Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Tổ chức quản lý công tác lưu trữ của các Tổng Công ty 91

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 146 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ KIM BÌNH

Tổ chức quản lý công tác lưu trữ của các
Tổng Công ty 91

LUẬN VĂN THẠC SĨ LƯU TRỮ HỌC

HÀ NỘI, 2005


Phần mở đầu
1. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu đề tài
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đề ra chủ trương xây dựng và
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này lại được khẳng định rõ
trong Hiến pháp năm 1992 là “Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ
chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể,
sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”. [12, 142].
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đó đã không còn phù hợp với xu thế và
tình hình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta cũng như của cả thế giới hiện nay.
Việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần
kinh tế; thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật; mở rộng hợp tác kinh tế, khoa
học – kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới để phát triển vững mạnh kinh tế đất
nước và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Nhà nước Việt Nam
công nhận quyền tự do, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, quyền tự do cạnh tranh
lành mạnh, tính sinh lợi hợp pháp và đảm bảo quyền bình đẳng của tất cả các doanh
nghiệp trước pháp luật.


Từ những chủ trương, chính sách về đổi mới đường lối phát triển kinh tế đó, gần
20 năm qua các loại hình doanh nghiệp đã được thành lập và đi vào sản xuất, kinh
doanh có hiệu quả, góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển đi lên một cách rõ
rệt. Theo thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, hiện nay nước
ta có khoảng gần 160.000 doanh nghiệp. Trong số đó có gần 4.000 doanh nghiệp
nhà nước nhưng số lượng này sẽ giảm đi trong thời gian tới do quá trình cổ phần
hoá, chuyển đổi hình thức sở hữu; số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo
thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đến đầu tháng 02/2004 là 4246; còn lại là
doanh nghiệp dân doanh gồm các công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp
danh, doanh nghiệp tư nhân. Con số cụ thể của từng loại hình doanh nghiệp dân

1


doanh không thể thống kê được vì hiện nay có qúa nhiều đầu mối quản lý là các cơ
quan chức năng có thẩm quyền cấp giấy đăng ký kinh doanh. Hơn nữa nhiều doanh
nghiệp bị giải thể hoặc phá sản sau một thời gian được thành lập rất ngắn mà không
có báo cáo ngược trở lại với cơ quan quản lý. Những con số thống kê được chỉ là
trên sổ sách với các doanh nghiệp khi đăng ký kinh doanh, còn trên thực tế có thể
khác xa nhiều.
Mặc dù thời gian hoạt động và phát triển không dài so với các nước có nền kinh
tế phát triển nhưng trong quá trình hoạt động của mình, các doanh nghiệp đã sản
sinh một khối lượng văn bản rất đa dạng và phong phú về mặt hình thức cũng như
nội dung. Hệ thống văn bản này không chỉ phản ánh quá trình hình thành, phát triển,
tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mà còn phản ánh đường lối,
chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước Việt nam trong thời gian qua. Hệ
thống văn bản còn là công cụ hữu hiệu giúp các doanh nghiệp quản lý và điều hành
hoạt động sản xuất kinh doanh, là yếu tố góp phần đáng kể vào thành công của
doanh nghiệp nếu như được sử dụng bởi những nhà lãnh đạo doanh nghiệp giỏi. Và
ngược lại, văn bản cũng có thể là mặt trái của con dao hai lưỡi, là một trong những

nguyên nhân của những thua lỗ của nhiều doanh nghiệp, có khi là bị phá sản nếu
như được quản lý và sử dụng bởi những nhà lãnh đạo doanh nghiệp còn hạn chế về
kiến thức quản lý và kinh doanh. Tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của
các doanh nghiệp chứa đựng nhiều giá trị, có ý nghĩa không chỉ đối với doanh
nghiệp mà còn đối với cả quốc gia cần được bảo quản để phục vụ cho công tác
nghiên cứu sau này.
Một điều đã khiến cho những người nghiên cứu, những ai có quan tâm đến sự
nghiệp phát triển của ngành lưu trữ nói riêng và sự an toàn của di sản văn hoá dân
tộc nói chung là các doanh nghiệp chưa tổ chức quản lý tốt tài liệu hình thành trong
quá trình hoạt động của doanh nghiệp mình. Tại nhiều doanh nghiệp, tài liệu sau khi
hết giá trị hiện hành đều không được các doanh nghiệp quan tâm, chưa được tổ chức
bảo quản vì không có kho. Trừ một số doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn và các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tổ chức quản lý tài liệu và bước đầu tổ chức

2


khai thác sử dụng chúng, hiện vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp chưa xem trọng vai
trò, tác dụng của văn bản, tài liệu đối với hoạt động của doanh nghiệp mình. Các
doanh nghiệp tự tổ chức quản lý và sử dụng tài liệu theo cách riêng của mình, không
được thống nhất về chuyên môn nghiệp vụ và không theo một định chế nào. Đáng
suy nghĩ hơn là nhiều doanh nghiệp chỉ xem trọng tài liệu khi chúng còn giá trị phục
vụ cho các “thương vụ”, sau đó nhiều tài liệu bị hư hỏng, thất lạc, không được tổ
chức bảo quản hoặc bị đem tiêu huỷ mà không có sự can thiệp của các cơ quan quản
lý nhà nước.
Thời gian qua, công tác lưu trữ của Việt Nam chỉ mới quan tâm và quản lý được
TLLT của các cơ quan nhà nước và của các tổ chức chính trị – xã hội. Còn đối với
tài liệu của các doanh nghiệp thì chưa có một quy định, hướng dẫn cụ thể nào về mặt
nghiệp vụ từ thu thập, bảo quản, tổ chức khai thác và sử dụng hiệu quả sao cho phù
hợp với đặc điểm của khối tài liệu này. Rõ ràng là chúng ta không thể áp đặt những

quy định của Nhà nước về công tác lưu trữ tài liệu của các cơ quan quản lý nhà nước
đối với tài liệu của các doanh nghiệp do các doanh nghiệp có đặc điểm tổ chức và
hoạt động rất khác nhau tuỳ thuộc loại hình. Chính vì vậy, việc nghiên cứu công tác
tổ chức quản lý tài liệu của các doanh nghiệp, cụ thể hơn là của từng loại hình doanh
nghiệp hiện nay và trong tương lai đã trở thành một vấn đề cấp thiết đối với lưu trữ
Việt Nam. Chúng ta cần làm tốt nhiệm vụ này để lựa chọn đưa vào bảo quản những
tài liệu có giá trị, tổ chức khai thác sử dụng một cách có hiệu quả, trước tiên là phục
vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và sau đó là phục vụ cho
công tác nghiên cứu lâu dài vì các mục đích khác nhau của cuộc sống. Hơn thế nữa,
ngay từ bây giờ chúng ta có thể bảo vệ được nhiều tài liệu có giá trị của doanh
nghiệp trước nguy cơ bị mất mát, huỷ hoại như thực tế đang diễn ra hiện nay. Với
những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Tổ chức quản lý công tác lưu trữ của
các Tổng công ty 91” làm luận văn Thạc sĩ của mình.
Như số liệu trên đã nêu, doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm một số lượng rất
nhỏ trong tổng số doanh nghiệp hiện có của Việt Nam, nhưng các doanh nghiệp này
có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế đất nước, đặc biệt là các Tổng công

3


ty 91 (TCT 91). Có thể lý giải cho việc chọn nghiên cứu tổ chức quản lý công tác
lưu trữ của các TCT 91 như sau:
Mỗi loại hình doanh nghiệp có đặc điểm tổ chức và hoạt động sản xuất kinh
doanh khác nhau cho nên các loại hình văn bản hình thành trong hoạt động của các
loại hình doanh nghiệp này cũng khác nhau. Ngoài ra, vai trò, vị trí của mỗi loại
hình doanh nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân cũng khác nhau. Quan trọng hơn cả
là quyền sở hữu về vốn có vai trò quyết định đến quyền sở hữu TLLT - được xem là
bộ phận thuộc tài sản của doanh nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng cần chú ý đến khi
nghiên cứu công tác lưu trữ của các doanh nghiệp. Trong khi đó, các loại hình doanh
nghiệp hiện có của Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu vốn khác nhau nên không

thể đồng nhất chúng được.
Các doanh nghiệp dân doanh Việt Nam hiện nay chiếm đa số trong tổng số
doanh nghiệp Việt Nam. Không thể phủ nhận những đóng góp to lớn của các doanh
nghiệp này đối với sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước trong thời gian qua và trong
tương lai. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp dân doanh, cụ thể là các doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được thành lập với
quy mô nhỏ, hoạt động kinh doanh mang tính thời vụ nên phần lớn đêu không tổ
chức công tác lưu trữ. Đối với các doanh nghiệp dân doanh có quy mô lớn, hoạt
động sản xuất kinh doanh thành đạt, có chú trọng đến công tác công văn giấy tờ,
nhưng với lý do bảo vệ bí mật kinh doanh nên đều hạn chế sự tiếp cận của “người
ngoài” với tài liệu của doanh nghiệp mình. Điều quan trọng hơn nữa là ngoài Luật
Kế toán, Điều 94 của Luật Doanh nghiệp và Quyết định số 218/2000/QĐ-BTC ngày
29-12-2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành Chế độ Lưu trữ tài liệu kế
toán có quy định việc lưu trữ một số tài liệu của các doanh nghiệp mà chủ yếu là tài
liệu kế toán thì cho đến nay, Nhà nước chưa ban hành các văn bản quy định về công
tác văn thư lưu trữ của các doanh nghiệp nói chung, của các doanh nghiệp dân
doanh nói riêng. Có thể nói, việc nghiên cứu một cách sâu sắc và đầy đủ công tác
lưu trữ của các doanh nghiệp dân doanh hiện nay là còn thiếu các căn cứ pháp lý và
điều kiện thực tế.

4


Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm doanh nghiệp liên doanh
và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì hiện nay được xem là “vùng nhạy cảm”,
“vùng cấm” đối với các nhà nghiên cứu, thậm chí là đối với các cơ quan chức năng.
Chúng ta đều biết, mục đích của chính sách thu hút đầu tư nước ngoài là nhằm tạo
nguồn vốn từ kinh tế đối ngoại để tích luỹ ban đầu; tiếp thu khoa học kỹ thuật hiện
đại, công nghệ tiên tiến; học tập kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển; đổi
mới cơ cấu kinh tế đất nước và tham gia vào sự phân công lao động thế giới. Trong

mục đích học tập kinh nghiệm quản lý bao gồm cả việc nghiên cứu kinh nghiệm tổ
chức công tác công văn giấy tờ. Đây là cơ hội và cũng là mong muốn của những
người công tác trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, do rất nhiều lý do mà điều này chưa
thực hiện được.
Có thể khẳng định rằng tài liệu của các doanh nghiệp nhà nước thuộc quyền sở
hữu của Nhà nước vì chính Nhà nước đầu tư vốn và quyết định thành lập doanh
nghiệp. Chính vì thế, công tác công văn giấy tờ của các doanh nghiệp thuộc loại
hình này cần phải chịu sự quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng có thẩm
quyền. Tuy nhiên, công tác lưu trữ của các doanh nghiệp nhà nước đến nay vẫn chưa
được tổ chức thống nhất dưới sự quản lý của cơ quan chức năng. Một số doanh
nghiệp nhà nước chủ động tổ chức kho tàng để bảo quản tài liệu của doanh nghiệp
mình. Bên cạnh đó, cũng có nhiều doanh nghiệp chưa có sự quan tâm đúng mức đến
tài liệu khi chúng đã hết giá trị hiện hành, không tổ chức công tác lưu trữ. Các doanh
nghiệp nhà nước tổ chức công tác quản lý tài liệu của mình như thế nào: có cần theo
đúng các qui định của Nhà nước hay không? theo hình thức tập trung hay phân tán?
đã theo đúng theo quy trình nghiệp vụ chưa? tài liệu có được bảo vệ an toàn, có bị
hư hỏng, thất thoát hay không? hiệu quả tổ chức khai thác sử dụng như thế nào? . Đó
là những vấn đề vẫn chưa được giới khoa học hoặc các cơ quan chức năng quan tâm
nghiên cứu. Câu hỏi có nên hay không doanh nghiệp nhà nước, cụ thể ở đây là các
TCT 91 tự bảo quản TLLT của mình, sau khi hết thời gian quy định sẽ nộp trực tiếp
vào các TTLTQG, hoặc có nên hay không để cho doanh nghiệp tổ chức bảo quản tài
liệu của doanh nghiệp mình giống hình thức các lưu trữ chuyên ngành của các Bộ

5


Công An, Quốc phòng, Ngoại giao cũng cần được đặt ra để các nhà nghiên cứu cùng
nhau trao đổi. Thiết nghĩ đây là những vấn đề cần phải được nghiên cứu ngay từ bây
giờ, nếu không chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong thời gian tới.
2. Mục tiêu của đề tài

Thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn giải quyết hai mục tiêu chủ yếu sau:
- Một là khái quát được tình hình thực tiễn về tổ chức quản lý TLLT của các TCT
91
- Hai là trên cơ sở thực trạng của công tác quản lý TLLT của các TCT 91 đề xuất
một số giải pháp nhằm tổ chức tốt công tác quản lý TLLT của các doanh nghiệp này,
đặc biệt là đưa ra một mô hình mới đảm bảo bảo quản, tổ chức khai thác sử dụng
khối TLLT này một cách hiệu quả nhất. Đây có thể là cơ sở cho việc tiến hành
những bước nghiên cứu tiếp theo để tìm các biện pháp quản lý tài liệu của các loại
hình doanh nghiệp khác, trước tiên là các doanh nghiệp nhà nước được tổ chức dưới
các hình thức khác nhằm góp phần bảo vệ, làm đầy đủ và tăng giá trị Phông lưu trữ
Quốc gia Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Hiện nay Nhà nước Việt Nam thừa nhận sự tồn tại và hoạt động của các loại
hình doanh nghiệp sau:
- Doanh nghiệp nhà nước;
- Doanh nghiệp tư nhân;
- Các công ty gồm có công ty trách nhiệm hữu hạn, công cổ phần và công ty
hợp danh;
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm có doanh nghiệp liên doanh và
doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Đề tài chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu đối với các TCT 91 là các doanh
nghiệp nhà nước được tổ chức dưới hình thức TCT nhà nước. Hiện có tất cả 18 TCT

6


91 nhưng chỉ có 16 TCT có trụ sở tại Hà Nội, còn TCT Lương thực Miền Nam và
TCT Cao su Việt Nam có trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì thế tác giả
cũng chỉ có điều kiện điều tra, khảo sát các TCT ở Hà Nội, trong đó tập trung khảo
sát sâu tại các TCT Xi măng Việt Nam, TCT Dầu khí Việt Nam, TCT Điện lực Việt

Nam, TCT Bưu chính – Viễn thông Việt Nam và TCT Đường sắt Việt Nam. Do khả
năng và thời gian thực hiện có hạn nên đề tài cũng chỉ giới hạn điều tra, khảo sát,
nghiên cứu ở “cơ quan các TCT 91” mà không tiến hành nghiên cứu ở các đơn vị
thành viên của các TCT trên.
Đề tài không đi sâu nghiên cứu các giải pháp nghiệp vụ cụ thể công tác lưu trữ
của các TCT 91 mà chỉ tập trung nghiên cứu các mặt của công tác lưu trữ trong các
doanh nghiệp này, cụ thể là về công tác chỉ đạo và tổ chức, công tác tổ chức khoa
học TLLT, công tác kho tàng, công tác khai thác sử dụng TLLT và thu thập TLLT
của các TCT 91 vào lưu trữ lịch sử.
4. Nhiệm vụ của đề tài
Thứ nhất, nêu rõ vị trí, vai trò của các TCT 91 đối với nền kinh tế đất nước, khái
quát về tổ chức và hoạt động của các TCT 91. Đồng thời phân tích thành phần, nội
dung, ý nghĩa tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp này.
Thứ hai, khảo sát và nêu ra được thực trạng công tác quản lý tài liệu ở một số
TCT 91, đồng thời tìm hiểu các nguyên nhân của những hạn chế trong công tác lưu
trữ của các TCT 91 hiện nay. Từ đó đề ra các giải pháp nhằm tổ chức tốt công tác
lưu trữ và TLLT của các TCT 91 phù hợp với đặc điểm tổ chức, hoạt động của
doanh nghiệp nhằm bảo vệ an toàn, phát huy mọi giá trị TLLT của các doanh nghiệp
nhà nước, đảm bảo sự toàn vẹn, thống nhất Phông lưu trữ Quốc gia Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu đề tài trên cơ sở nghiên cứu phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là những phương pháp mang
tính chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu. Bên cạnh đó, các phương pháp

7


luận của lưu trữ học là nguyên tắc chính trị, nguyên tắc lịch sử, nguyên tắc toàn
diện tổng hợp là cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài này. Đồng thời, trong quá trình

nghiên cứu tác giả còn sử dụng nhiều các phương pháp cụ thể khác như: phương
pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, phương pháp logich, phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích, phương pháp điều tra, khảo sát, phỏng vấn.
6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Công tác công văn giấy tờ của các doanh nghiệp nói chung là vấn đề mới ít được
các nhà nghiên cứu lưu tâm đến trong mấy năm gần đây. Như vậy, có thể nói đây là
lĩnh vực còn mới mẻ, có rất nhiều vấn đề đang được đặt ra cần nghiên cứu, giải
quyết. Một lý do quan trọng nữa là việc khảo sát đối tượng để phục vụ nghiên cứu
có nhiều rào cản khiến cho nhiều đề tài nếu có đặt ra cũng khó có điều kiện thực
hiện. Tuy nhiên, trong thời gian qua cũng đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến lĩnh vực này, dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng chưa được thống nhất và
toàn diện. Cụ thể, đối với loại hình doanh nghiệp nhà nước có đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ “Các giải pháp hoàn thiện hệ thống văn bản của các doanh nghiệp
nhà nước” của nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Học Viên Hành chính quốc gia do
PGS.TSKH Nguyễn Văn Thâm chủ nhiệm đề tài và hoàn thành vào năm 2003. Đề
tài là công trình nghiên cứu khoa học có quy mô lớn nhất so với các công trình
nghiên cứu khác trong lĩnh vực công tác công văn giấy tờ của các doanh nghiệp.
Nhóm tác giả đã đi sâu khảo sát hệ thống văn bản hình thành trong hoạt động của
các doanh nghiệp nhà nước, tìm hiểu thực trạng ban hành và sử dụng văn bản, phân
tích nguyên nhân của những hạn chế trong công tác này và đưa ra một số giải pháp
nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản và thủ tục hành chính trong điều hành hoạt động
của các doanh nghiệp nhà nước. Chỉ dưới góc độ ban hành và sử dụng văn bản, đề
tài đã cho chúng ta thấy một thực trạng yếu kém của công tác này của các doanh
nghiệp nhà nước dù rằng từ trước đến nay chúng ta đều có chung suy nghĩ là công
tác văn thư, công tác lưu trữ trong loại hình doanh nghiệp này là tốt so với các loại
hình doanh nghiệp khác. Một hệ quả tất yếu là công tác lưu trữ trong các doanh
nghiệp này là vấn đề cần phải được nghiên cứu để có hướng giải quyết kịp thời.

8



Về hệ thống văn bản của các doanh nghiệp còn được tập trung nghiên cứu trong
đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia “Hệ thống văn bản quản lý hình thành trong
hoạt động của một số loại hình doanh nghiệp” do TS Vũ Thị Phụng chủ trì, hoàn
thành vào tháng 5/2003. Kết quả nghiên cứu, khảo sát của đề tài là đã làm rõ các
nguồn hình thành nên hệ thống văn bản của các doanh nghiệp, đặc điểm về thể thức,
văn phong nội dung văn bản của nhiều loại hình doanh nghiệp Việt Nam.
Như vậy, các nhà nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở công tác khảo sát và đánh giá hệ
thống văn bản của các doanh nghiệp. Còn vấn đề các doanh nghiệp “đối xử” như thế
nào với TLLT của doanh nghiệp mình thì chỉ mới được đặt ra nhưng chưa có điều
kiện thực hiện. Nhưng đây cũng là tín hiệu đáng mừng, cho thấy công tác công văn
giấy tờ của doanh nghiệp đã được giới lưu trữ học và xã hội quan tâm đến.
Trên tạp chí “Lưu trữ Việt Nam” trong những năm gần đây đã thấy xuất hiện một
số bài đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên số bài viết được công bố là rất ít, có thể liệt
kê cụ thể như sau: bài viết của tác giả Nguyễn Trọng Biên “Suy nghĩ về công tác lưu
trữ của doanh nghiệp trong thời kỳ đổi mới” – số 3/2000, Nguyễn Thị Huệ “Vài nét
về việc áp dụng “Chế độ lưu trữ tài liệu kế toán” mới vào các doanh nghiệp nhà
nước hiện nay” – số 5/2001. Song song với những bài viết này còn có hai bài viết
đăng trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học lần thứ hai của Khoa Lưu trữ học và Quản trị
văn phòng nhân kỷ niệm 5 năm thành lập Khoa và 35 năm đào tạo cán bộ lưu trữ ở
Việt Nam. Đó là bài “TLLT của các doanh nghiệp ở Việt Nam và những vấn đề
khoa học cần nghiên cứu” của TS. Vũ Thị Phụng và bài “Một số vấn đề về công tác
văn thư, lưu trữ ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh” của tác giả TS. Hồ Văn
Quýnh. Các bài viết đã nêu lên được tính cấp thiết của việc nghiên cứu công tác
công văn giấy tờ, đặc biệt là công tác lưu trữ của các doanh nghiệp trong cơ chế của
nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, các tác giả cũng chỉ mới gợi mở các vấn đề để
hướng sự nghiên cứu của những ai quan tâm. Riêng đối với bài viết của TS. Hồ Văn
Quýnh, tuy trong tiêu đề có nêu rõ giới hạn công tác văn thư, lưu trữ của các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh nhưng theo tôi giá trị tham khảo là không cao vì nếu đọc
kỹ thì bài viết chỉ chứa đựng những khái niệm thông thường.


9


Công tác văn thư lưu trữ của các doanh nghiệp cũng đã được sinh viên của Khoa
Lưu trữ học và Quản trị văn phòng chọn làm hướng viết khoá luận tốt nghiệp của
mình. Mặc dù đây là lĩnh vực mới, có tính hấp dẫn nhưng do khó có điều kiện tiếp
cận để khảo sát nên số lượng sinh viên nghiên cứu về vấn đề này không nhiều. Cụ
thể đó là khoá luận tốt nghiệp của Vũ Bá Dụ: “Tìm hiểu công tác xây dựng và quản
lý văn bản ở một số TCT 91”, khoá luận tốt nghiệp của Hoàng Thị Thu Thuỷ: “Hệ
thống văn bản và công tác văn thư lưu trữ trong một số công ty TNHH”. Đặc biệt có
hai khoá luận tuy chỉ mới nói đến đối tượng khảo sát là các doanh nghiệp liên doanh
và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài mà tác giả đã được đánh giá là những người
“dũng cảm”, mặc dù mức độ khảo sát chưa phải là sâu và toàn diện. Lý do là việc
tiếp cận để khảo sát, nghiên cứu loại hình doanh nghiệp này rất khó, không phải ai
cũng có thể làm được. Đó là khoá luận của Vũ Thị Tuệ Phương: “Bước đầu tìm hiểu
hệ thống văn bản ở công ty liên doanh YAMAHA MOTOR Việt Nam” và khoá luận
của Nguyễn Thị Ngọc: “Công tác quản lý văn bản và lưu trữ hồ sơ tàiliệu ở một số
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trên địa bàn Hà Nội”. Tuy với số lượng không
nhiều nhưng đối tượng khảo sát có thể nói là gần đủ các loại hình doanh nghiệp hiện
có của Việt Nam. Tuy nhiên, các luận văn trên bước đầu chỉ là nêu lên kết quả khảo
sát hệ thống văn bản, công tác văn thư lưu trữ của các doanh nghiệp và một số nhận
xét kiến nghị cá nhân.
Gần đây nhất còn có công trình nghiên cứu – luận văn thạc sĩ: “Xác định giá trị
tài liệu hành chính hình thành trong hoạt động của các TCT 100% vốn nhà nước”
của tác giả Lã Thị Hồng. Để đưa ra các nguyên tắc, phương pháp, các cơ sở pháp lý,
cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và xây dựng danh mục thành phần tài liệu hành chính
của các TCT 100% vốn nhà nước, tác giả luận văn đã phân tích một cách sâu sắc và
đầy đủ thành phần, nội dung và ý nghĩa về nhiều mặt TLLT của các doanh nghiệp
nhà nước. Đây là một công trình nghiên cứu rất công phu và có giá trị tham khảo lớn

cho những ai muốn nghiên cứu về công tác lưu trữ của các doanh nghiệp nhà nước,
đặc biệt là về nghiệp vụ xác định giá trị tài liệu

10


Qua đây có thể khẳng định được rằng, vấn đề đi sâu nghiên cứu công tác tổ chức
quản lý TLLT của các TCT 91 để đưa ra một số mô hình tổ chức quản lý nhằm bảo
quản và khai thác sử dụng có hiệu quả khối tài liệu này chưa được ai nghiên cứu
đến.
7. Các nguồn tài liệu tham khảo
Các đề tài nghiên cứu khoa học, các bài viết và khoá luận tốt nghiệp được nêu
trong Lịch sử nghiên cứu vấn đề là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng trong quá
trình thực hiện đề tài này. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo nhiều nguồn tài liệu
khác như:
- Các sách về lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ như: Lý luận và thực tiễn công
tác lưu trữ ; Lưu trữ học; Những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của lưu trữ cơ
quan.
- Văn bản của Đảng và Nhà nước về công tác văn thư và công tác lưu trữ như:
+ Pháp lệnh Lưu trữ quốc gia năm 2001;
+ Nghị định 111/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một só điều của Pháp lệnh Lưu trữ quốc gia;
+ Thông tư 40/1999/TT-TCCP ngày 24/01/1999 của Trưởng ban Tổ chức –
Cán bộ Chính phủ hướng dẫn tổ chức lưu trữ ở các cơ quan nhà nước các cấp;
+ Quyết định số 177/2003/QĐ-TTg ngày 01/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ
về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cục Văn thư Lưu trữ
Nhà nước
- Các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý doanh nghiệp như các
Văn kiện đại hội và các Nghị quyết của Đảng, Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh
nghiệp nhà nước, Luật Kế toán; các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Nghị

định của Chính phủ về việc thành lập và phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của
các TCT 91;

11


- Các văn bản do một số TCT 91 ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các phòng ban, về quy chế hoạt động của HĐQT, về công tác văn thư
và công tác lưu trữ của doanh nghiệp; các sổ đăng ký công văn đi - đến, các mục lục
hồ sơ.
- Các báo cáo kết quả nghiên cứu của một số đề tài khoa học, nhiều bài viết khác
đăng trên các báo và tạp chí chuyên ngành.
8. Đóng góp của đề tài
Đề tài nếu được triển khai và thực hiện tốt sẽ có những đóng góp sau:
- Đóng góp đầu tiên của đề tài là cho chúng ta hiểu được đặc điểm về tổ chức và
hoạt động của các TCT 91, giá trị tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của
các doanh nghiệp này. Đồng thời thấy được thực trạng công tác lưu trữ của các
doanh nghiệp này.
- Thông qua việc đề xuất một số giải pháp để tổ chức công tác lưu trữ của các
doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các TCT 91, tác giả mong muốn đề tài có thể trở
thành tài liệu tham khảo cho các các cơ quan chức năng, đặc biệt là Cục Văn thư lưu
trữ Nhà nước để có hành động thiết thực ngay từ bây giờ nhằm bảo vệ khối tài liệu
này trước nguy cơ ngày càng bị hư hỏng, thất thoát.
9. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chính của đề tài được chia
thành 3 chương

12



Chương 1. Khái quát lịch sử hình thành, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt
động của các TCT 91
Chương này sẽ nêu khái quát về lịch sử hình thành, vị trí và vai trò của các TCT
91 đối với nền kinh tế đất nước; về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của các
TCT 91; làm rõ các mối quan hệ của các TCT 91 với Chính phủ và các cơ quan quản
lý nhà nước, với chính quyền địa phương và các đối tác, với các đơn vị thành viên....
Với tính chất là dẫn luận, mục đích của chương này là giúp chúng ta thấy được đặc
điểm tổ chức và hoạt động của các TCT 91 để hình dung được các nguồn hình thành
nên hệ thống văn bản, sau đó sẽ là TLLT của các TCT 91. Đặc biệt là từ vị trí, vai
trò quan trọng của các TCT 91 trong nền kinh tế quốc dân chúng ta sẽ có cơ sở để
khẳng định giá trị của khối tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của các
doanh nghiệp này đối với các doanh nghiệp nói riêng và đối với quốc gia nói chung
ở chương tiếp theo.
Chương 2. Thực trạng công tác lưu trữ của các TCT 91
Đây là một trong hai chương chính của luận văn. Đó là phần trình bày kết quả
khảo sát tình hình công tác lưu trữ và TLLT của các TCT 91 dưới nhiều góc độ: đặc
điểm về số lượng, về loại hình, về thành phần và nội dung TLLT. Đặc biệt, chương
2 chú trọng phân tích ý nghĩa, giá trị TLLT của các TCT 91 đối với chính doanh
nghiệp và đối với quốc gia. Qua kết quả khảo sát, chúng ta hiểu được thực trạng
công tác lưu trữ của các doanh nghiệp điển hình này, mức độ can thiệp của các cơ
quan chức năng trong việc quản lý công tác lưu trữ và khối TLLT của các TCT 91.
Trong chương này chúng tôi cũng đã tìm rõ các nguyên nhân của thực trạng để từ đó
có cơ sở đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tổ chức tốt công tác lưu trữ và quản lý
TLLT của các doanh nghiệp này.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lưu trữ của các TCT 91
Chương này đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lưu trữ của các
TCT 91 phù hợp với đặc điểm tổ chức, hoạt động của các doanh nghiệp. Trong các
giải pháp, chúng tôi đặc biệt chú trọng vào việc đưa ra mô hình tổ chức quản lý

13



TLLT của doanh nghiệp ở gia đoạn lưu trữ lịch sử, đảm bảo nguyên tắc bảo quản tập
trung, thống nhất tài liệu Phông lưu trữ Quốc gia Việt Nam. Đó là thành lập Trung
tâm lưu trữ Kinh tế Quốc gia. Vì đây là mô hình mới, được đề xuất chỉ mới trong
phạm vi một luận văn tốt nghiệp cao học nên chúng tôi thấy cần phải phân tích cơ sở
pháp lý và cơ sở thực tiễn của việc tổ chức bảo quản tài liệu của các doanh nghiệp
này theo mô hình được đề ra.
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi đã gặp không ít khó khăn khi tiến hành
điều tra, khảo sát tại một số TCT 91. Đây cũng là trở ngại chung của nhiều đối
tượng khi muốn tiếp cận với tài liệu của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhờ sự giúp
đỡ nhiệt tình của một số lãnh đạo Văn phòng và cán bộ phụ trách công tác văn thư
lưu trữ của các TCT 91 như: TCT Xi măng Việt Nam, TCT Bưu chính Viễn thông
Việt Nam, TCT Điện lực Việt Nam....chúng tôi đã có những thông tin, tài liệu quý
báu để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Do trình độ và kinh nghiệm bản thân tác giả
còn nhiều hạn chế, nên mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn luận văn còn có
nhiều thiếu sót. Hơn nữa, trong luận văn có nhiều nhận định mang tính chủ quan
nhưng chủ ý của tác giả cũng chỉ là mong muốn ngành Lưu trữ Việt Nam có một vị
trí tương xứng trong xã hội. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các
nhà nghiên cứu, của bạn bè và những ai quan tâm đến vấn đề này với hy vọng các
công tình nghiên cứu tiếp theo sẽ đạt được chất lượng cao hơn.
Luận văn được hoàn thành với sự hướng dẫn, giúp đỡ chu đáo, nhiệt tình của
PGS. TSKH Nguyễn Văn Thâm. Nhân đây, tôi xin được chân thành cảm ơn Thầy,
cảm ơn các cơ quan và các cá nhân đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.

Hà Nôi, ngày

tháng

năm 2005


Tác giả

Nguyễn Thị Kim Bình

14


Chương 1
Khái quát lịch sử hình thành, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của các
Tổng công ty 91 (TCT 91)
1.1. Lịch sử hình thành và vị trí, vai trò của các TCT 91 trong nền kinh
tế đất nước
1.1.1. Lịch sử hình thành của các TCT 91
Trải qua một thời kỳ dài của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp cho đến
sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986, vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế quốc dân do các xí nghiệp và liên hiệp các xí nghiệp đảm nhận. Tuy nhiên, do tổ
chức manh mún, thiếu sự liên kết cộng với việc nguồn vốn quá hạn hẹp nên nhiều
liên hiệp các xí nghiệp không những không đảm đương được trọng trách mà còn trở
thành gánh nặng của ngân sách nhà nước do làm ăn luôn thua lỗ. Các doanh nghiệp
này chưa bắt nhịp được với những thay đổi của cơ chế thị trường mà chủ yếu là vẫn
hoạt động theo mệnh lệnh hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước. Đã đến lúc
vai trò chủ đạo của nền kinh tế phải được khẳng định bằng sức mạnh kinh tế, tài
chính chứ không phải dựa vào quyền lực nhà nước, đặc biệt là khi Đảng và Nhà
nước chủ trương đổi mới đường lối phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Việc tập hợp các nguồn lực phân tán này để thành lập các
tập đoàn kinh doanh sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước sử dụng hợp lý
các nguồn lực, có nhiều thuận lợi trong việc liên kết, hỗ trợ giữa các doanh nghiệp
với nhau và với các đối tác trong và ngoài nước là điều tất yếu cần thực hiện trong
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng của việc tăng cường

hơn nữa vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là việc cần tạo ra một hệ thống các doanh
nghiệp lớn tại các ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, Đảng đã đưa chủ
trương hình thành một số tổ chức kinh tế lớn – các TCT nhà nước với mức tích tụ,
tập trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Việc
thí điểm thành lập các TCT nhà nước với quy mô lớn càng nhằm xoá bỏ dần chế độ

15


Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản đối với doanh nghiệp nhà nước, tiến đến loại
bỏ những TCT mang tính hành chính trung gian. Hơn nữa, các TCT nhà nước có
quy mô lớn sẽ là mô hình thí điểm để có thể hình thành các Tập đoàn kinh doanh
chuyên ngành hoặc đa ngành có tầm vóc quốc tế, quốc gia hoặc khu vực, địa bàn...
Thực hiện các chủ trương trên của Đảng, ngày 7-3-1994 Thủ tướng Chúnh
phủ ký Quyết định 90-TTg về việc tiếp tục sắp xếp doanh nghiệp nhà nước và Quyết
định 91-TTg về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh. Các TCT được thành
lập theo Quyết định 91-TTg (gọi tắt là Quyết định 91) của Thủ tướng Chính phủ là
các TCT đặc biệt quan trọng, trực thuộc Chính phủ và do Thủ tướng Chính phủ
quyết định thành lập, giải thể, quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức
danh quản lý, điều hành quan trọng cũng như phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt
động. Các TCT này được gọi tắt là các TCT 91 và là cơ sở để thí điểm thành lập các
tập đoàn kinh doanh, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo những
yêu cầu cần thiết cho thị trường trong nước và có triển vọng mở rộng quan hệ kinh
doanh ra nước ngoài.
Như vậy, TCT 91 trước tiên là doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước sở hữu
toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định của
Luật Doanh nghiệp nhà nước, được tổ chức dưới hình thức TCT và thuộc loại hình
TCT nhà nước được quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật Doanh nghiệp nhà nước
năm 2003. Theo khoản 1 Điều 47 Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 thì: “TCT

do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập là hình thức liên kết và tập hợp các
công ty thành viên hạch toán độc lập có tư cách pháp nhân, hoạt động trong một
hoặc một số chuyên ngành kinh tế – kỹ thuật chính, nhằm tăng cường tích tụ,, tập
trung vốn và chuyên môn hoá kinh doanh của các đơn vị thành viên và toàn TCT”.
Các TCT 91 trước hết là các tổ chức kinh tế có nhiệm vụ thực hiện hoạt động sản
xuất kinh doanh các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước giao. Ví dụ:
- Điều 2 Nghị định 51/CP ngày 01/8/1995 của Chính phủ phê duyệt Điều lệ tổ
chức và hoạt động của TCT Bưu chính Viễn thông quy định: “TCT Bưu chính Viễn
thông có nhiệm vụ kinh doanh và phục vụ về bưu chính viễn thông theo quy hoạch,

16


kế hoạch và chính sách phát triển của Nhà nước, bao gồm xây dựng kế hoạch phát
triển, đầu tư, tạo nguồn vốn đầu tư; phát triển và quản lý khai thác mạng lưới bưu
chính viễn thông công cộng và quốc gia; kinh doanh các dịch vụ bưu chính viễn
thông; bảo đảm thông tin liên lạc phục vụ sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; phục vụ
công ích, quốc phòng, an ninh, ngoại giao; sản xuất công nghiệp và tư vấn về bưu
chính viễn thông; khảo sát, thiết kế xây dựng công trình bưu chính viễn thông; xuất
nhập khẩu cung ứng vật tư, thiết bị bưu chính viễn thông; hợp tác, liên doanh liên
kết với các tổ chức kinh tế trong ngoài nước...”
- Diều 2 Nghị định 08/CP ngày 08/02/1995 của Chính phủ phê duyệt Điều lệ
tổ chức và hoạt động của TCT Xi măng Việt Nam quy định: “TCT Xi măng Việt
Nam có nhiệm vụ kinh doanh xi măng, tấm lợp amiăng – xi măng theo quy hoạch,
kế hoạch và chính sách của Nhà nước, xây dựng kế hoạch phát triển, đầu tư, tạo
nguốn vốn đầu tư, xây dựng, sản xuất, lưu thông, tiếp thị, vận chuyển, tiêu thụ, xuất
nhập khẩu, cung ứng vật và thiết bị chuyên dùng, tiến hành các hoạt động kinh
doanh khác phù hợp với pháp luật, chính sách của Nhà nước”.
Về nguyên tắc, Quyết định 91 quy định TCT 91 phải có 7 đơn vị thành viên
trở lên, có vốn pháp định ít nhất là 1.000 tỷ đồng. Các TCT 91 được thành lập và

hoạt động trên cơ sở liên kết “các đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau
về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị .....
nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất
thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao; nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của
các đơn vị thành viên và của toàn TCT; đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế”[26, 478].
Ngoài ra, các TCT 91 có thể hoạt động kinh doanh đa ngành song nhất thiết phải có
định hướng ngành chủ đạo, mỗi công ty được tổ chức công ty tài chính để huy động
vốn phục vụ cho yêu cầu phát triển của nội bộ công ty hoặc liên doanh với các đơn
vị kinh tế khác.
Trong 10 năm qua, với chủ trương thành lập thí điểm một số TCT lớn, về lâu dài
sẽ là các tập đoàn kinh doanh có thế và lực mạnh để hổ trợ cho các doanh gnhiệp
nhà nước còn lại và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển,

17


Đảng và Nhà nước đã tập trung ưu tiên, tạo điều kiện thuận lợi từ vốn đến các chính
sách về thuế và đất cho doanh nghiệp nhà nước nói chung, các TCT 91 nói riêng.
Những ưu tiên này để tạo cho các doanh nghiệp nhà nước những bước đầu tiên quen
dần với cơ chế thị trường, tạo đà cho phát triển sau này. Tuy nhiên, do một thời gian
dài đã quen với tính thụ động, hoạt động sản xuất kinh doanh luôn theo kế hoạch,
chỉ tiêu được giao nên thời gian đầu các doanh nghiệp nhà nước đã gặp không ít khó
khăn. Thậm chí nhiều doanh nghiệp thành viên làm ăn thua lỗ triền miên, gây hao
hụt vốn của Nhà nước. Một số TCT 91 đã biến những ưu tiên của Nhà nước thành
thế độc quyền trên thị trường, tạo nên những bất bình đẳng trong môi trường kinh
doanh giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, trái với quy
định tại điều 22 của Hiến pháp năm 1992: “Các cơ sở kinh doanh thuộc mọi thành
phần kinh tế......đều bình đẳng trước pháp luật” [11,144]
Trước tình hình đó, Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 24/9/2001 Hội nghị lần thứ
ba Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX “Về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới,

phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước” đã đưa ra quan điểm chỉ
đạo: “Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, tập
trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ
lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; ...đẩy mạnh cổ phần hoá những doanh
nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn.....Tiếp tục dổi mới cơ chế
quản lý để doanh nghiệp nhà nước kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác
và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác”[23,
7]. Chủ trương của Đảng về xắp xếp, đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước là theo
tinh thần giảm số lượng và tăng chất lượng nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có
nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động để sử dụng có hiệu quả vốn,
tài sản nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào sản xuất kinh doanh. Bằng biện
pháp đa dạng hoá sở hữu dưới nhiều hình thức như cổ phần hoá, giao doanh nghiệp
cho tập thể người lao động, bán, cho thuê và giải thể những doanh nghiệp nhà nước
làm ăn thua lỗ kéo dài, cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đến nay đã có nhiều thay đổi.
Theo đó, các TCT 91 đều phải lập đề án về đổi mới và sắp xếp lại mà trọng tâm là

18


cổ phần hoá các đơn vị thành viên để trình Chính phủ phê duyệt, theo dõi chỉ đạo.
Tuy nhiên, tiến độ thực hiện công tác nàytại các doanh nghiệp nhà nước nói chung là
rất chậm so với đề án. Nghị quyết số 34-NQ/TW ngày 03/02/2004 Hội nghị lần thứ
chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX “về một số chủ trương, chính sách,
giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của
Đảng” lại nhấn mạnh việc “tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
khu vực doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá mạnh hơn nữa” [54,191].
Tiếp theo, ngày 30-3-2004 Chính phủ ban hành Chỉ thị số 11/2004/CT-TTg về việc
đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị quyết TW 9
(khoá IX) và tổ chức triền khai Luật Doanh nghiệp nhà nước. Chỉ thị “ xác định sắp
xếp, đổi mới doanh nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm của các năm 2005 – 2005. Nghiêm

túc thực hiện nội dung và phấn đấu đẩy nhanh lộ trình thực hiện Đề án tổng thể sắp
xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước đẫ được phê duyệt”. Kết quả là từ chỗ doanh
nghiệp rất phân tán, dàn trải trong các ngành, lĩnh vực đã tập trung được vào một số
lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Năm 2001 cả nước có 5651 doanh nghiệp nhà
nước. Sau 4 năm thực hiện đổi mới và sắp xếp lại, đến đầu năm 2005 còn 3264
doanh nghiệp nhà nước. Mục tiêu phấn đấu là đến giữa năm 2006 còn lại 1800
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. (Nguồn: Ban chỉ đạo đổi mới phát triển doanh
nghiệp – Văn phòng Chính phủ). Quy mô vốn của doanh nghiệp được tăng lên đáng
kể. Năm 2001 vốn bình quân của doanh nghiệp nhà nước khoảng 24 tỷ đồng, đến
đầu 2005 đã tăng lên 63,6 tỷ đồng 1.
Sau một thời gian tích luỹ kinh nghiệm và củng cố thế lực trên thị trường trong
nước cũng như thị trường thế giới, đồng thời thực hiện mục tiêu các Nghị quyết của
Đảng đề ra, một số TCT 91 như TCT Bưu chính Viễn thông, Điện lực, Dầu khí,
Than, Dệt may đã xây dựng đề án thành lập tập đoàn kinh doanh trình Chính phủ
phê duyệt. Ngày 23-3-2005 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 58/2005/QĐ-CP
phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông. Theo kế

1

Năm 2005: Cổ phần hoá 1460 doanh nghiệp. Diễn đàn Doanh nghiệp. Số 16 ngày
25/2/2005

19


hoạch, đến giữa năm 2006 sẽ có 5 tập đoàn kinh doanh thí điểm ra đời. Đó là các tập
đoàn Dầu khí, Bưu chính -Viễn thông, Điện lực, Than và Dệt may. Đây là giai đoạn
nhiều gian nan thử thách của Chính phủ Việt Nam và của các TCT 91 vì so với các
tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia của nhiều nước trên thế giới thì các tập đoàn kinh
doanh của Việt Nam còn non trẻ và quy mô thua kém về nhiều mặt. Nhưng qua đó

cho thấy sự kiên quyết và nổ lực của nhân dân Việt Nam trong việc thực hiện đường
lối phát triển kinh tế đã chọn.
1.1.2. Vị trí, vai trò của các TCT 91 trong nền kinh tế đất nước
Kể từ sau khi ban hành Quyết định 91, đến nay cả nước có 18 TCT 91 nắm
giữ vị trí quan trọng trong hầu hết những ngành kinh tế then chốt, có tính chất mũi
nhọn của đất nước như: dầu khí, năng lượng, khai khoáng, luyện kim, cơ khí, điện
tử, hoá chất, giao thông vận tải....Đó là:
TCT Dầu khí Việt Nam;
TCT Điện lực Việt Nam;
TCT Bưu chính – Viễn thông Việt Nam;
TCT Xi măng Việt Nam;
TCT Than Việt Nam;
TCT Hàng hải Việt Nam;
TCT Hàng không Việt Nam;
TCT Đường sắt Việt Nam
TCT Công nghiệp – Tàu thuỷ Việt Nam;
TCT Dệt may Việt Nam;
TCT Thép Việt Nam;
TCT Giấy Việt Nam;
TCT Hoá chất Việt Nam;

20


TCT Cao su Việt Nam;
TCT Cà phê Việt Nam;
TCT Thuốc lá Việt Nam;
TCT Lương thực Miền Bắc;
TCT Lương thực Miền Nam.
Hầu hết các TCT 91 đều đã trải qua gần 10 năm hình thành và phát triển. Chỉ

riêng TCT Đường sắt Việt Nam mới được thành lập chưa đầy 2 năm theo Quyết
định số 34/2003/QĐ-TTg ngày 04/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành
lập Tổng công ty Đường sắt Việt Nam. Các TCT 91 thường được ví như “những quả
đấm thép của nền kinh tế quốc dân” vì chỉ được thành lập tại các ngành, lĩnh vực
then chốt, đóng vai trò chủ đạo trong toàn nền kinh tế, nắm giữ lực lượng vật chất
quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết kinh tế vĩ mô.
Hiện nay, 18 TCT 91 với hơn 600 doanh nghiệp thành viên nắm giữ số vốn là
143.000 tỷ đồng trong tổng số 214.000 tỷ đồng vốn, chiếm 70% tổng số vốn của
toàn bộ khối doanh nghiệp nhà nước. Bình quân vốn của mỗi TCT 91 là hơn 7.944
tỷ đồng. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn thì các TCT 91 vẫn còn hạn chế về vốn
dẫn đến yếu về lực và tất nhiên là cả về khả năng cạnh tranh so với các tập đoàn
kinh tế khu vực và thế giới trong xu thế hội nhập hiện nay. Bên cạnh vốn do các
TCT tự huy động hoặc được bổ sung từ lợi nhuận, hàng năm, Nhà nước phải bổ
sung vốn cho các TCT 91 những khoảng kinh phí rất lớn. Để chứng minh cho nhận
định này, chúng ta có thể so sánh các con số sau đây.
Năm 2002:
Tổng số vốn của tất cả các TCT 91 là

75.000 tỷ đồng

Vốn bình quân của mỗi TCT 91 là

4.450 tỷ đồng 2

2

Sắp xếp lại các TCT nhà nước. Thời báo Kinh tế Việt Nam. Số 69 ngày 10-62002.

21



Và đến đầu năm 2005 vốn của các TCT 91 đã đạt được con số như đã nêu
trên. Điều này cho thấy, mặc dù ngân sách nhà nước còn rất hạn hẹp, nhiều lĩnh vực
kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng...yêu cầu sự đầu tư thích đáng nhưng Đảng và
Nhà nước đã và đang quyết tâm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế đã đặt ra.
- Các TCT 91 thực sự là lực lượng nòng cốt trong tăng trưởng kinh tế. Kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này đã có tác dụng chi phối, có
ý nghĩa quyết định sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Trong
những năm qua, các TCT 91 đã đóng góp nhiều cho ngân sách nhà nước, duy trì
mức tăng trưởng cao so với toàn bộ khu vực doanh nghiệp nhà nước, nắm hầu hết
các đầu mối xuất nhập khẩu quan trọng. Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý
kinh tế Trung ương, năm 2004, các TCT 91 chiếm 70-75% giá trị tổng sản lượng,
đóng góp 70% mức nộp ngân sách của toàn bộ khối doanh nghiệp nhà nước. Điển
hình có thể nêu ra đó là TCT Dầu khí Việt Nam: năm 2004, GDP của Việt Nam đạt
khoảng 40 tỷ USD thì chỉ riêng xuất khẩu dầu thô đã đạt được gần 5 tỷ USD [8, 4849]. Đứng sau TCT dầu khí Việt Nam thì đóng góp của các TCT Điện lực, Bưu
chính – Viễn thông và Dệt may là rất lớn.
- Các TCT 91 còn khẳng định vị trí quan trọng của mình đối với nền kinh tế
quốc dân thông qua hoạt động cung ứng những hàng hoá, dịch vụ phục vụ đời sống
xã hội. Nắm giữ hầu hết các ngành then chốt và là ngành kinh tế mũi nhọn của nền
kinh tế quốc dân, các TCT 91 đã thực hiện tốt vai trò của mình trong việc hỗ trợ các
thành phần kinh tế khác phát triển, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Trong gần 10 năm qua, các TCT 91 đã đẩy nhanh quá trình
tích tụ vốn, mở rộng sản xuất theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. nâng cao năng lực
sản xuất, mở rộng thị trường. Nhiều sản phẩm như hàng dệt may, cà phê, cao su đã
có mặt ở nhiều nước, làm cho thương hiệu hàng Việt Nam được quảng bá rộng rãi
trên thị trường thế giới. Kết quả này không chỉ nâng cao kim ngạch xuất khẩu, tăng
nguồn thu nhập ngoại tệ cho cả nước mà còn có tính chất mở đường cho nhiều
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác của đất nước thâm nhập vào thị
trường thế giới trong tiến trình hội kinh tế quốc tế. Theo thống kê, đối tác chính


22


trong nhiều dự án liên doanh với nước ngoài chính là các đơn vị thành viên của các
TCT 91. Ví dụ: “Hiện nay, TCT Dầu khí Việt Nam có 20 đơn vị thành viên tham gia
vào 25 liên doanh hoạt động trên nhiều lĩnh vực công nghiệp dầu khí tại Việt Nam
với các đối tác trong và ngoài nước, góp vốn và thực hiện giám sát quản lý 26 hợp
đồng tìm kiếm thăm dò, khai thác dầu khí củacác nhà đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam” [7, 35]. Điều này đã góp phần thực hiện thành công chính sách thu hút đầu tư
nước ngoài của Đảng và Nhà nước. Đi cùng với vốn của các nhà đầu tư nước ngoài
là việc chuyển giao các công nghệ tiên tiến cũng đã được các TCT 91 đưa vào áp
dụng và cải tiến một cách sáng tạo, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo ra
nhiều sản phẩm có chất lượng được thị trường trong nước và thị trường thế giới chấp
nhận.
Cần nhấn mạnh rằng, hoạt động nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ
mới đòi hỏi lượng vốn rất lớn mà các doanh nghiệp nhà nước riêng lẻ hoặc doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không thể có khả năng huy động được.
Chính các TCT 91 mới có khả năng này và kết quả là đã cải thiện được trình độ
khoa học kỹ thuật và công nghệ vốn lạc hậu của doanh nghiệp Việt Nam.
- Do nắm giữ hầu hết các ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đất nước,
các dự án đầu tư lớn phần lớn là tập trung ở các TCT 91 nên các TCT 91 còn là công
cụ để Chính phủ thực hiện các chính sách phát triển kinh tế xã hội. Các TCT 91 là
những doanh nghiệp có quy mô lớn nhất Việt Nam, chiếm tỷ trọng lớn trong thị
phần nội địa: 94% sản lượng điện, 97% sản lượng than, 63% sản lượng thuốc lá,
59% sản lượng xi măng, 50% sản lượng giấy, chi phối thị trường dầu thô, viễn
thông3...., là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua các TCT
91 Chính phủ kiềm chế tăng giá, chỉ tiêu lạm phát, đảm bảo các cân đối lớn của nền
kinh tế và.góp phần ổn định trật tự, an ninh xã hội. Những biến động về giá các sản
phẩm của các TCT này đều gây ảnh hưởng sâu sắc đến kinh tế đất nước và tình hình
chính trị xã hội. Nhiều dự án lớn phải dừng lại hoặc chậm tiến độ thực hiện do việc

3

Hình thành các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam: TCT nhà nước – “át chủ bài”?.
Báo Pháp luật Việt Nam số 131 ngày 02/6/2005.

23


tăng giá thép từ cuối năm 2003 đến cuối năm 2004 mà trong đó TCT Thép Việt Nam
đóng vai trò quyết định. Tình hình kinh tế xã hội mấy tháng đầu năm nay sẽ biến
động rất lớn nếu như Chính phủ không cương quyết chỉ đạo nghiêm cấm việc tăng
giá các sản phẩm điện, xi măng, thép, than.....do việc Chính phủ quyết định tăng giá
xăng dầu bởi sự mất ổn định của thị trường dầu thô trên thế giới.
- Các TCT là nơi tạo việc làm và cuộc sống ổn định cho nhiều người lao động.
Trong tổng số 1,6 triệu lao động của toàn khối doanh nghiệp nhà nước thì số lao
động của 18 TCT 91 chiếm 600.000 người. Các TCT 91 có sức mạnh về vốn, kỹ
thuật – công nghệ; nguồn nhân lực có trình độ cao nên có nhiều khả năng mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế, tham gia ngày càng sâu rộng vào phân công lao động quốc
tế. Như trên đã nêu, đối tác chính trong các dự án liên doanh với các nhà đầu tư
nước ngoài là các doanh nghiệp thành viên của các TCT 91. Các dự án liên doanh
này không những tạo công việc ổn định cho số lượng lớn người lao động mà còn là
nơi đào tạo cho đất nước đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ cao và đội ngũ công
nhân lành nghề, có tác phong làm việc khoa học, thích ứng với trình độ công nghệ
cao như mục đích của Đảng và Nhà nước đã đề ra trong việc thu hút vốn đầu tư
nước ngoài.
1.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động của các TCT 91
Để thực hiện tốt các mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra đối các TCT 91, Luật Doanh
nghiệp nhà nước năm 2003 đã xác định mô hình tổ chức của TCT 91 bao gồm
những bộ phận sau:
- Hội đồng quản trị (HĐQT);

- Ban kiểm soát;
- Tổng giám đốc và các Phó Tổng giám đốc;
- Kế toán trưởng và bộ máy giúp việc – các phòng ban chức năng;
- Các doanh nghiệp là các đơn vị thành viên
1.2.1. Hội đồng quản trị

24


×