Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

y mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp thuộc tổng công ty ximăng việt nam nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế thị trường ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.81 KB, 97 trang )

21
MỞ ĐẦU
Nam là CPH hầu hết các DNNN thành
viên không phân biệt quy mô với các
mức độ khác nhau về cổ phần của nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế thời gian
qua, việc tiến hành CPH các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty còn diễn ra
chậm chạp, hiệu quả thấp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, một
1. Tính cấp thiết của đề tài:
trong những nguyên nhân quan trọng là các doanh nghiệp chưa có giải pháp
Kể từ đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, nước ta thực hiện
xúc tiến CPH doanh nghiệp. Đó cũng là lý do tác giả lựa chọn đề tài: “Đẩy
công cuộc đổi mới nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam nhằm
phần vận hành theo cơ chế thị trường. Đảng chủ trương đa dạng hoá hình thức
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam” để tìm hiểu các
sở hữu, trong đó có việc đổi mới DNNN mà cổ phần hoá là hình thức đem lại
nguyên nhân làm chem, tiến trình CPH.
hiệu quả cao, kích thích, tạo động lực cho sản xuất kinh doanh phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu:

Thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN đã bộc lộ nhiều

bất cập,
kém
chưa
thực chỉ
sự xứng
đángNam
với vai
Cổ
phầnhoạt


hoá động
DNNN
là hiệu
vấn quả,
đề mới
không
với Việt
mà trò
cònchủ
vớiđạo
cả
trong nền
nhiều
phần. DNNN
chủ yếu
từ
nhiều
nướckinh
trêntếthế
giớithành
nói chung.
Là nướcchiếm
đangphần
phát vốn
triểnđầu
vớitưnhững
bước
ngân sách.
bộnền
quản

lý có
lực, cán
chuyên
đào
chuyển
đổiĐội
banngũ
đầucán
sang
kinh
tế năng
thị trường
nênbộquá
trình môn
CPHđược
của Việt
tạo
chủ yếu
DNNN.
Các nghiệp
DNNN quy
chiếm
lĩnh việc
vực
Namcũng
chủ tập
yếu trung
đang thực
hiệnởvới
các doanh

môlĩnh
nhỏ.các
Vì vậy
quan
nghiên cứu vấn đề CPH DNNN đang được quan tâm.
trọng, then chốt của nền kinh tế như dầu khí, ngân hàng, điện, khai
khoáng,V.V.... Với nhiều thế mạnh như vậy nhưng DNNN vẫn chưa thực sự
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về CPH DNNN, nhưng nghiên cứu về
phát huy được vai trò nàng cốt của chúng trong nền kinh tế. Việc sắp xếp, đổi
những giải pháp nhằm đẩy mạnh CPH DNNN thuộc Tổng công ty Xi măng
mới DNNN để loại hình này thực sự trở thành động lực chủ yếu của nền kinh
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - khi đã có nhiều thay đổi trong chính sách
tế luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo. Đặc biệt khi nước ta hội nhập
của Nhà nước cho phù hợp thực tiễn thì chưa có tác giả nào đề cập đến.
sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đổi mới DNNN càng trở nên cập
bách.
Với luận văn này, tác giả xin được trình bày hệ thống và toàn diện vấn
đề nêu trên dưới góc độ kinh tế chính trị.
Xi măng là một trong những ngành quan trọng thúc đẩy quá trình phát
triển kinh tế xã hội, là một trong các cân đối lớn của nền kinh tế, góp phần
không
mạnh
tiến độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo an
3. nhỏ
Mụctrong
đíchđẩy
nghiên
cứu:
ninh quốc phòng của đất nước. Trong nhiều năm qua, được sự quan tâm của
Nghiên cứu cơ sở khoa học, kinh nghiệm CPH DNNN của nước ngoài và Việt

Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành sát sao và có hiệu quả của Chính
Nam và thực trạng CPH DNNN trong Tổng công ty Xi măng Việt Nam hiện
phủ, Tổng công ty xi măng Việt Nam đã và đang tong bước trưởng thành, phát
nay để đưa ra giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy tiến trình CPH DNNN thuộc
triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu xi măng của xã hội


3

5. Phương pháp nghiên cứu:

Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp phân tích tổng hợp.

6. Những đóng góp của luận văn:
- Thấy rõ thực trạng, những bất cập, tồn tại cản trở tiến trình CPH

DNNN trong Tổng công ty Xi măng Việt Nam.

- Đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình CPH DNNN thuộc

Tổng công ty Xi măng Việt Nam.

7. Tên và kết câu của luận văn:

- Tên luận văn: “Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi
măng Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam”.

- Kết cấu luận văn: Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh



4
CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ Cơ BẢN VỀ cổ PHAN HOÁ DOANH NGHIỆP
THUỘC TỔNG CÔNG TY XI MẢNG VIỆT NAM
l.l.

cổ PHÂN HOÁ VÀ TÍNH TÂT YÊU KHÁCH QUAN cổ PHÂN
HOÁ CÁC
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NEN KINH TÊ THỊ
TRƯỜNG

1.1.1. Quan niệm về cổ phần hóa và thực chất cổ phần hoá các doanh

nghiệp nhà nước
1.1.1.1.

Quan niệm về cổ phần hóa

Công ty cổ phần đã xuất hiện từ lâu, trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự
do cạnh tranh. Khi sản xuất phát triển, nhiều xí nghiệp lớn hiện đại xuất hiện,
đòi hỏi phải có nhiều vốn đầu tư, nhiều tư bản cố định và thời hạn xây dựng
kéo dài, do đó tín dụng ngân hàng không thế đáp ứng được. Tín dụng ngân
hàng chỉ có thể cho một nhà tư bản vay một số vốn không vượt quá số tài sản
riêng của nhà tư bản đó. Để khắc phục những hạn chế của tín dụng ngân
hàng,
cần phải có một hình thức tập trung tư bản khác - đó là hình thức công ty cổ
phần. Trong chủ nghĩa tư bản, để hình thành công ty cổ phần thì tư bản phải

được cổ phần hóa.

Công ty cổ phần là hình thức tổ chức sản xuất và kinh doanh có hiệu
quả đã từng thúc đẩy kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Mác từng cho rằng,
kinh tế cổ phần là sản phẩm tất yếu của sự vận động mâu thuẫn giữa lực
lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất; gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế
hàng hoá và hoạt động tín dụng.


5
độ của lực lượng sản xuất. Những thành tựu của công cuộc đổi mới kinh tế
cho thấy rằng bên cạnh hình thức sở hữu nhà nuớc, các hình thức khác (tư
nhân hay hỗn hợp), nếu tạo được những điều kiện tồn tại thuận lợi cũng phát
huy vai trò tích cực trong đời sống kinh tế. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế đều có quyền cạnh tranh bình đẳng với nhau, những rào cản thuế
quan, bảo hộ hay bao cấp dần được xoá bỏ, số lượng các DNNN cũng được
giảm dần theo hướng Nhà nước chỉ giữ lại những doanh nghiệp then chốt, cần
có sự chi phối của Nhà nước. Việc đa dạng hoá các hình thức sử hữu cho phép
thực hiện triệt để các nguyên tắc kinh tế, nâng cao quyền tự chủ tài chính và
khả năng tự quản lý sản xuất kinh doanh, nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng
như óc sáng tạo của lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động. Bằng việc đa
dạng hoá các hình thức kinh tế tư bản nhà nước, cổ phần hoá một bộ phận
DNNN sẽ làm giảm số DNNN không cần giữ hình thức này, thu hút thêm các
nguồn vốn tập trung xây dựng các DNNN ở các ngành, các khâu quan trọng
và đảm bảo những điều kiện, động lực ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy DNNN
làm ăn có hiệu quả. CPH sẽ phân biệt rõ ràng giữa sở hữu nhà nước và hình
thức DNNN. Tài sản và vốn thuộc sỡ hữu nhà nước được sử dụng dưới nhiều
hình thức, vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội cao, vừa tăng cường khả
năng thúc đẩy và kiểm soát trực tiếp của Nhà nước đối với các hoạt động kinh

tế như: Nhà nước đầu tư vốn hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối.
Một trong những hình thức sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp đem lại hiệu
quả cao là cổ phần hoá các DNNN. Khái niệm CPH DNNN trong nhiều năm
qua được hiểu khác nhau. Có ý kiến cho rằng CPH thực chất là tư nhân hoá,
CPH là nhằm xác định lại chủ sở hữu thực, cụ thể của doanh nghiệp, CPH
thực chất là quá trình xã hội hoá các DNNN.

Trước hết, CPH và tư nhân hoá là hai khái niệm khác nhau. Tư nhân
hoá
là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu từ nhà nước sang tư nhân, đồng thời
chuyển các lĩnh vực sản xuất kinh doanh từ nhà nước độc quyền sang cho tư
nhân đảm nhiệm theo nguyên tắc thị trường (cung, cầu, cạnh tranh). Để đạt
được sự chuyển đổi này, chúng ta đã thấy nhiều cách thức khác nhau được


6
tư nhân hoá, đấu giá, bán toàn bộ doanh nghiệp nhà nước cho tư nhân (CPH).
Phương thức tư nhân hoá này thực chất là loại bỏ thành phần kinh tế công đến
mức tối đa. Những phưpng thức này cũng đã được quy định trong các văn bản
chính phủ của Việt Nam hoặc đã được thi hành. Như vậy, mặc nhiên CPH chỉ
là một trong nhiều cách để tư nhân hoá một phần tài sản của doanh nghiệp nhà
nước. CPH là khái niệm hẹp hơn tư nhân hoá. Trong CPH tài sản của DNNN
được bán lại cho nhiều đối tượng khác nhau bao gồm: Các tổ chức kinh tế xã
hội, các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp, giữ lại một tỷ lệ cổ phần cho
nhà nước trong chính doanh nghiệp cổ phần đó. Như vậy, hình thức sở hữu tại
doanh nghiệp đã chuyển từ Nhà nước duy nhất sang hỗn hợp, từ đây dẫn đến
những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức, quản lý cũng như phương
hướng hoạt động của Công ty. DNNN sau khi CPH trở thành công ty cổ phần
điều lệ và thể thức hoạt động theo luật công ty. Còn DNNN sau tư nhân hoá
trở thành doanh nghiệp tư nhân và thể thức hoạt động theo luật doanh nghiệp

tư nhân.

Như vậy, về bản chất, CPH là đa dạng hóa sở hữu; là chuyển từ sở hữu
đơn nhất sang đa sở hữu; là chuyển từ sở hữu một chủ thành sở hữu nhiều
chủ; là xã hội hóa trên cả ba mặt: xã hội hóa về mặt kinh tế- xã hội, xã hội
hóa về mặt kinh tế- kỹ thuật và xã hội hóa về mặt kinh tế- tổ chức.
1.1.1.2. Thực chất cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước

Xét về hình thức, CPH DNNN là việc Nhà nước bán một phần hay toàn
bộ giá trị cổ phần của mình trong doanh nghiệp cho các đối tượng tổ chức
hoặc cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông
qua thị trường chứng khoán để hình thành các công ty cổ phần.
Xét về bản chất, CPH DNNN là phương thức thực hiện xã hội hoá sở
hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu duy nhất Nhà nước trong
doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ sỡ hữu để tạo ra mô hình
doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu của
kinh doanh hiện đại.


7
Như vậy, CPH DNNN đáp ứng được yêu cầu quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; phù họp với yêu
cầu
của kinh tế thị trường. Bởi vì nó gắn sở hữu với lợi ích kinh tế, tránh được
trường hợp “cha chung không ai khóc” như trước đây.Vì thế, đối với nước ta,
cổ phần hoá DNNN là một biện pháp hữu hiệu, đáp ứng được yêu cầu bức
thiết của cuộc cải cách DNNN.
Cổ phần hoá DNNN làm thay đổi căn bản đối với DNNN, vì:
- Chuyển từ đơn sở hữu sang đa sở hữu doanh nghiệp, đảm bảo quyền


làm chủ thực sự của những người góp vốn để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Xác đinh được chủ đích thực của DNNN: Đó là các
cổ đông sở hữu cổ phần và Nhà nước chỉ là một trong các cổ đông của Công
ty cổ phần; Tháo gỡ những khó khăn cho ngân sách nhà nước trong việc hỗ
trợ
cho các DNNN kinh doanh thua lỗ; Chuyển một phần quyền sở hữu về tài sản
của Nhà nước thành sở hữu các cổ đông, từ đó tập trung vốn vào các lĩnh vực
quan trọng để tái cơ cấu nền kinh tế; đồng thời huy động được nguồn vốn
nhàn rỗi của xã hội vào đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển SXKD.
- Làm thay đổi căn bản về tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ doanh

nghiệp, tạo động lực mới trong quản lý doanh nghiệp: CPH đã xác định rõ chủ
của doanh nghiệp (Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị), những người chịu
trách nhiệm quyết phương hướng phát triển, điều hành SXKD, bảo toàn và
phát triển vốn, bảo đảm quyền lợi chính đáng của người lao động, từ đó tạo
điều kiện để người lao động tăng thêm thu nhập; quyền tự chủ kinh doanh
được mở rộng và tính chịu trách nhiệm được đề cao.
Cổ phần hoá làm tăng khả năng huy động vốn tạo động lực thúc đẩy
DNNN làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước ngày càng tăng. CPH
không phải là tư nhân hoá mà khuyên khích sỏ’ hữu cổ phần đại chúng, tạo
điều kiện để cho người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những
người đã góp vốn được làm chủ thực sự. Thay đổi phương thức quản lý nhằm
cải thiện và tăng cường hiệu quả kinh tế của tài sản quốc gia.


8
- Một là, giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nuớc hiện có tại doanh

nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp;
- Hai là, bán một phần thuộc vốn giá trị nhà nước hiện có tại doanh


nghiệp hoặc bán một phần kết hợp phát hành thêm cổ phiếu;
- Ba là, tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để CPH;
- Bốn là, bán toàn bộ giá trị thuộc vốn nhà nước tại doanh nghiệp để

chuyển thành công ty cổ phần.

Như vậy, về thực chất, CPH D N N N là chuyển từ đơn sở hữu (sở hữu
Nhà nước) sang đa sở hữu; là xã hội hóa trên cả ba mặt phù hợp với trình độ
lực lượng sản xuất.
Một là, xã hội hóa về mặt kinh tế - xã hội. Đây là đa dạng hóa sở hữu
tư liệu sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất của các
DNNN, đáp ứng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Hai là, xã hội hóa về mặt kinh tế - kỹ thuật. Do đáp ứng được yêu cầu
quy luật quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, nên CPH DNNN thúc đẩy phát triển cơ sỏ' vật chất kỹ
thuật của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế phát triển .

Ba là, xã hội hóa về mặt kinh tế - tổ chức. CPH DNNN tạo điều kiện
quản lý sản xuất kinh doanh phù hợp với sự trình độ lực lượng sản xuất của
doanh nghiệp
Tóm lại, CPH DNNN đáp ứng được yêu cầu quy luật quan hệ sản xuất
phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, qua đó thúc
đẩy
phát triển sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, thực hiện được xã hội
hóa thực tế. Đó là đảm bảo lợi ích kinh tế của các chủ sở hữu vốn doanh



9
Trong nền kinh tế thị trường thuần tuý, quá trình vận hành của nó sẽ phát
sinh những vấn đề trục trặc mà khu vực kinh tế tư nhân khôns có khả năns
giải quyết, nó chỉ có thể giải quyết được trong khu vực kinh tế nhà nước. Kinh
tế nhà nước được hiểu là khu vực kinh tế bao gồm những DNNN nắm toàn bộ
hoặc một phần sở hữu và Nhà nước kiểm soát tới mức độ nhất định quá trình
ra quyết định của doanh nghiệp. Sự tồn tại kinh tế Nhà nước ở hầu hết các
nước. Khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò như một công cụ kinh tế của Nhà
nước vừa thực hiện chức năng kinh tế vừa làm một phần chức năng xã hội,
thực hiện việc tăng trưởng và ổn định kinh tế mỗi nước. Tuy nhiên, khi đề cao
khu vực kinh tế Nhà nước bằng sự can thiệp quá giới hạn của Nhà nước vào
sự
phát triển của nền kinh tế thị trường thì nó lại kìm hãm sự tăng trưởng và làm
cho nền kinh tế thị trường của nhiều nước rơi vào sự trì trệ kéo dài. Riêng đối
với các nước có khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng tuyệt đối thực hiện
kê hoạch hoá tập trung và loại bỏ kinh tế thị trường thì đã đẩy nền kinh tế rơi
vào khủng hoảng.

Đối với nước ta trước khi chuyển sang kinh tế thị trường, kinh tế Nhà
nước bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Mở rộng và
phát triển khu vực kinh tế Nhà nước là mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, khu vực kinh tế Nhà nước đã phát triển nhanh
chóng. Các DNNN ở Việt Nam được hình thành năm 1954 ở miền Bắc và từ
năm 1975 ở miền Nam. Hàng loạt các DNNN được ra đời và chỉ giảm dần vào
cuối thập kỷ 80 lại đây, đến hết nay cả nước còn 1.720 DNNN.

Trong một thời gian dài nước ta thực hiện quản lý kinh tế theo cơ chế
kế
hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể đã cho

thấy nền kinh tế hoạt động không có hiệu quả. Các DNNN được thành lập một
cách tràn lan trước đây ngày càng bộc lộ những yếu kém trong quá trình hoạt
động SXKD.


10
38% GDP trong khi các doanh nghiệp dân doanh với tiềm lực kinh tế yếu hơn
nhưng đã đóng góp tới 42% GDP, tốc độ tăng trưởng của các DNNN thấp hơn
tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp dân doanh 7-8%.
Kinh tế thị trường đã tạo ra những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ hoạt
động của xã hội loài người. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và mạnh mẽ
trên cơ sở coi trọng lợi ích cá nhân đã thôi thúc sự ra đời của các đơn vị kinh
tế tư bản mới - các công ty từ nhỏ đến lớn. Cuộc tranh đua của chúng với các
thành phần kinh tế truyền thống trước đó tuy đã làm nổi bật những ưu việt vốn
có của nó trong hoàn cảnh mới, nhưng cũng phải qua nhiều lần chuyển dạng.
Qua mỗi lần chuyển dạng lại xuất hiện một thể chế kinh tế mới trên cơ sở kế
thừa và phát triển của thể chế kinh tế khác. Các thể chế kinh tế lần lượt đi từ
kinh tế thị trường tự do và hiện tại là kinh tế hỗn hợp.
Kinh tế thị trường tự do hình thành và phát triển mạnh mẽ trước đại
chiến thế giới thứ hai. Đặc trưng của nền kinh tế này là các doanh nghiệp hoạt
động và phát triển tự do. Sự phát triển vô tổ chức, cạnh tranh khốc liệt không
lành mạnh cộng với độc quyền tư nhân đã dẫn đến hậu quả là những cuộc
khủng hoảng kinh tế liên tiếp xẩy ra trong những năm 30 của thế kỷ này làm
suy tàn nền kinh tế của nhiều quốc gia và của cả nền kinh tế thế giới.
Kinh tế kế hoạch hoá tập trung ra đời gắn liền với sự xuất hiện của nhà
nước XHCN về căn bản đã được giải quyết được những yếu điểm của nền
kinh
tế thị trường tự do. Chính vì vậy, mô hình kinh tế này đã trở thành mô hình
phổ biến của nhân loại trong những năm 50, 60 và 70. Tuy nhiên, với đặc
điểm là một nền kinh tế chỉ huy, Nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động của

các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp hoạt động phụ thuộc vào các cơ quan
chính quyền nhà nước: sản xuất theo kế hoạch, nguyên liệu được Nhà nước
cung cấp, sản phẩm được bao tiêu, không chịu trách nhiệm lỗ lãi cộng với độc
quyền Nhà nước đã đánh mất động lực phát triển và nền kinh tế sớm rơi vào
sự trì trệ và suy thoái.
Xuất phát từ sự yếu kém không thể khắc phục của các thế chế kinh tế
nói trên đã đưa đến sự ra đời của nền kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế nhiều


11
thành phần xuất hiện mang tính khách quan, là hiện thân của sự kế thừa
những
mặt ưu việt: thiết lập môi trường kinh doanh bình đẳng, có tổ chức, cùng nhau
phát triển của các đơn vị kinh tế và giảm bớt đến mức tối thiểu sự can thiệp
của Nhà nước.
Đặc trưng của nền kinh tế nhiều thành phần là chế độ đa sở hữu trong
cùng một đơn vị kinh tế. Các loại hình doanh nghiệp nhiều chủ như Công ty
trách nhiệm hữu hạn, Công ty liên doanh và CTCP cũng xuất hiện. Như vậy,
kinh tế nhiều thành phần ra đời là cơ sở cho sự xuất hiện và phát triển của
CTCP và CTCP chính là hiện thân bậc cao của kinh tế hỗn họp. Sự tiên tiến,
hiện đại của loại hình doanh nghiệp này chính là sự đúc kết những mặt ưu việt
của nền kinh tế nhiều thành phần. Có thể lấy những ưu việt của CTCP so với
các loại hình doanh nghiệp khác là:
- Khả năng huy động vốn với quy mô lớn, nhanh cho đầu tư mở rộng

sản xuất kinh doanh.

- Sự thống nhất về mục tiêu giữa những người góp vốn.

- Sự liên tục và không hạn định về thời gian hoạt động.


- Phương thức quản lý vừa khoa học, chặt chẽ lại vừa linh hoạt, năng

động.
- Sự phân tán cao độ những rủi ro, mạo hiểm.

Thể chế kinh tế nhiều thành phần xuất hiện đã làm thức tỉnh và đưa ra
lối thoát cho Chính phủ nhiều quốc gia trong việc chống đỡ gánh nặng, cũng
như sự suy thoái của khu vực kinh tế nhà nước. Song sự lựa chọn hướng
chuyển đổi khu vực kinh tế đó như thế nào để đảm bảo tiền vốn của chủ sở
hữu Nhà nước được an toàn và không bị rủi ro, mất mát luôn được Chĩnh phủ


12
là sự lựa chọn ban đầu mà sự lựa chọn bao giờ cũng dễ dàng hon so với khi
thực hiện. Tham vọng của Chính phủ các nước không phải chỉ có duy nhất
mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế đồng vốn đầu tư mà nó còn bao gồm rất
nhiều mục tiêu phát triển nền kinh tế khác, dẫn đến trường hợp các mục tiêu
chèn ép và triệt tiêu lẫn nhau. Chính vì vậy, việc chuyển đổi các DNNN thành
CTCP phải gắn liền với chương trình phát triển tổng thể nền kinh tế nói chung
và phải kết hợp nhiều biện pháp khác nhau.
Hai là, CPH D N N N là một trong những giải pháp cơ bản để đổi mới hệ
thống D N N N
DNNN ở nước ta đứng trước nhiều mâu thuẫn lớn là khu vực DNNN
nhiều về số lượng nhưng kém về chất lượng, DNNN muốn mở rộng sản xuất,
đổi mới công nghệ nhưng ngân sách Nhà nước không có khả năng bao cấp
toàn bộ cho các nhu cầu cần thiết đó, doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả
trong khi phải đảm nhận vai trò đầu tầu kinh tế, vai trò định hướng XHCN.
Những mâu thuẫn này đòi hỏi Nhà nước phải có một giải pháp cải tổ lại hệ
thống DNNN một cách triệt để.

Việc tổ chức các Tổng Công ty theo mô hình 90, 91 cũng đã giúp xác
định mức độ cao hơn chủ sở hữu của các doanh nghiệp thông qua Hội đồng
quản trị và tạo quy mô lớn theo hướng tập đoàn với sự đầu tư chiều sâu cả về
vốn, công nghệ, thị trường và người lao động. Mục tiêu đặt ra đối với Tổng
Công ty là lớn nhưng mới đạt được ở giai đoạn đầu.
Phần lớn các Tổng Công ty được thành lập vẫn dựa trên việc cộng số
học của các đơn vị sản xuất kinh doanh cùng ngành, dựa vào thế độc quyền,
chưa có thay đổi về chất. Các Tổng Công ty chưa thực sự củng cố, phát triển
theo hướng cạnh tranh và giảm dần sự bảo trợ độc quyền của Nhà nước. Các
Tổng Công ty nhiều khi lại trở thành nơi trói buộc các đơn vị thành viên.
Việc tiến hành giao, bán, khoán, cho thuê cũng là một giải pháp cải
cách DNNN. Tuy nhiên, nó chỉ có thể áp dụng thí điểm với những doanh
nghiệp nhỏ, thua lỗ, chưa thể áp dụng được đại trà. Mặt khác, thực tế tại các
doanh nghiệp muôn hình muôn vẻ. Làm thế nào để xác định mức bán, khoán,


13
cho thuê và căn cứ để giao. Trong trường hợp giao nhầm đối tượng, hậu quả
sẽ
như thế nào? Đây là vấn đề mới bắt đầu, vừa triển khai, vừa nghiên cứu.
Giải pháp CPH sẽ là giải pháp cơ bản, bởi vì, có thể tiến hành với
phạm
vi, quy mô rộng, áp dụng được nhiều doanh nghiệp cùng lúc để chuyển doanh
nghiệp từ sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần, trong đó
tồn tại một phần sở hữu Nhà nước. Với lợi thế của CTCP như huy động vốn
lớn, nhanh, phân tán được rủi ro và cơ chế quản lý đã tách quyền sở hữu khỏi
quyền sử dụng, nó đã hút được nguồn lực tài chính của các tầng lớp dân cư bỏ
vào sản xuất kinh doanh thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu. Mặt khác,
nó tạo sự tăng trưởng tốt hơn trong từng doanh nghiệp thông qua sự giám sát
chặt chẽ của các cổ đông.

Qua việc chuyển đổi DNNN thành CTCP, DNNN đã thay đổi hoàn
toàn
về chất. Doanh nghiệp đã được trả lại hoàn toàn chức năng vốn có là chức
năng kinh doanh vì lợi nhuận, doanh nghiệp được tự chủ, tự quyết định hoạt
động của mình. Đối với khó khăn về vốn, công nghệ và trình độ quản lý trong
các DNNN ở nước ta hiện nay thì giải pháp CPH mang tính hũu hiệu và khả
thi. Có thể huy động lượng vốn từ bên ngoài lớn thông qua việc phát hành cổ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ đầu tư để đổi mới công nghệ nâng cao sức cạnh
tranh trên thị trường.
Mặt khác, Nhà nước còn có khả năng rút vốn từ các DNNN thông qua
việc CPH. Nhà nước dùng vốn đế đầu tư hạ tầng cơ sở làm nền tảng cho kinh
tế phát triển như hệ thống giao thông, thuỷ lợi, thông tin, Nhà nước có thế đầu
tư thêm để thành lập các doanh nghiệp mới với kỹ thuật tiên tiến hiện đại, đáp
ứng yêu cầu đầu tư có trọng điểm tránh tràn lan, phân tán, đảm bảo giữ vững
và mở rộng vai trò chủ đạo, nắm giữ những vị trí then chốt của nền kinh tế.
Như vậy, việc lựa chọn CPH sẽ là một giải pháp phù họp, góp phần
thiết
lập một hệ thống DNNN có sức mạnh không phải dựa trên số lượng mà là


14
B a l à , C P U D N N N làm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
các
doanh nghiệp.
Sau một giai đoạn nền kinh tế vận hành trong sự quản lý theo cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp, nước ta xác định phải chuyển sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Từ khi thay đổi cơ chế, nền kinh tế đã có
bước phát triển vượt bậc. Với nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ quản lý vĩ
mô, giảm sự can thiệp vi mô vào các chủ thể kinh tế.Với thực trạng yếu kém
của cả hệ thống DNNN như ở trên đã phân tích, việc thực hiện CPH chuyển

phần lớn DNNN sang loại hình CTCP mới đáp ứng được sự tồn tại và phát
triển của từng doanh nghiệp, trong môi trường cạnh tranh gay gắt, thông qua
những ưu việt cơ bản của CTCP.
CTCP là doanh nghiệp trong đó các cổ đông cùng góp vốn kinh doanh
và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần góp vốn của mình trên cơ sở tự
nguyện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận,
các cổ đông cùng quản lý, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu rủi ro tương ứng với
phần vốn góp.
- Loại hình CTCP có khả năng huy động vốn với quy mô lớn, nhanh

cho
đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu bằng cách phát hành trái phiếu và cổ phiếu
để huy động vốn đầu tư vào những công trình đòi hỏi số lượng vốn lớn và dài
hạn mà từng cá nhân hoặc doanh nghiệp cá thể không có khả năng tích luỹ
được.
CTCP huy động vốn của các tầng lóp dân cư trong xã hội để đầu tư
phát
triển doanh nghiệp. Mọi người mua cổ phiếu của các công ty trở thành cổ
đông để được hưởng lợi tức cổ phần, ngoài ra cổ đông còn được hưởng khoản
thu nhập "tiềm năng" nhờ việc gia tăng giá trị cổ phiếu. Các cổ đông được
tham gia quyết định những vấn đề cơ bản của công ty thông qua Đại hội cổ
đông. Chính vì vậy nó hấp dẫn dân chúng đầu tư bằng việc mua cổ phiếu thay
vì gửi tiền nhàn rỗi vào ngân hàng. Khi cần chuyển đổi ra tiền mặt, cổ đông


15
CTCP là nơi tập trung vốn của rất nhiều người với khối lượng lớn, điều
đó không chỉ tạo điều kiện thuận lợi và nhanh chóng sử dụng khoa học kỹ
thuật, công nghệ mới mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp phải ra sức hoàn
thiện tổ chức quản lý cho phù hợp với việc sản xuất kinh doanh, phù hợp với

yêu cầu của người góp vốn. Các cổ đông đều được tham gia giám sát và quyết
định việc hoạt động của các công ty thông qua Đại hội cổ đông. Chính những
yêu cầu khắt khe này, các doanh nghiệp sẽ phải do những người có khả năng
điều hành, từng nhà quản lý cũng phải hoàn thiện, tạo tĩnh năng động sáng
tạo, tạo sức sản xuất mới cho từng doanh nghiệp cũng như cho toàn xã hội.
Xét về cơ cấu kinh tế, CTCP phát triển cũng sẽ làm biến đổi cơ cấu kinh tế
trên cơ sở sử dụng đồng vốn, khai thác tiềm năng lao động của đất nước,
mang
lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
- CTCP tạo ra một cơ chế phân tán rủi ro hạn chế những tác động tiêu

cực về mặt kinh tế xã hội.
Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh khốc liệt, chính từng công ty
cũng có thể mua cổ phiếu của các công ty khác để tham gia vào nhiều lĩnh vực
khác nhau. Nói chung người đầu tư có thể mua cổ phiếu, trái phiếu ở nhiều
công ty khác nhau, do đó sự rủi ro được phân tán, làm giảm bớt thiệt hại của
người đầu tư vào một công ty khi công ty bị phá sản. Cơ chế phân tán rủi ro
này sẽ tạo điều kiện cho những người có vốn mạnh dạn hùn vốn sau khi đã
tính toán, cân nhắc để lựa chọn vào công ty mà họ tín nhiệm, làm cho nền
kinh tế phát triển và ổn định.
- CTCP tách rời quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh.

Như vậy, công ty sẽ huy động mặt mạnh của từng đối tượng: người có
tiền và người có tài quản lý kinh doanh, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ, những
khả năng này không đan xen cản trở nhau mà hỗ trợ nhau phát triển. Giám
đốc kinh doanh trở thành một nghề không cần phải mang chức vụ hành chính.
- CTCP tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán ra đời thúc đẩy hoàn

thiện cơ chế thị trường. Với việc phát hành các loại chứng khoán và mua bán
chứng khoán đến một mức độ nhất định, CTCP tạo điều kiện cho sự ra đời của



16
thị trường chứng khoán. CTCP là nền tảng của công nshệ chứng khoán; ngược
lại không có thị trường chứng khoán thì CTCP khó có khả năng phát triển.
CTCP và thị trường chứng khoán là hai định chế kinh tế, tài chính đặc trưng
của nền kinh tế thị trường.
Với những ưu việt trên, với vốn lớn kỹ thuật tiên tiến hiện đại, lại có cơ
chế quản lý kích thích được tinh thần hăng say lao động vì gắn bó với quyền
lợi của doanh nghiệp nên CTCP sẽ sản xuất, cung cấp những sản phẩm với
chất lượng cao, phong phú và giá thành hạ, từng doanh nghiệp phát triển, cả
hệ thống doanh nghiệp phát triển sẽ kéo toàn bộ nền kinh tế phát triển theo.
Do những ưu điểm của CTCP, ngày nay nó là loại hình tổ chức sản xuất
- kinh doanh phổ biến trên toàn thế giới mà nhất là nước có nền kinh tế phát
triển.
Bốn là, CPH D N N N góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh - yếu tố
quyết định sự tồn tại, phát triển của các doanh nghiệp.
Với tình trạng kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp thành
viên, tích luỹ nội bộ thấp, một số đơn vị chưa đủ khả năng chi trả số nợ đến
hạn và quá hạn. Mặt khác, khả năng vay vốn nước ngoài cũng không phải
thuận lợi. Để có thể cạnh tranh, đứng vững khi mở cửa, hội nhập với nền kinh
tế thế giới. Các doanh nghiệp cần đầu tư lớn đế đổi mới công nghệ, nâng cao
năng lực sản xuất. Muốn vậy cần một lượng vốn lớn. CPH để thu hút nguồn
vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển là hướng đi tốt nhất. Từ thực tế cho thấy
rằng, không ít các tổ chức, doanh nhân có nhu cầu đầu tư. Không ít trong số
này sẵn sàng đầu tư thông qua mua cổ phần của các DNNN. Nếu DNNN
không thực hiện CPH, các đối tượng này buộc phải đầu tư thông qua các hình
thức khác. Như vậy, vô hình truns đây sẽ là lực lượng cạnh tranh khốc liệt cho
DNNN.
Như vậy, CPH các DNNN là đáp ứng xu thế chung của sự phát triển

kinh tế thị trường, là đòi hỏi tất yếu, là hướng đi tốt nhất cho các DNNN để
tồn tại và phát triển.


17
1.2.

MỘT SỐ VẤN ĐỂ Cơ BẢN VỀ cổ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP

THUỘC TỔNG CÔNG TY XI MẢNG VIỆT NAM

1.2.1. Đặc điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi

măng Việt Nam
Xi măng là ngành sản xuất chịu ảnh hưởns nhiều của nguồn tài nguyên
thiên nhiên, chỉ các doanh nghiệp đảm bảo được nguồn tài nguyên thiên nhiên
mới có khả năng sản xuất kinh doanh xi măng vững chắc, lâu dài. Thực trạng
một vài đon vị kinh doanh xi măng từ nguồn bán thành phẩm nhập khẩu cho
thấy tính cạnh tranh kém do nguồn bán thành phẩm nhập khẩu và chi phí vận
tải quá cao. Do vậy, có thể nói xi măng là ngành độc quyền nhóm - chỉ một ít
doanh nghiệp có được nguồn tài nguyên tham gia thị trường xi măng.
Trong nhiều năm qua, xi măng vẫn được coi là ngành tham gia bảo đảm
các cân đối lớn của nền kinh tế, là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô và giữ
vai trò ổn định thị trường. Cho đến năm 2007, Tổng công ty Xi măng Việt
Nam vẫn quyết định giá bán của các đơn vị thành viên. Tính thị trường trong
sản xuất kinh doanh xi măng, do đó, còn hạn chế.
Chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp xi măng chịu ảnh hưởng lớn bởi
chi phí điện và than. Đây lại là các ngành đang mang nặng độc quyền: Nó
đảm bảo tính ổn định chi phí đầu vào cho ngành xi măng nhưng lại hạn chế
tính thị trường, tĩnh cạnh tranh.

Sản phẩm xi măng là vật liệu đầu vào tạo tài sản cố định cho nhiều
ngành sản xuất, trên 50% sản phẩm được các dự án đầu tư xây dựng của nhà
nước và các thành phần kinh tế tiêu thụ. Tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ xi măng
gắn liền với tăng trưởng kinh tế - đặc biệt đối với Việt Nam đang trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, tĩnh co giãn trong cung cầu xi măng
thấp, ngành xi măng có được sự bảo đảm ổn định cao trong tiêu thụ sản phẩm.
Sản phẩm xi măng có khối lượng lớn nhưng thời gian sử dụng ngắn
trong khi địa bàn tiêu thụ rộng: Một nhà máy xi măng trung bình mỗi ngày
sản xuất 5.000 tấn xi măng (cần khoảng 150 xe vận tải) cho địa bàn tiều thụ


18
hàng ngàn km trong khi sản phẩm xi măng chỉ có thời hạn sử dụng tốt nhất là
60 ngày.
Do đặc điểm của ngành xi măng như vậy nên các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh xi măng thường có quy mô lớn, thiết bị mang tính đồng bộ,
phức tạp, hầu hết các thiết bị, phụ tùng đều phải nhập khẩu. Do tính phức tạp
của hệ thống thiết bị của ngành xi măng, tính đặc thù cao của thiết bị nên kèm
theo đó dự trữ phụ tùng thay thế lớn.
Vốn đầu tư lớn, thời gian hoạt động dài. Các dự án đầu tư cho xi măng
thường có vốn đầu tư 150 USD/tấn công suất, một nhà máy công suất 1,4
triệu
tấn năm có tổng vốn đầu tư trên 3.000 tỷ đồng, thời gian hoạt động của một
nhà máy xi măng thường là trên 50 năm. Vì vậy hiệu quả đầu tư xi măng
thường được nhìn về dài hạn.
Lao động trong ngành xi măng mang tĩnh đặc thù riêng, đặc biệt là
lượng lao động trong dây chuyền sản xuất chính mang tĩnh đồng bộ, công
nghiệp hoá cao.
Do đặc trưng của ngành xi măng và các doanh nghiệp trong ngàng xi
măng như vậy, nên cổ phần hoá các doanh nghiệp xi măng cũng có đặc điểm

riêng. Đó là:
- Về đánh giá giá trị doanh nghiệp: Vốn đầu tư lớn cả về tài sản cố

định
và vật tư, phụ tùng dự phòng; nhiều chủng loại thiết bị mang tính đơn chiếc
gây khó khăn cho việc đánh giá giá trị thực tế doanh nghiệp theo phương
pháp
tài sản, thời gian kiểm kê, đánh giá giá trị doanh nghiệp kéo dài. Vì vậy để
đảm bảo thời gian cổ phần hoá theo quy định, các đơn vị cổ phần hoá phải
triển khai kiểm kê tài sản trước ngày xác định giá trị doanh nghiệp.
- Chi phí sản xuất xi măng chiếm gần 50% là chi phí khấu hao và chi

phí tài chính, do đó trong ngắn hạn, phương án kinh doanh thường chỉ đem lại
cổ tức dưới 20%, vốn đầu tư lớn nên phần đông các nhà đầu tư không đủ khả
năng nắm giữ lượng cổ phần để có tiếng nói đối với công ty cổ phần - những


19
xi măng, những lợi thế của độc quyền nhóm giúp khẳng định tính hiệu quả
trong đầu tư dài hạn cho ngành xi măng.
- Do mang tính đặc thù riêng có của lao động ngành xi măng, việc tổ
chức
lại sản xuất cần thời gian để đào tạo lại lực lượng lao động. Một số đon vị do
lịch sử trước đây sử dụng một số lượng lớn lao động thực sự không cần thiết.
Khi cổ phần hoá, nhất thiết phải tổ chức lại lao động, để vừa hợp lý hoá sản
xuất, đảm bảo hiệu quả nhất cho công ty cổ phần, vừa đảm bảo không vì cổ
phần hoá mà một lực lượng lớn lao động bị mất việc làm, các đơn vị cổ phần
hoá cần có phương án mở rộng thêm ngành nghề, đặc biệt là các ngành gắn bó
với ngành sản xuất chính để vừa tăng lợi nhuận cho công ty cổ phần, vừa đảm
bảo việc làm, thu nhập cho người lao động.


1.2.2. Nội dung cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty

Xi
măng Việt Nam
Một là, xác định và thực hiện đúng đối tượng và hình thức cổ phần hoá
D N N N trong Tổng công ty Xi măng Việt Nam.
- Về đối tượng cổ phần hoá DNNN

Nghị quyết Hội nghị BCH TW lần thứ 3 khoá IX đã chỉ rõ: "Đối tượng
CPH là những DNNN hiện có mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn,
không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền, căn cứ vào điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp mà quyết định
chuyển DNNN hiện có thành CTCP, trong đó Nhà nước có cổ phần chi phối,
cổ phần đặc biệt, cổ phần ở mức thấp hoặc Nhà nước không giữ cổ phần".
Trước CPH, Tổng công ty Xi măng Việt Nam 100% vốn Nhà nước. Đây là
Tổng công ty mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn.


20
Trong thời gian tới, đối tượng cổ phần hoá DNNN chắc sẽ thay đổi
theo
hướng: Một là, đối tượng cổ phần hoá DNNN không chỉ là các DNNN loại
vừa và nhỏ mà còn có cả các DNNN loại lớn, các Tổng công ty, các Tập đoàn
kinh tế. Hai là, đối tượng cổ phần hoá DNNN không chí là các DNNN thuộc
lĩnh vực kinh tế mà còn có cả các DNNN thuộc các ngành kết cấu hạ tầng
kinh tế và xã hội.

- Về hình thức cổ phần hoá DN Tổng công ty Xi măng Việt Nam trong
bao gồm:


Thứ nhất : Giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để
thu hút thêm vốn.

Thứ hai: Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp cho các cổ
đông, hoặc bán một phần kết hợp phát hành thêm cổ phiếu.

Thứ ba: cổ phần hoá các đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp.

Thứ tư: Chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành CTCP.

Trường hợp CPH đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thì không được
gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh các bộ
phận còn lại của doanh nghiệp.

Hai là, xã hội hoá sản xuất trên thực tế theo định hướng XHCN
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã để lại những chỉ dẫn rất
cơ bản về vấn đề xã hội hoá sản xuất.


21
với quyền sở hữu tư bản đơn giản thành những chức năng của những người
sản
xuất hên hiệp, tức thành những chức năng xã hội".

V.I.Lênin trong tác phẩm "Những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền
Xô Viết" đã có luận điểm chỉ rõ nội dung ba mặt của xã hội hoá sản xuất và
khẳng định phải thực hiện đồn2 bộ và chỉ khi nào hoàn thành về cơ bản mới
có sự "xã hội hoá sản xuất trên thực tế'.


Từ những chỉ dẫn trên có thể thấy: Lịch sử và lôgic đều khẳng định sản
xuất bao giờ cũng mang tính xã hội-tĩnh xã hội của sản xuất - nhưng tính xã
hội của sản xuất không đồng nhất với xã hội sản xuất. Sự phát triển của phân
công lao động xã hội và trao đổi xuất hiện, tồn tại và phát triển của sản xuất
hàng hoá từ thấp đến cao dưới tác động của cách mạng kỹ thuật đã làm cho
lực lượng sản xuất từng bước mang tính xã hội hoá cao, làm cho sự biệt lập
của các quá trình kinh tế theo kiểu "đèn ai nhà ấy rạng" không còn phù hợp và
được thay thế bằng sự hên kết nhiều quá trình kinh tế riêng biệt thành một quá
trình kinh tế thống nhất tồn tại với tư cách là một hệ thống thống nhất hữu cơ
với nhau - xã hội hoá sản xuất. Trong lịch sử, thuật ngữ xã hội hoá sản xuất
không gắn liền với nền sản xuất hàng hoá nhỏ mà gắn liền với nền sản xuất
hàng hoá lớn. Chính sự xã hội hoá lao động và theo đó là xã hội hoá sản xuất
về mặt kinh tế - kỹ thuật hình thành. Đến lượt nó, sự xã hội hoá sản xuất về
mặt kinh tế - kỹ thuật phát triển tất yếu kéo theo sự xã hội hoá về vốn được
thực hiện thông qua quá trình tích tụ và tập trung vốn, quá trình này gắn với
xã hội hoá sản xuất về mặt kinh tế - xã hội. Và sự gắn kết có hiệu quả hai mặt
xã hội hoá nói trên không thể không dẫn đến sự xã hội hoá sản xuất về mặt
kinh tế tổ chức quản lý.

Ở nước ta, quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN khi nhận
thức và hành động không thế không gắn liền với trình độ xã hội hoá sản xuất


22
Hội nghị BCH TW lần thứ 3 khoá IX tháng 8/2001 đã nhấn mạnh thêm
về: "Mục tiêu CPH DNNN là nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều
chủ
sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài
sản của Nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh
doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho

DNNN; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và
tăng cường giám sát của xã hội đối với doạnh nghiệp, bảo đảm hài hoà lợi ích
của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Do vậy, không được biến
CPH DNNN thành tư nhân hoá DNNN" .

Từ những cơ sở trên giúp chúng ta có căn cứ khoa học để nhận thức và
thực hiện đúng chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty
Xi măng Việt Nam nhằm mục tiêu là : Huy động thêm vốn, tạo thêm động
lực thúc đẩy DNNN kinh doanh có hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước ngày
càng tăng lên, không phải để tư nhân hoá. CPH các doanh nghiệp thuộc Tổng
công ty Xi măng Việt Nam là một nội dung, một mục tiêu quan trọng trong
tiến trình đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam. Do vậy,
CPH được xem là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt quá trình thực hiện đổi mới và
cấu trúc lại doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam

Ba là, xác định đúng lộ trình và giải quyết kịp thời các vấn đề mới nảy
sinh

trong

tiến

trình

cổ

phần

hoá


DNNN

- Về lộ trình cổ phần hoá DNNN
Kể từ Hội nghị BCH TW lần thứ 2 (Khoá VII), tháng 12/1991, Đảng ta
đã khẳng định: Việc chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện
thành CTCP và thành lập một số công ty quốc doanh mới, phải làm thí điểm
chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi
thích hợp. Sau thời kỳ thí điểm, Đảng ta đã khẳng định phải triển khai tích
cực


23
thêm cổ phần hay bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp, cho các
tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp tuỳ từng trường hợp cụ thể, vốn huy
động được phải dùng để đầu tư sản xuất kinh doanh.

Sau giai đoạn thí điểm, Đảng chủ trương triển khai rộng khắp CPH
DNNN trong cả nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tháng
4/2001, đã tiếp tục khẳng định nhất quán quan điểm CPH DNNN và nhấn
mạnh cần phải: " Hoàn thành cơ bản việc CPH các DNNN mà Nhà nước
không cần nắm giữ 100% sở hữu vốn. Ưu tiên bán cổ phần cho người lao
động, mở rộng việc bán cổ phần cho nhà đầu tư trong và ngoài nước".

Để đẩy nhanh lộ trình CPH DNNN, Hội nghị BCH TW lần thứ 3 khoá
IX tháng 8/2001 đã ra Nghị quyết chuyên đề về: tiếp tục sắp xếp, đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Trong đó, tiếp tục coi CPH DNNN là
một giải pháp quan trọng của cải cách DNNN và đã chỉ rõ thêm đối tượng của
CPH và các hình thức CPH.


Có thể nói, CPH các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt
Nam luôn gắn chặt với việc đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới cơ sở vật chất
của
doanh nghiệp, không ngừng nâng cao năng lực sản xuất và kinh doanh, đồng
thời đảm bảo tính định hướng của Nhà nước trong phát triển kinh tế xã hội.
CPH các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam phải gắn liền
với đổi mới cơ chế quản lý để tạo động lực, phát huy mạnh hơn vai trò làm
chủ và tính năng động, sáng tạo của người lao động trong quản lý doanh
nghiệp, đồng thời phải đảm bảo vai trò quản lý của Nhà nước trên cơ sở giữ
vững số cổ phần cần thiết chi phối của Nhà nước tại doanh nghiệp.

Bên cạnh đó trong CPH các doanh nghiệp thuộc thuộc Tổng công ty Xi
măng Việt Nam phải luôn chú ý đến chính sách khuyên khích cán bộ công


24
- Tập trung giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong tiến trình cổ phần
hoá DNNN

Trong quá trình thực hiện nội dung CPH DNNN, tất yếu nẩy sinh
những
bất cập mới cần có các biện pháp tháo gỡ. Những khó khăn đó là:

+ Phương pháp xác định tài sản doanh nghiệp;

+ Chính sách giải quyết công nợ;

+ Chính sách đối với người lao động dôi dư trong quá trình CPH.

Trên cơ sở những nghị định và văn bản của Chính phủ đã ban hành,

vận
dụng một cách sáng tạo cho phù hợp để nhanh chóng giải quyết những bất cập
mới nảy sinh nhằm thực hiện tốt nội dung cơ bản CPH các doanh nghiệp
thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam

1.2.3. Những nhân tô ảnh hưởng đến cổ phần hoá doanh nghiệp

thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam
1.23.1 Các nhân tô vê điều kiện tự nhiên.

Xi măng là ngành sử dụng nguồn nguyên liệu lớn gồm đá vôi, đất sét. Do
vậy các đơn vị đặt ở ngay vùng nguyên liệu với chất lượng tốt sẽ là tín hiệu
tốt
để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Với các
đơn vị xa vùng nguyên liệu, cần khẳng định tính ổn định của nguồn cung cấp.
Các nguồn nguyên liệu chính cho sản xuất xi măng thường xa trung
tâm


25
Thanh- bắc Nghệ, không chỉ nguyên liệu chính mà cả các phụ gia cho xi
măng (bazan) cũng rất gần nhà máy sản xuất, do vậy Công ty luôn sản xuất
vượt năng suất thiết kế. Tuy nhiên, nam Thanh-bắc Nghệ hiện đang là vùng
kém phát triển về kinh tế, hơn một nửa sản phẩm của xi măng Hoàng Mai
phải
chuyển vào miền Trung tiêu thụ, khoảng cách tiêu thụ xa không chỉ làm tăng
cao chi phí tiêu thụ mà nhiều lúc vì điều kiện thời tiết, khí hậu, công ty không
đảm bảo việc phân phối sản phẩm theo kế hoạch.
1.23.2. Các nhân tô vê điều kiện kinh tế- xã hội.
Các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty đều có quy mô lớn cả về tài sản,

diện tích chiếm đất, lao động. Ngoại trừ Công ty Xi măng Hoàng Mai và
Công
ty Xi măng Tam Điệp ra đời sau, các đơn vị còn lại đều tổ chức bộ phận vận
tải, bộ phận cung cấp một số nguyên liệu phụ cho sản xuất, các chi nhánh trải
rộng trên nhiều địa phương đế thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm. Đây vừa là
lợi
thế nhưng cũng là bất lợi của doanh nghiệp. Với các đơn vị tổ chức nhiều bộ
phận phụ trợ đi kèm, thường các bộ phận này chưa được tách bạch rõ ràng,
minh bạch, sự tồn tại nhờ bao cấp của công ty. Tổng công ty đã phải chỉ đạo
thực hiện tách các bộ phận này, tạo tính độc lập cho các bộ phận và tiến hành
cổ phần hoá trước. Nhờ điều kiện kinh tế gắn liền với công ty, các bộ phận
công ty này đã được cổ phần hoá thành công và hiện đang đóng góp không
chỉ
cho Tổng công ty mà cho các còn cho các công ty thành viên nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Ngược lại chính các bộ phận công ty đã được cổ
phần hoá này trở thành là nhân tố kinh tế xã hội tốt để cổ phần công ty lớn.
Đây là các yếu tố đảm bảo vật tư đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho công
ty xi măng, các điều kiện này được đảm bảo thì sức hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư sẽ được nâng lên.
Bên cạnh nhân tố kinh tế xã hội tác động trực tiếp đến doanh nghiệp,
tạo sức hấp dẫn cho doanh nghiệp, các nhân tố kinh tế vĩ mô cũng có tác động


26
đầu tư. Chi phí sản xuất xi măng chịu tác động lớn của ngành than, điện chính sách đối với các ngành này ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh ngành xi
măng và tác động đến tính hấp dẫn của cổ phiếu xi măng. Quy định về đánh
giá giá trị doanh nghiệp; về ưu đãi, phân phối cổ phiếu có thể tạo lợi thế để
đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá. Quy định ưu đãi hay không về thuế đối với
doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp niêm yết sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
phương án cổ phần, kết quả kinh doanh qua đó làm tăng hay giảm tính hấp

dẫn của cổ phiếu. Đối với ngành xi măng, do đặc điểm quy mô lớn, hiệu quả
đầu tư thường là dài hạn- chính sách nhiều lúc quyết định đến thành công hay
thất bại của cổ phần hoá. Như đã phân tích ở trên, ngành xi măng không hấp
dẫn các nhà đầu tư đại chúng. Để thực sự đa dạng hoá sở hữu, ngành xi măng
cần lựa chọn các nhà đầu tư chiến lược có năng lực về quản trị, tài chính, thị
trường. Tuy nhiên, với quy định các nhà đầu tư chiến lược không được mua
cổ
phiếu với giá thấp hơn giá trúng thầu thành công bình quân, việc tìm kiếm nhà
đầu tư chiến lược là rất khó khăn-không một nhà đầu tư chuyên nghiệp nào
chấp nhận mua lượng lớn hàng hoá mà mình không biết giá.
1.2.3.3. Các nhản tô về đặc điểm ngành nghê

Các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam một mặt có
những đặc điểm chung của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, mặt khác có
những đặc điểm riêng do tính chất hoạt động kinh doanh của ngành chi phối.
Những đặc điểm chung phần lớn thể hiện ở những nội dung tổ chức và
quản lý các doanh nghiệp nhà nước - những khiếm khuyết từ mô hình kinh tế
nhà nước như tổ chức không hiệu quả, tính chủ động trong kinh doanh kém,
lãng phí, tham nhũng,... - đây là những lý do dẫn đến sự cần thiết phải cổ
phần hoá các doanh nghiệp của ngành. Tuy nhiên ngành xi măng cũng có
những đặc thù. Đó là:
- Các đơn vị phụ trợ: Các đơn vị phụ trợ chủ yếu do chính các nhà máy
sản xuất xi măng thành lập để cung cấp một số sản phẩm, dịch vụ cho nhà
máy chính như cung cấp một số nguyên liệu vật tư cho sản xuất xi măng (bao
bì, phụ gia xi măng,...) hoặc là dịch vụ vận chuyển sản phẩm tiêu thụ . Do


×