Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tìm Hiểu Về Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành Android

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 34 trang )

Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT HÀ NỘI
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
MẠNG MÁY TÍNH
BÀI TẬP LỚN
NGUYÊN LÝ HỆ ĐIỀU HÀNH
Giáo Viên Hướng Dẫn: Nguyễn Thị Hữu Phương
Sinh Viên Thực Hiện: Lê Minh Đạt 1121050025
Hoàng Thanh Tùng 1121050333
Vũ Thị Huyền 1121050226
Lớp: Mạng Máy Tính K56
Đề Tài: Tìm Hiểu Về Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành Android
Hà Nội – Ngày 24 Tháng 04 Năm 2013
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
2.1) Model 31
2.2) Thương hiệu 31
2.3) Phiên bản Android 31
2.4) Độ phân giải màn hình 32
2.5) Các bản ROM 32
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
1. Vũ Thị Huyền.
Tìm hiểu về:
- Sự ra đời của hệ điều hành Android.
- Giấy phép.


- Biểu tượng của hệ điều hành Android.
- Phiên bản Android 1.0
- Phiên bản Android 1.1
- Phiên bản Android 1.5: Cupcake
- Phiên bản Android 1.6: Donut
2. Hoàng Thanh Tùng.
Tìm hiểu về:
- Phiên bản Android 2.0 và 2.1 : Éclair
- Phiên bản Android 2.2 : Froyo.
- Phiên bản Android 2.3 : Gingerbread
- Phiên bản Android 3.0 : Honeycomb
- Phiên bản Android 4.0 : Ice Cream Sandwich
- Phiên bản Android 4.1 và 4.2 : Jelly Bean.
3. Lê Minh Đạt
Tìm hiểu về:
- Cấu trúc của Hệ Điều Hành Android:
+ Bootloader
+ Ngôn ngữ của Android
+ Hacking – Root
+ Kernel
- Nhược điểm của Android:
+ Sự kém mượt và pin yếu.
+ Sự phân mảnh của Android thể hiện qua Model, Thương hiệu, các
phiên bản Android, Độ phân giải màn hình.
- Malware
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
- Cách thức Google kiếm tiền với Android – một hệ điều hành mã nguồn
mở

- Kết luận.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
ANDROID NGƯỜI KHỔNG LỒ XANH
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
GIỚI THIỆU VỀ HỆ ĐIỀU HÀNH MÃ NGUỒN MỞ ANDROID.
Android là hệ điều hành trên điện thoại di động (và hiện nay là cả trên một số thiết
bị kĩ thuật số khác như máy ảnh và đầu kĩ thuật số) được phát triển chính bởi Google và
dựa trên nền tảng hệ điều hành Linux. Trước đây, Android được phát triển bởi công ty
liên hợp Android ( sau đó được Google mua lại vào năm 2005). Theo công ty nghiên cứu
thị trường NPD, thiết bị di động sử dụng hệ điều hành Android bán được tại Mỹ trong
quý II năm 2010 xếp vị trí đầu tiên với 33%, thứ 2 là BlackBerry OS với 28% và iOS ở vị
trí thứ 3 với 22%. Android có một cộng đồng những nhà phát triển rất lớn viết các ứng
dụng cho hệ điều hành của mình. Hiện tại có khoảng 80,000 ứng dụng cho Android OS
và vào khoảng 100,000 ứng dụng đã được đệ trình, điều này khiến Android trở thành hệ
điều hành di động có môi trường phát triển lớn thứ 2. Các nhà phát triển viết ứng dụng
cho Android dựa trên ngôn ngữ Java. Sự ra mắt của Android vào ngày 5 tháng 11 năm
2007 gắn với sự thành lập của liên minh thiết bị cầm tay mã nguồn mở, bao gồm 78 công
ty phần cứng, phần mềm và viễn thông nhằm mục đính tạo nên một chuẩn mở cho điện
thoại di động trong tương lai. Google công bố hầu hết các mã nguồn của Android theo
bản cấp phép Apache. Hệ điều hành Android bao gồm 12 triệu dòng code; 3 triệu dòng
XML (eXtensible Markup Language, "Ngôn ngữ Đánh Dấu Mở rộng"), 2.8 triệu dòng
mã C, 2.1 triệu mã Java và 1.75 triệu dòng mã C++.
I. HỆ ĐIỀU HÀNH MÃ NGUỒN MỞ ANDROID.
1. Sự Ra Đời.
Tháng 7 năm 2005 Google mua lại Android Inc, một công ty nhỏ được thành lập
từ năm 2003 có trụ sở ở Palo Alto, California, Mỹ. Những nhà đồng sáng lập của

Android chuyển sang làm việc tại Google gồm có Andy Rubin (đồng sáng lập công ty
Danger), Rich Minner (đồng sáng lập công ty Wildfire Communications), Nick
Sears (từng là phó chủ tịch của T-Mobile), và Chris White (trưởng nhóm thiết kế và phát
triển giao diện tại WebTV). Khi đó, có rất ít thông tin về các công việc của Android,
ngoại trừ việc họ đang phát triển phần mềm cho điện thoại di động. Điều này tạo những
tin đồn về việc Google có ý định bước vào thị trường điện thoại di động.
Tại Google, nhóm do Rubin đứng đầu đã phát triển một nền tảng thiết bị di động
dựa trên hạt nhân Linux, được họ tiếp thị đến các nhà sản xuất thiết bị cầm tay và các nhà
mạng trên những tiền đề về việc cung cấp một hệ thống mềm dẻo, có khả năng nâng cấp
mở rộng cao. Một số nguồn tin cho biết trước đó Google đã lên danh sách các thành phần
phần cứng và các đối tác phần mềm, đồng thời ra hiệu với các nhà mạng rằng họ sẵn sàng
hợp tác ở nhiều cấp độ khác nhau. Ngày càng nhiều suy đoán rằng Google sẽ tham gia thị
trường điện thoại di động xuất hiện trong tháng 12 năm 2006. Tin tức của BBC và Nhật
Báo Phố Wall chú thích rằng Google muốn đưa công nghệ tìm kiếm và các ứng dụng của
họ vào điện thoại di động và họ đang nỗ lực làm việc để thực hiện điều này. Các phương
tiện truyền thông tin và online cũng sớm có bài viết về những tin đồn cho rằng Google
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
đang phát triển một thiết bị cầm tay mang thương hiệu Google. Và lại càng có nhiều suy
đoán sau bài viết về việc Google đang định nghĩa các đặc tả công nghệ và trình diễn các
mẫu thử với các nhà sản xuất điện thoại di động và nhà mạng.
Tháng 9 năm 2007, tờ InformationWeek đăng tải một nghiên cứu
của Evalueserve cho biết Google đã nộp một số đơn xin cấp bằng sáng chế trong lĩnh vực
điện thoại di động.
Ngày 5 tháng 11 năm 2007, Liên Minh Thiết Bị Cầm Tay Mở Rộng (Open
Handset Alliance), một hiệp hội bao gồm nhiều công ty trong đó có Texas
Instruments, Tập Đoàn BroadCom, Google, HTC, Intel, LG, Tập Đoàn Marvel
Technology, Motorola, Nvidia Qualcomm, Samsung Electronics, Sprint Nextel và T-
Mobile được thành lập với mục đích phát triển các tiêu chuẩn mở cho thiết bị di

động. Cùng với sự thành lập của OHA (Liên minh thiết bị cầm tay mã nguồn mở), họ
cũng giới thiệu sản phẩm Android đầu tiên. Nó là một thiết bị di động có hệ điều hành
dựa trên nhân Linux phiên bản 2.6.(2.7)
Ngày 9 tháng 12 năm 2008 thêm 14 thành viên mới gia nhập dự án Android được
công bố, gồm có ARM Holdings, Atheros Communications, Asustek Computer Inc,
Garmin Ltd, Softbank, Sony Ericsson, Toshiba Corp và Vodafone Group Plc
2. Giấy Phép.
Trừ những giai đoạn cập nhật ngắn, Android đã lưu hành với mã nguồn mở kể từ
ngày 21 tháng 10 năm 2008. Google đã mở toàn bộ mã nguồn (bao gồm cả các ngăn xếp
mang và điện thoại) dưới giấy phép Apache. Với giấy phép Apache, các nhà cung cấp có
thể thêm những mở rộng thương mại mà không cần chuyển chúng thành mã nguồn mở.
3. Biểu Tượng.
Biểu tượng đại diện của hệ điều hành Android hiện tại là chú robot màu xanh, vốn
được biết đến với tên gọi Bugdroid, ngay từ khi ra mắt đã trở nên phổ biến và được ưa
chuộng trên thị trường di động thế giới. Tuy nhiên, chú robot xanh xinh xắn lại không
phải là biểu tượng đầu tiên của hệ điều hành này.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Người máy màu xanh lá này đã trở nên quá quen thuộc trên toàn cầu
Hình ảnh về những con robot trông có vẻ tinh nghịch với hình dáng như những
chiếc kẹo bên dưới đây chính là hình đại diện được đề cử đầu tiên dành cho hệ điều hành
Android. Chúng được sáng tạo bởi Dan Morill, một nhân viên làm việc trong bộ phận lập
trình của Google, vào năm 2007. Tuy không được lựa chọn để làm hình ảnh đại diện
chính thức, nhưng những biểu tượng vui nhộn này cũng đã tồn tại trong một khoảng thời
gian khá dài với biệt danh Dandroids.
Dandroids có vẻ "nhí nhố" hơn Bugdroid
Dandroids mặc dù mang những nét đặc trưng riêng nhưng đến sau cùng, Google
đã chọn “người máy” Bugdroid – với dáng vẻ hiện đại và trẻ trung hơn – được sáng tạo
bởi Irina Blok, làm biểu tượng chính thức cho hệ điều hành di động của họ. Bên cạnh đó,

để khẳng định thương hiệu, cách đặt tên các phiên bản hệ điều hành Android theo các
món ăn tráng miệng do Ryan PC Gibson đề xuất cũng đã được Google áp dụng. Và cho
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
đến bây giờ, Android đã và đang mang đến thêm nhiều hương vị ngọt ngào nữa như
Cupcake, Donut, Ice Cream Sandwich, Jelly Bean hay sắp tới đây sẽ là Key Lime Pie.
Các phiên bản Android được đặt tên theo các món tráng miệng
II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC PHIÊN BẢN ANDROID.
Android đã có những bước đi dài kể từ khi thiết bị đầu tiên dùng hệ điều hành này
xuất hiện, chiếc HTC Dream (ở nhiều nước gọi là T-Mobile G1) . Trong quãng thời gian
ấy, người dùng đã chứng kiến sự xuất hiện của rất nhiều phiên bản Android, giúp nó dần
biến đổi thành một nền tảng di động mạnh mẽ như ngày hôm nay.
1. Điểm Khởi Đầu Của Android – Android 1.0 (Linux Kernel 2.6, 2.7)
Kỉ nguyên Android chính thức
khởi động vào ngày 22/10/2008, khi
mà chiếc điện thoại T-Mobile G1
chính thức được bán ra ở Mỹ. Ở giai
đoạn này, rất nhiều những tính năng
cơ bản cho một smartphone bị thiếu
sót, chẳng hạn như bàn phím ảo, cảm
ứng đa điểm hay khả năng mua ứng
dụng. Tuy nhiên, vai trò của phiên
bản đầu tiên này vô cùng quan trọng.
Nó đã đặt nền móng cho các tính năng
có thể xem là đặc điểm nhận dạng của
Android ngày nay.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.

Thanh thông báo kéo từ trên xuống: Ngay từ ngày đầu tiên trình làng, Android
đã được tích hợp một hệ thống cảnh báo vô cùng hữu dụng so với những đối thủ cạnh
tranh thời bấy giờ mặc dù nó không được tốt như Notification Bar trên các thế hệ
Android mới. Người dùng có thể nhanh chóng xem những tin nhắn đến, xem ai mới gọi
nhỡ hoặc bất cứ thứ gì mà phần mềm trên đang máy muốn người dùng biết. Tất cả thông
báo đều tập hợp trong một danh sách duy nhất. Thanh trạng thái, bao gồm đồng hồ, biểu
tượng pin, biểu tượng cho các kết nối cũng được tích hợp vào nơi đây, giúp tiết kiệm tối
đa không gian màn hình nhưng vẫn phục vụ đầy đủ nhu cầu thông tin cho người sử dụng.
Mãi cho đến ngày nay, Android 4.2 vẫn duy trì ý tưởng tuyệt vời này.
Màn hình chính và widget: Nếu muốn so sánh Android, iOS và Windows Phone,
điểm khác biệt lớn nhất đó là một màn hình chính. Màn hình chính của Android thật sự
rất phong phú. Có thể thay đổi hình nền (Windows Phone không làm được điều này), đặt
icon ra màn hình chính, sử dụng widget và hơn hết là thay luôn cả cái màn hình chính
nếu muốn. Độ tùy biến của màn hình chính trên Android có thể xem là cao nhất trong các
hệ điều hành di động hiện nay. Về phần widget, đây cũng là một điểm hay của Android
vì nó cho phép người dùng nhanh chóng truy cập đến một số tính năng nào đó hoặc xem
nhanh các thông tin cập nhật chi tiết một cách nhanh nhất. Widget cũng đóng vai trò
trang trí cho màn hình chính nữa. Symbian cũng có widget nhưng chưa so được với
Android về mức độ phong phú và chức năng (tất nhiên là phải về sau này, còn lúc mới ra
thì chưa có nhiều).
Tích hợp chặt chẽ với Gmail: Lúc chiếc G1 ra mắt, Gmail đã hỗ trợ giao thức
POP và IMAP để dùng được với các trình gửi nhận email trên thiết bị di động, nhưng vấn
đề nằm ở chỗ không có giao thức nào được tận dụng tối đa để phục vụ những tính năng
độc đáo của Gmail (ví dụ như lưu trữ, đánh nhãn cho email). Android 1.0 ra mắt đã khắc
phục được vấn đề này và có thể nói chiếc G1 đã mang lại trải nghiệm Gmail tốt nhất trên
thị trường vào thời điểm đó.
Về mặt giao diện: Google xây dựng giao diện của Android 1.0 với sự hợp tác của
một công ty thiết kế đến từ Thụy Điển với tên gọi The Astonishing Tribe (TAT). Từ
Android 1.0 đến 2.2, có thể thấy sự xuất hiện của một widget đồng hồ quen thuộc, tuy
đơn giản nhưng khá đẹp mắt, đó chính là dấu ấn của TAT. Một thời gian sau, TAT bị

RIM mua lại để tập trung phát triển cho nền tảng BlackBerry OS cũng như BBX. Mối
quan hệ của TAT với Google Android cũng chấm dứt ở đây.
2. Android 1.1 (Ngày 9 Tháng 2 Năm 2009)
Tháng 2/2009, bản nâng cấp đầu tiên của Android được trình làng, khoảng ba
tháng sau khi G1 được bán ra. Phiên bản 1.1 không phải là một cuộc cách mạng gì to lớn
bởi tính năng chính của nó là sửa một danh sách lỗi khá dài. Tuy nhiên, nó đã cho thấy
khả năng nâng cấp thiết bị di động qua phương pháp Over-The-Air (tức tải về và cài đặt
bản cập nhật ngay trên thiết bị, không cần kết nối với máy tính). Ở thời điểm đó, rất ít hệ
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
điều hành di động có thể làm được việc này, hầu hết đều phải nhờ đến một phần mềm
chuyên dụng nào đó trên PC. Trước đó, ở Mỹ có dòng máy Danger Hiptop (được biết
nhiều hơn với tên Sidekick) đã có cập nhật dạng gần giống over the air theo từng giai
đoạn, và chính Andy Rubin, người sáng lập công ty Android Inc. (sau đó Google mua lại)
cũng chính là nhà đồng sáng lập hãng Danger.
3. Android 1.5 Cupcake (Linux Kernel 2.6,27 – Ngày 30 Tháng 4 Năm 2009)
Android 1.5 có lẽ có vai trò cực kì quan trọng trong quá trình trưởng thành của
Android khi nó bổ sung cho hệ điều hành này những tính năng nổi bật giúp nó cạnh tranh
với các nền tảng đối thủ khác. Đây cũng là bản Android đầu tiên được Google gọi tên
theo các món đồ ăn với chữ cái bắt đầu được xếp theo thứ tự alphabet. Cupcake là một
loại bánh nhỏ, hơi giống bánh bông lan và có kem bên trên. Sau này ta có thêm Donut,
Eclair (bánh su kem nhưng dài, nhân chocolate), FroYo (ya-ua đá), Gingerbread (bánh
gừng), Honeycomb (một loại bánh có hình tổ ong), Ice Cream Sandwich (bánh sandwich
kem) và mới đây nhất là Jelly Bean (một loại kẹo dẻo viên nhỏ, hình hạt đậu).
Về mặt giao diện, Android 1.5 không có nhiều điểm thay đổi so với người tiền
nhiệm của mình. Google chỉ điểm thêm vài điểm để làm giao diện trông bóng bẩy, mượt
mà hơn một tí, chẳng hạn như widget tìm kiếm có độ trong suốt nhẹ, biểu tượng app
drawer có một số hoa văn nhỏ mới, v.v. Nói chung, giao diện không phải là một điểm
nhấn của Android 1.5 mà người ta quan tâm nhiều hơn đến các tính năng mới mà nó

mang lại, chẳng hạn như:
Bàn phím ảo: Tại sao Google không cho
những bản Android đầu tiên bàn phím mềm? Đâu
phải là họ không có khả năng làm đâu? Thực chất,
mục tiêu ban đầu của Android là cạnh tranh với
BlackBerry. Vâng, thời đó BlackBerry đang rất nổi
và được nhiều người dùng quan tâm, nhất là ở Mỹ,
bởi chính bàn phím vật lí của nó. Bởi vậy mà G1 có
một bàn phím QWERTY trượt ngang. Mãi đến bản
Cupcake này mới có một chiếc điện thoại Android
thuần cảm ứng là HTC Magic được giới thiệu.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Cùng với đó, Google tích hợp vào Cupcake những "cái móc", dân lập trình gọi là
hook, để họ có thể tự do viết phần mềm bàn phím của riêng mình cho Android. Lại thêm
một điểm nữa khiến cho Android trở nên khác biệt với các hệ điều hành đối thủ khác.
Lúc Cupcake xuất hiện, bàn phím ảo mặc định rất chậm và không chính xác khi so sánh
với iOS, chính vì thế mà những hãng sản xuất phần cứng như HTC đã phát triển riêng
một biện pháp khắc phục, cũng may là có hook do Google mở ra.
Mở rộng khả năng cho widget: Android 1.0 và 1.1 có tích hợp widget, nhưng
tiềm năng của nó chưa được khai thác hết vì Google chưa đưa bộ phát triển phần mềm
cho lập trình viên. Từ Android 1.5 trở đi thì chuyện đã thay đổi, và đến thời điểm hiện
tại, kho widget của Android đã rất phong phú, đó là chưa kể đến những ứng dụng của bên
thứ ba cũng mang sẵn trong mình widget nữa. Nhờ có khả năng này mà việc tùy biến
giao diện của Android càng được đẩy mạnh hơn nữa.
Cải tiến clipboard: Thật ra Android đã hỗ trợ việc copy và paste ngay từ những
ngày đầu tiên rồi, nhưng nó bị giới hạn lại ở textbox (là những chỗ nào chúng ta có thể gõ
chữ được) và sao chép các đường link mà thôi. Ví dụ đang đọc mail hay đang duyệt web
thì chịu, chúng ta không cách gì sao chép được. Với Cupcake thì Google cho phép sao

chép nội dung của web, một cải tiến được đánh giá là tốt. Còn với Gmail thì phải đến vài
bản nâng cấp sau mới có được tính năng này.
Khả năng quay phim: Thật khó mà tưởng tượng được chiếc smartphone xịn lại
bán ra mà không hề có tính năng quay phim, nhưng đó là những gì mà chiếc T-Mobile
G1 phải "hứng chịu" (cũng hơi giống iPhone những đời đầu). Mãi đến Android 1.5 thì
Android mới quay phim được. Nhưng cũng giống với bàn phím, trình camera mặc định
của Android không tốt nên các hãng phần cứng phải nhanh chóng thay nó với ứng dụng
của riêng mình với các chế độ quay theo cảnh, chạm để lấy nét, tùy chỉnh thông số video.
Và còn nhiều thứ khác nữa bao gồm khả năng xóa hoặc di chuyển hàng loạt
email trong Gmail, cho phép tải ảnh, video lên YouTube, Picasa, truy cập danh bạ trong
Google Talk từ nhiều ứng dụng khác.
4. Android 1.6 Donut (Linux Kernel 2.6,29 – Ngày 30 Tháng 9 Năm 2009)
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Phiên bản bánh Donut
này, mặc dù chỉ thêm có 0.1
vào mã số của Android 1.5
nhưng nó cũng mang lại
nhiều cải tiến đáng giá. Một
vài điểm trong giao diện
được cải thiện, vài tính năng
nhỏ được thêm vào, cuối
cùng là hỗ trợ cho mạng
CDMA. Động thái này cho
phép nhiều nhà mạng hơn có
thể sử dụng với Android,
giúp cho Android có thêm
một số lượng lớn người dùng
ở Mỹ và ở cả Châu Á nữa.

Nhưng có lẽ điểm thú vị nhất
của Donut đó là hỗ trợ các
thành phần đồ họa độc lập
với độ phân giải. Lần đầu
tiên, Android có thể chạy trên nhiều độ phân giải và tỉ lệ màn hình khá nhau, cho phép
những thiết bị có nhiều độ phân giải hơn là 320 x 480. Hiện nay, chúng ta có những chiếc
smartphone Android chạy ở độ phân giải QVGA, HVGA, WVGA, FWVGA, qHD, và
720p, HD và Full HD. Vài chiếc máy tính bảng còn đạt mức 1920 x 1080 nữa.
Tính năng Quick Search Box, được biết nhiều hơn trong thế giới điện thoại với cái
tên Universal Search, cũng là một điểm mà Android nhận được nhiều lời khen. Có thể
tìm kiếm danh bạ, ứng dụng, nhạc, tin nhắn,…, tất cả đều chỉ thao tác trong một hộp tìm
kiếm mà thôi. Trước Donut, khi nhấn nút Search trên máy Android thì chỉ có thể tìm
kiếm thông qua google.com mà thôi. Google cũng cho phép những lập trình viên tích hợp
tính năng tìm kiếm mới này vào ứng dụng của mình để mở rộng thêm khả năng của
Quick Search Box.
Android 1.6 còn có gì mới? Đó là một Android Market với thiết kế mang tông
màu xanh trắng đặc trưng của Android, có thể hiển thị các ứng dụng free và trả phí hàng
đầu. Những ứng dụng bên thứ ba cũng bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Giao diện camera
mới, tíhc hợp với trình xem ảnh tốt hơn, giảm thời gian chờ giữa hai lần chụp ảnh. Nhưng
cũng thường thì các nhà sản xuất cũng thay thế bằng ứng dụng của riêng mình.
5. Android 2.0 và Android 2.1 Éclair (Linux Kernel 2.6,29 – 26/10/009)
Đầu tháng 9 năm 2009, một năm sau khi G1 chào đời, Android 2.0 đã được ra
mắt. Thật sự không ngoa khi mô tả Android 2.1 bằng một chữ "lớn". Một cơ hội lớn cho
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
những nhà phát triển, một tiềm năng lớn cho Android về sau, những chiếc điện thoại
"lớn" được ra mắt và phân phối bởi các nhà mạng lớn. Eclair, tên gọi của Android 2.0,
lúc mới ra mắt chỉ được dùng độc nhất cho chiếc Motorola Droid của nhà mạng Verizon,
một trong những chiếc điện thoại đã kích hoạt cho một kỉ nguyên Android lớn mạnh như

ngày hôm nay. Motorola Droid còn được biết đến với tên gọi Motorola Milestone khi nó
xuất hiện ở Việt Nam. Đây là một sản phẩm rất thành công của Motorola và cả Google
khi mang đến cho người dùng những trải nghiệm cực kì tốt với Android.
Vậy những gì làm cho Eclair quan trọng? Nó là bản nâng cấp và làm mới lớn nhất
mà Android từng có kể từ khi hệ điều hành này được giới thiệu, cả về ngoại hình lẫn kiến
trúc bên trong. Vào thời điểm Motorola Milestone ra mắt, độ phân giải cao và lạ 854 x
480 cùng nhiều yếu tố phần cứng khác đã làm cho sản phẩm này đứng đầu thế giới
Android về cấu hình, nhưng quan trọng hơn là Android 2.0 có những tính năng khiến cho
nó dễ bán hơn, chẳng hạn như:
Hỗ trợ nhiều tài khoản người dùng: lần đầu tiên, nhiều tài khoản Google có thể
được đăng nhập trên cùng một thiết bị chạy Android. Tài khoản Microsoft Exchange
cũng được hỗ trợ trong Eclair. Người dùng có thể duyệt qua danh bạ, email của từng tài
khoản. Google giờ đây cho phép những nhà phát triển bên thứ ba tích hợp dịch vụ của họ
vào trong mục Account này, đồng thời hỗ trợ tự động đồng bộ hóa.
Quick Contact: khi chạm vào một số liên lạc nào đó, có một menu nhỏ sẽ xuất
hiện để người dùng tương tác theo nhiều cách: gửi email, gọi điện, nhắn tin và hơn thế
nữa. Miễn là nơi nào có biểu tượng contact xuất hiện là nơi đó có thể dùng Quick
Contact. Sau này có thêm Twitter, Facebook và nhiều dịch vụ đồng bộ khác cũng tích
hợp tính năng riêng của mình vào Quick Contact.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Cải tiến bàn phím ảo: Giống với chiếc G1, Droid/Milestone có một bàn phím
QWERTY đầy đủ dạng trượt ngang nhưng Google cho phép người dùng sử dụng thêm
bàn phím ảo mà hãng đã thiết kế lại. Mặc dù tính năng cảm ứng vẫn còn một điều xa vời
với Android vào lúc đó (trình duyệt, bản đồ và cả các phần mềm khác không hề dùng
được tính năng hai ngón tay để phóng to, thu nhỏ,…) nhưng Eclair lại sử dụng dữ liệu
multitouch từ bàn phím để xác định điểm chạm thứ hai trong lúc người dùng gõ nhanh.
Độ chính xác của bàn phím ảo trên Android 2.0 nhờ đó đã được cải tiến đáng kể.
Trình duyệt mới: Mặc dù chưa hỗ trợ cảm ứng đa điểm nhưng trình duyệt trên

Android 2.0 cũng có nhiều điểm nâng cấp đáng khen. Google đã hỗ trợ HTML5, bao
gồm luôn khả năng phát video ở chế độ toàn màn hình. Hộp địa chỉ kết hợp với thanh tìm
kiếm (giống với trình duyệt Chrome) cũng lần đầu xuất hiện trên Android. Để bù lại cho
tính năng cảm ứng đa điểm, trình duyệt mới hỗ trợ chạm hai lần để phóng to nội dung
trên màn hình, kèm theo đó là hai nút Zoom in, Zoom out.
Giao diện mới: các biểu tượng giờ đây đã đẹp hơn, sang trọng hơn, gọn gàng hơn
nhiều so với trước. Widget cũng được thiết kế mới để tương thích với độ phân giải cao
trên Droid. Giao diện menu cũng đẹp hơn nữa.
Về phần Android 2.1, mặc dù không "lớn" như Android 2.0 vì nó chủ yếu ra mắt
để sửa lỗi và thêm hàm API để lập trình viên can thiệp sâu hơn vào hệ thống nhưng nó đã
hỗ trợ thêm vài tính năng lý thú như Live Wallpaper, chuyển giọng nói thành văn bản và
một màn hình khóa mới.
Android 2.1
cũng có rất nhiều ý
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
nghĩa về việc thay đổi chiến lược của Google. Nhận thấy rằng các hãng phần cứng
thường thay đổi giao diện gốc của Android theo ý họ, Google đã chọn HTC để làm việc
trực tiếp và tạo ra Nexus One, chiếc điện thoại đầu tiên của hãng. Nexus One mang trong
mình một bản Android 2.1 thuần khiết nhất và không hề bị chỉnh sửa gì cả. Không chỉ nổi
bật về mặt phần mềm, Nexus One còn có phần cứng mạnh mẽ thời bấy giờ. Nó là một
trong những smartphone đầu tiên chạy trên CPU Snapdragon 1GHZ của Qualcomm,
đồng thời sở hữu màn hình AMOLED độ phân giải WVGA. Thực ra, Google đã tiến
hành việc này kể từ chiếc Droid với Android 2.0. Google và Motorola đã làm việc chặt
chẽ để cùng phát triển một mẫu điện thoại tốt, nhưng Eclair trong Droid vẫn có vài sự
tinh chỉnh. Và tất nhiên là Google chưa bao giờ trực tiếp bán Droid cả.
6. Android 2.2 Froyo (Linux Kernel 2.6,32 Ngày 20 Tháng 5 Năm 2010)
Android 2.2 được ra mắt trong năm 2010 và mục tiêu của chương trình Nexus đã
xuất hiện rõ hơn bao giờ hết: Nexus One là chiếc điện thoại đầu tiên được nâng cấp lên

Android 2.2, sớm hơn nhiều so với tất cả các hãng khác. Giao diện màn hình chính đã
được thay đổi, từ 3 màn hình chính tăng lên thành 5 màn hình. Dãy nút kích hoạt nhanh
chế độ gọi điện, web và App Drawer cũng đã xuất hiện. Những chấm nhỏ ở góc trái, phải
bên dưới của màn hình giúp người dùng biết mình đang xem đến màn hình nào. Google
đã có nhiều cố gắng để giao diện Android được vui và đẹp hơn, dễ dùng hơn, bắt kịp
phần nào với giao diện của bên thứ ba như HTC Sense chẳng hạn.
FroYo còn có một trình xem
ảnh mới với khả năng hiển thị hình
ảnh 3D: nghiêng máy thì dãy ảnh sẽ
nghiên theo, đồng thời nó mang trong
mình nhiều hiệu ứng chuyển động
đẹp mắt khác. Đây cũng là dấu mốc
về việc Google đã đi thuê ngoài nhằm
phát triển Android mà Gallery trên
FroYo là một ví dụ. Tính năng trạm
phát Wifi cũng xuất hiện, cách copy,
paste mới tốt hơn. Nhiều tính năng
bảo mật mới cũng xuất hiện. Tuy
nhiên, với người dùng thông thường
thì việc Android 2.2 FroYo có hỗ trợ
duyệt web với Flash là điểm đáng
quan tâm nhất. Hầu như người ta
muốn lên FroYo là để tận hưởng được
cảm giác duyệt web với Flash đầy đủ
trên thiết bị di động. Android 2.2 bổ
sung thêm tính năng di chuyển một
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
phần ứng dụng từ bộ nhớ máy sang thẻ nhớ, giúp tiết kiệm dung lượng cho các điện thoại

thời bấy giờ.
7. Android 2.3 Gingerbread (Linux Kernel 2.6,33,34 – 6 Tháng 12 Năm
2010)
Khoảng nửa năm sau khi FroYo xuất hiện, Google đã trở lại với bản Android 2.3.
Google giới thiệu nó với nhiều tính năng mới, tập trung vào việc phát triển game, đa
phương tiện và phương thức truyền thông mới. Android 2.3 có tên mã là Gingerbread,
hiện bộ SDK Android 2.3 dành cho các nhà phát triển cũng đã được Google phát hành.
Android 2.3 thật ra không phải là một bản nâng cấp lớn nhưng những ảnh hướng
mà nó mang lại thì không nhỏ chút nào. Lần đầu tiên Android khoác lên mình một giao
diện đen, trông ngầu và chuyên nghiệp hơn. Các thành phần trên màn hình chính có thêm
tông màu xanh lá đậm. Bên cạnh đó, việc sử dụng màu đen còn là ý định của Google để
giúp các máy dùng màn hình AMOLED tiết kiệm pin hơn. Vài tính năng mới trên
Android 2.3:
Hai thanh chặn khi chọn văn bản:
Hồi Android 2.2, việc chọn văn bản khi đang
soạn thảo hoặc khi đang duyệt web rất cực khổ.
Nhờ có thanh chặn này mà người dùng có thể
chọn từng kí tự một, tiện lợi hơn rất nhiều.
Bàn phím được cải tiến: Google một lần nữa đầu tư cho bàn phím ảo, lần này có
sự thay đổi lớn về tông màu của bàn phím. Nhìn các phím đẹp hơn, đen hơn và cả kí tự
cũng được thay đổi so với hồi Android Cupcake. Nhờ có khả năng nhận biết đa điểm trên
bàn phím mà việc việc soạn thảo đã dễ chịu hơn, cho phép người dùng nhấn cùng lúc
nhiều phím để chuyển sang bàn phím dạng kí tự.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Công cụ quản lí pin và ứng dụng: vì Android cho phép các ứng dụng chạy nền
thực thụ chứ không bị ngắt lại, vấn đề pin bị người dùng phàn nàn rất nhiều, đặc biệt là
các phần mềm không được viết để thoát khỏi bộ nhớ sau khi đã hoàn tất công việc của
mình. Một công cụ mới đã ra mắt với biểu đồ nhằm theo dõi mức độ tiêu thụ pin cùng

việc quản lí ứng dụng đang chạy sẽ giúp đỡ người dùng phần nào.
Hỗ trợ máy ảnh trước: Lần đầu tiên một phiên bản của hệ điều hành Android hỗ
trợ việc sử dụng máy ảnh phụ phía trước của thiết bị.
Nhiều tính năng mới của Gingerbread chủ yếu nhắm đến lập trình viên hơn là
người dùng cuối, ví dụ như NFC chẳng hạn. Nhiều tháng trôi qua, NFC không có nhiều
ứng dụng thực tế ngoài việc đến một vài thành phố ở nước ngoài và dùng NFC để lấy
thông tin về địa điểm. Khi Nexus S dành cho nhà mạng Sprint, Mỹ, ra đời, Google giới
thiệu Google Wallet, dịch vụ thanh toán di động sử dụng NFC của mình. Đến bây giờ,
nhiều thứ hơn đã hỗ trợ NFC, NFC tag cũng xuất hiện ở nhiều nơi hơn. Thậm chí người
ta còn dự đoán rằng NFC sẽ thay thế được mã QR trong tương lai và Android 2.3 đã góp
một phần quan trọng nhằm thúc đẩy việc sử dụng phổ biến kết nối tầm ngắn này.
Với Gingerbread, Google muốn xâm nhập vào thị trường game di động vốn đang
bị chiếm lĩnh bởi iOS bằng việc cung cấp cho lập trình viên quyền truy cập cấp thấp nhất,
tức là gần sát nhất, đến các phần cứng về âm thanh, đồ họa, lưu trữ,… Nhờ đó, nhiều
game/ứng dụng native ra đời với tốc độ hoạt động nhanh hơn, hình ảnh, âm thanh phong
phú, chân thật và đẹp hơn nhiều.
8. Android 3.x Honeycomb (Ngày 22 Tháng 2 Năm 2011)
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Honeycomb là phiên bản Android dành riêng cho máy tính bảng, và sản phẩm đầu
tiên dùng hệ điều hành này Motorola Xoom. Xoom mang trong mình một giao diện thuần
Android 3.0 và không bị chỉnh sửa gì. Mặc dù Android 3.0 không có nhiều dấu ấn đặc
biệt trên thị trường nhưng nó là nền tảng cho Android 4.0 sau này với các tính năng như:
Sử dụng tông màu đen và xanh dương làm tông màu chủ đạo, hệ thống icon và
biểu tượng mới.
Homescreen và widget cũng được thiết kế lại. Việc đặt widget lên màn hình
cũng tiện dụng hơn nhờ có hình ảnh thu nhỏ của các homescreen trong mục widget nên
người dùng có thể chọn lựa theo ý muốn.
Không còn nút nhấn vật lí: trên các máy tính bảng Android 3.x, người ta không

còn trang bị cho chúng ba phím Back, Home và Menu (và Search nữa) riêng biệt, cả nút
cứng lẫn nút cảm ứng, mà thay vào đó nó đã được bố trí ngay trên màn hình của người
dùng. Android 3.x có khả năng ẩn hoặc hiện các nút này một cách linh hoạt tùy vào việc
người dùng đang chạy ứng dụng gì.
Cải thiện đa nhiệm: nút Recent Apps lần đầu tiên xuất hiện trên Android cho
phép người dùng duyệt qua các ứng dụng mà mình mới chạy trong thời gian gần đây, nhờ
đó việc chuyển đổi app dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn. Mỗi ứng dụng như vậy cũng có
một ảnh chụp màn hình thu nhỏ để tiện cho việc chọn lựa. Từ Gingerbread trở về trước,
việc chạy đa nhiệm phải nhờ đến việc nhấn giữ nút Home để tiết lộ bảng các ứng dụng
gần đây, bất tiện hơn nhiều.
Thanh Action Bar: một thanh chức năng được đặt bên trên mỗi ứng dụng, ở đó
lập trình viên có thể đặt các nút nhấn để điều khiển ứng dụng lên. Ngoài ra, Honeycomb
còn hỗ trợ cho việc bố cục ứng dụng theo nhiều cột để hướng đến việc hỗ trợ máy tính
bảng tốt hơn.
Sau Android 3.0, Android 3.1 và 3.2 là hai bản nâng cấp nhỏ của Honeycomb và
vẫn dùng lại cái tên này. Mục đích chủ yếu của chúng là để sửa lỗi và thêm vài tính năng
mới như resize widget ngay trên homescreen, hỗ trợ thẻ SD,
9. Android 4.0 Ice Cream Sandwich (Ngày 19 Tháng 10 Năm 2011)
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Cuối năm 2011, Google chính thức giới thiệu điện thoại Galaxy Nexus, thiết bị
đầu tiên trên thị trường sử dụng Android 4.0 Ice Cream Sandwich. Có thể nói Android
4.0 là sự thay đổi lớn nhất trong lịch sử phát triển của Android tính nay. Android 4.0 hỗ
trợ một bộ font mới tên là Roboto được cho là tối ưu hóa để dùng trên các màn hình độ
phân giải càng ngày càng cao hơn, đồng thời để hiển thị được nhiều thông tin hơn trên
màn hình. Hệ thống thông báo (Notification) già nua của Android đã được làm mới hoàn
toàn, đẹp hơn, tiện dụng hơn, nhất là tính năng trượt ngang để xóa từng thông báo riêng
lẻ. Tương tự như vậy cho tính năng Recent Apps và cả trình duyệt của máy. Bàn phím
cũng được làm mới với khả năng tự động sửa lỗi cao hơn, việc sao chép, cắt dán chữ và

nội dung cũng tốt hơn bao giờ hết. Đây cũng là lần đầu tiên Google hợp nhất hệ điều
hành dành cho smartphone và cho máy tính bảng vào làm một. Đây là một động thái của
hãng nhằm giảm thiểu sự phân mảnh vốn đang ngày càng nghiêm trọng của Android. Khi
chạy trên máy tính bảng, Android 4.0 sẽ có một giao diện khác tối ưu cho màn hình lớn,
nhưng về cơ bản thì tính năng của nó vẫn giống hệt như lúc chạy trên smartphone.
Android 4.0 cũng nhắm đến việc duyệt web nhanh hơn, tối ưu hóa hiệu suất hoạt động
của thiết bị, kéo dài thời gian dùng pin
10.Android 4.1 và 4.2 Jelly Bean (Ngày 9 Tháng 7 Năm 2012)
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Android 4.1 được giới thiệu tại hội nghị Google I/O với nhiều cải tiến đáng giá và
rất được mong đợi. Đây cũng là lúc chiếc Nexus 7 được chính thức ra mắt với sự hợp tác
giữa Google với Asus. Về giao diện, không có nhiều thay đổi so với Android 4.0, vẫn là
màn hình chính với thanh dock bên dưới quen thuộc. Giao diện kiểu này rất đơn giản
nhưng lại đẹp và gọn gàng, giúp chúng ta dễ dàng theo dõi những thông tin xuất hiện trên
màn hình, đặc biệt là khi điều khiển các ứng dụng. Ở màn hình Lockscreen, giờ đây vòng
trượt mở khóa có đến ba biểu tượng để kích hoạt ba tính năng khác nhau chứ không chỉ
có hai như trên Android 4.0. Trượt sang phải để mở khóa máy, sang trái để chạy ứng
dụng camera, hai thứ này đã có từ trước. Nhưng nếu người dùng kéo vòng trượt lên bên
trên thì sẽ thấy một chữ "Google". Đây chính là cách thức để kích hoạt Google Now.
Sự xuất hiện của Google Now cho thấy rằng Google đã bắt đầu bước chân vào
việc cạnh tranh với Siri. Với việc nâng cao khả năng tìm kiếm, thay đổi giao diện, tự
động theo dõi thói quen sử dụng để đưa ra những thông tin chính xác và thích hợp với
người dùng hơn. Trên Android 4.1 có thể tìm kiếm bằng giọng nói và các kết quả trả
không chỉ đơn giản là những dòng tìm kiếm nữa mà nó được thiết kế theo dạng thẻ đồ
họa, thông minh hơn, trực quan hơn. Không chỉ tìm kiếm theo yêu cầu, Google Now còn
tự chủ động thu thập thông tin liên tục dựa vào lịch sử tìm kiếm của người dùng, dựa vào
danh sách lịch hẹn để biết người dùng sẽ đi đâu, cần thông tin gì.
Nhưng có lẽ quan trọng hơn hết của Jelly Bean không phải là về giao diện hay ứng

dụng mới mà về Project Butter giúp mang lại độ mượt chưa từng có cho Android. Theo
như giải thích của Google, độ mượt này có được là nhờ vào dự án Butter. Project Butter
đã được Google đề cập tới tại I/O 2012 với mục đích giải quyết tình trạng lag và độ phản
ứng không tốt của Android. Với Project Butter, các kỹ sư Android đã tăng framerate cho
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
phiên bản mới nhất này lên 60 khung hình/giây (trước đó trên Android 3.0 hay Android
4.0 framerate là 30 khung hình/giây) cũng như bổ sung VSync, tăng bộ đệm lên gấp ba
để nâng cao trải nghiệm người dùng. Project Butter sẽ có tác động trực tiếp tới toàn bộ hệ
thống của Jelly Bean nhằm mang tới trải nghiệm người dùng nhanh và mượt mà nhất có
thể. VSync sẽ cải thiện hiệu năng đồ hoạ tổng thể trong khi bộ nhớ đệm tăng gấp ba lần
sẽ cho phép GPU và CPU cũng như màn hình hoạt động song song với nhau. Hồi Google
I/O, Google đã mang một máy quay chậm có tốc độ lên tới 300 khung hình/giây để so
sánh độ mượt.
III. CẤU TRÚC CỦA ANDROID.
1. Bộ Nạp Khởi Động - BootLoader
Ở mức độ cơ bản nhất, smartphone giống như một ổ đĩa cứng đã được phân vùng
hoàn chỉnh. Một trong số các vùng đó lãnh nhận trách nhiêm nặng nề: chứa tất cả các tập
tin khởi động của hệ điều hành Android; số còn lại nhận trách nhiệm lưu trữ tất cả các
phần mềm, dữ liệu. Tại đó người dùng có thể làm được rất nhiều thứ với các công cụ có
sẵn.
Có thể nói rằng, bộ nạp khởi động cũng giống như một trạm kiểm soát an ninh cho
hệ thống. Nếu thay đổi bất cứ thứ gì trên phân vùng này, người dùng có thể phá vỡ hoạt
động ổn định của hệ điều hành. Hoặc nếu rành về lập trình, người dùng có thể tùy chỉnh
hệ thống phù hợp với mình
Có rất nhiều sự phàn nàn về việc bootloader bị mã hóa. Và trên thực tế, đa số các
điện thoại đều khóa phân vùng này lại, kể cả các nhà phát triển được cho là gần gũi nhất
như Nexus. Nói một cách chính xác nhất, tất cả các phân vùng khởi động đều được khóa
và mã hóa chặt chẽ, nghĩa là khó có thể mở nó một cách dễ dàng và các lệnh mở khóa

tương tự như “fastboot oem unlock” sẽ chẳng ăn thua gì!
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Chính việc khóa bootloader đã nảy sinh nhiều vấn đề trong việc thay thế linh kiện
giữa các dòng sản phẩm. Điều đó đã mở ra cuộc chạy đua giữa các nhà sản xuất phần
cứng trong vấn đề này. HTC, Samsung và Motorola đều khóa bootloader của họ. Tuy
nhiên trong những năm gần đây, đặc biệt trong vài tháng gần đây, hầu hết các nhà sản
xuất đều cung cấp một số công cụ hoặc mật mã để người sử dụng có thể truy cập vào
bootloader của mình. HTC và Sony Ericsson đã cung cấp ứng dụng để bẻ khóa
bootloader của họ, ASUS chỉ cung cấp ứng dụng này trên một số phiên bản hạn chế của
hãng. Sony Ericsson, Motorola hứa sẽ trình làng ứng dụng đó trong thời gian sớm nhất,
LG và Samsung hứa sẽ cung cấp các sản phẩm mà bootloader không bị khóa.
Câu hỏi được đặt ra là tại sao bootloader lại bị khóa lại? Có rất nhiều câu trả lời và
câu trả lời đáng chú ý nhất và cũng là giá trị nhất đó chính là để hạn chế dữ liệu trên hệ
thống của người dùng bị hack. Trong hệ thống đó chắc chắn sẽ chứa những dữ liệu nhạy
cảm mà hacker có thể lợi dụng để làm thiệt hại đáng kể cho người dùng.
Chính vì lý do đó mà các nhà sản xuất đã tốn một khoản không nhỏ đầu tư nghiên
cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều ý kiến trái chiều về việc có hay không có
sự cần thiết của việc “lock bootloader”.
2. Ngôn ngữ của Android.
Android chắc chắn cũng sẽ có ngôn ngữ riêng của Android. Một trong đó chính là
Dalvik.
Thực chất, Dalvik không hẳn là một phương tiện lập trình để viết thành ngôn ngữ
của Android. Có thể giải thích một cách cơ bản Dalvik chính là một máy ảo chạy các ứng
dụng được viết bằng Java. Chương trình Java cơ bản sẽ mã hóa những ngôn ngữ lập trình
bằng một số thuật ngữ riêng biệt để tạo ra những tập tin lập trình riêng biệt – bytecode –
sau đó các tập tin này được biên soạn thành một tập tin dex. Chính Dalvik sẽ đọc và xử lý
tập tin này.
Về bản chất, các tập tin của hệ thống

ngôn ngữ lập trình (Java chẳng hạn) được
biến đổi thành các tập tin dex mà các Dalvik
có thể sử dụng (tương tự một số tập tin jar
nếu một người sử dụng tiêu chuẩn Java VM).
Các dữ liệu lập trình chỉ được dịch một lần ra
các tập tin dex, giúp tiết kiệm không gian và
sử dụng đĩa cứng tiết kiệm hơn. Các tập tin
đó có thể được sửa đổi đôi chút khi người
dùng cài đặt một ứng dụng để tối ưu hóa cho
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
điện thoại di động của người dùng. VM Dalvik được viết dành riêng cho Android sử
dụng.
Dalvik là một phiên bản tối ưu hóa
của một Java Virtual Machine, được xây
dựng từ dự án Apache Harmony, Dalvik là
một phiên bản mã nguồn mở để chạy tốt
hơn so với một tiêu chuẩn Java VM trên
phần cứng hạn chế của một hệ thống nào
đó. Dalvik cũng được thiết kế để sử dụng
như một máy chủ đa nhiệm tại một thời
điểm nhất định nào đó. Điều thú vị là
Dalvik là một phần mềm mã nguồn mở, có
thể được sử dụng trên các hệ điều hành
khác, nó được sử dụng trên các dòng
BlackBerry PlayBook.
3. Hacking – Root.
Đối với hacking trong Android Central là vấn đề truy cập vào phần mềm (hoặc
phần cứng) và thay đổi mọi thứ cho đến khi chúng phù hợp với sở thích của cá nhân. Đó

chính là ý nghĩa đầu tiên của cụm từ Hacking khi nó mới ra đời.
Android hacking bao gồm nhiều thành phần, từ việc nhỏ nhặt nhất, thú vị nhất
như: thay đổi biểu tượng, trạng thái và màu sắc của các biểu tượng,… cho tới những
thành phần đồ sộ như: xây dựng tùy chỉnh AOSP ROMs,… Hầu hết thời gian cài đặt và
sử dụng các công cụ hack này sẽ yêu cầu người dùng xác nhận thông tin, nếu như người
dùng xâm nhập quá sâu vào hệ thống, việc yêu cầu xác nhận lại thông tin từ nhà sản xuất
là khó tránh khỏi. Điều đó là cần thiết để bảo vệ người dùng khỏi sự tấn công của hacker
mũ đen.
4. Kernel
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1
Đề Tài: Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành ANDROID.
Nói chính xác thì Kernel chính là nhân của hệ điều hành Android, nó chỉ dành
riêng cho Android. Những hệ điều hành khác cũng có nhân của riêng nó, iOS, MacOS
hay Windows. BlackBerry cũng có một kernel của riêng nó.
Android là hệ điều hành sử dụng nhân Linux, nhưng không phải chính là nhân để
chạy hệ điều hành Linux của các thiết bị chạy Linux. Có rất nhiều mã lập trình của
Android sử dụng rất riêng so với hệ thống Linux, ví dụ như kernel của Google’s Android
sử dụng có chế độ làm việc riêng của nó. Hệ thống lập trình OEMs là ngôn ngữ chủ đạo
để viết nên hệ thống cho Kernel, bởi vì nó là phương tiện dùng để lập trình các hệ thống
driver cho các phần cứng khác cho các phiên bản khác nhau của Android Kernel. Điều
quan trọng của Kernel là kiểm soát và điều khiển phần cứng, hiểu một cách đơn giản,
Kernel chính là một mối nối và là “thông dịch viên” giữa phần cứng và phần mềm.
Khi phần mềm cần phần cứng làm một việc gì đó, nó sẽ gửi yêu cần tới bộ vi xử lý
và nó sẽ nói “các người dùng nói bất cứ cái gì, chúng tôi sẽ đáp ứng cái đó”. Từ trình
điều khiển độ sáng màn hình, mức âm lượng, hiệu suất tốc độ của thiết bị, điều khiển
xung nhịp CPU. Ngay cả việc di chuyển con trỏ chuột hay ngón tay lướt trên màn hình
cảm ứng… tất cả đều được kiểm soát bởi kernel.
Giảng Viên: Nguyễn Thị Hữu Phương
1

×