Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Nét văn hóa của đất nước ấn độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA THƯƠNG MẠI DU LỊCH

BÀI TIỂU LUẬN
Văn hóa đất nước Ấn Độ

Giảng viên hướng dẫn: Mai Thanh Hùng
Môn học: Văn hóa đa quốc gia


Hồ chí minh, ngày 20 tháng 10 năm 2015

DANH SÁCH NHÓM


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG.................................................................
1.1.
1.2.
1.3.

Một số nét về Ấn Độ................................................................................
Lịch sử Ấn Độ..........................................................................................
Vị trí địa lý...............................................................................................

CHƯƠNG 2: NÉT VĂN HÓA CỦA ĐÂT NƯỚC ẤN ĐỘ..........................
2.1.

Chử viết....................................................................................................


2.2. Tôn giáo....................................................................................................
2.3.

Lễ hội......................................................................................................

2.4.

Hoạt động sinh hoạt...............................................................................

2.5.

Văn học..................................................................................................

2.6.

Ẩm thực.................................................................................................

2.7.

Kiến trúc................................................................................................

2.8.

Trang phục.............................................................................................

2.9.

Các đặc trưng khác.................................................................................

PHẦN KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU

Page 4


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG
1.1. Một

số nét về Ấn Độ

Ấn Độ (tiếng Hindi: भभभभ(Bhārata), tiếng Anh: India), tên gọi chính thức là
nước Cộng hòa Ấn Độ, là một quốc gia tại Nam Á. Đây là quốc gia lớn thứ bảy
về diện tích, và đông dân thứ nhì trên thế giới với trên 1,2 tỷ người. Ấn Độ tiếp
giáp với Ấn Độ Dươngở phía nam, biển Ả Rập ở phía tây-nam, và vịnh
Bengal ở phía đông-nam, có biên giới trên bộ với Pakistan ở phía tây; với Trung
Quốc, Nepal, và Bhutan ở phía đông-bắc; và Myanmar cùng Bangladesh ở phía
đông. Trên Ấn Độ Dương, Ấn Độ lân cận với Sri Lanka và Maldives; thêm vào
đó, Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ có chung đường biên giới trên
biển với Thái Lan vàIndonesia.
Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại, có các
tuyến đường mậu dịch mang tính lịch sử cùng những đế quốc rộng lớn, và trở
nên giàu có về thương mại và văn hóa trong hầu hết lịch sử lâu dài của mình.
[8]
Đây cũng là nơi bắt nguồn của bốn tôn giáo lớn: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Jaina
giáo và Sikh giáo; trong khi Do Thái giáo, Hỏa giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi
giáo được truyền đến vào thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên và cũng giúp
hình thành nền văn hóa đa dạng của khu vực. Khu vực dần bị thôn tính và

chuyển sang nằm dưới quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Anh từ đầu thế kỷ
18, rồi nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Anh Quốc từ giữa thế kỷ 19. Ấn
Độ trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1947 sau một cuộc đấu tranh giành
độc lập dưới hình thức đấu tranh bất bạo động do Mahatma Gandhi lãnh đạo.
Nền kinh tế Ấn Độ lớn thứ 11 thế giới xét theo GDP danh nghĩa và lớn thứ ba
thế giới xét theo sức mua tương đương (PPP). [9]Sau các cải cách kinh tế dựa trên
cơ sở thị trường vào năm 1991, Ấn Độ trở thành một trong số các nền kinh tế
lớn có mức tăng trưởng nhanh nhất; và được nhận định là một nước công nghiệp
mới. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn tiếp tục phải đối diện với những thách thức từ
nghèo đói, tham nhũng, kém dinh dưỡng, y tế công thiếu thốn, và chủ nghĩa
khủng bố. Ấn Độ là một quốc gia vũ khí hạt nhân và là một cường quốc trong
khu vực, có quân đội thường trực lớn thứ ba và xếp hạng tám về chi tiêu quân sự
trên thế giới. Ấn Độ là một nước cộng hòa lập hiến liên bang theo thể chế nghị
viện, gồm có 29 bang và 7 lãnh thổ liên bang. Ấn Độ là một xã hội đa nguyên,
đa ngôn ngữ và đa dân tộc. Đây cũng là nơi có sự đa dạng về loài hoang dã trong
nhiều khu vực được bảo vệ.

Page 5


Quốc kỳ

Quốc huy

- Tên nước : Cộng hoà Ấn Độ
- Thủ đô : Niu Đê-li
-Mã số điện thoại : +91
-Múi giờ: GMT 5:30
-Thành phố lớn nhất: Mumbai (Bombay)
- Diện tích : 3.280.483 km2 (lớn thứ 7 TG)

-Dân số : 1,2 tỷ người( đứng thứ 2 TG)
- Ngày Độc lập : 15/8/1947
- Ngày Cộng hoà (Quốc khánh) : 26/1/1950
- Ngôn ngữ : Tiếng Anh, tiếng Hindi
-Đơn vị tiền tệ : Rupee Ấn Độ (IRN)
-Mã hàng hóa:890
-Thể chế: Dân chủ đại nghị
-Đảng chính: Đảng Quốc đại Ấn Độ, Đảng Bharatiya Janata
1.2. Lịch sử Ấn Độ
Ấn Độ cổ đại
Người hiện đại về phương diện giải phẫu được cho là đến Nam Á từ 73-55.000
năm trở lại đây,song các hài cốt được xác nhận của giống người này chỉ có niên
đại sớm nhất là từ 30.000 năm trước. Tại nhiều nơi trên tiểu lục địa Ấn Độ,
người ta phát hiện được các di chỉ nghệ thuật trên đá gần cùng thời với thời đại
đồ đá giữa, bao gồm các chỗ ở hang đá Bhimbetka tạiMadhya Pradesh. Khoảng
năm 7000 TCN, các khu định cư thời đại đồ đá mới đầu tiên được biết đến đã
xuất hiện trên tiểu lục địa, tại Mehrgarh và các di chỉ khác ở đông bộ Pakistan.
Chúng dần phát triển thành văn minh thung lũng sông Ấn,[] là nền văn hóa đô thị
Page 6


đầu tiên tại Nam Á; và phát triển hưng thịnh trong khoảng thời gian 2500–1900
TCN tại Pakistan và tây bộ Ấn Độ. Nền văn minh này tập trung quanh các thành
thị như Mohenjo-daro, Harappa, Dholavira, và Kalibangan, và dựa trên các hình
thức sinh kế đa dạng, nền văn minh này có hoạt động sản xuất thủ công nghiệp
mạnh cùng với mậu dịch trên phạm vi rộng.
Trong giai đoạn 2000–500 TCN, xét theo khía cạnh văn hóa, nhiều khu vực tại
tiểu lục địa chuyển đổi từ thời đại đồ đồng đá sang thời đại đồ sắt. Vệ-đà là
những thánh kinh cổ nhất của Ấn Độ giáo, chúng được soạn trong giai đoạn này,
và các nhà sử học phân tích chúng để thừa nhận về một nền văn hóa Vệđà ở vùng Punjab và phần thượng của đồng bằng sông Hằng. Hầu hết các sử gia

cũng nhận định trong giai đoạn này có một vài làn sóng người Ấn-Arya nhập cư
đến tiểu lục địa từ phía tây-bắc. Chế độ đẳng cấp xuất hiện trong giai đoạn này,
tạo nên một hệ thống thứ bậc gồm các tăng lữ, quân nhân, nông dân tự do, tuy
nhiên loại trừ người dân bản địa bằng cách gán cho công việc của họ là thứ ô
uế. Trên cao nguyên Deccan, bằng chứng khảo cổ từ thời kỳ này khẳng định sự
tồn tại của tổ chức chính trị ở một giai đoạn tù bang. Tại nam bộ Ấn Độ, một
lượng lớn các bia kỷ niệm cự thạch có niên đại từ thời kỳ này cho thấy có một
sự tiến triển lên cuộc sống định cư, ngoài ra còn có các dấu vết về nông nghiệp,
bể tưới tiêu, và thủ công truyền thống nằm không xa đó.

Bức họa tại Các hang Ajanta,Aurangabad, bang tây bộ Maharashtra
Vào cuối giai đoạn Vệ-đà, khoảng thế kỷ 5 TCN, các tù bang nhỏ ở đồng bằng
sông Hằng và tây-bắc thống nhất thành 16 quả đầu quốcvà quân chủ quốc lớn,
chúng được gọi là các mahajanapada. Đô thị hóa nổi lên và các tính chất chính
thống trong thời kỳ này cũng hình thành nên các phong trào tôn giáo không
chính thống, hai trong số đó trở thành các tôn giáo độc lập. Phật giáo dựa trên
lời dạy củaTất-đạt-đa Cồ-đàm, thu hút các môn đồ từ tất cả các tầng lớp xã hội
trừ tầng lớp trung lưu; ghi chép biên niên sử về cuộc đời của Phật là trung tâm
trong việc khởi đầu lịch sử thành văn tại Ấn Độ. Đạo Jaina nổi lên trong thời kỳ
của người mô phạm của nó làMahavira. Tại một thời kỳ mà đô thị thêm phần
thịnh vương, cả hai tôn giáo đều duy trì sự từ bỏ như một tư tưởng, và cả hai đều
Page 7


hình thành các truyền thống tu viện lâu dài. Về mặt chính trị, vào thế kỷ 3 TCN,
Vương quốc Magadha (Ma Kiệt Đà) sáp nhập hoặc chinh phục các quốc gia
khác để rồi nổi lên thành Đế quốc Maurya (Khổng Tước). Đế quốc Maurya từng
kiểm soát hầu hết tiểu lục địa ngoại trừ vùng viễn nam, song các khu vực lõi của
nó nay bị phân ly bởi các khu vực tự trị lớn. Các quốc vương của Maurya được
biết đến nhiều với việc xây dựng đế quốc và quản lý sinh hoạt công cộng một

cách quả quyết, như Ashoka từ bỏ chủ nghĩa quân phiệt và ủng hộ rộng rãi "Phật
pháp".
Văn học Sangam viết bằng tiếng Tamil tiết lộ rằng vào giai đoạn từ 200 TCN
đến 200 CN, nam bộ bán đảo nằm dưới quyền quản lý của các triều
đại Chera, Chola, và Pandya, các triều đại này có quan hệ mậu dịch rộng rãi
với Đế quốc La Mã cũng như với khu vực Tây vàĐông Nam Á. Ở bắc bộ Ấn
Độ, Ấn Độ giáo khẳng định quyền kiểm soát phụ quyền trong gia đình, khiến
phụ nữ tăng thêm tính lệ thuộc. Đến thế kỷ 4 và 5, Đế quốc Gupta được hình
thành tại đồng bằng sông Hằng với một phức hệ về hành pháp và phú thuế, trở
thành hình mẫu cho các vương quốc sau này tại Ấn Độ. Dưới chế độ Gupta, Ấn
Độ giáo hồi phục dựa trên cơ sở lòng sùng đạo thay vì quản lý lễ nghi và bắt đầu
khẳng định được mình. Sự phục hồi của Ấn Độ giáo thể hiện qua việc nở rộ các
công trình điêu khắc và kiến trúc, những thứ trở nên quen thuộc trong một giới
tinh hoa đô thị. Văn học tiếng Phạn cổ điển cũng nở rộ, và khoa học, thiên văn
học, y học, toán học Ấn Độ có các tiến bộ đáng kể.
Ấn Độ trung đại

Tháp làm bằng đá granit của đền Brihadeeswarar tạiThanjavur, bang nam
bộTamil Nadu được hoàn thành vào năm 1010, dưới triều Chola.
Thời kỳ Ấn Độ trung đại đầu kéo dài từ năm 600 đến năm 1200, có đặc điểm là
các vương quốc mang tính khu vực và đa dạng văn hóa. Khi người cai trị phần
lớn đồng bằng Ấn-Hằng từ 606 đến 647 là Hoàng đế Harsha cố gắng khoách
trương về phía nam, ông chiến bại trước quân chủ của triều Chalukya ngự trị tại
Deccan. Khi người thừa tự của Harsha nỗ lực khoách trương về phía đông, ông
Page 8


ta chiến bại trước quân chủ của Pala ngự trị tại Bengal. Khi triều Chalukya nỗ
lực khoách trương về phía nam, họ chiến bại trước triều Pallava ở xa hơn về
phía nam, triều Pallava lại đối đầu với triều Pandya và triều Chola ở xa hơn nữa

về phía nam. Không quân chủ nào trong giai đoạn này có thể thiết lập nên một
đế quốc và kiểm soát liên tục các vùng đất nằm xa vùng lãnh thổ lõi của
mình. Trong thời kỳ này, các mục dân có đất đai bị phát quang để phát triển kinh
tế nông nghiệp được thu nhận vào trong xã hội đẳng cấp, trở thành tầng lớp
thống trị phi truyền thống mới. Hệ thống đẳng cấp do đó bắt đầu thể hiện những
khác biệt giữa các vùng.
Trong thế kỷ 6 và 7, các bài thánh ca cầu nguyện đầu tiên được sáng tác bằng
tiếng Tamil. Toàn Ấn Độ mô phỏng theo điều đó và khiến cho Ấn Độ giáo tái
khởi, và toàn bộ các ngôn ngữ hiện đại trên tiểu lục địa có sự phát triển. Các
vương thất lớn nhỏ tại Ấn Độ cùng các đền thờ mà họ bảo trợ thu hút một lượng
rất lớn các thần dân đến kinh thành, các kinh thành cũng trở thành những trung
tâm kinh tế. Các đô thị thánh đường với kính cỡ khác nhau bắt đầu xuất hiện
khắp nơi khi Ấn Độ trải qua một quá trình đô thị hóa nữa. Đến thế kỷ 8 và 9, các
ảnh hưởng của Ấn Độ được nhận thấy tại Đông Nam Á, khi mà văn hóa và hệ
thống chính trị Nam Á được truyền bá ra các vùng đất mà nay là một phần của
Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Malaysia, và Java. Các thương
nhân, học giả, và đôi khi là quân nhân Ấn Độ tham gia vào sự truyền bá này;
người Đông Nam Á cũng có sự chủ động, nhiều người lưu lại một thời gian
trong các trường dòng Ấn Độ và dịch các văn bản Phật giáo và Ấn Độ giáo sang
ngôn ngữ của họ.
Các thị tộc du cư Trung Á sử dụng kỵ binh và có các đội quân đông đảo được
thống nhất nhờ dân tộc và tôn giáo, sau thế kỷ 10 họ liên tiếp tràn qua các đồng
bằng ở tây-bắc của Nam Á, cuối cùng hình thành nên Vương quốc Hồi giáo
Delhi vào năm 1206. Vương quốc này kiểm soát phần lớn bắc bộ Ấn Độ, tiến
hành nhiều hoạt động đánh phá xuống nam bộ Ấn Độ. Mặc dù chính quyền Hồi
giáo ban đầu phá vỡ giới tinh hoa Ấn Độ, song các thần dân phi Hồi giáo của
vương quốc này phần lớn vẫn duy trì được luật lệ và phong tục riêng của
họ. Vương quốc Hồi giáo Delhi nhiều lần đẩy lui quân Mông Cổ trong thế kỷ
13, cứu nguy Ấn Độ khỏi cảnh tàn phá giống như ở Trung và Tây Á. Vương
quốc trở thành nơi định cư của những quân nhân bỏ trốn, người có học, pháp sư,

thương gia, nghệ sĩ, thợ thủ công từ khu vực Trung và Tây Á, tạo nên một nền
văn hóa Ấn-Hồi hổ lốn ở bắc bộ Ấn Độ. Các cuộc đột kích của Vương quốc Hồi
giáo Delhi và sự suy yếu của các vương quốc khu vực ở nam bộ Ấn Độ tạo điều
kiện cho Đế quốc Vijayanagara bản địa hình thành. Đế quốc phương nam này
theo một truyền thống Shiva giáo mạnh mẽ và xây dựng nên kỹ thuật quân sự
vượt lên trên Vương quốc Hồi giáo Delhi, kiểm soát được phần nhiều Ấn Độ
Bán đảo, và có ảnh hưởng đến xã hội nam bộ Ấn Độ trong một thời gian dài sau
đó.

Page 9


Ấn Độ cận đại

Các họa sĩ và thư pháp gia đang làm việc (1590–1595), dưới thời Đế quốc
Mogul.
Đầu thế kỷ 16, bắc bộ Ấn Độ khi đó nằm dưới quyền cai trị của các quân chủ mà
phần lớn theo Hồi giáo, song một lần nữa lại sụp đổ trước tính linh động và hỏa
lực vượt trội của một thế hệ các chiến binh Trung Á mới. Đế quốc Mogul ra đời
song không nghiền nát các xã hội địa phương, mà thay vào đó là cân bằng và
bình định họ thông qua các thủ tục quản trị mới cùng giới tinh hoa cầm quyền
vốn có đặc điểm đa dạng và bao dung, tạo ra một nền cai trị có hệ thống hơn, tập
trung hóa và thống nhất. Nhằm tránh xiềng xích bộ lạc và bản sắc Hồi giáo, đặc
biệt là dưới thời Akbar, người Mogul đoàn kết đế chế rộng lớn của họ thông qua
lòng trung thành đối với một hoàng đế có địa vị gần như thần thánh, biểu đạt
một nền văn hóa Ba Tư hóa. Các chính sách kinh tế quốc gia của Mogul, vốn có
phần lớn nguồn thu đến từ nông nghiệp và yêu cầu các khoản thuế phải trả theo
tiền bạc được quản lý chặt, khiến cho các nông dân và thợ thủ công tiến vào
những thị trường lớn hơn. Đế quốc giữ được tình hình tương đối hòa bình trong
phần lớn thế kỷ 17, và đây là một yếu tố giúp mở rộng kinh tế Ấn Độ, kết quả là

sự bảo trợ lớn hơn đối với hội họa, các loại hình văn chương, dệt, và kiến
trúc. Các nhóm xã hội mới kết hợp tại bắc bộ và tây bộ Ấn Độ, như
Maratha, Rajput, và Sikh, giành được tham vọng về quân sự và quản trị dưới chế
độ Mogul, và thông qua cộng tác hoặc tai họa, họ thu được cả sự công nhận và
kinh nghiệm quân sự. Sự mở rộng thương mại dưới chế độ Mogul giúp cho giới
tinh hoa thương mại và chính trị Ấn Độ mới dọc theo các bờ biển nam bộ và
đông bộ nổi bật lên. Khi đế quốc tan rã, nhiều người trong giới tinh hoa này có
thể theo đuổi và kiểm soát được công việc của họ.
Page 10


Đầu thế kỷ 18, khi mà ranh giới giữa thống trị thương mại và chính trị ngày
càng bị lu mờ, một số công ty mậu dịch phương Tây, bao gồm Công ty Đông Ấn
Anh, thiết lập nên các tiền đồn ven biển. Công ty Đông Ấn Anh có quyền kiểm
soát đối với các vùng biển, tiềm lực lớn hơn, có khả năng huấn luyện quân sự
cùng công nghệ tiến bộ hơn, do vậy thu hút một bộ phận giới tinh hoa Ấn Độ.
Nhờ đó, Công ty Đông Ấn Anh gặp thuận lợi trong việc giành quyền kiểm soát
đối với vùng Bengal vào năm 1765 và gạt các công ty châu Âu khác ra ngoài lề.
Công ty Đông Ấn Anh tiếp tục tiếp cận được sự giàu có của Bengal, và sau khi
tăng cường sức mạng và quy mô quân đội thì Công ty có năng lực thôn tính
hoặc khuất phục hầu hết Ấn Độ vào thập niên 1820. Ấn Độ sau đó không còn là
nhà xuất khẩu hàng hóa chế tạo như một thời gian dài trước đó, mà trở thành
một nơi cung cấp nguyên liệu cho Đế quốc Anh, và nhiều sử gia xem đây là lúc
thời kỳ thực dân tại Ấn Độ bắt đầu. Đương thời, do quyền lực kinh tế bị Nghị
viện Anh Quốc tước bỏ một cách nghiêm trọng và do bản thân trên thực tế là
một cánh tay nối dài của chính phủ Anh Quốc, Công ty Đông Ấn Anh bắt đầu có
ý thức hơn trong việc tiến vào các hoạt động phi kinh tế như giáo dục, cải cách
xã hội, và văn hóa.
Ấn Độ hiện đại


Ấn Độ thuộc Anh, từ bản năm 1909 của The Imperial Gazetteer of India. Các
khu vực do Anh Quốc trực tiếp quản lý được tô màu màu hồng bóng; các phiên
vương quốc nằm dưới quyền tông chủ của Anh Quốc được tô màu vàng.
Các sử gia xem thời kỳ hiện đại của Ấn Độ bắt đầu từ giai đoạn 1848-1885. Việc
bổ nhiệm James Broun-Ramsay làm Toàn quyền của Công ty Đông Ấn Anh vào
năm 1848 chuẩn bị cho những thay đổi cốt yếu đối với một quốc gia hiện đại.
Chúng bao gồm củng cố và phân ranh giới chủ quyền, sự giám sát của người
dân, và giáo dục cho công dân. Các biến đổi về công nghệ như đường sắt, kênh
đào, và điện báo được đưa đến Ấn Độ không lâu sau khi chúng được giới thiệu
tại châu Âu. Tuy nhiên, sự bất mãn đối với Công ty cũng tăng lên trong thời kỳ
này, và Khởi nghĩa Ấn Độ 1857 bùng nổ. Cuộc khởi nghĩa bắt nguồn từ những
oán giận và nhận thức đa dạng, bao gồm cải cách xã hội kiểu Anh, thuế đất khắc
nghiệt, và đối đãi tồi của một số địa chủ giàu có và phiên vương, nó làm rung
Page 11


chuyển nhiều khu vực ở bắc bộ và trung bộ Ấn Độ và làm lung lay nền móng
của Công ty Đông Ấn Anh. Mặc dù cuộc khởi nghĩa bị đàn áp vào năm 1858,
song nó khiến cho Công ty Đông Ấn Anh giải thể và chính phủ Anh Quốc từ đó
trực tiếp quản lý Ấn Độ. Những người cai trị mới công bố một nhà nước nhất
thể và một hệ thống nghị viện từng bước theo kiểu Anh song có hạn chế, nhưng
họ cũng bảo hộ các phó vương và quý tộc địa chủ nhằm tạo ra một thế lực hộ vệ
phong kiến để chống lại bất ổn trong tương lai. Trong các thập niên sau đó, hoạt
động quần chúng dần nổi lên trên khắp Ấn Độ, cuối cùng dẫn đến việc thành
lập Đảng Quốc đại Ấn Độ vào năm 1885.

Jawaharlal Nehru (trái) trở thành thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ vào năm
1947. Mahatma Gandhi (phải) là người lãnh đạo phong trào độc lập.
Sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật cùng với thương mại hóa nông nghiệp
trong nửa sau thế kỷ 19 gây nên các khó khăn kinh tế: nhiều nông dân nhỏ trở

nên phụ thuộc vào các nhu cầu của các thị trường xa xôi. Số lượng nạn đói quy
mô lớn gia tăng, và có ít công việc công nghiệp được trao cho người Ấn Độ. Tuy
nhiên, nó cũng có những tác động tích cực: trồng trọt mang tính thương mại, đặc
biệt là ở vùng Punjab mới được khơi kênh, khiến sản lượng lương thực dành cho
tiêu dùng nội địa gia tăng. Hệ thống đường sắt giúp cung cấp đồ cứu tế đến
những nơi bị nạn đói nguy cấp, giảm đáng kể chi phí vận chuyển hàng hóa, và
giúp ích cho ngành công nghiệp non trẻ của Ấn Độ. Có khoảng một triệu người
Ấn Độ phục vụ cho Anh Quốc trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, và sau cuộc
chiến này là một thời kỳ mới. Thời kỳ này mang dấu ấn với các cải cách của
Anh Quốc song cũng có các áp chế về luật pháp, với việc người Ấn Độ mãnh
liệt hơn trong việc yêu cầu quyền tự trị, và với việc bắt đầu một phong trào bất
bạo động bất hợp tác - trong đó Mohandas Karamchand Gandhi trở thành lãnh tụ
và biểu tượng. Trong thập niên 1930, Anh Quốc ban hành các cải cách lập pháp
một cách chậm chạp; Đảng Quốc đại Ấn Độ giành chiến thắng trong các cuộc
bầu cử. Thập niên tiếp theo chìm trong các cuộc khủng hoảng: Ấn Độ tham gia
vào Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Quốc đại kiên quyết bất hợp tác, và một
đợt bột phát chủ nghĩa dân tộc Hồi giáo. Tất cả đều bị ngăn lại với việc Ấn Độ
giành được độc lập vào năm 1947, song bị kiềm chế do thuộc địa này phân chia
thành hai quốc gia: Ấn Độ và Pakistan.
Page 12


Để khẳng định hình ảnh là một quốc gia độc lập, hiến pháp Ấn Độ được hoàn
thành vào năm 1950, xác định Ấn Độ là một nền cộng hòa thế tục và dân
chủ. Trong 60 năm kể từ đó, Ấn Độ trải qua cả những thành công và thất
bại. Đất nước này vẫn duy trì một chế độ dân chủ với các quyền tự do dân sự,
một Tòa án tối cao hoạt động tích cực, và một nền báo chí độc lập ở mức độ
lớn. Tự do hóa kinh tế bắt đầu từ thập niên 1990, và tạo ra một tầng lớp trung
lưu thành thị có quy mô lớn, biến Ấn Độ thành một trong những nền kinh tế phát
triển nhanh nhất thế giới, và tăng cường ảnh hưởng địa chính trị của mình. Phim,

âm nhạc, và giảng đạo của Ấn Độ đóng một vai trò ngày càng lớn trong văn hóa
toàn cầu. Tuy nhiên, Ấn Độ phải đương đầu với các vấn đề như nghèo nàn ở cả
thành thị lẫn nông thôn; từ xung đột liên quan đến tôn giáo và đẳng cấp; từ quân
nổi dậy Naxalite được truyền cảm hứng từ tư tưởng Mao Trạch Đông; từ chủ
nghĩa ly khai tại Jammu và Kashmir và tại Đông Bắc. Có tranh chấp lãnh thổ
chưa được giải quyết với Trung Quốc, từng leo thang thành Chiến tranh TrungẤn vào năm 1962; và các cuộc chiến tranh biên giới với Pakistan bùng phát vào
các năm 1947, 1965, 1971, và 1999. Sự đối đầu hạt nhân Ấn Độ–Pakistan lên
đến đỉnh vào năm 1998.
1.2.
Vị trí địa lý Ấn Độ
Ấn Độ là một bán đảo ở Nam Á, , chiếm hầu hết bán đảo Ấn Độ. Ấn Độ có ranh
giới với Pakistan, Trung Quốc, Myanma, Bangladesh, Nepal, Bhutan và
Afghanistan. Ấn Độ là nước đông dân thứ nhì trên thế giới, với dân số trên Bắc
có núi chắn ngang, trong đó có dãy Himalaya nổi tiếng. Ấn Độ chia làm hai
miền Nam, Bắc lấy dãy Vindya làm ranh giới. Miền Bắc Aassn Độ có hai con
sông lớn là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange). Sông Ấn chia làm năm
nhánh, nên đồng bằn lưu vực sông Ấn được gọi là vừng Punjab ( vùng năm
sông). Tên nước Ấn Độ gọi theo tên con sông này. Sông Hằng ở phía Đông được
coi là sông thiêng. Từ xưa nhân dân Ấn Độ thường đến khúc sông ở thành phố
Varanadi (Benares) để cử hành lễ tắm mang tính chất tôn giáo. Cả hai dòng sông
này đều bồi đắp thành hai đồng bằng màu mỡ ở miền Bắc Ấn Độ, vì vậy nơi đây
đã trở thành cái nôi của nền văn minh nước này.
Cộng hoà Ấn Độ xuất hiện trên bản đồ thế giới vào ngày 15 tháng 8 năm 1947.
Sự thiết lập nhà nước Ấn Độ là đỉnh cao của cuộc đấu tranh của những người tại
Nam Á để thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Anh. Ấn Độ có nền văn minh
sông Ấn (Indus) phát triển rực rỡ cách đây 5 nghìn năm. Ấn Độ là nơi sinh
trưởng của bốn tôn giáo quan trọng trên thế giới: Ấn Độ giáo (Hindu), Phật
giáo, đạo Jaini và đạo Sikh,…
Cư dân Ấn Độ, về thành phần chủng tộc, gồm hai loại chính: Người Dravida chủ
yếu cư trú ở miền Nam và người Arya chủ yếu cư chú ở miền Bắc. Ngoài ra còn

nhiều chủng người khác như người Hy Lạp, người Hung Nô, người Ả rập… Họ
Page 13


dần dần đồng hóa với các thành phần cư dân khác, do đó vấn đề bộ tộc ở Ấn Độ
là một vấn đề hết sức phức tạp.
Thời cổ trung đại, phạm vi địa lí của nước Ấn Độ bao gồm cả nước Ấn Độ,
Pakixtan, Bangladsh và Nepan ngày nay.
CHƯƠNG 2: NÉT VĂN HÓA CỦA ĐẤT NƯỚC ẤN ĐỘ
2.1. Chữ Viết
Chữ viết đầu tiên của Ấn Độ được sáng tạo từ thời văn hóa Harappa. Tại các di
chỉ thuộc nền văn minh lưu vực sông Ấn đã phát hiện được hơn 3000 con dấu
khắc chữ đồ họa. Suốt nửa thế kỉ từ khi phát hiện lần đầu tiên vào năm 1921,
nhiều tác giả của nhiều nước đã nguyên cứu cách đọc loại chữu này nhưng chưa
thành công. Mãi đến cách đây vài chục năm, một nhà khảo cổ học Ấn Độ là Tiến
sĩ S.R.Rao đã khám phá được sự bí ẩn của loại chữ này.

Bảng chữ viết bằng tiếng Phạn (Sanskrit)
Theo ông Rao đây là một loại chữ dùng hình để ghi âm và ghi vần. Trong hơn
3000 con dấu ấy có hơn 22 dấu cơ bản. Loại chữ này chủ yếu viết từ phải sang
trái. Những con dấu đã phát hiện là những con dấu dùng để đống trên các kiện
hàng để xác nhận hàng hóa và chỉ rõ xuất xứ của những hàng hóa đó.
Đến khoảng thế kỉ V TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một loại chữ khác gọi là chữ
Kharosthi. Đây là một loại chữ phỏng theo chữ viết của vùng Lưỡng Hà. Sau đó
lại xuất hiện ở Brahmi, một loại chữ được sử dụng rộng rãi. Các văn bia của
Ashoka đều viết bằng loại chữ này. Trên cơ sở của chữ Brahmi, người Ấn Độ lại
đặt ra những Devanagari có cách viết đơn giản và thuận tiện hơn. Đó là thứ chữ
mới để vueuets tiếng Sanskirt. Đến nay ở Ấn Độ và Nepan vẫn dùng loại chữ
này.


Page 14


2.2. Tôn giáo
Thi hào Tagore đã có lần ca ngợi đất nước Ấn Độ của ông qua mấy câu thơ:
“Khi anh cất lên tiếng gọi thì Họ đến
Ấn Độ Giáo và Phật Giáo, Kỳ Na Giáo và đạo Sikh,
Đạo Parsi, Hồi Giáo và Thiên Chúa.
Đông và Tây gặp nhau
Thể xác đồng nhất với tình yêu nơi linh thiêng của anh
Chiến thắng thuộc về kẻ tạo ra tâm hồn nhân loại
Chiến thắng thuộc về kẻ kiến tạo định mệnh của Ấn Độ.”
(Rabindranath Tagore)
Người ta nói “Địa linh sinh nhân kiệt,” quả không sai. Đất nước Ấn Độ có một
vị thế địa lý rất đặc biệt. Đó là lưng dựa vào dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ nhất
thế giới, mặt nhìn ra Ấn Độ Dương biển cả mênh mông, lại còn có 2 con sông
lớn là Ấn Hà và Hằng Hà như hai dòng sữa tươi nuôi một bình nguyên bao la và
cũng là cái nôi của nền văn minh nông nghiệp định cư vào thời cổ đại. Chính ở
chốn địa linh nhân kiệt đó nhiều vĩ nhân ra đời như đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
Thánh Mahatma Gandhi, hiền triết Jiddu Krishnamurti, thi hào Rabindranath
Tagore, v.v… và các tôn giáo, trường phái triết học lớn và lâu đời nhất thế giới
được hình thành như Vệ Đà, Áo Nghĩa Thư, Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Kỳ Na
Giáo, Đạo Sikh, v.v…
2.2.1. Ấn Độ Giáo
Ân Độ Giáo không những là truyền thống tôn giáo lớn và lâu đời nhất của Tiểu
Lục Địa Ấn Độ mà còn của cả thế giới. Ấn Độ Giáo không phải được khai sáng
bởi một vị giáo chủ độc nhất hay có một hệ thống thống nhất về niềm tin hay tín
điều, mà chỉ là một hiện tượng tôn giáo bắt nguồn và dựa vào các truyền thống
Vệ Đà. Ấn Độ Giáo có đặc tính cởi mở và bao dung được tất cả các niềm tin
khác nhau. Người ta cũng có thể định nghĩa Ấn Độ Giáo như là một phương

thức sống.
Ấn Độ Giáo thường được biết có nhiều hệ phái khác nhau. Theo lịch sử, Ấn Độ
Giáo có 6 trường phái tư tưởng chính, nhưng chỉ có 2 trường phái Vedanta và
Yoga là phát triển lâu dài. Hiện nay, Ấn Độ Giáo có các trường phái chính như
Vaishnavism, Shaivism, Smartism, và Shaktism.
Page 15


Các giáo thuyết chủ đạo của Ấn Độ Giáo gồm Dharma (Pháp, nguyên lý đạo
đức và chức phận), Samsàra (Luân hồi, sống, chết và tái sinh), Karma (Nghiệp,
hành động tạo tác và kết quả của hành động tạo tác), Moksha (Giải thoát khỏi
luân hồi), và Yoga (các phương pháp tu tập). Những giáo thuyết này có vẻ trùng
hợp với giáo thuyết của Phật Giáo và Kỳ Na Giáo, nhưng thực tế có nhiều khác
biệt trong nhận thức và thực hành chúng trong Ấn Độ Giáo so với Phật Giáo và
Kỳ Na Giáo.
Theo các trường phái nhị nguyên trong Ấn Độ Giáo như Dvaita và Bhakti thì
Brahma là đấng tối thượng, và họ lễ bái, như Thần Vishnu, Thần Brahma, Thần
Shiva, hay Thần Shakti, tùy theo trường phái. Ngược lại, các giáo nghĩa vô thần
trong Ấn Độ Giáo như Samkhya và Mimamsa thì cho rằng người ta không thể
chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế. Samkhya biện minh rằng một Thượng
Đế bất biến không thể là nguồn gốc sinh ra thế giới biến đổi không ngừng. Giáo
phái thuộc Ấn Độ Giáo như Vaishnava thờ Thần Vishnu; còn giáo phái Shaivite
thờ Thần Shiva; và Shakta thờ Thần Shakti.
Về mặt thực nghiệm, Ấn Độ Giáo cho rằng để đạt tới mục đích cứu cánh giải
thoát của cuộc sống người ta phải thực hành các phương pháp tu tập được gọi là
Yoga. Các giáo nghĩa dạy về Yoga gồm có Bhagavad Gita, Kinh Yoga Sutra,
Hatha Yoga Pradipika, Áo Nghĩa Thư. Yoga gồm có:
- Bhakti Yoga (tình yêu và hiến dâng),
- Karma Yoga (chánh nghiệp),
- Raja Yoga (thiền định), và

- Jnana Yoga (trí tuệ).
Các thần cũng được dùng như những phương pháp để xưng tụng và cầu nguyện
giúp tập trung tư tưởng và bày tỏ sự hiến dâng lên Thượng Đế hay thần linh.
Theo thống kê dân số năm 2001, Ấn Độ Giáo là tôn giáo lớn nhất tại Ấn Độ với
80% dân số là tín đồ Ấn Độ Giáo. Ngoài ra, tại những quốc gia khác như Nepal,
Ấn Độ Giáo có 23 triệu tín độ, tại Bangladesh có 14 triệu, và Đảo Bali có 3.3
triệu. Trên thế giới, Ấn Độ Giáo có số tín đồ đông đứng hàng thứ 3 sau Thiên
Chúa Giáo và Hồi Giáo.
2.2.2 Phật Giáo
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni Buddha), người khai sáng ra Phật
Giáo, sinh vào năm 624 trước công nguyên tại Thành Phố Lâm Tỳ Ni (Lumbini)
Page 16


mà ngày nay là nước Nepal, phía bắc Ấn Độ. Ngài nguyên là Thái Tử Sĩ Đạt Ta
(Siddhartha) của dòng họ Cồ Đàm (Gautama) thuộc nước Ca Tỳ La Vệ
(Capilavastu). Phụ vương của Thái Tử là Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và mẫu
hậu là Hoàng Hậu Maya. Năm 16 tuổi Thái Tử kết hôn với Công Chúa Da Du
Đà La (Yasodhara). Năm 29 tuổi Thái Tử vào Hy Mã Lạp Sơn để xuất gia tầm
đạo tìm con đường giải thoát khổ đau cho mình và chúng sinh.
Trải qua 6 năm tầm sư học đạo, nhưng Thái Tử Sĩ Đạt Ta vẫn không thỏa mãn
với những giáo thuyết và pháp môn tu của những vị đạo sư mà Ngài theo học.
Cuối cùng vì tu theo khổ hạnh ép xác, Ngài đã kiệt sức và ngã quỵ bên giòng
sông Ni Liên Thiền (Nairanjana) và nhờ bác sữa của nữ thí chủ Tu Xà Đa
(Sujata) mà Ngài hồi phục. Sau Đó Thái Tử quyết định từ bỏ lối tu khổ hạnh và
bắt đầu pháp môn riêng của Ngài. Ngài đến dưới gốc cây Bồ Đề (Bodhi Tree)
ngồi thiền định. Sau 49 ngày đêm thiền tọa, cuối cùng Thái Tử đã đạt được sự
giác ngộ hoàn toàn và trở thành vị Phật có tên là Phật Thích Ca Mâu Ni, vào
năm Ngài 35 tuổi. Sau khi giác ngộ, đức Phật đến Vườn Lộc Uyển gặp lại 5
người bạn đồng tu lúc trước và dạy cho họ pháp môn giác ngộ mà Ngài đã thành

tựu để họ được chứng đạo.
Nội dung giáo nghĩa Phật Giáo có thể tóm lược trong 4 điểm chính (thường
được gọi là Bốn Pháp Ấn)
Vô Thường (Anitya): Vô thường là bản chất của mọi hiện tượng tâm lý và vật
lý. Không một hiện tượng nào trên thế gian này thoát khỏi sự chi phối của vòng
sinh, trụ, dị và diệt. Chính vì các hiện tượng chung quanh chúng ta đều vô
thường nên làm cho đời sống của con người trở nên đau khổ.
Khổ (Duhkha): Khổ vì sinh, già, bệnh, chết; khổ vì mọi thứ đều tuột khỏi tầm
tay kiểm soát của con người, ngay cả chính sinh mệnh của chúng ta nữa.
Không (Sunya): Mọi hiện tượng đều vô thường và khổ não như thế nói lên một
sự thật rất căn bản là tất cả mọi sự tồn tại đều là giả, không thật, là Không ngay
tự bản chất, tức là Tánh Không.
Vô Ngã (Anatma).:Khi các hiện tượng đều là Không trong tự tánh thì cũng đồng
nghĩa là chúng không hề có tự ngã, chúng chỉ hiện hữu do các duyên hòa hợp
mà thôi. Vì vô ngã, Phật Giáo không chấp nhận sự hiện hữu của Thượng Đế với
ý nghĩa là đấng sáng tạo vũ trụ.
Chính vì thâm cảm bản chất khổ đau của con người và tất cả chúng sinh, đức
Phật đã mở rộng lòng từ bi đối với mọi loài và chủ trương tôn trọng mọi sự
sống, bảo tồn môi trường sống thiên nhiên. Hình ảnh về cuộc đời sinh ra, thành
Page 17


đạo, sống, hoằng pháp, và nhập Niết Bàn dưới gốc cây, trong rừng núi của đức
Phật là hình ảnh biểu thị lòng từ bi, bất bạo động và bao dung của Phật Giáo.
Dựa vào nội dung giáo nghĩa và lịch sử phát triển người ta phân Phật Giáo ra
làm 3 truyền thống: Nguyên Thủy, Tiểu Thừa Bộ Phái và Đại Thừa. Nguyên
Thủy Phật Giáo là thời kỳ đức Phật còn tại thế hàng đệ tử Phật nương oai đức và
lời dạy trực tiếp của đức Phật làm kim chỉ nam cho sự tu tập, thời kỳ này nội
dung giáo nghĩa của Phật vẫn còn ở dạng thức truyền khẩu, nghĩa là học thuộc
lòng chứ chưa viết thành văn tự. Tiểu Thừa Bộ Phái là thời kỳ sau khi đức Phật

nhập Niết Bàn khoảng 100 năm với sự giải thích dị biệt về giới luật và giáo
nghĩa đưa tới sự phân chia làm nhiều bộ phái -- có ít nhất trên 20 bộ phái được
biết tới – trong thời kỳ này, những lời dạy của đức Phật đã được kết tập và viết
thành văn tự trong 4 bộ Nikaya hay 5 bộ Kinh A Hàm mà sau này được dịch
sang Hán văn. Phật Giáo Đại Thừa bắt đầu với phong trào vận động để đưa đạo
Phật phổ cập vào xã hội với bộ phái Đại Chúng Bộ thuộc thành phần đại đa số
và cấp tiến. Tuy nhiên, Phật Giáo Đại Thừa được khởi phát rõ rệt vào khoảng
600 năm sau Phật nhập diệt từc đầu công nguyên nhờ cuộc vận động của chư Bồ
Tát Mã Minh (Asvaghosa), Long Thọ (Nagarjuna), Vô Trước (Asanga) và Thế
Thân (Vasubandhu) với sự xuất hiện của Kinh Điển Đại Thừa và các bộ Luận
xiển dương Đại Thừa như các bộ Kinh Bát Nhã, Pháp Hoa, Duy Ma Cật, v.v…,
và các bộ Luận Đại Thừa Khởi Tín, Trung Luận, Đại Trí Độ Luận, Duy Thức,
v.v…
2.2.3. Kỳ Na Giáo
Kỳ Na Giáo cũng giống như Ấn Độ Giáo vốn không do một vị giáo chủ -Tirthakar, bậc giác ngộ -- độc nhất nào khai sáng mà do sự đóng góp của nhiều
đời những nhà lãnh đạo, một phần vì lịch sử cổ đại Ấn Độ không được ghi chép
đầy đủ do đặc tính của dân tộc này không xem trọng việc ghi chép sử. Người ta
chỉ biết là theo những gì còn lưu truyền thì vào thế kỷ thứ 9 trước công nguyên
có một vị đạo sĩ tên là Parshvanatha là một trong số các vị có công phát triển Kỳ
Na Giáo.
Đến thế kỷ thứ 6 lại xuất hiện một nhân vật lịch sử uy tín nổi bật khác cũng có
công rất lớn trong việc phát dương Kỳ Na Giáo là Vardhamana Mahavira (truyền
thuyết cho rằng ông sinh năm 599 và mất năm 527 trước công nguyên), là vị
thánh thứ 24 của Kỳ Na Giáo. Chính Mahavira là vị đạo sư hệ thống hóa giáo
nghĩa Kỳ Na Giáo, thành lập tăng đoàn lớn và đưa ra chủ trương tu tập khổ hạnh
và đạt mục tiêu giác ngộ. Các đệ tử của Mahavira đã tôn xưng ngài là Jina, có
nghĩa là “người chiến thắng” và những đệ tử sau này đã dùng danh hiệu này để
Page 18



đặt tên cho chính họ là Jain, là người đi theo đấng Jina. Chữ Jain dùng để gọi tên
cho Kỳ Na Giáo bắt đầu xuất hiện từ đó.
Thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, vào thời đại đế quốc Kharavela, Kỳ Na Giáo
đã bắt đầu phát triển rộng tại miền Nam Ấn Độ. Nhưng phải đợi tới vị lãnh đạo
thứ 23 là Parshavanatha thì sử liệu mới ghi. Tuy nhiên, sự truyền thừa có tính
lịch sử và liên tục về sau này thì phải đợi tới thời vị lãnh đạo Rishabhdeva.
Hoàng đế Chandragupta Maurya lúc tuổi già đã từ bỏ ngôi vua và gia nhập vào
tăng đoàn Kỳ Na Giáo. Hoàng đế Chandragupta là đệ tử của vị lãnh đạo
Bhadrabahu.
Kỳ Na Giáo chủ trương bất bạo động đối với tất cả chúng sinh. Triết lý Kỳ Na
Giáo tập trung vào việc nỗ lực thực nghiệm tự thân để chuyển tâm hồn đến sự
tỉnh thức và giải thoát. Bất cứ người nào tự chế được tâm thoát khỏi những kẻ
thù tham lam, sân hận thì đạt tới cảnh giới tối thượng gọi là jina tức là vị chinh
phục hay chiến thắng.
Kỳ Na Giáo không tin vào đấng sáng tạo và bảo hộ vũ trụ vạn vật. Đối với Kỳ
Na Giáo vũ trụ luôn luôn thay đổi theo luật tự nhiên và tin rằng có nhiều đời
sống của nhiều loại chúng sanh khác, hữu tình và vô tình, trong và ngoài trái đất
này. Kỳ Na Giáo cho rằng sân si và tham dục là kẻ thù độc hại của con người.
Nguyên lý bất bạo động dùng để giảm trừ nghiệp lực của tham sân si là thế lực
hạn chế khả tính giải thoát của tâm con người. Kỳ Na Giáo cũng nhấn mạnh đến
sự bìng đẳng của tất cả chúng sinh, cổ võ đời sống không xâm hại đối với tất cả
muôn loài, dù là nhỏ hay lớn. Để thực hành đời sống bất hại đến mọi loài, tín đồ
Kỳ Na Giáo ăn chay trường, nhưng không được chặt hay nhổ rễ cây vì sẽ làm
hại các sinh vật nhỏ sống dưới đó. Kỳ Na Giáo cũng không cho tín đồ ăn sau khi
mặt trời lặn.
Hiện nay, tại Ấn Độ có khoảng 4.2 triệu tín đồ Kỳ Na Giáo.. Bên ngoài Ấn Độ,
trên thế giới, hiện thời có khoảng 12 triệu tín đồ Kỳ Na Giáo. Các cộng đồng Kỳ
Na Giáo có mặt khắp nơi trên thế giới tại Hoa Kỳ, Anh Quốc, Gia Nã Đại,
Kenya, Tanzania và Uganda, Nepal, South Africa, Nhật, Tân Gia Ba, Mã Lai Á,
Úc Đại Lợi, Fiji, Suriname, Bỉ, v.v....

2.2.4. Đạo Sikh
Đạo Sikh được sáng lập vào thế kỷ thứ 15 tại khu vực Punjab thuộc Ấn Độ bởi
Đạo Sư Nanak. Chữ Sikh bắt nguồn từ tiếng Phạn, có nghĩa là “đệ tử” hay sự
giáo huấn.

Page 19


Truyền thống Đạo Sikh kể rằng vào khoảng năm 1499, Đạo sư Nanak (sinh ngày
15 tháng 4 năm 1469 và mất ngày 22 tháng 9 năm 1539 trong một gia đình Ấn
Độ Giáo ở làng Rai Bhoi di Talwandi mà ngày nay gọi là Nankana Sahib) ở tuổi
30, đã đắc đạo. Sau khi cử hành lễ tắm gội, ngài đã biến mất. Người ta phát hiện
y áo trên bờ một con sông ở địa phương có tên là Kali Bein. Người dân địa
phương cho rằng ngài đã chết đuối dưới sông. Họ cùng nhau lặn xuống sông để
tìm thi thể của ngài, nhưng không ai thấy gì cả. Ba ngày sau, Đại Sư Nanak lại
trở về và im lặng không nói gì. Ngày hôm sau, ngài tuyên bố: “Không có con
đường nào của Ấn Độ Giáo hay Hồi Giáo để ta theo. Ta chỉ đi theo con đường
của Thượng Đế. Thượng Đế không phải Ấn Độ Giáo hay Hồi Giáo và con
đường mà ta đi theo chính là của Thượng Đế.” Đạo sư Nanak kể rằng ngài đã
được dẫn đến gặp Thượng Đế. Ở đó, ngài đã được trao cho một ly rượu tiên và
được bảo rằng “Đây là tách rượu yêu quý của Thượng Đế. Hãy uống đi. Ta sẽ ở
với ngươi. Ta gia hộ ngươi và dưỡng dục ngươi. Bất cứ ai tưởng nhớ đến ngươi
thì là được lòng ta. Hãy đi, vinh danh ta và giáo hóa người khác cũng làm vậy.
Ta đã ban cho ngươi món quà của ta cho ngươi. Hãy để cho điều này là của
ngươi.” Kể từ lúc đó trở đi, Nanak được tôn xưng là Đạo Sư, và Đạo Sikh được
khai sinh.
Đạo Sikh chủ trương đồng nhất thể tâm với Thượng Đế. Tín đồ Sikh tu tập để tư
tưởng và hành động thoát khỏi sự ô nhiễm của tham lam, giận dữ, dục vọng, vật
chất, và bản ngã và từ đó hợp nhất tâm với Thượng Đế. Đạo Sikh tin rằng vòng
sanh tử luân hồi là thoát ra từ đồng nhất thể này. Đạo Sikh cho rằng tất cả mọi

người đều bình đẳng, và tình huynh đệ bao trùm khắp vũ trụ giữa con người và
Thượng Đế Tối Cao. Năm nguyên lý căn bản mà tín đồ Đạo Sikh đặt niềm tin và
thực hành là Sự Thật, Bình Đẳng, Tự Do, Công Lý, và Nghiệp.
Tín đồ Đạo Sikh được nhận dạng dựa vào 5 chữ K:
1) Kesh là tóc để dài và quấn lại;
2) Kara là vòng đeo tay bằng sắt tượng trưng cho sự bất diệt;
3) Kirpan là cây kiếm nhỏ mang theo người;
4) Kashera là cái quần lót làm bằng bông vải đặc biệt để nhắc nhở giữ gìn trinh
bạch
5) Kanga là cái lược bằng gỗ thường để ở dưới chiếc khăn.
Bảo vệ quyền tự do tôn giáo và chính trị của tất cả mọi người và ngăn chận sự
kỳ thị là một trong những phần quan trọng của niềm tin trong Đạo Sikh
Page 20


Đạo Sikh còn bênh vực quyền bình đẳng và tôn trọng phụ nữ nữa. Đó là điểm ưu
việt của Đạo Sikh trong bối cảnh xã hội của thế kỷ thứ 15 sau công nguyên, khi
mà xã hội loài người và đặc biệt xã hội Ấn Độ còn nhiều kỳ thị bất công đối với
nữ giới.
Đạo Sikh chỉ chiếm 1.87% dân số Ấn Độ, nhưng lại rất có thế lực trong quân đội
Ấn Độ. Số quân nhân và sĩ quan theo Đạo Sikh chiếm tới 15% quân số Ấn Độ,
đó là tỉ lệ nhiều gấp 10 lần so với tất cả các tôn giáo khác tại Ấn.
2.2.5 Hồi Giáo Ở Ấn Độ
Hồi Giáo là nhất thần giáo, là tôn giáo cũng từ tổ phụ Abraham nhưng dựa trên
Kinh Quran, mà tín đồ Hồi Giáo tin là lời mặc khải của Thượng Đế cho Giáo
Chủ Muhammad – sinh năm 570 tại Thành Phố Mecca của nước Ả Rập Saudi,
Trung Đông, và mất năm 632 sau công nguyên.
Hồi Giáo tin rằng Thượng Đế là độc nhất và Hồi Giáo giữ được thông điệp
nguyên thủy dù những thiên khải cũng từng bị đổi thay một phần nào đó qua
thời gian, nhưng Kinh Quran thì được xem như là lời mặc khải tối hậu từ

Thượng Đế. Những thực hành của tín đồ Hồi Giáo gồm có cầu nguyện mỗi
ngày, ăn chay trong thời gian mùa lễ Ramadan, giúp đỡ người nghèo, và hành
hương vùng Thánh Địa Mecca ít nhất một lần trong đời.
Tại Ấn Độ hiện có khoảng 150 triệu tín đồ Hồi Giáo. Chính vì có dân số Hồi
Giáo đông như vậy nên, Ấn Độ là nước có tín đồ Hồi Giáo đông hạng thứ 2 trên
thế giới, sau Nam Dương (Indonesia).
Từ thế kỷ thứ 7 tới thế kỷ thứ 13, Hồi Giáo dựa vào thế quyền trong và ngoài
nước đã thực hiện nhiều cuộc phá hoại chùa chiền, tàn sát tu sĩ, trấn áp tín đồ
của Phật Giáo và Ấn Độ Giáo. Sau thế kỷ thứ 13, Phật Giáo tại Ấn Độ đã bị mai
một hoàn toàn cho đến gần đây mới bắt đầu hồi phục lại phần nào. Trong thời kỳ
xâm nhập vào Ấn Độ, Hồi Giáo đã thực hiện phương pháp cải đạo rất tàn ác. Đó
là bắt người Ấn phải chọn lựa 1 trong 3 cách: theo Hồi Giáo, bị giết chết, hay bị
đóng thuế nặng nề. Công cuộc cải đạo chính thức bắt đầu có hệ thống vào thế kỷ
thứ 8 khi mà đoàn quân Ả Rập xâm lăng miền Bắc Ấn và lãnh thổ thuộc
Pakistan ngày nay
2.2.6 Cơ đốc giáo
Với hơn 71 triệu người theo như tuyên bố rằng đang theo Cơ Đốc giáo, Ấn Độ
hiện tại đang là quốc gia đứng thứ 8 trong danh sách những quốc gia Cơ Đốc
của Thế Giới
Page 21


Các cơ đốc nhân tin vào một Đức Chúa Trời yêu thương là Đấng đã bày tỏ về
chính Ngài và có thể được nhận biết một cách cá nhân trong đời sống này. Với
Chúa Giê-xu, thì sự tập trung của con người không phải là các lễ nghi tôn giáo
hay thể hiện các việc làm lành, nhưng là sự vui thích về mối quan hệ với Đức
Chúa Trời và tăng trưởng trong sự nhận biết Ngài nhiều hơn.
Đức tin nơi Chúa Giê-su, không chỉ tin những điều dạy dỗ của Ngài, là cách mà
cơ đốc nhân có thể kinh nghiệm được niềm vui và một đời sống ý nghĩa. Trong
đời sống của Ngài ở trên đất, Chúa Giê-su đã không chứng tỏ Ngài là Đấng tiên

tri được Đức Chúa Trời chỉ định hay là một giáo sư đem đến sự khai sáng. Hơn
thế, Chúa Giê-su xác nhận Ngài là Đức Chúa Trời trong hình thể con người.
Ngài làm phép lạ, tha thứ tội lỗi và nói rằng hễ ai tin Ngài sẽ được sự sống đời
đời. Ngài đã công bố thế này, “Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo ta,
chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống.”
Người cơ đốc xem Kinh thánh là sứ điệp được viết ra của Đức Chúa Trời dành
cho loài người. Ngoài việc đó là sự ghi chép mang tính lịch sử về đời sống và
những phép lạ của Chúa Giê-xu, Kinh thánh bày tỏ về tính cách của Đức Chúa
Trời, tình yêu và lẽ thật của Ngài, và làm thế nào để một người có thể có mối
quan hệ với Ngài.
Dù một Cơ đốc nhân đang đối diện với bất cứ hoàn cảnh nào trong đời sống của
mình, họ vẫn có thể tự tin quay về với Đức Chúa Trời quyền năng và khôn
ngoan, Đấng hoàn toàn yêu mến họ. Họ tin rằng Đức Chúa Trời đáp lời cầu
nguyện và đời sống đó có ý nghĩa khi họ sống tôn thờ Ngài.
2.2.7 Đạo Jain
Đạo Ja-in được thiết lập dựa vào giáo lý của một vị thầy là Mahavira (-599 - 527
trước Tây lịch), tức cùng một thời với Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Trong suốt dòng lịch sử phát triển, đạo Ja-in chưa bao giờ trở thành một tôn giáo
lớn. Số tín đồ hiện nay chỉ gồm khoảng từ 2 đến 8 triệu và hầu hết là người Ấn
sinh sống trên đất Ấn. Ngoài ra thì có hai nhóm nhỏ tín đồ ở Hoa Kỳ và Anh
quốc mà hầu hết đều là những người Ấn di dân. Tuy chỉ là thiểu số, nhưng các
tín đồ đạo Jain đã giữ một vai trò rất quan trọng về chính trị và kinh tế trong xã
hội Ấn ngày nay
Đạo Ja-in là một tôn giáo rất kỷ cương và nghiêm khắc, chủ trương bất bạo
động, thực thi bố thí và kính trọng sự sống dưới bất cứ hình thức nào. Giáo lý
gồm có năm nguyên tắc căn bản là :
Page 22


-Cấm mọi hành vi hung bạo đối với tất cả sinh vật (cấm sát sinh và tuyệt đối

phải ăn chay)
-Không nói dối
-Không trộm cắp
-Không phạm vào hành vi tình dục ô nhiễm
-Không bám víu vào của cải vật chất.
Phương pháp tu tập thì gồm có việc nhịn ăn (bốn ngày trong một tháng), luyện
tập du-già (chịu đựng các cảm giác đau đớn), tránh mọi lời nói và hành động vô
bổ, nghiên cứu kinh sách và tôn vinh các vị thầy tiền bối mà họ gọi chung là các
vị Thirthakara. Tín đồ Ja-in được phân chia thành hai thành phần : tu sĩ và người
thế tục, thành phần tu sĩ được chia ra làm hai tập thể riêng biệt là nam phái và nữ
phái.
Đạo Ja-in chủ trương sự hiện hữu của một cái ngã mang tính cách thực thể gọi là
atman, cái ngã đó bị trói buộc và giam hãm bởi nghiệp tạo ra trong kiếp sống
trước. Quan niệm của đạo Ja-in về sự hiện hữu của cái ngã là một trong những
quan điểm khác biệt căn bản và quan trọng hơn hết so với Phật giáo. Đạo Ja-in
chủ trương cần phải tu tập khổ hạnh để giúp cho cái ngã tự "cởi trói" và vượt
thoát ra khỏi sự giam hãm của nghiệp và nhờ đó sẽ tự phát hiện được bản thể
đích thực của mình để tự giải thoát thoát cho mình ra khỏi chu kỳ tái sinh. Như
vừa được trình bày trên đây Phật giáo và đạo Ja-in có một số quan điểm bề
ngoài khá gần nhau nhưng thật ra thì hoàn toàn khác biệt trên căn bản. Bài viết
dưới đây sẽ trình bày các mối tương quan và sự phát triển song hành giữa hai
tôn giáo ấy trong thung lũng sông Hằng.
2.3. LỄ HỘI
Lễ hội là một nét tiêu biểu đầy màu sắc về các truyền thống của người Ấn Độ.
Những lễ hội của người Ấn Độ rất đa dạng và phong phú, hầu hết những lễ hội
đều có những nhân vật liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng, một số lễ hội có sự
kết hợp độc đáo của rất nhiều đạo. Một số lễ hội được tổ chức để chào đón các
sự kiện xã hội, lịch sử, cũng như những tưởng nhớ những vị thần trong truyền
thuyết hay trông cổ tích.
2.3.1 Lễ hội Ánh sáng – Diwali festival

Đây là một lễ hội phổ biến nhất ở Ấn Độ và cũng là lễ hội chính của đạo Hindu
được diễn ra trong 5 ngày để chào đón một năm mới trong đạo Hindu và cũng
Page 23


thể hiện sức mạnh của chính nghĩa, đặc biệt là chiến thắng của anh hùng Lord
Rama và nàng Sita-vợ anh trước những kẻ xấu.Theo một niềm tin khác, lễ hội
Diwali lại được tổ chức cho nữ thần Lakshmi, vị thần của sự giàu có và thịnh
vượng, đã ban ơn cho nhà cửa của những tín đồ của mình trongngày thiêng liêng
này. Dù bất kì truyền thuyết nào, đây cũng là ngày toàn Ấn Độ có thể vui chơi tự
do.Các ngôi nhà, cửa hàng và những tòa cao ốc được lau chùi sạch sẽ và trang
hoàng rực rỡ với đèn và nến. Một vài ngày trước lễ hội, mọi người bắt đầu làm
kẹo, mua quần áo và trang sức mới. Pháo bông thu hút trẻ em và nhiều người
lớn nhất. Các tín đồ đi thăm các đền thờ, những người trẻ thì nhận được lời chúc
tốt lành từ người lớn tuổi hơn. Lễ hội này diễn ra vào khoảng giữa tháng 10 hoặc
tháng 11 trong năm. Sự kiện chính được tổ chức vào ngày thứ ba của lễ hội.
Những chiếc đèn bằng đất sét Diyas được thắp sáng thể hiện sự chiến thắng của
chính nghĩa. Ánh sáng rực rỡ của nó lan rộng mang đến cho lễ hội một tên gọi
khác – “lễ hội của những chiếc đèn”. Ngày thứ 4 là ngày của năm mới và cũng
được coi là ngày đẹp nhất để bắt đầu những công việc mới.
2.3.2 Lễ hội màu sắc – Holi festival
Lễ hội màu sắc
này thường tổ
chức hàng năm
vào dịp trung
tuần tháng 3,
đây là lễ hội đặc
sắc ở Ấn Độ của
cộng động người
Hindu. Vào dịp

diễn ra lễ hội
truyền thống ở
Ấn Độ này,
những người tham gia lễ hội sẽ ném bột màu hoặc pha màu với nước và ném
vào nhau. Người nào nhận được càng nhiều màu thì coi như năm đó sẽ có nhiều
may mắn. Vào ngày đó, đi ra ngoài đường sẽ không nhận ra ai với ai, vì ai mặt
mũi và quần áo cùng đầy màu sắc, phải mất mấy ngày sau đó mới rửa sạch hết
màu trên người
Theo truyền thuyết, những đống lửa được thắp sáng để tưởng nhớ đến cuộc trốn
thoát kỳ diệu của Prahlad khi bị Holika, em gái của Hiranyakashipu, một con
quỷ cái ném ông ta vào lửa. Là một tín đồ trung thành của Vishnu, với sự tôn thờ
tận tâm và tinh thần mạnh mẽ, những ngọn lửa của Holika đã không thiêu cháy
Page 24


được Prahlad. Do đó, ông đã trốn thoát mà không có bất kỳ sự tổn thương nào.
Những đống lửa lớn được đốt cháy trong đêm trước ngày lễ Holi như đánh dấu
việc tiêu diệt cái ác. Những ngày này người ta đi thăm bạn bè, họ hàng và ăn rất
nhiều bánh kẹo.
2.3.3 Lễ hội Ganesha
Lễ hội Ganesha là lễ hội ở Ấn Độ được diễn ra từ giữa tháng 8 đến giữa tháng 9
hàng năm. Đây là một trong những lễ hội quan trọng nhất trong năm của người
theo đạo Hindu ở Ấn Độ, kỷ niệm ngày sinh của của thần Ganesh đầu voi thân
người. Trong thần thoại Ấn Độ, Ganesha là con của thần Siva và nữ thần
Parvati. Theo tín đồ Ấn Độ giáo thì Ganesha là vị thần thông thái, luôn mang lại
may mắn và hạnh phúc cho con người. Vì vậy Ganesha được yêu mến nhất Ấn
Độ. Theo Ấn giáo, đầu (voi) của thần Gagesha tượng trựng cho tự ngã (atman),
thực tại tối hậu của con người; còn thân (người) của Thần tượng trưng cho
maya, là sự hiện hữu của con người nơi cõi đời trần tục. Đầu voi của Thần cũng
tượng trưng cho trí tuệ, với vòi tượng trựng cho âm Om, biểu tượng âm thanh

của thực tại vũ trụ. Thần Ganesha cũng được xem là vị Thần có khả năng đoạn
trừ những chướng ngại, là vị Thần của may mắn, tài sản và trí tuệ.Lễ hội
Ganesha được chuẩn bị khá sớm. Trước khi lễ hội bắt đầu, người ta cho dựng
những lễ đài tại các con phố và tôn trí tượng thần Ganesha ở đó. Người Ấn
không coi trọng lắm hình thức, nên lễ đài cũng không có gì cầu kỳ hay “hoành
tráng.” Không có cảnh cơ quan đoàn thể đến tặng hoa, chúc mừng và phát biểu
này nọ. Vào những ngày lễ, người Hindu thường lui tới các nơi thờ tượng thần
Ganesha để dâng thức ăn và nước. Thức ăn thường là những thứ bánh ngọt,
nước thì thường là nước dừa. Họ cũng cầu nguyện Thần giúp họ giải trừ những
chướng ngại và rủi ro, và tất nhiên nhớ giúp họ đạt được may mắn và thịnh
vượng trong đời sống. Nhưng trước khi cầu nguyện thì phải đọc kinh, vì vậy
những thánh tụng từ các Veda và Upanishad thường được tụng đọc vào dịp này.
Vào những ngày lễ, người ta cũng khuyên các tín đồ không nên nhìn trăng
(trong khi có đông người đang ngắm trăng Trung thu), bởi làm như vậy là hành
xử không thích hợp với Thần, nếu không muốn nói là xúc phạm đến ngài. Điều
này hẳn nhiên là có nguyên nhân của nó. Bên cạnh đó người ta cũng khuyên
rằng không nên kết bạn với những người không có niềm tin vào Thần (ít nhất
vào những ngày lễ). Âm nhạc và nhảy múa là những yếu tố không tách rời khỏi
các lễ hội của Ấn; và cả hai đã được sử dụng tối đa trong dịp này. Cách sử dụng
âm nhạc với tiếng trống mạnh được phóng đi trên những dàn loa công suất lớn,
khiến người chưa quen mỗi khi đi ngang những nơi tổ chức lễ hội cảm giác như
tim muốn rơi ra khỏi lồng ngực. Nhìn những đám người nhảy múa, bột màu bôi
đầy mình mẩy, mồ hôi nhễ nhại dưới trời nắng, mới thấy sự nhiệt tâm của họ với
Page 25


×