực cho thành phố, quân đội được
bảo đảm và ngũ cốc của nước Nga lần đầu tiên sau cách mạng
Tháng Mười lại xuất hiện trên thị trường quốc tế. Sau gần hai năm
thi hành chính sách này,V.I.Lê-nin đã xác nhận:”trong vòng một
năm, nông dân chẳng những đã thắng được nạn đói, mà còn nộp
thuế lương thực đến mức là chúng tôi đã thu được hàng trăm triệu
pút, mà hoàn toàn không phải áp dụng đến một biện pháp cưỡng

bách nào cả. Những cuộc bạo động nông dân, trước 1921, có thể
là một việc phổ biến ở Nga, hiện nay đã hầu như hoàn toàn chấm
dứt. Nông dân lấy làm hài lòng với tình hình của họ hiện nay.
Chúng tôi có thể mạnh dạn khẳng định như vậy” 1.Thật vậy, nhờ
thi hành chính sách thuế lương thực, chẳng những nền kinh tế
1

V.I.Lênin:Toàn tập Nxb. Tiến bộ Matxcơva,tập45,tr 331

- 18 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

nông dân mà cả nền kinh tế chung cả nước Nga khi đó đã có bước
phát triển đáng kể, chẳng những đời sống của nông dân mà đời
sống của quần chúng nhân dân lao động trong cả nước đã được cải
thiện. Việc nâng câo mức sống cho nhân dân đã kết hợp được với
việc phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, khối liên minh công
nông –cơ sở vững chắc của cách mạng xã hội chủ nghĩa - được
củng cố, khả năng thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội đã được thừa nhận là cái đang trở thành hiện thực.
Không chỉ coi việc thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa
bằng thuế lương thực là một nội dung cơ bản của NEP, V.I.Lê-nin
còn rất coi trọng thị trường, coi đó là một khâu quan trọng trong
phát triển kinh tế .
2.2.2- Cho phép tự do buôn bán
Đối với chính sách này Nhà nước Xô viết chủ trương mở
rộng thương nghiệp, cho phép tự do buôn bán, thiết lập quan hệ
hàng hoá- tiền tệ giữa Nhà nước và nông dân, giữa thành thị và

nông thôn. Lê-nin coi vấn đề tự do trao đổi hàng hoá, tự do buôn
bán, kinh doanh là vấn đề cần “đặt lên hàng đầu”, là “đòn xeo chủ
yếu” của chính sách kinh tế mới, là cái để kiến lập sự liên minh
kinh tế vững chắc giữa giai cấp vô sản và giai cấp nông dân, là cái
cần thiết để người nông dân mở rộng sản xuất và cải thiện đời
sống của họ. Để làm được điều đó V.I.Lê-nin khẳng định, phải sử

- 19 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

dụng cơ chế thị trường, sử dụng mối quan hệ tiền- hàng, phải
“nghiên cứu thị trường”
Luận chứng cho sự cần thiết phải thi hành chế độ tự do
buôn bán, tự do trao đổi sản phẩm khi chuyển sang thực hiện
NEP, V.I.Lê-nin cho rằng, trong thời gian đầu của bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, việc cho phép tự do buôn bán tự do trao đổi
sản phẩm trong phạm vi địa phương và có tổ chức thông qua các
cơ quan Nhà nước và hợp tác xã sẽ tạo mối liên hệ kinh tế giữa
thành thị và nông thôn. Sau này vào mùa Thu năm 1921, ông
khẳng định rằng, khi chuyển sang NEP thì thương nghiệp là hình
thức duy nhất có thể chấp nhận được của sự liên minh giữa nông
dân với tư cách là người sản xuất nhỏ và nền công nghiệp tiên tiến
đang ở giai đoạn hình thành .Tự do buôn bán sẽ dẫn đến phục hồi
giai cấp tư sản và đó là một mối nguy hiểm, nhưng mối nguy hiểm
đó không có gì đáng sợ, bởi lẽ NEP không có nghĩa là cho phép
hoàn toàn tự do buôn bán. Với NEP thì đó là tự do buôn bán có sự
điều tiết của Nhà nước xuất phát từ lợi ích của nền chuyên chính
vô sản và trên cơ sở mở rộng thương nghiệp quốc doanh, thương

nghiệp hợp tác xã. Bởi thế khi thực hiện NEP,chúng ta phải “Phát
triển sự trao đổi bằng đủ mọi phương tiện và làm cho bằng được,
không sợ chủ nghĩa tư bản, vì cái phạm vi đã qui định cho nó ở
trong nước ta

- 20 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

(về mặt kinh tế, thì do tước quyền sở hữu của địa chủ và tư sản ;
về mặt chính trị, do có chính quyền công nông)cũng đủ nhỏ hẹp,
đủ”vừa phải””1.Với NEP chúng ta sẽ sử dụng quan hệ thị trường
và thương nghiệp và việc thiết lập những hình thức liên kết mới
giữa nông nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn,
qua đó thúc đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo cơ
sở vững chắc cho hình thành quan hệ sản xuất mới .
2.2.3-chủ nghĩa tư bản nhà nước
Gắn nhiệm vụ cải tạo nền sản xuất tiểu nông, giai cấp công
nhân, những người sản xuất nhỏ với nhiệm vụ cải tạo thành phần
kinh tế tư bản tư nhân và giai cấp tư sản, kể cả khi thành phần
kinh tế này và tầng lớp tư sản mới được hình thành do việc thi
hành NEP, V.I.Lê-nin cho rằng chính sách hợp lý nhất khi chủ
nghĩa tư bản phực hồi đối với một nước quá độ nên chủ nghĩa xã
hội từ nền sản xuất nhỏ và nông dân chiếm đa số, không phải là
ngăn cấm hay ngăn chặn sự phát triển của thành phần kinh tế tư
bản chủ nghĩa này, mà là hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư
bản nhà nước .
Việc phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ như là
một biện pháp “quá độ đặc biệt”, một mắt khâu “trung gian” trong

suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông với
nền sản xuất nhỏ là phổ biến. Trong điều kiện giai cấp vô sản nắm
quyền lãnh đạo chính trị , chính quyền Xô viết lãnh trách nhiệm
1

V.I.Lênin:Toàn tập Nxb. Tiến bộ Matxcơva,tr 278-279

- 21 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

quản lý và điều tiết sản xuất, chủ nghĩa tư bản nhà nước chính là
“sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất” cho chủ nghĩa xã hội, là
“phòng trờ đi vào” chủ nghĩa xã hội mà Chính quyền Xô viết cần
phải bắc qua để “xuyên qua” nó đi vào chủ nghĩa xã hội. Nó
không chỉ đưa ta đi đến chủ nghĩa xã hội “bằng con đường chắc
chắn nhất”, mà còn “bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội được củng cố”
làm cho chủ nghĩa xã hội ngày càng hoàn thiện.
Coi việc sử dụng và phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước là
một trong những nội dung cơ bản của NEP, V.I.Lê không chỉ đề
xuất mà còn yêu cầu chính quyền Xô viết tổ chức và sử dụng
nhiều hình thức khác nhau của nó, như hình thức tô nhượng trong
công nghiệp, hình thức hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ,
hình thức tư nhân làm đại lý cho Nhà nước trong lĩnh vực thương
nghiệp, hình thức cho tư nhân thuê nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản
xuất ... Trong số các hình thức đó của chủ nghĩa tư bản nhà nước,
Lênin rất coi trọng hình thức hợp tác xã của những người sản xuất
nhỏ. Trong những năm thực hiện NEP, hình thức này của chủ
nghĩa tư bản nhà nước đã đặt ra cho chính quyền Xô viết nhiều

vấn đề nan giải, song đó lại là một hình thức rất phổ biến, hình
thức điển hình ở Nga khi ấy. Tuy nhiên, cần phải nói rằng, bản
thân Lênin đã dành một sự quan tâm hết sức đặc biệt cho hình
thức tô nhượng, hình thức cho tư bản nước ngoài thuê lại các xí
nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Chính thực tiễn nước Nga trong
- 22 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

những năm thực hiện NEP đã đem lại cho Lênin sự quan tâm đặc
biệt tới hình thức tô nhượng của chủ nghĩa tư bản nhà nước .
Sở dĩ V.I.Lê nin coi trọng loại xí nghiệp tô nhượng này, vì
theo ông, hình thức tô nhượng trong công nghiệp chẳng những có
khả năng bảo đảm cuộc sống khá giả cho một bộ phận nào đó, dù
là nhỏ, của giai cấp công nhân hiện đang làm việc tại các xí
nghiệp tô nhượng ấy, mà nó còn giúp cho giai cấp công nhân Nga
học tập cách quản lý hợp lý, đẩy nhanh việc khôi phục kinh tế,
củng cố nền hoà bình đang là đòi hỏi cấp thiết đối với chính quyền
Xô viết ở thời điểm đó.
Trong số các xí nghiệp tô nhượng, V.I.Lênin luôn dành sự
đánh giá cao hơn cho kiểu xí nghiệp tô nhượng theo lối công ty
liên doanh mà ở đó, nhà kinh doanh nước ngoài hợp tác với nhà
nước xã hội chủ nghĩa “theo cổ phần”. Ông coi việc sử dụng rộng
rãi các công ty liên doanh sẽ có lợi hơn cho công cuộc xây dụng
chủ nghĩa xã hội ở một nước nông nghiệp lạc hậu. Hình thức nhà
nước cho tư nhân thuê lại các xĩ nghiệp quốc doanh, hình thức
thương nghiệp tư doanh, hình thức hợp tác xã của những người
sản xuất nhỏ cũng là những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà
nước khi chúng phục tùng, phục vụ nhà nước xã hội chủ nghĩa và

chịu sự điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa .
V.I.Lê nin quan niệm chủ nghĩa tư bản nhà nước - đó không
chỉ là thành phần kinh tế biểu hiện dưới dạng “thuần tuý” nhất là
- 23 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

xí nghiệp tô nhượng, mà còn là sự hợp tác của nhà nước xã hội
chủ nghĩa với khu vực tư doanh trên cơ sở của chế độ sở hữu nhà
nước về tư liệu sản xuất. Những thành phần kinh tế đó là những
hình thức nhất định trong chính sách kinh tế của nhà nước xã hội
chủ nghĩa nhằm sử dụng phương pháp kinh doanh tư bản chủ
nghĩa, nhằm sử dụng và điều tiết đúng hướng chủ nghĩa tư bản tư
nhân, hướng chúng vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước vì
lợi ích của chủ nghĩa xã hội .
2.3- ý nghĩa của chính sách kinh tế mới
2.3.1- ý nghĩa của NEP với Liênxô
Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin có ý nghĩa cực kì
quan trọng, trước hết nó khôi phục được nền kinh tế Xô Viết sau
những năm chiến tranh. Chỉ trong một thời gian ngắn đã tạo ra
một bước phát triển quan trọng biến “nước Nga đói” thành một
đất nước có nguồn lương thực dồi dào. Từ đó nó khắc phục khủng
hoảng chính trị, củng cố lòng tin trong nhân dân vào sự thắng lợi
tất yếu và bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội theo nguyên lý mà
V.I.Lênin đã vạch ra.
Chính sách kinh tế mới của Lênin còn đánh dấu một bước
phát triển mới về lý thuyết nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo tư
tưởng này, nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá
độ, việc duy trì, phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ, quan tâm đến

lợi ích kinh tế cá nhân trước hết là của nông dân là những vấn đề
- 24 -


NEU-§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ

có tính nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa.
2.3.2- ý nghĩa của NEP đối với thế giới
Chính sách kinh tế mới không chỉ có ý nghĩa lớn lao đối
với nước Nga. Nó còn có ý nghĩa quốc tế và trong bối cảnh của
công cuộc cải tổ, đổi mới chủ nghĩa xã hội hiện nay, nó vẫn là cái
cần thiết, mang tính thời sự. Những tư tưởng cơ bản của Lênin về
NEP vẫn là chỉ dẫn lý luận cần thiết, kinh nghiệm thực hiện NEP
ở nước Nga vẫn là bài học kinh nghiệm bổ ích cho các nước đang
trong giai đoạn thực hiện bước quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã
hội, trong đó có nước ta .
II -Sự vận dụng chính sách kinh tế mới ở Việt Nam
1. sự vận dụng NEP tại Liên Xô, thành tích và bài học
kinh nghiệm
Quán triệt tư tưởng cơ bản của V.I.Lê-nin về NEP và thực
hiện một cách triệt để, có hiệu quả NEP trong công cuộc xây dựng
và phát triển kinh tế đầu những năm 20 không chỉ đưa nước Nga
nhanh chóng thoát khỏi cuộc khủng hoảng toàn diện đã trở thành
trầm trọng vào mùa xuân 1921, mà còn tạo ra cơ sở nền tảng vững
chắc cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước xã hội
chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Thành tựu không thể bác bỏ do
việc thực hiện NEP trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ
một nước tiểu nông, sản xuất hàng hoá nhỏ đã vượt ra ngoài
- 25 -



×