Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tìm hiểu lịch sử ra đời, phát triển và đặc điểm của làng xã nam bộ và nam trung bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.04 KB, 25 trang )

Đề tài: Tìm hiểu lịch sử ra đời, phát triển và đặc điểm của
làng xã Nam bộ và Nam trung bộ.
MỤC LỤC

Chương 1: Lịch sử hình thành và phát triển của làng xã Nam bộ và Nam Trung
Bộ
I. Lịch sử hình thành làng xã Việt Nam:

Từ thời kỳ văn hóa Phùng Nguyễn cách ngày nay khoảng 4000 năm, trên đất
nước ta đã diễn ra quá trình tan rã của công xã thị tộc và thay vào đó là quá trình
hình thành công xã nông thôn- hay nói một cách khác đấy là quá trình hình thành
làng Việt.
Mỗi làng bao gồm một số gia đình sống quây quần trong một khu vực địa lí nhất
định. Ở đây, bên cạnh quan hệ địa lí – láng giềng, quan hệ huyết thống vẫn được
bảo tồm và củng cố tạo thành kết cấu vừa làng vừa họ hay kết cấu làng họ rất đặc
1


trưng ở Việt Nam. Lúc này, toàn bộ ruộng đất cày cấy cùng với rừng núi sông
ngòi, ao đầm trong phạm vi làng đều thuộc quyền sở hữu của làng. Công việc
khai hoang, làm thủy lợi và các hình thức lao động công ích khác đều được tiến
hành bằng lao động hiệp tác của các thành viên trong làng. Làng Việt như thế là
một loại hình của công xã phương Đông trong đó nông nghiệp gắn liền với thủ
công nghiệp, làng xóm gắn liền với ruộng đất, nên tự nó mang tính ổn định rất
cao. Tính ổn định cao này đã hóa thân thành tinh thần công xã, thành truyền
thống xóm làng nên nó trở thành nguồn sức mạnh tiềm tàng trong cuộc đọ sức
nghìn năm với các mưu đồ nô dịch và đồng hóa của phương Bắc.
Thời kỳ Bắc thuộc, phong kiến Trung Quốc đã tìm mọi cách vươn xuống tận cơ
sở để nắm lấy và sử dụng làng Việt truyền thống như một công cụ phục vụ cho
mưu đồ thống trị và đồng hóa của chúng. Đầu thế kỉ thứ VII đề ra chính sách
khuôn làng Việt vào mô hình thống trị của Trung Quốc: đặt ra hương và dưới


hương là xã. Nhưng trong thực tế phong kiến Trung Quốc đã không thành công.
Đến đầu thế kỉ X, chính quyền họ Khúc tích cực thi hành chính sách cải cách
hành chính, biến làng thành đơn vị hành chính cấp cơ sở của nhà nước gọi là xã.
Khái niệm “làng, xã” như một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và
sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đơn vị hành chính cấp sơ sở như ta hằng quan niệm
xưa nay được hình thành trong thời điểm lịch sử này, đây cũng chính à bước
chuyển biến rất quan trọng của nông thôn Việt Nam truyền thống. Cấp thôn ra
đời chính là do nhu cầu quản lý hành chính của bản thân cấp xã. Thôn trở thành
đầu mối giáp nối, gắn kết và điều hòa hai hệ thống quản lý: hành chính và tự trị,
luật pháp và tục lệ, chính trị và xã hội.
Đầu thời Trần, năm 1242, Trần Thái Tông tiến hành phân chia ra các xã lớn, xã
nhỏ mà đặt các chức đại tư xã, tiểu tư xã là các xã quan thay mặt nhà nước trực
tiếp quản lý từ một đến bốn xã. Đến thời Pháp thuộc, Thực dân Pháp không
những không thủ tiêu tổ chức xã, thôn cổ truyền mà còn tìm mọi cách duy trì nó,
nuôi dưỡng nó thông qua bọn địa chủ phong kiến và hội đồng kì mục, biến nó
thành công cụ hữu hiệu cho chính sách thống trị và khai thác thuộc địa nhưng sự
thực lại diễn ra hoàn toàn trái ngược với những tính toán của bọn Thực dân. Vì
chính những nơi đây là nơi nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia, dân
tộc và có những nơi trở thành những pháo đài, căn cứ chống Pháp.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công và sự thành lập chính quyền dân
chủ nhân dân phủ định hoàn toàn bộ máy chính quyền cũ của đế quốc, phong
kiến từ trung ương cho đến cơ sở. Sau cuộc bầu cử hội đồng nhân dân xã vào
2


tháng 4/1946, nhiều thôn làng cũ được sáp nhập lại thành những xã tương đối
lớn. Cơ sở để sáp nhập là những thôn làng có quan hệ về nguồn gốc lịch sử, văn
hóa có sự gần gũi về địa vực cư trú, sự gắn bó về tự nhiên, kinh tế, xã hội.
Đến thời kì hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp, tuy thôn làng không còn là đối
tượng quản lý nữa, nhưng nó đã hóa thân vào hợp tác xã và thôn vẫn còn giữ

được các nét truyền thống riêng của mình. Chỉ từ khi hợp tác xã chuyển lên bậc
cao với quy mô toàn xã thì thôn làng truyền thống mới hầu như bị giải thể.

II. Lịch sử hình thành và phát triển của làng xã Nam Bộ và Nam trung bộ.

II.1. Tiến trình định cư và khai phá hình thành làng xã của người Việt ở
Nam bộ và Nam trung bộ trong thế kỉ XVII – XVIII:
Trong quá trình hình thành nên những thôn ấp, làng xã ở Nam bộ hay Nam trung
bộ đều gắn liền với tiến trình khai phá, khẩn hoang bằng những công cuộc Nam
tiến, mở rộng lãnh thổ của các chính quyền phong kiến. Nước Đại Việt và Chăm
pa vốn là hai nước láng giềng qua lại nhiều thế kỉ, có lúc xung đột, nhưng cũng
có khi rất yên ổn. Thời Lê sơ quan hệ Đại Việt – Chăm pa giữ được hòa bình
trong một thời gian đầu. Nhưng từ thập niên 40, vua Chiêm nhiều lần cho quân
quấy phá vùng biên giới, cướp phá vùng đất Hóa Châu, gây ra bất hòa lớn giữa
hai nước. Trước tình hình đó, năm 1471 vua Lê Thánh Tông thân chinh đi đánh
Chăm pa, chiếm của nước này một vùng rộng lớn kéo dài từ cực Nam Quảng
Ngãi đến đèo Cù Mông ngày nay. Sau thắng lợi trên vùng đất còn lại của Chăm
pa, vua Lê Thánh Tông còn chia thành 3 tiểu quốc: Nam Bàn, Hoa Anh, Chiêm
Thành với ý định lấy 2 vương quốc Nam Bàn và Hoa Anh làm vùng đêm giữa
Đại Việt và Chămpa nhằm ngăn chặn các cuốc tấn công của Chămpa vào Đại
Việt duy trì bình yên giữa vùng biên giới của hai nước. Sau cuộc Nam chinh, Lê
Thánh Tông lấy đất Chiêm Thành vừa chiếm đặt làm đạo Thừa Tuyên – Quảng
Nam, cộng trong nước là 13 Thừa tuyên, danh từ Quảng Nam có từ lúc ấy. Sau
cuộc Nam chinh trở về, việc chiêu mộ nhân dân vào vùng đất mới tiếp tục diễn ra
và ngày càng mạnh mẽ. Vùng đất mới là phủ Hoài Nhân, tức tỉnh Bình Định
ngày nay là vùng đất rộng rãi, đồng bằng phì nhiêu, có cửa biển lớn, có sức hấp
dẫn đối với lưu dân, trong đó có nhiều binh lính tham gia chiến tranh đã ở lại
vùng đất này và mang theo gia quyến của họ, cũng như thuận tiện cho việc lưu
đày đến nơi xa xôi của những tù nhân, tội phạm của nhà nước. Truyền thống của
3



người Việt trong việc duy trì tính chất đại gia đình đã đóng một vai trò quan
trọng trong việc di dân về phía Nam, truyền thống này khuyến khích di dân đi
theo từng nhó cùng huyết thống hay họ tộc ngoài ra còn có những cuộc di cư của
những người nghèo khó hay tội phạm, khi lẻ tẻ một vài gia đình, khi từng nhóm
nhỏ vẫn liên tục và âm thầm diễn ra. Mục đích của những người dân Việt khi di
cư đến vùng đất mới là nhằm tìm kiếm đất đai để làm ăn chứ không phải để bắt
tù binh nô lệ hay cướp bóc của cải. Nhờ vậy mà họ sớm hòa nhập với cộng đồng
cư dân bản địa, lập nên xóm làng mới cùng lao động và hòa hợp trong những
sinh hoạt văn hóa.
Năm 1527 nhà Mạc chiếm ngôi nhà Lê, rồi đến việc họ Trịnh nắm quyền bính,
họ Nguyễn bị nghi kỵ và nguy cơ bị họ Trịnh hãm hại. Năm 1558, Đoan quận
công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa (gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên Huế ngày nay), năm 1570 lại trấn thủ them phủ Quảng Nam. Từ đó họ
Nguyễn phía Nam ra sức xây dựng lực lượng của mình, biến miền Nam thành
giang sơn cát cứ riêng biệt, lập thế đối trọng với chúa Trịnh ở phía Bắc. sau khi
nhận quyền trấn thủ Quảng Nam (1570), năm 1578, Nguyễn Hoàng đã cử lương
Văn Chánh làm Tri huyện Tuy Viễn và giao nhiệm vụ chiêu tập lưu dân đến Cù
Mông, Bà Đài, khẩn hoang ở Đà Diễn, đánh chiếm lấy Thành Hồ. Cùng với biện
pháp quân sự, ông thực hiện biện pháp kinh tế là chiêu mộ dân vào khai khẩn nơi
đất hoang vì dân cư ở đây thưa thớt. biện pháp kinh tế này đã tạ sự ổn định cho
Hoa Anh, đồng thời cũng tạonđiều kiện thuận lợi dể người Việt từ vùng Thuận
Quảng vào vùng này ngày càng đông đúc. Trên cơ sở đó vào năm 1597, Tổng tấn
Thuận Quảng Nguyễn Hoàng đã có công văn lệnh cho Lương Văn Chánh trấn An
Biên đem dân vào khai khẩn vùng đất Phú Yên. Công văn này thúc chất như sự
công nhận “lưu dân đi trước nhà nước theo sau” – một quá trình Nam tiến của
người Việt.
Sau đó nhà Nguyễn tiếp tục cho khai phá, hình thành nên làng xã ở Nam bộ trong
thế kỷ XVII-XVIII.

Ngay từ thế kỷ XVII, trên vùng đất Nam bộ nói chung và cũng như vùng châu
thổ đồng bằng Sông Cửu Long nói riêng, bắt đầu xuất hiện lớp cư dân mới với
một nề văn hóa mới, trong đó đa số là những nông dân và thợ thủ công nghèo ở
các tỉnh phía Bắc vì không chịu nổi những tai họa do cuộc chiến tranh giữa hai
tập đoàn Trịnh – Nguyễn gây ra, cũng như sự áp bức, bóc lột tàn bạo của giai cấp
phong kiến buộc họ phải “tha phương cầu thực”. Cùng với việc tự do phân chiếm
ruộng đất, những người dân di cư cũng hoàn toàn được tự do lựa chọn nơi cư trú
củ mình để dựng nhà và lập làng ở nhưng nơi họ cho là tốt và thích hợp. Ở những
nơi đó, họ sống quần tụ lại với nhau, tự động lập thành những thôn ấp, bởi vì
làng xã là những cơ sở hạ tầng quen thuộc của người Việt có từ thời xa xưa. Hơn
4


nữa trên vùng đất mới, với rừng rậm, đầy thú dữ, với sông sâu nhiều cá sấu, lại
chưa quen thủy thổ nên họ phải gắn bó với nhau, tự động quần tụ với nhau thành
thôn ấp để có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau khai hoang mở đất và đối phó với thiên
tai, thú dữ. Đây là cách sinh cơ lập nghiệp quen thuộc của những người dân di
cư. Những thôn ấp mà những người dân di cư lập ra lúc đầu mang tính chất tự
quản, chứ chưa phải là những dơn vị hành chính, vì lúc bấy giờ chưa có chính
quyền.
Trong lớp cư dân mới xuất hiện ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long trong các thế
kỷ XVII,XVIII, ngoài thành phần chính là người Việt, người Hoa, người Chăm,
cũng còn 1 số người thuộc các quốc tịch khác như Pháp, Anh, Macau, Ấn Độ…
Như vậy địa bàn dành cho lớp cư dân mới đến cư trú và khai khẩn khá rộng rãi,
việc quản lí hành chính và xã hội ở đây cho đến thế kỷ XVII vẫn còn khá lỏng
lẻo, những lưu dân mới đến được tự do lựa chọn nơi ăn chốn ở, muốn khẩn đất
chỗ nào tùy ý.
Trong tình hình như thế, những người mới đến thường chọn trước tiên những địa
điểm thuận lợi cho sự sinh sống và trồng trọt. đó là các vùng đất giồng ven sông
biển, các cù lao màu mỡ, những nơi có thể nhnh chóng khẩn hoang để trồng cây

lương thực và cây ăn quả hoặc là ruộng muối hay làm nghề chai lưới để đánh bắt
thủy hải sản… đó cũng là các vùng ven núi nơi ngu dân có thể khai thác nhiều
nguồn lợi của rừng như săn bắt thú, khai thác gỗ, khai mỏ…
Tóm lại đến cuối thế kỷ XVII, lớp cư dân mới mà chủ yếu là người Việt đã đặt
chân tới nhiều nơi ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Tuy nhiên rõ ràng là các điểm
định cư và khai khẩn chưa được phân bố đều khắp do điều kiện tự nhiên ở các
vùng có sự khác nhau. Trong các thế kỷ XVII,XVIII lưu dân người Việt có mặt
đông đảo ở các vùng Bà Rịa, Đồng Nai, Bến Nghé, Mỹ Tho, Bến Tre nhất là
những vùng gần ông Vàm Cỏ, Sông Tiền là những vùng có nhiều thuận lợi đối
với việc làm lúa.
Năm 1698, Chưởng cơ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh dinh (thiết lập
bộ máy hành chính ở Đồng Nai – Gia Định), lấy Nông Nại đặt làm phủ Gia Định,
lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên; lập xứ Sài Gòn
thành huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Gọi là huyện nhưng huyện Phước
Long và Tân Bình khi ấy khá rộng.
Vì đất đai quá rộng mà dân cư còn quá ít, cho nên Nguyễn Hữu Cảnh một mặt
chiêu mộ những lưu dân từ châu Bố Chính (Quảng Bình) trở vô Nam đến ở khắp
nơi, cho phép những người dân tự di cư phân chiếm ruộng đất để canh tác.từ đó,
chính quyền họ Nguyễn tỏ ra rất dễ dãi đối với việc khai hoang lập ấp của lưu
dân. Sau khi chính quyền họ Nguyễn lập ra hệ thống hành chính, việc hình thành
nững ấp mới thường được thực hiện theo phương thức những người giàu đứng ra
5


đầu đơn xin mộ dân lập ấp. và nhu vậy, người đứng tên xin lập làng mặc nhiên
trở thành điền chủ, chủ nợ. Khi ruộng đất thành thuộc, dân đông hơn thì các thôn
ấp ấy được nâng lên thành làng. Các làng được lập sớm hay muộn tùy vào tầm
quan trọng của các thôn ấp. Bên cạnh đó, sau khi chính quyền họ Nguyễn đa tiến
hành việc kinh lược, đặt ra hệ thống hành chính thì tổ chức thôn ấp (theo nghĩa
đơn vị hành chính) chỉ được áp dụng đối với người làm nghề nông, khai khẩn

ruộng đất. Còn đối với một số người làm nghề rừng, nghề biển thì được hưởng
quy chế riêng, khỏi lập thôn ấp mà chỉ cần có người thay mặt đứng ra chịu trách
nhiệm để kết hợp thành trang, trại, man, thuộc, nậu… Họ sống định cư hoặc lưu
dộng, với người cai trại hoặc người hộ trưởng, người đầu nậu cầm đầu. Nhưng
trong thực tế thì ngay cả những người dân lầm nghề rừng, nghề biển vẫn sống
quy tụ với nhau trong những khu vực cư trú nhất định.
II.2. Các loại đồn điền và sự hình thành xã thôn ở miền Nam đầu thế kỷ
XIX:
Sang thế kỷ XIX, dân số tang lên do sinh đẻ tự nhiên và do dân miền ngoài tiếp
tục nhập cư khai khẩn theo sự vận động của triều Nguyễn, vì vậy, vùng đất nào
trước đó còn hoang vắng thì nay đều được khai phá.
Năm 1802, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lập ra triều Nguyễn. Để
đối phó với những khó khan ban đầu, song song với việc dùng biện pháp quân sự
và hành chính để đàn áp và khống chế nhân dân, các vua triều Nguyễn đều đặc
biệt chú trọng đến việc khẩn hoang, coi đó là một biện pháp tích cực nhất đưa
dân vào công việc sản xuất, giải quyết được nạn dân lưu tán, đồng thời lại có thể
tăng thêm diện tích trồng trọt. Đặc biệt dưới thời Tự Đức, năm 1853, triều đình
nhà Nguyễn đã triển khai một đợt mộ dân khai hoang ập ấp với quy mô lớn ở
Nam Kỳ Lục tỉnh do Nguyễn Tri Phương đảm trách. Đợt mộ dân lập ấp này chỉ
sau 1 năm thực hiện đã lập them 124 ấp mới. bên cạnh đó Nguyễn Ánh lập lại
hình thức đồn điền ở Nam kỳ
• Loại thứ nhất là đồn điền mang tính chất quân sự thuần túy do quân lính chính
quy chọn đất làm doanh trại rồi khai hoang làm ruộng. Quân lính thay phiên nhau
khẩn hoang làm ruộng, cày cấy, chia theo đội ngũ mà làm và làm theo kỷ luật
quân sự. Mỗi khu đồn điền giao cho 1 viên võ quan hàm tứ phẩm cải quản.
• Loại đồn điền thứ 2 là do hạn dân thường canh tác. Dân trong đồn điền được chia
thành các đội hay nậu giống như tổ chức đội ngũ quân sự. Nhưng họ chỉ chuyên
làm ruộng chăn nuôi và không phải tập luyện quân sự. Họ được nhà nước giao
ruộng hoang, cấp nông cụ (nếu thiếu) và khi thu hoạch hang năm họ phải nộp
6



thóc sưu. Để thành lập loại đồn điền này, chính quyền phong kiến tổ chức mộ
người từ các làng. Việc tuyển mộ được thực hiện với cả 2 hình thức tự nguyện và
cưỡng bức. Hình thức tự nguyện được áp dụng rộng rãi cho tất cả mọi người với
lệ thường để khuyến khích. Và tổ chức đồn điền này giống với bất cứ 1 làng ấp
nào, cũng có gia đình, con cái, nhà cửa, bà con và quây quần với nhau, và như
vậy, mặc nhiên đã hình thành những làng ấp mới, những làng ấp có tổ chức. Sang
thời Gia Long, tính chất dân sự của đồn điền này càng được khẳng định, bởi vì
khi trưng mộ hương binh, dân đồn điền cũng được tính như dân thường các loại.
Còn dưới thời Minh Mạng và Thiệu Trị, có thể là các đồn điền kiểu này đã hoàn
toàn biến thành thôn xã rồi, cho nên trong chính sử nhà Nguyễn chỉ nhắc tới loại
đồn điền thứ nhất.
Tóm lại bên cạnh các làng xã được hình thành từ việc khẩn hoang, một số đáng
kể các làng xã Nam Kỳ đã chuyển biến từ đồn điền mà ra. Đồn điền cũng đóng
vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị ở miền Nam nước ta hồi đầu
thế kỷ XIX. Không phải ngẫu nhiên mà đồn điền chỉ được thiếp lập ở Nam kỳ vá
áp dụng liên tục trong suốt 4 triều vua nhà Nguyễn. Có thể thấy, Nam kỳ là đất
mới hơn nhiều so với những miền đất khác ở dải đất Việt Nam.

II.3. Từ làng xã hình thành nên những thị tứ, trung tâm buôn bán sầm uất.
Có thể coi là sản phẩm của vùng đất phía Nam, được hình thành trên những trung
tâm giao thông thủy bộ và nằm giữa vùng nông nghiệp trù phú. Thị tứ có khi là
huyện lỵ, có khi không phải là huyện lỵ nhưng thường có dịch vụ và sản xuất 1
làng thủ công, là tiền đô thị hay nửa đô thị.
Với kết cấu kinh tế - xã hội nông, công và thương, thị tứ có sức sống bền vững
hơn một làng (chỉ thuần túy phát triển buôn bán hay thủ công nghiệp). Tuy vậy,
thị tứ ra đời cũng là hiện tượng đô thị hóa, nhưng chậm chạp và vẫn còn đậm tính
chất nông thôn.
Giai đoạn này , ở Nam bộ xuất hiện nhiều thị tứ và tụ điểm buôn bán sầm uất và

một số đã trở thành những trung tâm giao dịch với bên ngoài nổi tiếng như
thương cảng Cù Lao Phố (tức Nông Nại Đại Phố ở Biên Hòa), thương cảng Sài
Gòn (tức Chợ Lớn), thương cảng Hà Tiên, thương cảng Bãi Xàu, phố chợ Mỹ
Tho…

7


Chương 2. Đặc điểm của làng xã Nam bộ và Nam Trung bộ
I. Những đặc điểm cơ bản của làng xã Việt Nam.

I.1. Kết hợp giữa cư trú theo dòng họ và cư trú theo địa vực
Làng Việt là một phức hợp của nhiều tổ chức xã hội mà trước hết là dòng họ. Các
mối liên kết trong làng có nghề nghiệp, tín ngưỡng tôn giáo, địa vực láng giềng,
xóm, giáp, đơn vị hành chính làng xã và họ hàng dòng máu, nhưng mối liên kết
họ hàng vẫn là bền vững nhất. Có thể coi cộng đồng làng trước hết là tập hợp của
những dòng họ.
Một vài nhà nghiên cứu cho rằng, tổ chức dòng họ ở nước ta không chặt chẽ như
ở Trung Quốc và Nhật Bản. Nhân dân ta vẫn lấy gia đình cá thể (một vài thế hệ)
làm cơ sở.
Quá trình hình thành và phát triển của một làng ở đồng bằng sông Hồng và đồng
bằng Sông Cửu Long, từ khởi đầu cho đến ngày nay là sự chuyển đổi và phát
triển từ liên kết hộ gia đình tiến lên liên kết họ hàng và các dòng họ với nhau. Đó
8


cũng là mối liên kết tự nhiên theo hôn nhân và theo sản xuất. Tín ngưỡng tổ tiên
là đặc trưng tín ngưỡng của ngời Việt đã góp phần không nhỏ trong việc thắt chặt
quan hệ họ hàng.
Làng Nam bộ có đặc tính mở, cư dân là những người từ nhiều nơi tụ về cùng hòa

hợp, chung lung đấu cật, xây dựng làng mới. Làng Nam bộ trẻ hơn và không
mang nặng tính chất tự túc tự cấp mà trải dài thoáng ven kênh rạch và kinh tế
hàng hóa phát triển hơn.

I.2. Kết cấu kinh tế nông nghiệp – thủ công nghiệp – thương nghiệp.
Trong xã hội Việt Nam trước đây, kết cấu làng xã có ba thành phần: nông nghiệp,
thủ công nghiệp và thương nghiệp tương đối phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ và
Trung Bộ. trong làng có tư tưởng truyền thống là “trọng nông ức thương”, “dĩ
nông vi bản”, … ăn sâu vào tiềm thức người dân. Chính vì vậy đề cao thói quen
hà tiện “thắt lung buộc bụng”, “tự lực cánh sinh”. Kết cấu kinh tế này thực sự đã
tạo cho làng xã có thể tồn tại lâu dài, vững chắc mà những biến động xã hội mấy
thế kỷ qua, thậm chí cho đến đầu thế kỷ này tác động vào cũng không làm cho nó
thay đổi hay có chăng cũng chỉ là những thay đổi nhỏ không đáng kể. Mối quan
hệ trên không chỉ dơn giản là sự kết hợp về nghề nghiệp và cư dân mà còn là sự
kết hợp các tổ chức và quan hệ xã hội; trong làng có hương ước, có tộc ước lại có
thêm cả phường lệ. Nếu ta gọi những làng nông nghiệp vơi các loại hình sở hữu:
ruộng công, ruộng nửa công nửa tư, ruộng tư… như là công xã nông nghiệp thì
những làng nông nghiệp có các phường thủ công nghiệp và thương nghiệp là
làng xã nông công thương nghiệp.
Tóm lại, sự kết hợp giữa tiểu nông, tiểu thủ công và tiểu thương duy trì kinh tế cá
thể, tạo ra sự vận động khép kín, một chất níu kéo sự phát triển.

I.3. Quan hệ giữa làng với nước chặt chẽ.
Xã hội Việt Nam truyền thống là xã hội nông nghiệp, văn hóa Việt Nam là văn
hóa nông nghiệp. Con người Việt Nam trong lịch sử, từ rất lâu đời đã là con
người vừa của làng, vừa của nước “Sống ở làng, sang ở nước”.

9



Nhà nước và Làng là hai thực thể xã hội với hai cấp độ khác nhau về không gian
kinh tế - xã hội nhưng lại có mối liên quan, liên kết chặt chẽ tạo nên sức mạnh
của làng, của nước. Sự thống nhất giữa làng với nước đã tạo nên một sức mạnh
lớn đưa đất nước ta vượt qua biết bao thăng trầm của thời đại, vẫn đứng vững sau
nhiều cuộc xâm lược của nhiều kẻ thù lớn mạnh.
Cho đến nay, dù đã bước sang giai đoạn lịch sử mới với chế độ Nhà nước Xã hội
Chủ nghĩa nhưng do mối quan hệ giữa làng xẫ và nhà nước vẫn được giữ gìn,
phát huy. Có làng mới có nước, nước được hình thành trên cơ sở làng: “làng có
trước nước có sau”. Do đó mọi người đều gắn bó với làng, với nước.
Xây dựng bảo vệ làng là xây dựng bảo vê nước. mối quan hệ giữa làng và nước
bền chặt như vậy nên trong lịch sử dù có lúc mất nước nhưng lại không mất làng.
Chúng ta có thể thấy thể liên kết cộng đồng Việt Nam chủ yếu theo ba cấp cộng
đồng theo trục dọc là: nhà – làng – nước. Nhà và gia đình là tế bào của xã hội.
Làng là cộng đồng kết hợp quan hệ láng giềng (xóm làng) với quan hệ huyết
thống (họ), mang tính tự quản cao. Nước là quốc gia dân tộc. Vua Gia Long cũng
từng nhận định: “nước là họp các làng mà thành”. Làng và nước có mối lên kết
trên các bình diện: kinh tế, văn hóa, xã hội.
Mối liên hệ làng – nước trải qua 1 thời gian dài từ quá khứ đến hiện tại và tương
lai và còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển và xây dựng đất
nước.
I.4. Quan hệ xã hội “tứ dân”: sĩ - nông - công – thương.
Làng Việt Nam có kết cấu bền vững, độc đáo, đa chức năng với kết cấu chồng
lấn: sĩ, nông, công, thương. Qua thứ tự sắp xếp thứ bậc cho ta thấy, người Việt ta
có truyền thống học tập, đề cao tri thức nên mới đưa tầng lớp “Sĩ” lên hàng đầu.
kế sau tri thức là nông dân – những người làm ra lương thực, nuôi sống xã hội
bởi “có thực mới vực được đạo”. Kế đến là những người công nhân, còn tầng lớp
thương nhân bị người dân miệt thị xếp hàng sau cùng. Bởi trong quan niệm
người Việt cho rằng kinh doanh chỉ là buôn nước bọt, lường gạt lẫn nhau, ăn
chênh lệch dựa trên sản phẩm vủa người khác chứ không làm ra của cải cho xã
hội.

Tuy nhiên, xã hội ngày nay đã thay đổi ít nhiều nên các quan niệm cũng được
thay đổi theo. Cả 4 tầng lớp đều có vai trò ngang nhau, không ai có thể thay thế

10


ai. Đặc biệt trong thời kỳ hội nhập như hiện nay, “thương” không những không
bị coi thường mà còn đặc biệt được coi trọng.
I.5. Tính tổ chức cộng đồng và tính tự trị rất cao.
Việc tổ chức nông thôn theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo nên tính cộng đồng
làng xã. Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi
người đều hướng tới người khác – đó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại.
Sản phẩm của tính cộng đồng ấy là một tập thể làng xã mang tính tự trị rất cao,
các làng tồn tại biệt lậpvới nhau và độc lập với triều đình phong kiến. Tính tự trị
khẳng định sự độc lập của làng xã, không liên hệ với bên ngoài; làng nào biết
làng ấy, mỗi làng là một vương quốc khép kín – đặc trưng âm tính, hướng nội.
Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng bao trùm nhất, quan trọng nhất của
làng xã, chúng tồn tại song song, chúng là 2 mặt của một vấn đề.
Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình, cây đa, bến nước… biểu
tượng của tính tự trị là lũy tre làng, cổng làng…
Truyền thống “Phép vua thua lệ làng” chính là một trong những quy luật biểu
hiện tính tự trị trong mối quan hệ của làng xã và nhà nước ở Việt Nam. Theo
cách tổ chức này thì mỗi làng như làng là một quốc gia độc lập trong giới hạn
quyền lợi địa phương.

II. Đặc điểm riêng của làng Việt ở Nam Bộ.

II.1. Đặc điểm cư trú.
Tuổi của làng Việt trên đồng bằng Nam Bộ hiển nhiên là ít hơn nhiều so với tuổi
của làng Việt ở Bắc Bộ. Làng nào cao tuổi lắm cũng chỉ khoảng 300 năm, khi

mà người Việt tới vùng đất này để khai phá, lập nghiệp. Với đặc điểm hình thành
như vậy nên làng Việt Nam Bộ mang những nét đặc trưng riêng:
II.1.1 Định cư từ cao xuống thấp.
Nhìn ở góc độ quan hệ với thiên nhiên, điều đập ngay vào mắt người quan sát là
những địa điểm định cư của người Việt ở Nam Bộ rất thích ứng với thiên nhiên:
11


con người lựa chọn những nơi thích hợp để định cư, họ thích nghi với thiên nhiên
đến là chặt chẽ.
Cũng về điểm định cư, người Việt khi xuống đất trũng lập làng còn chịu ảnh
hưởng của sông nước. Ngoài loại làng ven biển của lưu dân làm nghề chài lưới,
dọc bờ sông còn có loại làng lập gần nơi “giáp nước”, nơi gặp nhau giữa nước
thủy triểu chảy ngược và nước sông chảy xuôi. Phù sa lắng đọng ở những nơi
này, mà cư dân quen gọi là “lung lừa”. Thuyền ghe buôn bán thường ghé lại nghỉ
ở đây chờ con nước. Làng mạc mọc lên ở những nơi này, bởi thế ở đâu là ơi giáp
nước ở đó trên bờ là thị trấn, thị tứ, chợ búa, tiệm ăn, … mọc lên.
II.1.2 Hình thức quần cư, làng kéo dài trên diện rộng
Vẫn trong mối quan hệ với thiên nhiên, hình thức quần cư của làng Việt ở miền
Nam cũng khác so với Bắc Bộ.hình thức này ở Bắc Bộ đã được P.Guru miêu tả
trong cuốn “Nông dân vùng châu thổ Bắc Kỳ”. Theo ông thì có 3 loại cả thảy:
làng trên dải đất cao ven sông, làng ven đồi và làng duyên hải. Hình thức quần cư
ấy khiến cho mỗi làng là một quần thể khép kín, với lũy tre làng bao bọc.
Hình thức ấy không còn gặp khi ta nhìn vào làng Nam Bộ. Ở đây, có ba hình
thức quần cư chính: tập trung, tương đối rải rác và hoàn toàn phân tán trên diện
rộng. trong đó quần cư theo phân tán trên diện rộng là phổ biến hơn cả vói 2 hình
thức theo “tuyến” hay “tỏa tia”. Nói một cách khác, làng mạc được phân bố theo
dạng kéo dài, lấy kênh mương hay lộ giao thông làm trục. nhìn từ trên cao, các
làng mạc cứ như tia dài. Chính vì vậy mà làng ở Nam Bộ không có lũy tre làng
bao quanh, không thành một quần thể riêng biệt, không cách bức với các làng

khác trong khu vực như ở Bắc Bộ.

II.1.3 Làng khai phá
Nhìn dưới góc độ lịch sử, làng Việt Nam Bộ là làng khai phá. Nét riêng của làng
Việt Nam Bộ khiến nó khác hẳn làng Việt trên đồng bằng Bắc Bộ. Nếu như làng
Việt Bắc Bộ xuất hiện từ sự tan rã dần của công xã nông thôn thì làng Việt ở
Nam Bộ ra đời từ nhu cầu cấp tốc khai phá đất mới từ thế kỷ XVII đến thế kỷ
XIX.

12


Có làng do dân cư từ nhiều nguồn tập hợp lại mà lập nên trong quá trình khai
phá, có làng vốn là đồn điền của các chúa Nguyễn. Chẳng hạn, làng Thạnh
Phước thuộc huyện Bình Đại (Bến Tre) là nơi vốn có một đồn canh của nhà
Nguyễn, nên không có gì lạ nếu có bắt gốc từ một dồn điền mà thành. Trong khi
đó,làng Thới Thuận cạnh bên, mà vị trí sát mép biển, lại xuất hiện từ sau cuộc
“lên bờ” của một nhóm dân làm nghề chài lưới ở vùng duyên hải miền Trung. Dù
sao, nhìn mặt cắt dân cư của nhiều làng Nam Bộ, ta đều thấy được tập hợp từ
nhiều nguồn khác nhau, nhiều dòng họ khác nhau. Đó là chưa tính đến việc các
chúa Nguyễn cho phép những người có vật lực ở miền Trung được mua người,
mua nô tì ở quê mình đưa vào Nam Bộ khai phá đất hoang. Vì thế, ở những tỉnh
Long An, tiền Giang, Bến Tre,… thường xuất hiện những họ lạ như Ma, Trà,
Ung… mà không thấy có ở vùng Bắc Bộ. có thể đó là những biến dạng tên của
những người Chăm trước kia.
Đặc điểm ấy chi phối làng ở đây ít nhất trên 2 mặt. Một là, trong lối sống của
nông dân Nam Bộ không có sự phân biệt của dân chính cư và dân ngụ cư như
làng Việt ở Bắc Bộ. Hai là, làng Việt Nam Bộ không có cảnh “ba họ chín đời”
như ở Bắc Bộ, do tính cố kết trong quan hệ dòng họ là không chặt chẽ. Trong
hoàn cảnh chung ấy, mối gắn bó giữ người với người trong cùng một làng không

phải là quan hệ dòng họ, thậm chí cũng không phải là quan hệ láng giềng lâu đời
nữa. Cùng chung cảnh ngộ, cùng rời bỏ quê hương đến làm ăn nơi đất lạ, khi
quan hệ than tộc không còn chặt chẽ nữa, dây liên kết gắn bó con người với con
người chỉ còn là nghĩa tình giữa họ với nhau. Chất dân chủ và quan hệ bình đẳng
trong cách đối xử của từng người với mọi người, trong từng làng Việt Nam Bộ,
có cội nguồn sâu xa là thế. Thái độ trọng nghĩa khinh tài. “thấy việc nghĩa không
làm là đồ bỏ” mà người dân vùng sông nước Nam Bộ biểu lộ trong lề thói sống
hằng ngày, không phải là không có nguyên nhân rõ ràng.
Làng Việt Nam Bộ là làng do người Việt khai phá nhưng nó lại được tạo lập
trong quá trình người Việt cùng khai phá miền Nam Bộ này cùng với người Khơ
me, người Chăm, Hoa,… Trong quá trình khi phá, không diễn ra sự loại trừ lẫn
nhau giữa người Việt và các dân tộc khác. Không khí chung còn cảm thấy được,
qua điều tra hồi cố là sự hòa hợp, tình đoàn kết thân ái. Sự hòa hợp ấy khiến cho
làng Việt Nam Bộ mang một số nét khác so với làng trên đồng bằng Bắc Bộ - nơi
chỉ thuần có người Việt trên một vùng châu thổ khá rộng. Ở các vùng nông thôn
Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Truy Tôn cạnh những nếp nhà, những làng của
người Việt còn có những phum, sóc của người Khơ me. Ở An Giang, cạnh người

13


Việt là người Chăm. Tại đấy, làng Việt đương nhiên tiếp nhận một số đặc điểm
văn hóa của một số dân tộc khác
II.2 Làng thiếu chất kết dính chặt, mang tính mở.
Nhìn vào cơ cấu tổ chức làng – xã, làng Việt Nam Bộ không giống như làng Việt
ở Bắc Bộ. Nếu như trong cơ cấu của làng Việt Bắc Bộ có hai loại tổ chức: Tổ
chức hiện hình và tổ chức tương đối ẩn tàng, thì làng Việt Nam Bộ lại có những
tổ chức hiện hình: đấy là một bộ máy quản lý làng và xã. Một số thành viên của
bộ máy là người không giàu có lắm, nhưng đa số thuộc tầng lớp giàu có. Bộ máy
quản lý làng nói đây là tổ chức hiện hình do Nhà nước trung ương Tập quyền áp

dặt lên những người dân khai phá. Điều này không chỉ diễn ra trong quá khứ, mà
ngay đến mới đây, khi ta bắt đầu xây dựng hợp tác xã nông nghiệp(sau 1975), vì
một số các bộ làm sai chính sách, dùng áp lực buộc người dân đi vào con đường
hợp tác hóa, họ sẵn sàng xuống xuồng bỏ đi nơi khác. Nói một cách khác đi, tâm
lý thời còn mở đất còn hằn trong tâm lý những thế hệ sau.
Như đã trình bày như trên, các tổ chức tương đối ẩn tàng như giáp, họ, phe mà ta
thường gặp ở nông thôn Bắc Bộ lại không có mặt ở đây, hay gần như thế trong cơ
cấu tổ chức làng Việt Nam Bộ. Cho đến nay chưa có một tài liệu nào khẳng định
rằng giáp có mặt trong làng xã Nam Bộ.
Tóm lại, trong làng Việt Nam Bộ, các tổ chức tương đối ẩn tàng, không đầy đủ,
trọn vẹn như ở Bắc Bộ. Như vậy, tính cố kết làng xã ở Nam Bộ không rõ ràng và
không bền vững bằng. Con người gắn bó với nhau thành một cộng đồng mà chất
dính là nghĩa, sống với nhau vì nghĩa. Lòng hâm mộ của đa số nông dân Nam Bộ
dối với Lục Vân Tiên hay Hớn Minh trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, chỉ
như mức độ xuất hiện đậm đặc của từ nghĩ trong ca dao Nam Bộ phải được lý
giải từ đây.
II.3. Kết cấu kinh tế.
II.3.1. Làng phân cực ở mức độ cao.
Nhìn dưới góc độ kinh tế, làng Việt Nam Bộ cũng có những nét riêng biệt khác
với làng Việt Bắc Bộ. Làng Việt Nam Bộ có thể có những khởi điểm là một đồn
điền ra đời trong khuôn khổ chính sách khai hoang của nhà Nguyễn. Đó còn có
thể là làng ra đời từ một người có “vật lực” chiêu mộ dân nghèo từ miền Trung
vào đây khao đất mà ra. Đó cũng có thể là kết quả góp công của một nhóm người
14


từng rủ nhau tới khai phá một vùng đất hoang vô chủ: đấy chính là trường hợp
của ấp Tân Phước ( nay là xã Đa Phước Hội, Mỏ Cày, Bến Tre).
Ít ruộng đất công, nhiều ruộng đất tư - đặc điểm đó càng tô đậm cái khác biệt
giữa làng ở Nam Bộ với Bắc Bộ và Trung Bộ. Khi Nam Bộ bắt đầu cuộc khai

phá (dưới thời các vua, chúa Nguyễn), ngoài những luồng lưu dân tự ý vào vùng
đất mới tìm kế sinh nhai, còn phải kể đến chính sách khuyến khích khai hoang
của chính quyền trung ương tập quyền. Chính vì thế mà ở đây nhanh chóng xuất
hiện quyền tư hữu về đất đai. Đặc biệt thế phân cực giữa một bên là số ít người
có nhiều ruộng và bên kia là phần đa những người có ít ruộng đất hay thậm chí
không ruộng đất.. Địa chủ xuất hiện ngay từ thời kỳ đầu của công cuộc khai phá.
Địa bộ Minh Mạng cho thấy, vào nửa đầu thế kỷ XIX đã có những điền chủ nắm
tới hàng trăm thậm chí hàng ngàn mẫu.
Như vậy, vào lúc cuộc khai phá đất đai ở đồng bằng Nam Bộ mới diễn ra hơn
một thế kỷ thì điền chủ cũng đã xuất hiện. Đại đa số cư dân Việt ở đấy là người ít
ruộng đất thậm chí còn không có nổi “tấc đất cắm dùi”. Ngay từ thời đó, các
quan lại nhà Nguyễn cũng nhận ra tình hình ấy. Trương Đăng Quế có lần tâu về
triều: “Nam Kỳ chứa tệ hại đã lâu, cường hào cạy mạnh bá chiếm, người nghèo
không có đất cắm dùi. Có kẻ biệt xã chiếm đất xã khác, mà người xã sở tại lại
phải tá ngụ để cày cấy.
Người Páp sau khi chiếm được Nam bộ cũng không làm thay đổi sự phân cực
đến gay gắt trong làng về sở hữu đất đai. Trái lại chúng còn chiếm đất đai do dân
khai phái khoảng 200 năm. Số điền chủ người Pháp tang lên nhanh chóng, với
hai cuộc khai thác thuộc địa. Ở Long An, vào hai thập niên đầu của thế kỷ XX,
trong số 180 điền chủ nắm trong tay từ 50 ha đến 6.000 ha, có 88 điền chủ là
người Pháp chiếm cứ lên đến 90.947 ha. Nghĩa là trong 2 cuộc khai thác thuộc
địa ở Nam Bộ của Pháp, tá điền vẫn là lực lượng đông đảo hơn cả.
Tóm lại, trải qua thời Nguyễn và thời Pháp thuộc, một nét nổi bật của làng Việt
Nam Bộ khiến nó khác hẳn với làng ở Bắc Bộ và Trung Bộ là quan hệ giai cấp,
sự phân cực rành rảnh giữa thiểu số bóc lột và đại đa số bị bóc lột, số ít người có
phần lớn ruộng đất và đại đa số người có ít hay không có ruộng đất. Số đông tá
điền ấy không còn cách nào khác để sống, ngoài cách sử dụng chân tay và sức
lao động làm thuê cho điền chủ. Tuy cuộc sống của họ không mấy no đủ song họ
vẫn khác so với những người bần cố nông trong làng Việt Bắc Bộ bởi nơi họ
sống được thiên nhiên hào phóng ưu đãi cho con người. Tất cả nhũng mặt khác

nhau ấy tạo cho con người trong làng Việt Nam Bộ tâm lý nhà nhã, không cần
15


chắt bóp, “ăn bữa sáng, lo bữa chiều” như nguofi nông dân Bác Bộ. Nhất là
những điền chủ lớn, ta thấy trong quan hệ với tá điền thì ít có sự khắt khe như
các địa chủ ờ khu vực Bắc Bộ. Quan hệ điền chủ - tá điền trong làng Việt ở Nam
Bộ ắt cũng hằn lên lối ứng xử hằng ngày của con người nơi đây.
II.3.2. Một nền kinh tế hàng hóa.
Ưu thế biển đã tạo nên tính chất mở cho nền kinh tế Nam Bộ. Từ rất sớm, cư dân
ở đây đã khai thác được thế mạnh này để giao thương rộng rãi với các nước trên
thế giới. Đặc điểm này đã sớm cho nền kinh tế Nam Bộ mang tính chất nền kinh
tế hàng hóa. Các sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp, lâm thổ sản… tất cả
đều có thể trở thành hàng hóa trao đổi với bên ngoài.
Ở Nam Bộ đã sớm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất nông sản hàng
hóa. Do làng Nam Bộ không tồn tại chế độ sở hữu công nên ngay từ đầu đã xác
lập sở hữu cá nhân, tạo nên tính năng động của người tiểu nông. Điều đáng phải
nói đến là sự đóng góp khách quan của hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt
ở Nam Bộ. Đó là chưa nói đến chất xúc tác của đô thị buôn bán lớn nhất nước là
Sài Gòn – Chợ Lớn. Đặc biệt, ở Nam Bộ, từ thành thị đến nông thôn không hề
nuôi lòng đố kỵ hay khinh miệt đối với nghề buôn bán mà trái lại họ coi đó như
một “đạo vui”:
“Đạo nào vui bằng đạo đi buôn
Xuống biển lên nguồn, gạo chợ nước sông”.
Người Nam Bộ, do những ưu đãi của thiên nhiên nên không có tư tưởng “tích
cốc phòng cơ” mà luôn gắn bó với thị trường. Để gia nhập thị trường không thể
duy trì nền sản xuất nhỏ theo hướng tự cung tự cấp mà phải hướng tới việc huy
động mọi nguồn lực, vốn liếng để sản xuất cho rẻ, cho nhanh để đáp ứng nhu cầu
của thị trường. Không phải ngẫu nhiên mà ngay trước những năm 30 của thế kỷ
XIX, đã thấy có sự tích tụ đất đai lớn ở Nam Bộ.

Cùng với việc sản xuất hàng hóa là việc hình thành các đô thị nhằm đáp ứng nhu
cầu của nông thôn, mở rộng giao lưu với tất cả các vùng, trở thành đầu mối giao
dịch với các nơi.

16


II.4. Đặc điểm văn hóa.
II.4.1. Văn hóa dân gian người Việt không đọng dày.
Như ta đã biết, văn hóa dân gian Việt trên đồng bằng sông Hồng là kết quả lắng
đọng, bồi tụ của nhiều lớp văn hóa. Về mặt này, văn hóa dân gian trên đồng bằng
sông Cửu Long không đạt được mức ấy do tuổi đời của làng Việt nơi đây không
cho phép các lớp văn hóa đủ thời gian để lắng đọng nhiều và dày. Ngay từ buổi
đầu, văn hóa dân gian người Việt đã nảy mầm cạnh những nền văn hóa khác như:
Chăm, Khơme, Hoa… Điều đó đặt ra hai thách thức: phát triển mà vẫn giữ được
bản sắc của mình, đồng thời phải cởi mở để thu hút tinh hoa của các tộc người
khác qua đó khẳng định diện mạo của mình. Kể từ khi người Pháp đặt chân trên
nước Việt Nam thì nền văn hóa ấy lại bị đặt trước một thử thách mới: mối đe dọa
bị áp đặt một nền văn hóa từ nơi khác đến. Văn hóa Việt ở Nam Bộ luông đứng
trước những thử thách khác nhau trong khi thời gian đinh hình thì lại quá ngắn
khiến nó khó mà tồn tại cho thật vững. Do đó sự bồi tụ, lắng đọng của các lớp
văn hóa khác nhau luôn trong tư thế chưa ổn định.
II.4.2.Tiếp nhận và giao lưu văn hóa với các tộc người khác.
Như đã nói, làng Việt ở Nam Bộ được tạo lập trong quá trình người Việt cùng với
nhiều tộc người khai khẩn đất đai. Trong quá trình cộng cư, người Việt đã tiếp
nhận nhiều nét văn hóa của các tộc người cùng sống trên cùng địa bàn. Nhìn mặt
cắt của văn hóa dân gian Việt ở đây thật khó xác định đâu là yếu tố ngoại lai, đâu
là yếu tố nội sinh vốn mang theo. Trong văn hóa đân gian từ ăn, mặc, ở, đi lại…
có thể thấy nhiều dấu vết văn hóa của các tộc người như Khơme, Chăm, Hoa…
Dù vậy, người Việt vẫn giữ được diện mạo của mình, vẫn tạo cho mình một bản

sắc văn hóa riêng dù rằng nó chưa tồn tại lâu đời như ở Bắc Bộ và Trung Bộ.
II.4.3 Tôn giáo địa phương dị biệt nhưng hòa đồng.
Nếu như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và một số tín ngưỡng dân gian là vốn tôn
giáo chung của người nông dân Việt cả nước thì ở Nam Bộ lại xuất hiện một số
tôn giáo mới mà không có nơi đâu khác. Thế kỷ XIX, khi người Pháp đặt chân
đến Việt Nam thì cũng là lúc “đạo Lành” ra đời, sau một thời gian lại phân hóa
thêm đạo “Bửu Sơn Kỳ Hương” và “Tứ Ân Hiếu Nghĩa”…Sang thế kỉ XX xuất

17


hiện thêm “đạo Cao Đài” rồi đến “đạo Dừa” lại đến “đạo Hòa Hảo” có đến hàng
chục ngàn tín đồ.
Xu hướng hỗn dung hoặc hòa đồng các tôn giáo là một thực tế nổi trội trong đời
sống tâm linh của người Việt nói chung và đặc biệt là ở Nam Bộ. Sự chấp nhận
hay dung nạp một lúc nhiều hình thái tín ngưỡng, tôn giáo trong cá nhân hay
cộng đồng đã cho thấy một nét riêng nơi đây – tính cách của người Nam Bộ, cởi
mở, thân thiện, là sự không cố chấp để tìm kiếm một chỗ dựa tâm linh rộng rãi và
hiệu quả nhất.
Bởi vậy, trên cùng một vùng đồng bằng với nhiều tôn giáo, nhiều làng xã, ngoài
đạo thờ cúng tổ tiên thì cư dân nơi đây còn tiếp nhận nhiều tôn giáo khác. Tuy
khác biệt nhau nhưng không loại trừ nhau hay phân ly, xung đột, trái lại cư dân ở
đây đã học cách hội nhập và hòa đồng để hình thành một xã hội ổn định, bền
vững ở một vùng đất tuy nhiều thuận lợi nhưng không kém phần khó khăn, khắc
nghiệt.
III. Đặc điểm của làng xã Nam Trung Bộ.

III.1. Đặc điểm cơ bản.
Nam Trung Bộ bao gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Nói đến nơi đây thì người ta nghĩ ngay

đến văn hóa Sa Huỳnh của người Chăm. Từ xa xưa, nơi đây đã diễn ra sự giao
lưu trực tiếp giữa người biệt và người Chăm, để cùng hòa quyện vói nhau tạo nên
nét đặc sắc trong văn hóa Nam Trung Bộ.
Làng xã ở vùng Nam Trung Bộ phân bố rải rác, không cụm chặt và có phần lỏng
lẻo. Các làng Việt ở Nam Trung Bộ có lịch sử ngắn ngủi ( lâu đời nhất cũng chỉ
hơn 500 năm). Tuy nhiên, những biến đổi của chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã
biến người Việt thành tộc người chủ đạo nơi đây.
Do đặc điểm địa hình có đồng bằng dài, nhỏ hẹp theo đường bờ biển nên nhân
dân ở đây đã sáng tạo nên một số ngành nghề phù hợp với điều kiện ở đây. Nơi
đây có sự giao thoa văn hóa vói các dân tộc bản địa, có lũy tre bao bọc nhưng lại
thường xen lẫn dừa vá các loại cây khác. Làng ở đây không phải làng nào cũng
có đình và một làng có thể có nhiều miếu để thờ Thành Hoàng hoặc cầu cúng
vong hồn hay thần thánh khác.

18


Làng Nam Trung Bộ có tính “mở’ hơn làng Bắc Bộ, nếu hình ảnh cây đa, bến
nước, sân đình lũy tre, sân gạch… trở thành điểm nhấn cho sự khẳng định mang
tính cố kết cộng đồng, khép kín với những mối quan hệ chằng chịt thì ở Nam
Trung Bộ có phần phai nhạt.
Người dân Nam Trung Bộ hình thành làng xã từ việ tiếp nhận vùng đất mới
nhưng trên cái nền cũ của lớp cư dân tiền trú, cho nên từ việc kế thừa, kết hợp
kinh nghiệm truyền thống và giao lưu văn hóa đã hình thành nên sự tiếp biến văn
hóa nhanh chóng. Người dân nơi đây có sự hòa đồng cởi mở, sinh hoạt phóng
khoáng hơn.
 Tóm lại, về cơ bản, làng xã Nam Trung Bộ có một số đặc điểm sau:

• Lịch sử hình thành và khai phá khá ngắn(khoảng 500 năm)
• Làng gần biển nên văn hóa biển phát triển khá mạnh, do đó, người dân làm

nghề biển bên cạnh nghề nông truyền thống.
• Làng xã không còn tính khép kín như ở miền Bắc nữa. Càng về phía Nam, cấu
trúc của làng càng trở nên lỏng lẻo và mở rộng hơn
• Do địa hình có sự phân hóa rõ rệt nên sản xuất kinh tế của cư dân ở đây khá đa
dạng như nghề biển, nghề nông,tiểu thủ công nghiệp và buôn bán.
• Trong làng có đình thờ Thành hoàng, bên cạnh đó còn thờ những người có
công mở làng, nhiều thần linh mang tính địa phương.
III.2. Một số làng tiêu biểu ở Nam Trung Bộ.
III.2.1. Làng Phước Thuận.
Làng Phước Thuân trước đây tên là Phước Sơn, xã Hòa Nhơn, Hòa Vang, Quảng
Nam. Từ khi thành lập, nề kinh tế chủ đạo là khai hoang vùng trũng sâu trồng lúa
nước. Cùng với quá trình tụ cư, nhân dân nơi đây đã thiết lập các thiết chế văn
hóa, xã hội để đáp ứng đời sống cũng như nhu cầu tâm linh cho dân làng. Vì vậy
đời sống tâm linh ở đây rất phng phú, có đình làng, miếu xóm, nhà thờ chư tộc.
Có khoán ước phản ánh các quy tắc của làng xã mà mọ thành viên trong làng
phải tuân theo.

19


Người dân làng Phước Thuận lấy đình làng làm trung tâm cho mọi hoạt động
sinh hoạt văn hóa. Hằng năm, dân làng đều tổ chức cúng tế và tổ chức hội hè,
diễn xướng dân gian trong 2 ngày 19, 20 tháng 3 Âm lịch.
Trong sự phát triển của làng Phước Thuận luôn có sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa
với các làng lân cận qua việc di cư, đổi mới cư trú qua hôn nhân… Chính vì vậy,
văn hóa ở đây không đóng khung mà lan tỏa ra bên ngoài, giao lưu và tiếp nhận
và biến đỏi các thành tố văn hóa cho phù hợp với phong thổ địa phương, trỏ
thành cái riêng của làng Phước Thuận.
III.2.2. Làng Phú Lộc.
Làng Phú Lộc (Khánh Hòa) là một trong những làng cổ của huyện Diên Khánh,

nơi người Việt đến định cư sinh sống sớm nhất, trù phú nhất vào giai đoạn đầu
của lịch sử hình thành tỉnh Khánh Hòa cách đây hơn 300 năm. Xưa kia làng Phú
Lộc có 3 ấp: ấp Thượng, ấp Trung và ấp Đông, nay chia thành 7 tổ dân phố.
Trước đây đa số người dân trong làng sống bằng nghề nông, làm vườn, trồng cây
ăn quả. Làng không rộng, đất canh tác nông nghiệp không nhiều nhưng dân cư
khá đông. Do vậy rất nhiều người dân làng Phú Lộc đã khai khẩn thêm ruộng
đất, điền canh. Một bộ phận cư dân khác sinh sống bằng nghề truyền thống như
đúc đồng, làm nón, làm bún, bánh tráng…
Làng có lũy tre xanh trải dài dọc bờ sông, nghiêng mình soi bóng trên dòng
nước, bên cạnh đó còn có những hàng cau, dừa nối nhau. Làng có Văn Miếu,
đình làng, chùa và các nhà thờ tự. Ở đây có mật độ nhà thờ họ khá dày, gồm 18
nhà thờ của các họ. ngoài chức năng thờ cúng tổ tiên thì hiện nay nơi các nhà thờ
tự này còn có những hoạt động đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau
trong dòng họ.
Làng khá phong phú về thơ ca, hò vè, truyền thuyết, sự tích… những nét độc đáo
trong phong tục tập quán và sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội của dân làng như lễ Phật
Đản, lễ Vu Lan, lễ cúng tổ nghề ở các xóm nghề
IV.Nhận xét và đánh giávài nét cơ bản giữa làng Nam Bộ và Nam Trung Bộ với
làng Bắc Bộ.
IV.1 So sánh làng Nam Bộ với làng Nam Trung Bộ.
Làng Nam Bộ

Làng Nam Trung Bộ
20


Giống nhau
Đều có tính mở, có sự tiếp xúc, giao lưu, trao đổi với bên
ngoài về kinh tế, văn hóa,…
Ra đời từ nhu cầu khai phá đất mới, khẩn hoang.

Các nghi lễ, lễ hội tôn vinh người khai phá, mở đất…(lễ
nghinh Ông, lễ Lệ Cô Long Hải…)
Tên các ngôi làng hầu như không dặt tên theo họ mà do
dân làng đề nghị hay dựa vào tên làng bên cạnh.
Khung cảnh xung quanh làng đều có lũy tre nhưng không
dày đặc, bên cạnh còn có hàng cau, dừa…
Làng Việt ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ hình thành trên cái
nền của cư dân tiền trú cùng với nhiều tộc người hác như
Chăm, Khơme, Hoa… nhưng không loại trừ lẫn nhau mà
lại hòa đồng, đoàn kết, giao lưu, học tập lẫn nhau.
Khác nhau
Lịch sử
hình
thành
Về việc
thờ họ

Hoạt
động
sản
xuất
Tôn
giáo,
tín
ngưỡn
g

Ra đời muộn hơn, chỉ
khoảng 300 năm


Ra đời khoảng hơn 500
năm

Chỉ nhận thấy có một
dòng họ có nhà thờ họ
là họ Đoàn xã Mỹ
Hương, Mỏ Cày, Bến
Tre
Trồng lúa nước và buôn
bán

Thờ rất nhiều dòng họ
trong một làng như họ
Nguyễn, Huỳnh, Đỗ,
Võ… (làng Phú Lộc)

Có sự sáng tạo một số
đạo mới như: Bửu Sơn
Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, Cao Đài, Đạo
Dừa, Hòa Hảo.

Người dân theo các tôn
giáo cũ, không có sự
sáng tạo.

Làm nghề chai lưới,
đánh bắt cá, ít trồng lúa.

IV.2 Nét khác nhau cơ bản giữa làng miền Nam và làng miền Bắc.


Lịch
sử
hình

Làng miền Nam
Các làng ở miền Nam ra
đời muộn hơn, chỉ hơn
300 năm (miền Nam
21

Làng miền Bắc
Được hình thành d quá
trình tan rã của công xã
nguyên thủy


thành
Tính
chất
Hệ
thống
quản

Hệ
thống
cư trú
Tên
làng


Hoạt
động
kinh
tế
Thành
phần

dân
Văn
hóa

Tính
cách
con
người

Trung Bộ là hơn 500
năm) gắn liền với quá
trình mở cõi.
Tính mở
Do nhà nước trục tiếp
quản lý, không có hương
ước.

Cư trú ven sông, rạch,
kênh đào
Ít tập trung mà trải dài
trên diện rộng theo địa
hình.
Không đặt tên theo dòng

họ mà tên làng thường
thể hiện ước vọng của
nhân dân
Vd: làng Lộc Phú,
Phước Thuận,…
Ngoài các hoạt động
nông nghiệp, người Việt
ở miền Nam coi buôn
bán là một “đạo” vui
chứ không coi thường
như ở miền Bắc.
Thường hay biến động
do di cư, chuyển cư do
hôn nhân, buôn bán…
Đa dạng, phong phú, có
sự giao lưu văn hóa giữa
các dân tộc với nhau cả
trong nước và nước
ngoài.
Phóng khoáng, năng
động, cở mở…

22

Tính khép kín
Tồn tại song hành hai tổ
chức quan phương và
phi
quan
phương.

Hương ước đóng vai trò
quan trọng trong đời
sống của làng xã.
Cư trú tập trung theo
dòng họ (một số kết hợp
cư trú theo dòng họ và
theo địa vực)
Đặt tên theo họ (có 192
họ đặt tên cho làng)
Vd: làng Đoàn Xá, làng
Nghiêm Xá…
Kinh tế nông nghiệp là
chủ yếu, quan niệm
“trọng nông ức thương”
ăn sâu trong ý thức
người dân miền Bắc.
Ổn định

Với tính chất khép kín,
mang nặng tính tự cấp tự
túc, ít giao lưu tiếp xúc
với bên ngoài, “làng nào
biết làng ấy”
Gia trưởng, thụ động…


IV.3. Làng xã miền Nam hiện nay:
Làng xã Việt Nam nói chung và làng xã miền Nam nói riêng ngày nay đã khoác
lên mình một diện mạo mới trong thời đại hội nhập hiện nay. Việc phát triển kinh
tế đã nâng cao mức sống của dân làng. Người nông dân được làm chủ cuộc sống

của mình. Cái cảnh “con trâu đi trước, cái cày theo sau” đã không còn nữa mà
thay vào đó là những cổ máy hiện đại giúp sức cho người lao động khiến cuộc
sống trở nên dễ dàng thoải mái hơn. Người dân ở Nam Bộ đã chú trọng hơn về
ăn, ở bên cạnh những ngôi nhà lá đơn sơ đã có những ngôi nhà khang trang, kiên
cố hơn. Việc đi lại cũng được quan tâm, chú trọng xây dựng hơn trước kéo theo
đó là phương tiện đi lại cũng dần cải biến.
Ngày từ hôm nay, làng quê Việt Nam nói chung đã và đang có sự thay đổi, ngay
cả những buôn, làng, bản, sóc cũng đang tiến hành hiện đại hóa để đuổi kịp sự
phát triển của đất nước. Tuy vậy, các nét văn hóa đặc sắc của làng vẫn dược giữ
gìn, các lễ hội vẫn được tổ chức tuy có sự cải biến nhưng vẫn mang đậm văn hóa
dân gian Việt Nam.
Xã hội luôn vận động và phát triển không ngừng theo hướng khu vực hóa – quốc
tế hóa. Trong bối cảnh đó, nông thôn Việt Nam cũng biến đổi không ngừng dưới
sự tác động của khoa học, công nghệ, thông tin và cả cơ chế thị trường. Đó vừa
là cơ hội, vừa là thách thức cho làng quê Việt hôm nay, nhất là trên lĩnh vực văn
hóa.

Chương 3: Kết luận

Như chúng ta đã biết, làng xã lúc nào cũng đóng vai trò quan trọng trong tất cả
các lĩnh vực của đất nước ta. Làng Việt là nơi lưu giữ và biểu hiện sinh động bản
sắc văn hóa Việt Nam. Đến thời Nguyễn (từ thời chúa Nguyễn đến nhà Nguyễn),
việc khai phá vùng đất phía Nam đã đem lại diện mạo mới cho làng xã Việt Nam.
Nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử ra đời và phát triển của làng xã Nam Bộ và Nam
Trung Bộ đã giúp phác thảo phần nào về lịch sử ra đời, phát triển của làng xã
23


Việt Nam. Làng Nam Bộ và Nam trung Bộ có sự khác biệt nhưng vẫn có nhiều
nét tương đồng, đặc biệt vẫn thể hiện sự kế thừa trong đa dạng văn hóa tộc

người.
Có thể nói lịch sử hình thành làng xã ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ khá giống
nhau, đều xuất phát tử việc khai khẩn đất hoang và các chính sách khai phá các
vùng đất mới của triểu Nguyễn… mà hình thành nên các ngôi làng. Tùy vào đặc
điểm tự nhiên, khí hậu, dân cư… của mỗi vùng mà họ đã tạo ra sự đa dạng,
phong phú về nét văn hóa làng của người Việt như tín ngưỡng, phong tục tập
quán, hoạt động kinh tế chính…
Ngày nay cùng với sự hội nhập quốc tế và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, làng quê Việt nói hung và làng quê miền Nam nói riêng đã có
nhiều chuyển biến. Song, dù ở bất kỳ nơi đâu, con người Việt Nam vẫn gắn bó
với quê hương, xóm làng, nơi “chôn rau cắt rốn” của mình. Bởi làng là nơi ta lớn
cùng gia đình ông bà, cha mẹ, bạn bè với biết bao nhiêu kỷ niệm tuổi thơ đẹp đẽ.
Làng là nơi giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục
của cộng đồng nhằm xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Vì thế, mỗi người
dân cần có ý thức giữ gìn và phát huy các truyền thống, nét văn hóa quý báu vốn
có của mình. Để những giá trị ấy còn mãi được lưu truyền các đến thế hệ sau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Võ Văn Sen (chủ biên), Nam Bộ đất và người, tập 7, Nxb Tổng hợp

thành phố Hồ Chí Minh, 2009.
2. Viện sử học, Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1997.
3. GS. Nguyễn Công Bình, Đời sống xã hội vùng Nam Bộ, Nxb Đại học quốc gia tp
HCM, 2008.
24


4. TS. Trần Thị Nhung (chủ biên), lịch sử vùng đất Nam Bộ một số kết quả nghiên
5.

6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.

cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011.
Khoa lịch sử, Một số chuyên đề về lịch sử Việt Nam (tập bài giảng), Nxb Chính
trị quốc gia.
Huỳnh Lứa, Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII,XVIII,XIX,
Nxb Khoa học Xã hội, 2000.
Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Đình Nam Bộ xưa và nay, Nxb Đồng
Nai, 1999.
PGS.Viện sĩ Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam,Nxb Giao dục, 1999.
PGS.TS Nguyễn Đức Lữ (chủ biên), NHững đặc diểm cơ bản của một sốtôn giáo
lớn ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội 2007.
Võ Văn Hòe, Nét đặc sắc trong đời sống văn hóa làng Phước Thuận, Nxb Thanh
niên, 2011.
Nguyễn Viết Trung, Làng Phú Lộc Xưa và nay, Nxb Thời đại, 2011.
Nguyễn Đức Hưng (Sưu tầm, biên soạn), Văn hóa Việt Nam giàu bản sắc, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010.
http//khoalichsu.edu.vn.

25



×