Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

văn hóa việt nam dưới sự lãnh đạo của đảng 1986 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.86 KB, 72 trang )

Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ TÂM

VĂN HÓA VIỆT NAM DƢỚI SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG (1986-2006)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng

HÀ NỘI - 2012
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD - GDQP


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

Nguyễn Thị Tâm

VĂN HÓA VIỆT NAM DƢỚI SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG (1986-2006)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


Chuyên ngành: Lịch sử Đảng

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
GV: Trần Thị Chiên

Hà Nội - 2012

Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD - GDQP


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô Trần Thị Chiên người đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và truyền đạt kinh nghiệm cho em trong suốt
thời gian qua để em hoàn thành tốt khóa luận của mình.
Em xinh bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong trường ĐHSP Hà
Nội 2 ; đặc biệt là các thầy cô trong khoa GDCT đã tạo điều kiện giúp
đỡ em hoàn thành khóa luận của mình.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do điều kiện hạn hẹp về
thời gian và do sự hạn chế về kinh tế của bản thân nên khóa luận của em
không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong được sự chỉ bảo,
đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn để khóa luận này được
hoàn thiên hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 2012
SV thực hiện
Nguyễn Thị Tâm


Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD - GDQP


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan những vấn đề trình bày trong khóa luận là của
riêng em, có tham khảo ý kiến của những người đi trước, tham khảo các
tài liệu có liên quan, dưới sự hướng dẫn của cô Trần Thị Chiên.
Khóa luận không sao chép từ một tài liệu, một công trình sẵn có.
Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 2012

SV thực hiện
Nguyễn Thị Tâm

Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD - GDQP


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .........................................3
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................4
5. Bố cục .................................................................................................4
NỘI DUNG .................................................................................................... 5

Chƣơng 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH NỀN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận .......................................................................................... 5
1.1.1. Một số khái niệm về văn hóa ............................................................... 5
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mac - Lênin về văn hóa .............................. 11
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa ............................................. 14
1.2. Văn hóa Việt Nam trƣớc đổi mới ........................................................ 20
1.2.1. Truyền thống văn hóa Việt Nam ......................................................... 20
1.2.2. Thực trạng văn hóa Việt Nam trước thời kỳ đổi mới .......................... 26

Chƣơng 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VĂN HÓA Ở VIỆT
NAM (1986 - 2006) ............................................................................... 34
2.1. Chủ trƣơng của Đảng về xây dựng văn hóa ở Việt Nam (1986 - 2006)
2.2. Thành tựu và hạn chế ........................................................................... 46
2.2.1. Thành tựu ............................................................................................. 46
2.2.2. Hạn chế ................................................................................................. 54
2.3. Giải pháp xây dựng văn hóa ở Việt Nam ............................................ 58

KẾT LUẬN ........................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 66

Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD - GDQP


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước. Trong suốt khoảng thời gian dài ấy, ông cha ta đã phải đấu tranh với
biết bao kẻ thù xâm lược từ giặc phương Bắc cho đến giặc phương Tây.
Những cuộc đấu tranh vĩ đại ấy không chỉ nhằm giành lại độc lập tự do cho
dân tộc Việt Nam mà hơn cả, đó còn là quá trình ông cha ta đấu tranh để giữ
vững bản sắc văn hóa của con người Việt Nam.
Mỗi một quốc gia dân tộc có một đời sống sinh hoạt cộng đồng riêng
nên bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia dân tộc ấy cũng khác nhau. Nhưng tựu
chung lại tất cả đều có một điểm xuất phát chung: văn hóa là cội nguồn dân
tộc.
Không phải ngẫu nhiên mà Đảng, Bác Hồ kính yêu của chúng ta lại xếp
văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội. Bởi văn hóa chính là đời
sống tinh thần của một xã hội.
Ngày nay đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối,
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ra sức xây dựng, kiến thiết lại nước nhà.
Trong công cuộc xây dựng kiến thiết ấy, chúng ta không chỉ coi trọng xây
dựng kinh tế, chính trị mà phải chú trọng xây dựng và phát triển một nền văn
hóa mới khoa học, tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc.
Chúng ta biết rằng, hoạt động của con người vô cùng phong phú, đa
dạng trong đó có hoạt động sản xuất vật chất và hoạt động sản xuất tinh thần.
Nếu hoạt động sản xuất vật chất là tiền đề để tạo ra của cải nuôi sống con
người trong xã hội thì hoạt động sản xuất tinh thần lại là điều kiện để cho mỗi
cá nhân và xã hội có thể phát triển toàn diện và bền vững. Văn hóa bao trùm
mọi mặt của đời sống xã hội. Nó xuất hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP


1


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

sống như văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị, văn hóa trong ứng xử
và văn hóa trong đời sống.
Trong tiến trình phát triển của dân tộc ta để hình thành được một lối
sống văn hóa nói chung, theo các chuẩn mực xã hội là một vấn đề vô cùng
quan trọng mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Nó liên quan đến cả sự tăng
trưởng kinh tế, bản sắc văn hóa dân tộc và các quan điểm xã hội. Chính vì thế
mà Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng việc xây dựng và phát triển một nền
văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc mình, đồng thời nền văn hóa đó phải là sự
kế thừa được những tinh hoa văn hóa nhân loại.
Nói đến văn hóa là nói đến con người. Và xây dựng nền văn hóa là xây
dựng cái nôi thứ hai, môi trường thứ hai, trong cái nôi ấy mọi mặt của đời
sống con người được nuôi dưỡng và phát triển. Con người được xem như đối
tượng của văn hóa và con người đóng vai trò vừa là khách thể vừa là chủ thể
của văn hóa ấy. Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng ta là sự kết
hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa lý luận Mác xít về văn hóa với các thành tựu
lý luận của các ngành khoa học nhân văn để lý giải những vấn đề phức tạp
của văn hóa. Như vậy, việc xây dựng một nền văn hóa mới phù hợp với yêu
cầu của thực tiễn đất nước và phù hợp với nền văn minh nhân loại là vô cùng
cần thiết.
Với ý nghĩa trên, tôi lựa chọn đề tài: “Văn hóa Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng (1986 - 2006)”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Hiện nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
về vấn đề văn hóa như:
Công trình nghiên cứu của:
- GS. Hoàng Trinh “về Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn
hóa”.
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

2


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

- PGS. Trường Lưu, “Văn hóa - một số vấn đề lý luận”.
- GS. Trần quốc Vượng, suy nghĩ đôi điều về văn hóa Việt Nam, tạp chí
Dân tộc học, số 1980, tr 12-18.
- Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới , Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
Mỗi một tác giả, một nhà nghiên cứu có một cách xem xét khác nhau
về văn hóa. Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đều đi sâu nghiên cứu
các cách tiếp cận văn hóa như thế nào, những phong tục văn hóa riêng của
dân tộc. Nhưng chưa đưa ra được nhiều khái niệm về văn hóa, các bài viết
cũng chưa đề cập sâu đến những chủ trương, quan điểm của Đảng ta về văn
hóa.
Nội dung khóa luận tuy chưa được xem như một tác phẩm hoàn chỉnh
và bao quát được mọi khía cạnh của văn hóa nhưng nó cũng có đóng góp một
phần vào việc nghiên cứu quan điểm chủ trương của Đảng ta về văn hóa.
Điểm mới của bài khóa luận là đã đưa ra được nhiều định nghĩa, khái niệm
khác nhau về văn hóa. Đồng thời đi sâu vào phân tích chủ trương của Đảng ta

về xây dựng một nền văn hóa mới trong giai đoạn 1986 - 2006.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Khóa luận tốt nghiệp góp phần tìm hiểu về chủ trương xây dựng văn
hóa Việt Nam của Đảng, cũng như biện pháp của Đảng trong xây dựng một
nền văn hóa mới.
Ngoài ra khóa luận còn giúp mỗi người chúng ta hiểu thêm về những
nét đẹp, những giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Khóa luận có nhiệm vụ tìm hiểu rõ các khái niệm, quan điểm văn hóa,
đường lối xây dựng văn hóa của Đảng.

Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

3


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Đưa ra được những giải pháp để xây dựng một lối sống mới, một nền
văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin, của nhà nước ta về
văn hóa đời sống, các văn kiện của Đảng, các Nghị quyết của các Hội nghị
của Đảng bàn về văn hóa, quan điểm văn hóa của Hồ Chí Minh, những tác
phẩm nghiên cứu về văn hóa của các tác giả trong nước...
4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí minh.
- Phương pháp khác
+ Phương pháp lịch sử cụ thể
+ Phương pháp lôgic kết hợp với các phương pháp phân tích tổng hợp
+ Phương pháp so sánh đối chiếu
5. Bố cục
Ngoài phần mục lục, kết luận , tài liệu tham khảo bố cục khóa luận gồm
2 chương; 5 tiết.
Chương 1: Cơ sở hình thành nền văn hóa ở Việt Nam
Chương 2: Đảng lãnh đạo xây dựng văn hóa ở Việt Nam

Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

4


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
NỘI DUNG
Chƣơng 1

CƠ SỞ HÌNH THÀNH NỀN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm về văn hóa
Chúng ta biết rằng định nghĩa về văn hóa luôn có sự phát triển. Theo
thống kê của hai nhà Văn hóa học người Mỹ Côrobo và Cơlackhon tính đến
năm 1950 đã có 164 định nghĩa văn hóa. Theo nhà xã hội học người Pháp
Moles, đến năm 1967 có 250 định nghĩa. Đến năm 1994 theo Phan Ngọc nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam tổng kết có 400 định nghĩa văn hóa. Như

vậy chúng ta thấy rằng văn hóa là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn và được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Văn hóa được coi là một lĩnh vực xã hội rộng lớn. Nói đến lịch sử phát
triển của xã hội loài người. Có thể nói văn hóa là cái cần thiết và vốn có của
mỗi con người. Cũng như mọi vấn đề khác trong tự nhiên, trong xã hội và
trong tư duy, nhận thức văn hóa cũng có lịch sử riêng của mình.
Nếu như văn hóa tách khỏi sự phát triển của lịch sử thì văn hóa như con
tàu lướt đi mà không tìm được phương hướng. Muốn hiểu được văn hóa
chúng ta phải hiểu được tính toàn vẹn của lịch sử. Trên thế giới nói chung và
ở Việt Nam nói riêng đã có những khái niệm và những quan điểm khác nhau
về văn hóa. Mỗi một quan điểm lại cho chúng ta hiểu biết khác nhau về văn
hóa.
Có ba mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành khái niệm văn hóa, diễn ra
giữa ranh giới của thời kỳ trung cổ và thời kỳ Tư bản chủ nghĩa ra đời. Một
là, sự thắng lợi của giai cấp phong kiến, chủ nô. Bọn tăng nữ và bọn giáo hội
kéo theo sự phá hủy của những quan hệ cũ, truyền thống cũ và lối sống cũ.
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

5


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Hai là, sự sáng tạo của văn hóa trong thời kỳ Phục hưng một nền văn hóa
mang tính nhân văn sâu sắc. Thứ ba, đó là thế kỷ của những cuộc cách mạng,
giải phóng con người khỏi những ràng buộc của thế giới thần thánh. Chúng ta
biết rằng văn hóa là thế giới của con người, do quá trình lao động con người
sáng tạo ra và văn hóa làm cho cuộc sống của con người tốt đẹp hơn.

Ngay từ thế kỷ XVII khái niệm về văn hóa được tiếp cận như một thuật
ngữ khoa học. Pufendorf - nhà nghiên cứu pháp luật người Đức là người đầu
tiên đưa ra thuật ngữ văn hóa vào khoa học. Ông coi “văn hóa là tất cả những
gì độc lập với tự nhiên”. Quan điểm này hiểu văn hóa quá rộng.
Sau Pufendorf thì Hender cho rằng “văn hóa là sự hình thành lần thứ
hai của con người”. Ông cho rằng lần 1 con người xuất hiện như một thực thể
tự nhiên, lần hai con người hình thành như một thực thể xã hội, tức là văn hóa
được hiểu theo một nghĩa toàn vẹn.
Đây là một quan điểm tiêu biểu nhất của thời kỳ này, nó đánh dấu cho
việc con người bằng văn hóa của mình đã vạch ra đường ranh giới tách mình
khỏi các hình thức khác của vật chất, tách con người khỏi thế giới động vật;
nó đánh dấu việc chuyển từ tư duy tôn giáo sang tư duy trí tuệ, khắc phục
những hạn chế trong quan điểm trung cổ về con người. Bằng khả năng sáng
tạo của mình con người đã dựng lên một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân
tộc mình, mang những giá trị nhân văn cao quý.
Đến thế kỷ XIX thuật ngữ văn hóa được các nhà Nhân loại học phương
Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa thế
giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp đến trình độ cao nhất. Bởi vì theo họ,
bản chất của văn hóa hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành
văn minh, đại biểu là E.B Taylor. Theo ông, văn hóa là toàn bộ phức thể bao
gồm hiểu biết tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, phong tục, những khả năng và

Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

6


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên trong xã
hội.
Cùng với Taylor, học thuyết văn hóa giữ một địa vị khá quan trọng
trong hệ thống triết học của E.Căng, Hêghen và các nhà triết học Đức đều có
quan điểm duy tâm về văn hóa và coi nhẹ cơ sở vật chất của văn hóa. Nếu
như E.Căng quan niệm văn hóa là sự phát triển sự bộc lộ các khả năng, sức
mạnh, các năng lực thiên nhiên ở con người, thì Hêghen lại đồng nhất văn hóa
với giáo dục.
Các nhà khai sáng Pháp cũng quan tâm đến văn hóa. Vônte cho rằng xã
hội là văn minh, là sự phát triển của các ngành nghề. Rút Xô quan niệm văn
hóa là một hiện tượng trong xã hội và chỉ ra rằng tư hữu là nguồn gốc về sự
đồi bại của đạo đức. Trong xã hội phương Tây hiện đại, khái niệm văn hóa
được phát triển ngày càng đa dạng, phong phú. Sự phát triển đó mang đến cho
chúng ta những hiểu biết khác nhau về văn hóa.
Sang thế kỷ XX khái niệm văn hóa có sự thay đổi. Theo F.Bao ý nghĩa
văn hóa được quyết định do khung giải thích riêng chứ không phải là bắt
nguồn từ cái cao siêu. Vì thế, sự khác nhau về mặt văn hóa của từng dân tộc
cũng không phải theo trí lực, đó là một tương đối lực của văn hóa. Văn hóa
không thể xét ở mức độ thấp cao mà nó được xét ở sự khác biệt giữa các nền
văn hóa khác nhau. Và mức độ khác biệt của văn hóa tùy thuộc vào lịch sử
phát triển của từng dân tộc.
Chúng ta biết rằng lịch sử phương Tây từ cổ đại đến hiện đại đều tồn
tại rất nhiều quan niệm văn hóa khác nhau. Ở phương Đông khái niệm văn
hóa cũng được xây dựng và bổ sung theo tiến trình lịch sử.
Ở Trung Quốc khái niệm văn hóa xuất hiện rất sớm. Từ xa xưa dưới
thời nhà Chu đã xuất hiện từ “văn” và “hóa”. Trong Chu Dịch có câu “ quan
hồ văn dĩ hóa thành thiên hạ” nghĩa là bậc thánh nhân quan sát “dáng vẻ”
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP


7


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

con người để “giáo hóa” thiên hạ. Theo gốc Hán thì “văn” được hiểu là đẹp
(có giá trị), “hóa” là sự biến đổi, chuyển hóa. Như vậy “văn hóa” là tất cả
những gì được chuyển hóa biến đổi thành những cái đẹp đẽ có giá trị. Về sau
văn hóa được dùng với định nghĩa “văn trị giáo hóa” nghĩa là dùng thi, thư,
lễ, nhạc để cải trị thiên hạ. “Văn” được hiểu là cái đẹp, hóa là biến thành cái
đẹp, còn giáo là giáo dục. “Văn trị giáo hóa” là dùng cái đẹp để giáo dục
thiên hạ, để họ cảm nhận được chân lý và tuân theo văn hóa. Văn hóa với hàm
nghĩa “văn trị hóa” được dùng đến tận thế kỷ XIX.
Ngoài ra đến đời Tây Hán, Lưu Tướng - một học giả nổi tiếng lúc bấy
giờ được xem là người đầu tiên dùng thuật ngữ văn hóa ở Trung Quốc. Ông
nói: “Bậc thánh nhân trị thiên hạ trước hết dùng văn đức rồi sau mới đến vũ
lực. Phàm dùng vũ lực để đối phó với kẻ bất phục tùng, dùng văn hóa không
thay đổi được thì mới chinh phạt”. Câu nói này của ông cho chúng ta hiểu
được một điều rằng văn hóa là cái vô cùng quan trọng nó có tác dụng bình
thiên hạ, đem lại cuộc sống thái bình cho con người hướng đến những cái đẹp,
cao quý chứ không phải là sự sát phạt lẫn nhau.
Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, khái niệm văn hóa được xuất hiện vào
thế kỷ XVII. Theo gốc từ Latinh (cultura) bao hàm nghĩa là cày cấy, trồng
trọt, nuôi dưỡng, chăm sóc. Lúc đầu là chăm sóc vun trồng cây cối, sau phát
triển thành chăm sóc vun trồng con người - tức là giáo dục.
Chúng ta cũng biết nhà văn hóa vĩ đại của Ấn Độ là Nêru trong bài
“Văn hóa là gì” (1958) đã cho rằng: Văn hóa phải chăng là sự phát triển nội
tại của một con người, một dân tộc, văn hóa phải làm cho dân tộc đó như thế

nào và ngược lại.
Mỗi một người, một nhà nghiên cứu trong những giai đoạn lịch sử khác
nhau lại đưa ra một quan điểm riêng về văn hóa. Và các quan điểm trên không
ngừng phát triển từ thấp đến cao, nó cho thấy văn hóa là một khái niệm rộng,
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

8


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

đa nghĩa, nhưng theo nghĩa chung nhất “văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và tích lũy trong quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường
tự nhiên và xã hội ” [11, tr. 10].
Năm 1977 Unesco đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa
là yếu tố cơ bản cho sức sống của một dân tộc, từ những hoạt động sáng tạo
của nhân dân đến sức sống tổng hợp của xã hội, phương thức sản xuất và sở
hữu, những của cải vật chất, những hình thái tổ chức, những tín ngưỡng và
những đau khổ của con người, những sự nghiệp đang tiến hành những giá trị,
những ước mơ khát vọng” [8, tr. 30].
Đến năm 1882 Unesco phê chuẩn định nghĩa văn hóa như sau: “Trong
ý nghĩa riêng nhất văn hóa hiện nay có thể coi là tổng thể những nét riêng
biệt, tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc, quyết định tính chất của một xã
hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và
văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống các giá trị tập tục và tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả
năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những

sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính có óc phê phán và dấn thân một cách
đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người biết tự thể hiện, ý thức được bản
thân, tự biết mình là phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những
thành tựu của bản thân mình, tìm tòi không biết mệt mỏi những ý nghĩa mới
mẻ và sáng tạo nên những công trình sáng tạo vượt trội lên bản thân” [ 14, tr.
5-6].
Tại hội nghị quốc tế Mêhico do Unesco chủ trì họp ngày 26/7 đến ngày
6/8 năm 1983 người ta đưa ra 200 định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Theo định nghĩa văn hóa của tổng thư ký UNESCO Federico Mayor:
“Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của cá nhân và cộng
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

9


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã
hình thành nên hệ thống các giá trị truyền thống và thị hiếu - những yếu tố
xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”[ 15, tr. 23].
Quan điểm văn hóa của các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam trong
dòng chảy chung của lịch sử nhân loại cũng dần được hình thành. Tiêu biểu là
quan điểm của Đào Duy Anh một nhà nghiên cứu văn hóa. Trong tác phẩm
“Việt Nam văn hóa sử cương” (1938), ông quan niệm văn hóa là sinh hoạt,
của mỗi dân tộc khác nhau do đó đời sống tinh thần của họ khác nhau, sinh
hoạt là tiêu chí để thấy sự khác nhau giữa các dân tộc.
Nhà chính trị đồng thời cũng là nhà văn hóa của Việt Nam - Phạm Văn
Đồng trong tác phẩm “Văn hóa và đổi mới” đưa ra định nghĩa: “Nói một cách

đơn giản và theo nghĩa rộng thì văn hóa là tất cả những gì không phải của tự
nhiên mà là tất cả những gì ở trong con người và do con người làm ra” [ 5,
tr. 7] . Như vậy, chúng ta hiểu được rằng văn hóa là của con người, do con
người tạo ra và chính con người là chủ thể văn hóa.
Mỗi một nhà nghiên cứu văn hóa lại có sự hiểu biết khác nhau về văn
hóa và họ cũng đưa ra được những định nghĩa khác nhau về lĩnh vực văn hóa.
Do sự phức tạp như vậy nên dù thuật ngữ văn hóa có được dùng nhiều trong
đời sống, song một số trường hợp lại có sự hiểu biết thiếu chính xác. Chúng ta
nhiều khi lẫn lộn với học vấn, lối sống, văn minh, văn hiến. Thật ra đây chỉ là
những phần, những bộ phận của văn hóa. Trong khi nghiên cứu về mặt lý
thuyết của văn hóa và về quá trình xây dựng phát triển văn hóa việc chúng ta
nên sử dụng định nghĩa nào phải xuất phát từ nhưng yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể.
Nói tóm lại, khi nhắc đến văn hóa là nói đến con người. Đây được coi
là chủ thể của mọi nền văn hóa. Việc hiểu về bản chất cũng như khái niệm
văn hóa là sự phát huy sức mạnh bản chất của con người. Do đó khái niệm
văn hóa chứa đựng cả tính nhân văn. Nói đến văn hóa là nói đến nhân văn, nó
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

10


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

được coi như thước đo, chuẩn mực quan trọng để xác định được mức độ và
tầm cỡ của một nền văn hóa. Một nền văn hóa cao là nền văn hóa mang đậm
tính nhân văn, nhân bản cao cả và nó được xem như cái đích mà mọi nền văn
hóa cần hướng đến. Trải qua một quá trình tìm hiểu, cũng như phân tích các
quan điểm văn hóa từ phương Đông, phương Tây, quan điểm văn hóa của

Unesco và Việt Nam ta có thể nêu ra một định nghĩa về văn hóa như sau:
“Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khi bàn về vấn đề văn
hóa cũng đưa ra quan điểm của mình về văn hóa.
Theo C. Mác, văn hóa là sự phát triển. Tất cả các thuộc tính của con
người khi tham gia vào các hoạt động xã hội và sức sản xuất của xã hội đó
cũng có thể coi như con người có mặt trong mọi thuộc tính và mối liên hệ
với tự nhiên và xã hội. Vì vậy mà mọi nhu cầu của con người về văn hóa có
thế phong phú hơn - tức là sức sản xuất của con người được coi như là sản
phẩm toàn vẹn của xã hội. Và văn hóa là một đối tượng “phi tự nhiên” để
phân biệt với thế giới của các đồ vật tồn tại một cách tự nhiên.
Trong tác phẩm “Bộ tư bản”, Mác đã dùng những nguyên tắc của mình
để phân tích văn hóa, bởi chúng ta đã biết sản phẩm văn hóa cũng là hàng
hóa, nhưng là “hàng hóa đặc biệt”. Ở đây, lao động sáng tạo ra văn hóa,
chúng ta không nên lý giải văn hóa bằng bất cứ một kết quả nào đang tồn tại
theo kinh nghiệm của lao động. Cái chính của lao động không phải là sức
mạnh thuần túy của sản xuất mà chính là sức mạnh của xã hội - sản xuất, lao
động trở thành nguồn gốc và thực thể của văn hóa. Như vậy, chúng ta thấy
được rằng lao động là nguồn gốc, là động lực để con người sáng tạo ra văn
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

11


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


hóa. Nếu không có lao động chúng ta sẽ không làm nên được những sản phẩm
vật chất cũng như tinh thần có giá trị cho dân tộc và cho nhân loại.
Quan điểm văn hóa của học thuyết Mác tiếp nhận các yếu tố hợp lý
trong quan điểm văn hóa của loài người, các ông xem xét sự vận động của giá
trị văn hóa với sự vận động của phương thức sản xuất và của đấu tranh giai
cấp, tìm nguyên nhân kinh tế xã hội làm cho con người bị tha hóa, giải phóng
và phát triển những năng lực bản chất của con người. Xuất phát từ quan điểm
duy vật biện chứng, C.Mác và Ăngghen đã đưa ra khái niệm về văn hóa. Theo
cách tiếp cận này, văn hóa là sản phẩm sáng tạo của con người. Nó bao gồm
hai lĩnh vực văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Hai lĩnh vực này có quan
hệ biện chứng với nhau, sự phân tích như vậy chỉ có ý nghĩa tương đối. Văn
hóa phải là sản phẩm của của một quá trình lịch sử xã hội, do đó nó là một
hiện tượng lịch sử xã hội. Văn hóa là biểu hiện của sự phát triển xã hội trong
từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Khi nghiên cứu quy luật phát triển của xã hội loài người chủ nghĩa
Mác-Lênin đã khái quát các loại hình hoạt động của xã hội thành hai hoạt
động cơ bản là sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Theo nghĩa rộng, văn
hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Văn hóa tinh thần là
tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh
thần và hoạt động tinh thần của con người. Như vậy, nói đến văn hóa là nói
đến con người, phát huy năng lực thuộc bản chất con người nhằm hoàn thiện
con người, hoàn thiện xã hội. Do vậy, văn hóa có mặt trong mọi hoạt động
của con người dù đó là hoạt động trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội trong
tư tưởng tinh thần.
Đến quan niệm của V.I. Lênin chúng ta thấy rằng Người đã đưa ra
được những quan điểm văn hóa khá rộng và bao quát. Theo V.I. Lênin, ở đâu
có hoạt động của con người là ở đó có văn hóa; phạm vi của văn hóa không
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP


12


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

chỉ là văn hóa tinh thần mà còn là văn hóa vật chất. Ông coi văn hóa là
phương tiện quan trọng nhất trong tất cả các loại hình hoạt động của con
người và là kết quả của mọi quá trình hoạt động.
Khi chính quyền Xô Viết ra đời, Lênin đã bàn đến hai nội dung về văn
hóa.
Thứ nhất của văn hóa đó là cách mạng văn hóa trong trí tuệ, trong ý
thức của quần chúng. Người khẳng định được rằng văn hóa và sản phẩm của
văn hóa là của nhân dân chứ không phải là cho nhân dân. Đây được xem là
một quan điểm mới mẻ khơi dậy tiềm năng sáng tạo của hàng chục triệu
người. Lênin viết: “Chủ nghĩa xã hội được xây dựng không phải là mệnh lệnh
từ trên. Tinh thần của nó xa lạ với bộ máy nhà nước quan liêu, chủ nghĩa xã
hội sinh động, sáng tạo tức là sáng tạo của chính quần chúng”[12, tr. 464] .
Thứ hai theo Lênin, xây dựng văn hóa cách mạng cầm phải có “chất
liệu văn hóa và chất liệu con người”. Điều này trước đây bị xã hội cũ và chủ
nghĩa Tư bản lãng quên.
Hai nội dung về văn hóa mà Lênin nêu ra đã cho chúng ta thấy được
tầm quan trọng của một nền văn hóa. Chỉ có văn hóa mới có khả năng đưa đất
nước phát triển đi lên theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp. Điều
kiện vật chất của mỗi xã hội và mỗi giai cấp khác nhau nhất là của giai cấp
thống trị là yếu tố quyêt định hình thành các nền văn hóa khác nhau. Nền văn
hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được hình thành
và phát triển trên cơ sở kinh tế, chính trị của mọi thời kỳ lịch sử, trong đó ý

thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và quyết định
hệ thống chính sách, pháp luật quản lý của các hoạt động văn hóa.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra quan điểm toàn diện về văn
hóa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng. Vận dụng quan điểm văn hóa
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

13


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta mới xây dựng được một nền văn hóa
tiên tiến mang đậm bản sắc dân tộc.
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng vĩ đại, một nhà văn, nhà thơ
lỗi lạc của dân tộc. Toàn bộ di sản tư tưởng mà Người để lại là một kho báu
của dân tộc Việt Nam ta. Trong đó , tư tưởng của người về văn hóa chiếm một
vị trí hết sức quan trọng. Đây là một hệ thống lý luận mang tính khoa học và
cách mạng về văn hóa và xây dựng văn hóa ở Việt Nam. Tư tưởng văn hóa
của Người được chắt lọc từ những giá trị văn hóa phương Đông và văn hóa
phương Tây, giữa truyền thống và hiện đại, kết hợp giữa văn hóa dân tộc và
quốc tế.
Có thể nói, văn hóa có ý nghĩa vô cùng quan trọng và vai trò to lớn.
Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến
thiết rồi văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển. Văn hóa phải
là động lực của sự phát triển xã hội; phát triển kinh tế văn hóa phải là động
lực của sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế văn hóa phải soi đường cho
quốc dân đi. Chúng ta thấy được rằng, văn hóa được xây dựng và bồi đắp lên

trong suốt chiều dài lịch sử, nó làm nên nền tảng tinh thần của một xã hội giữ
vai trò quan trọng vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội. Người luôn luôn đề cập đến phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
đó là giá trị bền vững tinh hoa của cộng đồng dân tộc Việt Nam được hun đúc
qua hàng ngàn năm lịch sử. Trong nhà tù Quảng Tây (Trung Quốc) Hồ Chí
Minh là một nhà Mácxit đầu tiên đã đưa ra một định nghĩa ở cấp độ khái quát
về ý nghĩa của văn hóa: “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống loài
người mới sáng tạo - và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

14


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [7, tr. 431] .
Định nghĩa văn hóa của Người bao chứa trong đó nhiều nội dung. Văn
hóa là sự phát triển tự thân và tất yếu, mang tính xã hội cao, do nhu cầu tồn tại
của con người; văn hóa là phương thức hoạt động và không ngừng nâng cao
và không ngừng nâng cao phương thức đó theo tiến trình của xã hội. Trong
cái chung về phương thức hoạt động có cái riêng về công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày. Người luôn quan niệm văn hóa phải phục vụ phát triển kinh tế và
hoạt động chính trị, văn hóa phải lấy hạnh phúc, cuộc sống ấm no tự do của
con người làm cơ sở hành động. Tư tưởng của Người về văn hóa nhằm giải

phóng con người, giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng dân tộc. Hồ Chí
Minh quan niệm văn hóa phải mang tính dân tộc và hiện đại, nó luôn được bổ
sung phát triển trên cơ sở thực tiễn và tiến hóa theo quy luật vận động và phát
triển của lịch sử và của đời sống. Trong đó phải coi trọng văn hóa truyền
thống và giao lưu văn hóa.
Định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh vạch ra cho chúng ta thấy những
quan điểm cơ bản về văn hóa dân tộc được hun đúc, kết tinh trong suốt chiều
dài lịch sử, trong việc ứng xử xã hội và môi trường tự nhiên trong cuộc đấu
tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc, từ đó hình thành các chuẩn mực về lối sống
tư duy của dân tộc Việt Nam. Văn hóa dân tộc trở thành nền tảng của sự nối
tiếp, kế thừa giữa các thế hệ người trong việc khẳng định sự tồn tại của chính
dân tộc mình.
Văn hóa do con người sáng tạo ra nhưng khi được hình thành nó đi vào
mọi mặt của đời sống xã hội góp phần chi phối lề lối, thói quen phong tục tập
quán, tín ngưỡng trong sự phát triển xã hội. Có thể nói, văn hóa là linh hồn
sống, là khí huyết, là sự kết tinh hội tụ những giá trị chân chính và là nội lực
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

15


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

sức mạnh của dân tộc. Ngoài ra văn hóa còn có tác dụng cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới, xây dựng con người mới toàn diện. Văn hóa là yếu tố tinh
thần của đời sống xã hội, là mục tiêu động lực của sự phát triển kinh tế xã hội,
phục vụ sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định văn hóa là một mặt trận căn bản của xã hội.

Người chỉ rõ công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cần phải chú ý đến,
phải coi trọng ngang nhau: chính trị, văn hóa, xã hội. Bác cho rằng “Văn hóa
là một trong những mục tiêu nhiệm vụ xây dựng con người mới, xã hội mới”
(văn kiện Đại Hội Đảng lần V, Ban chấp hành Trung Ương khóa VIII).
Theo Người, văn hóa mới phải phát triển toàn diện con người vừa
hồng vừa chuyên trong thời đại mới, trở thành mục tiêu của sự phát triển xã
hội. Hồ Chí Minh cũng quan niệm văn hóa mới là đào tạo được con người
mới, là giáo dục đạo lý làm người, xây dựng con người mới trong thời đại
mới.
Hồ Chí Minh sau khi nhìn rõ đặc điểm bản chất của văn hóa đã phác
họa con đường phát triển văn hóa cách mạng của dân tộc mình. Xây dựng văn
hóa là “xây dựng tâm lý”, “xây dựng luân lý” và “xây dựng xã hội”, “xây
dựng chính trị”, Xây dựng kinh tế”. Điều đó có nghĩa là nhân tố văn hóa chi
phối mọi lĩnh vực của đời sống, hay nói cách khác, bất cứ lĩnh vực nào của
đời sống cũng chịu sự chi phối của tinh thần văn hóa, cách mạng.
Sau cách mạng tháng 8/1945 Hồ Chí Minh đã nhìn vào văn hóa dưới
nhiều cấp độ xoay quanh cái trục “dân tộc” và „Mácxit”. Người cho rằng văn
hóa phải đứng trong kinh tế và chính trị, phải liên lạc mật thiết với chính trị,
phải lấy hạnh phúc của đồng bào làm cơ sở hoạt động. Tức là văn hóa là tư
tưởng là phạm trù sinh đôi mà chính trị là mặt trực tiếp của tư tưởng. Văn hóa
thực hiện đường lối chính trị theo đặc thù của mỗi lĩnh vực và tác động vào

Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

16


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


đời sống kinh tế, vì lợi ích của nhân dân, giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội và giải phóng con người.
Tiếp theo, đó là văn hóa phải soi đường cho quốc dân, phải đi sâu vào
tâm lý quốc dân và gắn bó với thực tiễn cuộc sống của nhân dân. Hoàn cảnh
lịch sử của dân tộc đã tạo ra được những cộng đồng người với những thế
mạnh và những thế yếu với nhiều kiểu xu hướng, nguyện vọng, trình độ, thì
hiếu và phương thức sống. Tùy theo mỗi đối tượng, mỗi một tầng lớp văn hóa
mới tạo được biện pháp mở mang, hướng con người đến ý thức, hoài bão về
con đường đi tới tương lai của dân tộc do Đảng lãnh đạo.
Văn hóa nghệ thuật theo Người là một lĩnh vực kinh tế, có nhiều đặc
thù mà các lĩnh vực khác không có. Người nghệ sĩ phải tỏ rõ vai trò chiến sĩ
trên mặt trận văn hóa, phản ánh đúng hiện thực, phải có đấu tranh và xây
dựng. Sáng tạo văn hóa phải mang lại một đời sống thẩm mĩ lành mạnh, trong
sáng và vui tươi.
Một nền văn hóa sâu sắc theo Người đó là nền văn hóa phải có ý thức
khoan dung và theo phương châm “trồng người”. “Mỗi một con người đều có
phần tốt bên trong, nếu biết khơi dậy và hướng đường đúng đắn sẽ làm cái
tốt nảy nở đẩy lùi cái ác cái xấu. Dùng người như dùng gỗ, tùy theo cây
thẳng, cây cong mà sử dụng vào việc thích hợp. Khoan dung và chân thành
đúng mực, khen hay chê, chấp nhận hay từ chối đều từ thiện tâm, từ lợi ích.
Trồng người phải có phương pháp chăm sóc, bồi dưỡng phát huy để tạo ra
những công dân hữu ích” [8, tr. 41 - 42].
Một nền văn hóa được coi là dân tộc, hiện đại, phát triển theo quy luật
tiến hóa, phải hết sức coi trọng những giá trị truyền thống và ý thức giao lưu
với các nền văn hóa thế giới. Truyền thống văn hóa được coi là tinh hoa văn
hóa của một dân tộc, nó được thử thách qua thời gian và trở thành di sản văn
hóa. Giao lưu văn hóa với bên ngoài phải xuất phát từ vị thế của dân tộc, bản
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP


17


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

lĩnh và đặc điểm vốn có của văn hóa dân tộc mình. Đó là vừa tiếp thu, vừa kế
thừa đóng góp phần một phần quan trọng vào kho tàng trí tuệ của loài người.
Văn hóa được hiểu theo nhiều ý nghĩa khác nhau nhưng theo Hồ Chí Minh
quan niệm một nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng đó là một nền văn hóa
“dân tộc, khoa học và đại chúng”.
Tính dân tộc của nền văn hóa theo Người đó là phải “lột tả cho hết tinh
thần dân tộc” đó là chủ nghĩa yêu nước, đoàn kết, tinh thần tự lực, tự cường
dân tộc. Người cũng cho rằng nếu dân tộc hóa mà phát triển đến cực điểm thì
tức là đến chỗ thế giới hóa nó, vì lúc bấy giờ văn hóa thế giới sẽ chú ý đến
văn hóa của mình và văn hóa của mình sẽ chiếm địa vị ngang với nền văn hóa
thế giới. Nền văn hóa của dân tộc ta không chỉ thể hiện ở chỗ biết kế thừa,
phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc mà nó phải phù hợp với điều kiện
mới của đất nước. Một nền văn hóa khoa học không chỉ hiện đại, phù hợp với
thời đại mà hơn nữa nó đòi hỏi nền văn hóa phải biết chống lại những gì phản
khoa học, không hợp với thời đại và đi ngược lại tư tưởng văn hóa của chủ
nghĩa Mác - xít. Chúng ta biết tư tưởng của Hồ Chí Minh cũng bắt nguồn từ
tư tưởng văn hoá của chủ nghĩa Mác-Lênin. Hồ Chí Minh cũng quan niệm
văn hóa phải phục vụ đại đa số quần chúng nhân dân. Vì nhân dân là trụ cột
đất nước và cũng là lực lượng duy nhất sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội
và tạo ra những giá trị tinh thần phục vụ chính cuộc sống của mình. Không có
quần chúng nhân dân nền văn hóa không thể có và phát triển được.
Trong tư tưởng văn hóa của Hồ Chí Minh văn hóa được chia ra thành
một số lĩnh vực cụ thể như văn hóa giáo dục, văn hóa văn nghệ và văn hóa

đời sống. Trong mỗi lĩnh vực Người lại đưa ra được những quan điểm khác
nhau về văn hóa.
Thứ nhất, về văn hóa giáo dục, Người phê phán một nền giáo dục
phong kiến, và nền giáo dục thực dân làm cho dân tộc ta không phát triển đi
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

18


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

lên đó là một nền văn hóa xa rời thực tế. Người cho rằng việc xây dựng một
nền giáo dục của nước Việt Nam mới phải là một nhiệm vụ cấp thiết, có ý
nghĩa chiến lược và lâu dài. Nền giáo dục đó sẽ làm cho dân tộc ta trở nên
dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt
Nam độc lập . Hồ Chí Minh đưa ra được một quan điểm phong phú và hoàn
chỉnh về xây dựng một nền văn hóa phát triển, góp phần quan trọng vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, Người cho rằng văn hóa văn
nghệ cũng là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí
sắc bén trong đấu tranh cách mạng. Văn nghệ phải tham gia vào công cuộc
xây dựng chế độ mới, con người mới, chiến thắng nghèo nàn lạc hậu. Tiếp
theo văn nghệ phải gắn với đời sống nhân dân. Vì thực tiễn đời sống nhân dân
vô cùng phong phú và đa dạng con người luôn phải sản xuất, chiến đấu, sinh
hoạt và xây dựng đời sống mới. Văn nghệ sĩ phải dựa vào đời sống nhân dân
mà sáng tác. Hồ Chí Minh yêu cầu văn nghệ sĩ phải “thật hòa mình vào cuộc
sống” “liên hệ đi sâu vào đời sống của nhân dân”. Người cũng cho rằng sáng
tác văn nghệ phải viết được những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại

của đất nước và dân tộc.
Thứ ba, lĩnh vực văn hóa đời sống là một trong nững bộ phận không
thể thiếu trong tổng bộ nền văn hóa đất nước. Văn hóa là tinh thần của xã hội,
tuy nhiên nó không phải là cái gì cao siêu trừu tượng mà văn hóa đời sống
được thể hiện ngay trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ
thấy. Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến việc xây dựng đời sống mới cho nhân
dân. Đó là một đời sống tiến bộ, hiện đại, nhưng vẫn giữ được bản sắc dân
tộc.
Khi nói về văn hóa dân tộc mình Hồ Chí Minh luôn xem văn hóa là
một hiện tượng lịch sử. Nó có nguồn gốc từ chính nền sản xuất vật chất, kinh
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

19


Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

tế, xã hội và phục vụ cho nền sản xuất xã hội đó. Nền văn hóa nước ta có
truyền thống lâu đời, mang đậm bản sắc dân tộc, một nền văn hóa kiên định
theo tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác-Lênin và được xem là mục tiêu
động lực của sự phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, quan điểm văn hóa của Hồ Chí Minh được nêu ở trên hết sức
đáng đắn và nhất quán, văn hóa theo Người đưa ra bao gồm nhiều cấp độ
khác nhau, nhiều luận điểm tiến bộ phù hợp với dân tộc ta. Hồ Chí Minh đã đi
sâu vào bản chất của nền văn hóa được xây dựng, đó là nền văn hóa tiên tiến
dưới ánh sáng của Đảng soi đường. Tư tưởng của Bác đã vượt qua ranh giới
đạo đức thông thường để trở thành một chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.
Văn hóa theo quan điểm của Người vừa thiết thực lại vô cùng dễ hiểu, không

trau chuốt cầu kỳ mà lại đậm chất dân tộc. Ai khi đọc lên cũng thấy dễ dàng
tiếp cận và cảm nhận. Có thể nói, văn hóa của Hồ Chí Minh là tiêu biểu nhất
cho nền văn hóa của cả dân tộc Việt Nam ta.
1.2. Văn hóa Việt Nam trƣớc đổi mới
1.2.1. Truyền thống văn hóa của Việt Nam
Trước hết, để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam
chúng ta đi tìm hiểu thế nào là truyền thống văn hóa.
Ta biết rằng “truyền” tức là để lại, truyền lại; “thống” là hệ thống cơ
cấu. Vậy „truyền thống” là hệ thống những giá trị tinh thần và vật chất, hữu
hình và vô hình, những phong tục tập quán, thói quen, hành vi, việc làm thuộc
lao động, lối sống, tổ chức của một dân tộc, một xã hội. Nó được tích lũy từ
đời này sang đời khác và được truyền lại cho nhau trong cùng một thời đại,
một thế hệ, tức là những người cùng thời và những người thuộc các thế hệ
sau, các thế hệ tương lai.
Chúng ta biết rằng mỗi một dân tộc trong quá trình tồn tại và phát triển
của mình đều có một lối sống được thừa hưởng từ những người đi trước, của
Nguyễn Thị Tâm - K34 sp GDCD – GDQP

20


×