Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

vận dụng tư tưởng hồ chí minh về cán bộ vào xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tình hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.07 KB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

PHAN DUY VĨNH

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
VÀO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH HÀ TĨNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học

Hà Nội – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

PHAN DUY VĨNH

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
VÀO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH HÀ TĨNH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lại Quốc Khánh


Hà Nội – 2013

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi . Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung
thực. Kết quả nghiên c ứu của luận văn không trùng với các
công trình khác.

Tác giả luận văn

Phan Duy Vĩnh

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của luận văn
7. Kết cấu của luận văn
CHƢƠNG 1. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở
TỈNH HÀ TĨNH - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
1.1. Khái niệm

1.1.1. Cán bộ
1.1.2. Đội ngũ cán bộ
1.1.3. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
1.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh
1.2.1. Khái quát tình hình kinh tế, xã hội địa phương
1.2.2. Ưu điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh
1.2.3. Hạn chế của đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở ở Hà Tĩnh
1.3. Những vấn đề đặt ra đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh
1.3.1. Năng lực lãnh đạo và trình độ quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đang là vấn đề cần quan tâm.
1.3.2. Suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là nguy cơ cận kề nhất làm mất niềm tin của
nhân dân đối với sự lãnh đạo của đảng, quản lý của nhà nước ở cơ sở.
1.3.3.Phương pháp và tác phong lãnh đạo của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở đang là lực cản cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Hà Tĩnh.
1.3.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn thiếu
một chiến lược tổng thể và lộ trình thực hiện
1.3.5. Chính sách cán bộ cơ sở nói chung và cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở nói riêng đang còn nhiều bất cập.
1.3.6. Đào tạo cán bộ và tạo nguồn cán bộ chủ chốt lâu dài đang
là thách thức hiện nay ở cơ sở
4

Trang
1
1
3
5

5
6
6
6
7
7
7
8
9
12
12
16
21
26
26
27

29

30
32
33


CHƢƠNG 2. VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
VỀ CÁN BỘ VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP TRONG XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH HÀ TĨNH
2.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn của người cán bộ
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tài năng của người cán bộ

2.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp lãnh đạo và
phong cách công tác của người cán bộ cách mạng.
2.1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề sử dụng cán bộ.
2.1.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh với chính sách động viên đãi ngộ
cán bộ
2.1.6. Tư tưởng Hồ Chí Minh với việc huấn luyện, đào tạo cán bộ
2.1.7. Đổi mới cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.2. Mục tiêu, phƣơng hƣớng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở Hà Tĩnh
2.2.1. Mục tiêu
2.2.2. Phương hướng
2.3. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lƣợng công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh theo tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh
2.3.1. Xác định tiêu chuẩn chức danh cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
trong giai đoạn mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.3.2. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở
2.3.3. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
2.3.4. Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy chế, quy trình về
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
2.3.5. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, quản lý
và bảo vệ đội ngũ cán chủ chốt cấp cơ sở
2.3.6. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ
xã, phường, thị trấn, nhất là đối với cán bộ chủ chốt
2.3.7. Kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ
quan tham mưu làm công tác tổ chức, cán bộ
5


37

37
37
44
46
57
61
62
67
68
68
70
72

72
78
81
83
87
89
91


2.3.8. Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, nâng cao phảm
chất chính trị, đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở nói riêng; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác
2.3.9. Xây dựng phong cách, phương pháp công tác của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói đi đôi với làm, lý thuyết kết hợp với thực

hành sáng tạo; dân chủ, gần dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

6

93

95

103
105


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ có vai trò, vị trí đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta và là khâu then chốt trong
công tác xây dựng Đảng. Sau 27 năm thực hiện Đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Song, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, sự nghiệp Đổi mới của nước ta
đang đứng trước những nguy cơ và thách thức mới không thể xem thường.
Nhiệm vụ trong thời kỳ mới rất nặng nề, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được
một đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp có đủ tiêu chuẩn, đáp ứng được với yêu
cầu, nhiệm vụ chính trị, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp Đổi mới đất
nước. Trong đó, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vai trò hết sức quan
trọng. Đội ngũ này giữ vị trí đặc biệt trong hệ thống chính trị, là cầu nối trực
tiếp nhất giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Là cấp lãnh đạo cuối cùng, trực
tiếp đối mặt và giải quyết những vấn đề cụ thể nảy sinh trong hoạt động thực
tiễn ở cơ sở. Đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước có đi

vào cuộc sống của người dân hay không, điều đó phụ thuộc rất lớn vào vai trò
và năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Lênin từng nói: “Trong
lịch sử chưa hề có giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào
tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên
phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [52, tr.473].
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú
trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hoàn thành sự
nghiệp vẻ vang của Đảng và của dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ có
ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Người từng khẳng
định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại
cũng do cán bộ tốt hay kém, có cán bộ tốt việc gì cũng xong”. Cán bộ là một
trong những khâu quan trọng quyết định sự thành hay bại của cách mạng, gắn
liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, và vì thế công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, xây
1


dựng nhà nước. Chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, thực tế trên phạm vi cả nước và trong
từng địa phương đang đặt ra nhiều vấn đề mới, cần được tiếp tục nghiên cứu
cụ thể, những đòi hỏi về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, nhất là
cấp cơ sở ngày càng trở nên bức thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Do
những tác động ngày càng mạnh mẽ của mặt trái kinh tế thị trường dẫn đến
tình trạng “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những
đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái
về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự
phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy
theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện,
vô nguyên tắc...” [15, tr.1]. Mặt khác, một bộ phận cán bộ lãnh đạo các cấp
vẫn còn mắc bệnh độc đoán, chuyên quyền, thiếu khoa học, thiếu dân chủ;

cán bộ chủ chốt cấp cơ sở thì xa dân, cửa quyền, hách dịch vv..làm cho hoạt
động của bộ máy công quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị kém hiệu
quả, những “điểm nóng” ở cơ sở ngày càng nhiều hơn, phức tạp hơn, đặt ra
những vấn đề lớn về công tác cán bộ nói chung và cán bộ chủ chốt các cấp nói
riêng, trong đó cấp cơ sở có vai trò cốt yếu.
Do vậy, việc nghiên cứu, tổng kết, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ
cán bộ, từ đó rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, đồng thời vận dụng
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ để đề xuất với lãnh đạo tỉnh Hà
Tĩnh một số giải pháp chủ yếu trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở hiện nay, đây vừa là một yêu cầu rất quan trọng, đồng thời là
một việc làm có ý nghĩa thiết thực và cấp bách của cơ quan tham mưu về
công tác cán bộ các cấp ở Hà Tĩnh hiện nay.
Xuất phát từ suy nghĩ trên, tôi chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về cán bộ vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên
ngành Chính trị học.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí minh về cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề quan
trọng, thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu trong nước. Đã
có nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Có những công trình đi vào
nghiên cứu toàn bộ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ, có những công trình chỉ đi vào nghiên cứu một hay một số nội dung trong
công tác cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Các công trình nghiên cứu của
các tác giả được công bố dưới dạng chuyên đề, luận văn thạc sỹ, các bài đăng
trên các sách, báo, tạp chí, kỷ yếu, hội thảo khoa học. Đó là nguồn tư liệu quý
báu giúp tôi kế thừa trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện đề tài của mình.

Ví dụ như:
* Công trình nghiên cứu tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ:
- Đặng Xuân Kỳ (chủ nhiệm đề tài): Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ,
chuyên đề khoa học cấp nhà nước KX 02.
- Bùi Đình Phong: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002.
- Kỷ yếu hội thảo khoa học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công
tác cán bộ, do Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức
gồm hàng trăm bài nghiên cứu, đề cập nhiều khía cạnh trong công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh…
- Luận văn thạc sỹ: Nguyễn Thị Lương Uyên: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về cán bộ với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
* Công trình nghiên cứu về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán
bộ ở nước ta hiện nay.
- Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên): Luận cứ khoa
học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
3


- Trần Huy Sáng (1999), Xây dựng đội ngũ CB, CC QLNN về kinh tế ở
các huyện (qua thực tế các huyện ngoại thành Hà Nội), Luận án Tiến sĩ khoa
học Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;
- Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương, Xây dựng đội ngũ CB, CC
của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, Tạp chí Cộng sản
điện tử, số 22;
- Trương Thị Thông (chủ biên): Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp

huyện biên giới phía Bắc trong tình hình hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà
Nội, 2001.
Một số luận văn thạc sĩ và nhiều bài báo của nhiều nhà nghiên cứu
đăng trên các tạp chí khoa học theo chủ đề Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
và công tác cán bộ như:
- Cầm Bá Tiến: Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước
về kinh tế cấp tỉnh trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thanh
Hoá, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, Hà Nội, 2000.
- Lê Thị Thủy: Vấn đề cán bộ trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc của
Hồ Chí Minh, Tạp chí Lý luận chính trị & truyền thông - Số tháng 3-2009.
- Phạm Dũng: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức ở Tiền Giang, Tạp chí xây dựng Đảng - số 4 - 2008.
- Phạm Xuân Cát: Hiệu quả và chất lượng lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh,
thành phố, Tạp chí xây dựng Đảng - số 7 - 2006.
Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu phân tích tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ và công tác cán bộ dưới nhiều góc độ khác nhau, như vấn đề
rèn luyện đạo đức, năng lực của cán bộ, một số nội dung quan trọng của tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ, đổi mới phong
cách cán bộ, vv.. song có thể nói chưa có công trình khoa học nào đi sâu
nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào việc xây dựng đội
4


ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở nước ta hiện nay, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở tại tỉnh Hà Tĩnh một cách có hệ thống. Vì vậy, trên cơ sở
kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã được công bố, tôi mong muốn
được góp phần cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc nâng cao chất
lượng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà
Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ vào thực
tiễn Hà Tĩnh để nhận thức thực trạng và đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những quan điểm của Đảng, tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí
Minh về cán bộ và công tác cán bộ,
- Phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở ở tỉnh Hà
Tĩnh trong thời gian qua.
- Vận dụng tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian trước mắt và lâu dài.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh
từ năm 2005 đến nay và tầm nhìn đến 2020.

5


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, lý luận chính trị học mác-xít về cán bộ
trong sự nghiệp cách mạng;
- Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước về các

vấn đề khoa học có liên quan đến đề tài.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp phân
tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, hệ thống - cấu trúc, so sánh, thống kê,
nghiên cứu văn bản v.v. trong nghiên cứu các vấn đề lý thuyết.
- Luận văn sử dụng phương pháp phân tích báo cáo tổng hợp của các
cấp chính quyền, các kết quả nghiên cứu khoa học có liên quan trong nghiên
cứu tình hình thực tế.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần đánh giá thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công tác này từ nay đến năm 2020 theo Tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được chia
làm hai chương, năm tiết.

6


CHƢƠNG 1
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH HÀ TĨNH
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
1.1. Khái niệm công cụ
1.1.1. Cán bộ
“Cán bộ” là khái niệm có nội hàm rộng, có nhiều cách tiếp cận theo
phạm vi, đối tượng nghiên cứu và xung quanh khái niệm này vẫn còn nhiều ý
kiến rất khác nhau. Khái niệm “cán bộ” xuất hiện khá sớm ở nước ta, có học
giả cho rằng “cán bộ” là từ Hán Việt và xuất hiện trong các từ điển Việt
Nam, như Từ điển Bách khoa toàn thư, Đại từ điển Tiếng Việt, v.v…

Trong Từ điển Tiếng Việt, từ “cán bộ” được định nghĩa là: “Người làm
công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước, Đảng, đoàn thể.
Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, tổ chức, phân biệt với
người không có chức vụ”. Cho đến nay, từ “cán bộ” tùy theo tổ chức (đảng,
đoàn thể, hệ thống nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang…) đã được dùng với
rất nhiều nghĩa khác nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm cán bộ ngay từ những ngày đầu
kháng chiến chống Pháp. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người viết:
Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích
cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng
báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng.
Nhiên cứu một số định nghĩa về cán bộ trong các cuốn từ điển và qua ý
kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giúp chúng ta đi đến khẳng định: Cán bộ là
người có chuyên môn nghiệp vụ nhất định, làm việc trong các tổ chức, cơ
quan, đơn vị của hệ thống chính trị; là người giữ chức vụ trong các tổ chức,
cơ quan của hệ thống chính trị.
Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008: “Cán bộ là công dân Việt
Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm
7


kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ
chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp
xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [57, tr.123]..

1.1.2. Đội ngũ cán bộ
- Khái niệm “đội ngũ” được dùng rộng rãi trong các tổ chức như đội
ngũ cán bộ công nhân viên, đội ngũ trí thức, đội ngũ cán bộ khoa học, đội
ngũ y, bác sỹ, vv..Khái niệm đội ngũ xuất phát từ thuật ngữ quân sự, đó là tổ
chức gồm nhiều người tập hợp hành một lực lượng hoàn chỉnh. Như vậy đội
ngũ có thể được hiểu là tập hợp một số người có cùng chức năng, nhiệm vụ
và nghề nghiệp. Các quan niệm về “đội ngũ” tuy có khác nhau nhưng đều
thống nhất ở chỗ: Đội ngũ là tập hợp một số người thành một lực lượng thực
hiện một hay một số chức năng, nhiệm vụ nhất định để đem về kết quả nhất
định nào đó.
Nội hàm “đội ngũ cán bộ” cũng bao hàm nhiều nội dung. Xét về mặt
cấu trúc, có thể quan niệm đội ngũ cán bộ bao hàm hai bộ phận: bộ phận thứ
nhất, gồm những cán bộ được hình thành qua con đường đào tạo tại các
trường; bộ phận thứ hai, gồm những cán bộ được hình thành qua con đường
bầu cử hoặc đề bạt, bổ nhiệm.
Xét về loại hình đội ngũ cán bộ, có thể phân thành các loại:
- Cán bộ Đảng và đoàn thể;
- Cán bộ Nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp);
- Cán bộ kinh tế và quản lý kinh tế;
8


- Cán bộ khoa học - kỹ thuật, văn hoá, giáo dục, y tế, thể thao, xã hội và
cán bộ quản lý thuộc các ngành này;
- Cán bộ lực lượng vũ trang v.v…
Trong xã hội có giai cấp, đội ngũ cán bộ được hình thành theo quan
điểm, mục đích của giai cấp cầm quyền. Ở nước ta, cán bộ phải là người chân
thành, tận tuỵ, vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của
dân tộc.
Cán bộ chủ chốt: Trong mỗi tổ chức đều có người lãnh đạo. Nhiều tổ

chức có tập thể lãnh đạo. Trong tập thể lãnh đạo có người đứng đầu, đó là cán
bộ chủ chốt. Như vậy, cán bộ chủ chốt là người đứng đầu quan trọng nhất, có
tác dụng chi phối chủ yếu mọi hoạt động của một tổ chức.
Khi xác định cán bộ lãnh đạo chủ chốt, cần đặt cán bộ trong một tổ
chức nhất định. Có thể có cán bộ ở tổ chức này, trong mối quan hệ này là cán
bộ chủ chốt, nhưng trong mối quan hệ khác lại không phải là cán bộ chủ chốt.
1.1.3. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Cấp cơ sở là cấp cuối cùng của hệ thống chính trị bốn cấp (Trung ương,
tỉnh, huyện, xã), nó mang đầy đủ đặc trưng của bộ máy quyền lực chính trị
trong hệ thống quyền lực chính trị. Như vậy, có thể hiểu hệ thống chính trị cơ
sở cũng là một bộ phận cấu trúc thượng tầng của xã hội bao gồm: các tổ chức,
các thiết chế hợp pháp có quan hệ về mục đích, chức năng thực hiện quyền
lực chính trị ở cơ sở. Hệ thống chính trị cấp cơ sở bao gồm các tổ chức Đảng,
chính quyền và các đoàn thể nhân dân.
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người lãnh đạo đứng đầu ở cấp xã,
phường, thị trấn (hoặc tương đương), có vị trí quan trọng, có tác dụng làm
nòng cốt chi phối toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định.
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người có chức vụ trọng yếu ở cơ
sở, thực hiện lãnh đạo, tổ chức, điều hành, triển khai các nhiệm vụ ở địa
phương và phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình trước tập thể, trước
nhân dân và trước cấp trên của mình. Cụ thể: Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là
9


những cán bộ giữ chức vụ bao gồm các chức danh: Bí thư đảng uỷ, phó bí thư
đảng uỷ, chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch uỷ ban nhân dân, phó chủ tịch
hội đồng nhân dân, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chính là những người giữ vai trò
nòng cốt, điều hành hoạt động của bộ máy tổ chức cấp cơ sở, nó vừa thể hiện
sự lãnh đạo của Đảng vừa đảm bảo thực hiện quyền lực chính trị của chính

quyền, vừa đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở. Đặc điểm này đòi
hỏi khi đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải gắn liền với việc không ngừng củng cố và
hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở thật sự vững mạnh góp phần vào sự phát
triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vị trí và vai trò quan trọng trong
việc cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng, của chính quyền cấp trên vào
điều kiện cụ thể ở cơ sở, xây dựng kế hoạch, đề ra mục tiêu, phương hướng và
thực hiện các kế hoạch, các mục tiêu đã đặt ra, tổ chức vận động và động viên
nhân dân thực hiện đạt hiệu quả cao nhất. Bởi vậy, các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước có thật sự đi vào cuộc sống hay không, phụ
thuộc rất lớn vào năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong việc
cụ thể hóa các chủ trương, đường lối, chính sách ấy vào đời sống nhân dân và
vận động nhân dân thực thi các chính sách của nhà nước một cách tích cực;
họ cũng là lực lượng tổ chức và động viên nhân dân tăng cường sự đoàn kết
trong nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi tiềm
năng để phát triển kinh tế xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Họ
là những người trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, là cầu nối giữa Đảng với nhân
dân. Đồng thời, chính đội ngũ cán bộ này nắm bắt tâm tư nguyện vọng, mong
muốn của người dân, phản ánh với Đảng với Nhà nước.
Chính vì đứng ở vị trí vừa trực tiếp lãnh đạo nhân dân, vừa là cầu
nối với các cấp lãnh đạo cấp trên, cho nên yêu cầu đòi hỏi đối với đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải vừa nắm chắc về lý luận, chủ trương,
10


đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, và quan trọng là
vận dụng, điều hành nhân dân thực hiện tốt và hiệu quả đường lối chính
sách đó. Nói một cách khác, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải giỏi cả lý luận
và thực tiễn, cho nên yêu cầu đòi hỏi phải vừa có đức, vừa có tài, vừa

“hồng” lại vừa “chuyên”, bất cứ trong hoàn cảnh nào cũng trung thành với
Tổ quốc, với sự nghiệp cách mạng, dám nghĩ, dám làm trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và địa phương.
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc
ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tổ chức nào
có cán bộ chủ chốt giỏi thì tổ chức đó sẽ mạnh, nâng cao được hiệu quả,
chất lượng công tác. Cùng một tổ chức, bộ máy tương tự, cùng một cơ chế,
chính sách giống nhau, nhưng có địa phương kinh tế phát triển rất nhanh,
mọi nhiệm vụ đều thực hiện hoàn thành xuất sắc, có địa phương về kinh tế
xã hội thì trì trệ, mọi nhiệm vụ bê trễ. Điều đó nói lên vai trò quyết định
của cán bộ chủ chốt.
Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn được thể hiện trong
việc định hướng sự phát triển ở cơ sở theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đó là
thực hiện tốt nguyên tắc phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then
chốt. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người quy tụ truyền thống đoàn kết
trong nhân dân, phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Đồng thời,
trong quá trình phát triển kinh tế, họ là những người vận động nhân dân thực
hiện tốt truyền thống của dân tộc: xoá đói giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa đối
với gia đình có công với cách mạng, gia đình chính sách. Đồng thời, trước
những ảnh hưởng không nhỏ của cơ chế thị trường, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
là những người luôn giáo dục bà con cảnh giác với âm mưu diễn biến hoà
bình của kẻ địch. Họ là những người trực tiếp nắm bắt, quản lý dân số trên địa
bàn cho nên có những đóng góp không nhỏ trong việc đấu tranh bài trừ các tệ
nạn xã hội trên địa bàn cơ sở của mình.
11


Tóm lại, xét trên tất cả các phương diện, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có vị
trí và vai trò rất quan trọng trong tổng thể đội ngũ cán bộ, cần được đặc biệt
quan tâm và có chính sách không ngừng xây dựng và phát triển.

1.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh
1.2.1. Khái quát tình hình kinh tế, xã hội địa phương.
Hà Tĩnh là tỉnh thuộc vùng Duyên hải Bắc Trung bộ, phía Bắc giáp tỉnh
Nghệ An, phía Nam giáp Quảng Bình, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây
giáp với nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Hà Tĩnh có Thành phố Hà
Tĩnh, Thị xã Hồng Lĩnh và 10 huyện: Nghi Xuân, Đức Thọ, Hương Sơn,
Hương Khê, Vũ Quang, Can Lộc, Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh.
Diện tích đất tự nhiên 6055,74 km2, chiếm 1,8% diện tích tự nhiên của cả
nước, có 127 km đường Quốc lộ 1A, 87 km đường Hồ Chí Minh và 70km
đường sắt Bắc - Nam chạy dọc theo hướng Bắc Nam, có đường Quốc lộ 8A
chạy sang Lào qua cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo với chiều dài 85 km, Quốc lộ
12 dài 55 km đi từ cảng Vũng Áng qua Quảng Bình đến cửa khẩu Cha Lo
sang Lào và Đông Bắc Thái Lan. Hà Tĩnh có 145 km đường biên giới tiếp
giáp với nước bạn Lào, 137 km bờ biển với nhiều cảng biển, cửa sông và có
41 xã của 8 huyện nằm trong khu vực biên phòng. Đây là điều kiện thuận lợi
cho Hà Tĩnh mở rộng bang giao với các tỉnh của nước bạn Lào và các nước
khác trong khu vực, tăng cường sự hợp tác giao lưu văn hóa, kinh tế, chính trị
góp phần phát triển tỉnh nhà.
Dân số gần 1,3 triệu người, gần bằng 1,7% dân số cả nước. Trong đó, ở
khu vực thành thị là 142.487 người; ở khu vực nông thôn là 1.146.571 người.
Mức tăng dân số tự nhiên: Năm 2005 tỷ lệ tăng tự nhiên là 0,96%, đến năm
2012 là 0,78%. Nguồn nhân lực: Số người trong độ tuổi lao động đến cuối
năm 2012 là 678.000, số người trong độ tuổi lao động thuộc các ngành nghề
kinh tế là 589.000. Lao động bình quân trong khu vực nhà nước theo các
ngành, nghề kinh tế 53.148 người, trong đó có 7200 người do Trung ương
quản lý và 46000 người thuộc địa phương quản lý. Chủ yếu là dân tộc kinh,
12


dân tộc Lào có 163 người, dân tộc Chứt 269 người định cư chủ yếu ở xã

Hương Liên huyện Hương Khê.
Trong những năm qua, Hà Tĩnh đã hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu
phát triển kinh tế-xã hội mà các kỳ Đại hội Đảng đã đề ra. Tốc độ tăng GDP
khá cao, nông nghiệp phát triển vững chắc. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo
hướng công nghiệp hóa, tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Văn hóa xã hội phát triển mạnh, an ninh trật tự được giữ vững. Đời sống nhân
dân được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
bình quân 9,6%, trong đó, công nghiệp xây dựng tăng 18%, nông - lâm - ngư
nghiệp tăng 1,50%, dịch vụ tăng 10,30%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Công nghiệp - xây dựng từ
25,56% (năm 2005) lên 32,4% (năm 2010); nông - lâm - ngư nghiệp từ 43,15%
(năm 2005) xuống còn 35%; thương mại - dịch vụ tăng từ 31,29% (năm 2005)
lên 34,6. Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt 11 triệu đồng.
Hà Tĩnh có bờ biển dài 137 km với nhiều cửa sông lớn, là những ngư
trường lớn để khai thác hải sản. Tiềm năng hải sản ở Hà Tĩnh rất lớn, trữ
lượng cá ước tính 86.000 tấn, khả năng cho phép đánh bắt 54.000 tấn/năm.
Trữ lượng tôm vùng lộng khoảng 500- 600 tấn, trữ lượng mực vùng lộng
3.000- 3.500 tấn. Phương tiện khai thác hải sản chủ yếu, toàn tỉnh có 2270 tàu
thuyền các loại. Chính phủ Việt Nam đã có quy hoạch định hướng xây dựng
cụm cảng Vũng Áng với các cảng tổng hợp và cảng chuyên dùng, phục vụ
công nghiệp cơ khí, luyện cán thép, đóng và sửa chữa tàu thuỷ, hoá dầu và
đặc biệt là để giúp nước bạn Lào xuất, nhập khẩu hàng hoá, mở rộng buôn
bán với các nước. Cầu cảng số I thuộc Cảng Vũng Áng có công suất thiết kết
lượng hàng thông qua 460.000 tấn/năm, hiện đã tiếp nhận tàu hàng rời 30.000
tấn và tàu chuyên dùng 45.000 tấn. Dự án đầu tư giai đoạn II của Cảng đang
được triển khai, sẽ tăng công suất và đảm bảo điều kiện đồng bộ cho Cảng
tiếp nhận được tàu 50.000 tấn. Ở huyện Nghi Xuân phía Bắc Hà Tĩnh có cảng
Xuân Hải, đủ điều kiện tiếp nhận tàu 2.000 tấn.
13



Khoáng sản nằm rải rác ở hầu khắp các huyện trong tỉnh, từ vùng ven
biển đến vùng trung du miền núi. Toàn tỉnh có 91 mỏ và điểm khoáng sản
như: Mỏ sắt Thạch Khê - Thạch Hà có trữ lượng ước tính 544 triệu tấn, đang
xúc tiến đầu tư khai thác; mỏ Titan phân bố dọc bờ biển từ Nghi Xuân đến Kỳ
Anh, trữ lượng khoảng 4,6 triệu tấn (chiếm hơn 1/3 trữ lượng của cả nước).
Đây là các loại khoáng sản có giá trị kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ, giá trị
xuất khẩu hàng năm đạt trên 100 tỷ đồng; mỏ Vàng chủ yếu là dạng sa
khoáng nằm rải rác ở các huyện Hương Sơn, Hương Khê, Kỳ Anh; mỏ nước
khoáng ở Sơn Kim - Hương Sơn; mỏ thiếc ở Hương Sơn, chì, kẽm ở Nghi
Xuân; nguyên liệu gốm sứ, thuỷ tinh có trữ lượng khá lớn nằm rải rác ở các
huyện Hương Khê, Hương Sơn, Can Lộc, Đức Thọ; than nâu, than đá ở
Hương Khê, than bùn ở Đức Thọ có chất lượng cao nhưng trữ lượng hạn chế;
nguyên liệu chịu lửa, gồm có quaczit ở Nghi Xuân, Can Lộc; dolomit ở
Hương Khê; pyrit ở Kỳ Anh; nguyên liệu làm phân bón có photphorit ở
Hương Khê, chất lượng tốt, hiện đang được khai thác; nguyên vật liệu xây
dựng: các loại đá, cát, sỏi có ở khắp các huyện trong tỉnh.
Hà Tĩnh có nguồn nước phong phú nhờ hệ thống sông suối hồ đập khá
dày đặc. Với 266 hồ chứa có tổng dung tích trữ trên 600 triệu m3, với trữ
lượng này hiện tại Hà Tĩnh đã tiến hành xây dựng các nhà máy thuỷ điện như
Ngàn Trươi- Cẩm Trang và phục vụ tưới được 47.737 ha/vụ. Tuy lượng nước
sông khá lớn nhưng việc sử dụng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và sinh
hoạt còn bị hạn chế do bị khô cạn vùng thượng và nhiễm mặn ở hạ lưu.
Hà Tĩnh thuộc vùng du lịch Bắc bộ, tiểu vùng du lịch Nam Bắc bộ gồm
Nghệ An và Hà Tĩnh. Trong chiến lược phát triển chung của cả nước, du lịch
Hà Tĩnh được xác nhận là một điểm quan trọng trên tuyến xuyên Việt có tính
chất trung chuyển. Từ Hà Tĩnh, du khách có thể đi thăm các khu du lịch đặc
sắc về sinh thái, lịch sử văn hoá của Hà Tĩnh như Khu bảo tồn thiên nhiên Vũ
Quang, hồ Kẻ Gỗ, các di tích gắn với cuộc đời của Đại thi hào Nguyễn Du,
14



những di tích gắn với chiến thắng vẻ vang của dân tộc trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước như Ngã ba Đồng Lộc; du khách có thể nghỉ ngơi tại bãi
biển Xuân Thành, Thiên Cầm, Thạch Hải, Đèo Con, khu dưỡng bệnh suối
nước nóng Sơn Kim hay từ Hà Tĩnh du khách có thể đi thăm di tích quê
hương Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thắng cảnh đẹp của Nghệ An, theo đường
biển đi Đồ Sơn, Hạ Long hoặc xuôi vào Phong Nha- Quảng Bình, Huế,
Quảng Nam, Đà Nẵng, Hội An và xa hơn nữa - du khách cũng có thể theo
quốc lộ 8 qua Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo tham quan Lào và các nước khác
trong khu vực ASEAN...
Với những đặc điểm nêu trên, Hà Tĩnh đang đứng trước những cơ hội
rất lớn để đưa tỉnh nhà phát triển giàu mạnh; có điều kiện thuận lợi để hình
thành khu kinh tế mở có sức hấp dẫn mạnh mẽ không chỉ trong phạm vi cả
nước mà còn cả tầm khu vực và quốc tế. Trong quá trình phát triển đô thị và
xây dựng nông thôn mới, Hà Tĩnh phải huy động, sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực: vị trí địa lí, các nguồn lực tự nhiên (địa hình, khí hậu, đất đai,
sông ngòi, sinh vật và khoáng sản); các nguồn lực kinh tế- xã hội (truyền
thống văn hóa, dân cư và nguồn lao động, cơ sở hạ tầng, đường lối, chính
sách, thị trường và vốn đầu tư), ... trong đó, nguồn lực con người là yếu tố
quan trọng và đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp nói chung, cấp cơ sở nói riêng
có ý nghĩa quyết định trong việc sử dụng các nguồn lực vốn có. Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng dạy rằng một khi đã có đường lối cách mạng đúng thì cán bộ
là khâu quyết định. Người viết: “Muốn việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém”, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Vấn đề quan
trọng đối với Hà Tĩnh là phải có được một đội ngũ cán bộ hùng hậu, giỏi
giang, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở để trực tiếp lãnh đạo nhân
dân vượt lên mọi thử thách trong thời gian tới thực hiện cho bằng được các
mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội mà Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XVII và đại
hội đảng các cấp đã đề ra.

15


1.2.2. Ưu điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở ở Hà Tĩnh
Trong những năm qua, thực hiện sự nghiệp đổi mới của Đảng, quán
triệt thực hiện các nghị quyết của Trung ương về công tác xây dựng Đảng,
nhất là các nghị quyết lớn về công tác tổ chức và cán bộ, như Nghị quyết
Trung ương 3 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 3 và Trung ương 7 (khóa
VIII), Nghị quyết TW 6 (lần 2, khóa VIII), Kết luận Hội nghị Trung ương 6
(khóa IX), Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Kết luận 24 của Bộ Chính trị
khóa XI, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đặc biệt quan tâm chăm lo tới việc xây dựng đội
ngũ cán bộ cơ sở, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở để có đủ phẩm
chất, trình độ, năng lực đảm đương nhiệm vụ trước yêu cầu của thời kỳ mới.
Qua điều tra thực tế, tổng số cán bộ chủ chốt gồm các chức danh: Bí
thư, phó bí thư đảng uỷ, chủ tịch hội đồng nhân dân, phó chủ tịch hội đồng
nhân dân, chủ tịch uỷ ban nhân dân, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã,
phường, thị trấn gồm có 1.662 người, trong đó bí thư đảng ủy có 262 đồng
chí, phó bí thư đảng ủy có 271 đồng chí, chủ tịch hội đồng nhân dân có 262
đồng chí, chủ tịch ủy ban nhân dân có 262 đồng chí, phó chủ tịch hội đồng
nhân dân có 349 đồng chí, phó chủ tịch ủy ban nhân dân có 259 đồng chí.
Nhìn chung đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh được rèn
luyện trong thực tiễn, trưởng thành trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc nên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng
của Đảng, luôn có tinh thần gương mẫu, tích cực trong lao động sản xuất,
công tác và học tập, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình với công việc, khắc
phục mọi khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Chất lượng đội
ngũ cán bộ cơ sở ngày càng được cũng cố, trưởng thành và phát triển về cơ
cấu và chất lượng
Về cơ cấu độ tuổi: Cơ cấu độ tuổi cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh
đã được trẻ hóa hơn rất nhiều so với trước, nhưng tuổi bình quân còn khá cao

(47,55 tuổi), trong đó dưới 35 tuổi có 46 đồng chí chiếm 2,7%, 36-45 tuổi có
446 đồng chí, chiếm 26,8%, 46- 55 tuổi có 941 đồng chí chiếm 56,6%, trên 55
16


tuổi có 22 đồng chí, chiếm 13,3%. Cơ cấu độ tuổi cơ bản đảm bảo sự chuyển
tiếp kế thừa và đan xen giữa các thế hệ cán bộ. Độ tuổi bình quân của một số
chức danh cụ thể: Bí thư đảng ủy (xã, phường, thị trấn) 50 tuổi, phó bí thư
đảng ủy 44,9 tuổi, chủ tịch hội đồng nhân dân 50, chủ tịch ủy ban nhân dân
47,9, phó chủ tịch hội đồng nhân dân 47, 2, phó chủ tịch ủy ban nhân dân
45,3. Như vậy so với các khóa trước tuổi bình quân của cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở đã có sự giảm dần từ nhiệm kỳ 2000-2005 (52,2 tuổi), nhiệm kỳ 2005 –
2010 (48,2) đến nay (giữa nhiệm kỳ) 47,55. Tuy nhiện tỷ lệ độ tuổi trẻ (dưới
35 tuổi) của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vẫn còn thấp (chiếm 2,7%)
Qua phân tích cơ cấu độ tuổi có thể thấy rằng: Đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở Hà Tĩnh được rèn luyện và trưởng thành từ thực tiễn nên có nhiều
kinh nghiệm, vốn sống và hiểu biết thực tiễn phong phú. Sự kế thừa, chuyển
tiếp, đan xen giữa các độ tuổi là điều kiện để các thế hệ cán bộ phát huy, bổ
sung cho nhau những mặt mạnh của những độ tuổi trong công tác như khả
năng nhanh nhạy, nhiệt tình, sáng tạo, tiếp thu cái mới (của lớp trẻ) kết hợp
với khả năng bao quát, thận trọng, giàu kinh nghiệm thực tiễn (của lớp tuổi
cao hơn). Đó chính là điều kiện để các thế hệ cán bộ giúp nhau khắc phục
những khuyết điểm, hạn chế trong công tác lãnh đạo, quản lý như bảo thủ,
quan liêu, trì trệ hoặc nóng vội duy ý chí. Với cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở Hà Tĩnh như hiện nay, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và cấp ủy các cấp
cần tiếp tục quan tâm nhiều hơn nữa trong việc xây dựng các cơ chế, chính
sách để khắc phục những khuyết, bất hợp lý trong cơ cấu để từng bước đáp
ứng với yêu cầu công việc trong tình hình mới.
Về cơ cấu giới tính của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (phụ lục 1):
Trên cơ sở dữ liệu, nhìn vào cơ cấu giới tính của các chức danh: Bí thư,

phó bí thư đảng uỷ: Nam 494, chiếm 93,2%; Nữ 36, chiếm 6,8%. Chủ tịch,
phó chủ tịch HĐND, chủ tịch, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân: Nam 833,
chiếm 97,27%; Nữ 37, chiếm 4,2%.
17


Như vậy, nhìn vào tỷ lệ cơ cấu cán bộ, số cán bộ nữ tương đối thấp,
thực tế này phản ánh năng lực, tỷ lệ cán bộ nữ còn thấp, chưa đảm bảo bình
đẳng về giới hiện nay. Điều đó đòi hỏi các cấp lãnh đạo, các ngành cần có chính
sách chăm lo, đầu tư, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ nữ trong tỉnh để có được cơ
cấu cán bộ nữ cân đối hơn.
Về trình độ đào tạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (phụ lục 1):
Trình độ kiến thức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở là một
trong những nội dung phản ánh tiêu chuẩn cán bộ, bao gồm trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật ; trình độ lý luận chính trị; trình độ ngoại
ngữ, tin học, vv..Nhìn chung đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh hầu
hết đã qua các lớp đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ từ trung cấp trở lên và lý
luận chính trị từ sơ cấp trở lên, một số xã phường, thị trấn 100% cán bộ chủ
chốt có trình độ chuyên môn là đại học và trình độ lý luận chính trị là trung
cấp như Thành phố Hà Tĩnh, Thị xã Hồng Lĩnh, huyện Thạch Hà, Cẩm
Xuyên, Vũ Quang, Đức Thọ...Theo số liệu thống kê hiện nay, đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh 100% đã tốt nghiệp phổ thông trung học và
tương đương, 30% đồng chí có trình độ đại học và cao đẳng, 80% đồng chí có
trình độ trung cấp lý luận chính trị, 1,5% đồng chí có trình độ cao cấp lý luận
chính trị ; 100% cán bộ chủ chốt được bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế,
quản lý nhà nước, nghiệp vụ công tác đảng, đoàn thể.
Công tác đào tạo cán bộ cấp cơ sở nói chung và cán bộ chủ chốt nói
riêng, trong những năm gần đây luôn được các cấp uỷ đảng, chính quyền các
cấp chú trọng, trình độ, năng lực về mọi mặt ngày càng được nâng lên góp
phần rất quan trọng tạo nên sự chuyển biến trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá,

xã hội, an ninh, quốc phòng trên phạm vi toàn tỉnh. Những năm gần đây, đội
ngũ cán bộ cơ sở đã trưởng thành về nhiều mặt, thành tựu phát triển kinh tế xã
hội tỉnh Hà Tĩnh những năm vừa qua có sự đóng góp không nhỏ của cán bộ
cơ sở. Nhận thức của cán bộ dần dần được nâng lên, nhất là khi triển khai,
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Cán bộ làm việc sát dân hơn, lắng nghe ý
18


kiến của nhân dân trong việc xây dựng kế hoạch, mục tiêu kinh tế xã hội.
Phương thức và lề lối làm việc theo hướng dân chủ và công khai, xây dựng cơ
sở hạ tầng và các khoản huy động của dân đã được đưa ra để dân cùng bàn
bạc, quyết định, hoạt động của chính quyền đi vào nề nếp, khắc phục dần tình
trạng làm việc tuỳ tiện, cảm tính.
Về phẩm chất chính trị: Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh
có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu và con đường mà Đảng và
Bác Hồ đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đã khắc phục khó khăn, hăng say, nhiệt tình công
tác, cống hiến hết mình vì sự nghiệp xây dựng tỉnh nhà, đưa đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Đại đa số đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở đã giữ gìn được phẩm chất đạo đức cách mạng, có lối
sống lành mạnh chăm lo cho sự nghiệp chung, sống chân thật, gắn bó với
quần chúng nhân dân
Về năng lực tổ chức thực tiễn và cụ thể hoá đường lối của Đảng: Đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh đã biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa
lý luận và thực tiễn, biết xuất phát từ thực tiễn cơ sở của mình để phát triển
kinh tế. Bên cạnh đó, họ là những người trực tiếp triển khai, thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, là những
người gương mẫu, đi đầu thực hiện đường lối của Đảng làm tấm gương cho
nhân dân noi theo.
Về khả năng sáng tạo, quyết đoán, xử lý tình huống: Đa số cán bộ chủ

chốt, cấp cơ sở ở Hà Tĩnh đều không ngừng học hỏi, phấn đấu, vươn lên về
mọi mặt, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, biết
vận dụng sáng tạo thành tựu của khoa học công nghệ vào thực tiễn cuộc sống
nên họ đã có những đóng góp rất to lớn vào công cuộc phát triển kinh tế xã
hội của tỉnh trong những năm vừa qua. Nhờ năng động, sáng tạo, biết suy
nghĩ và chịu khó tìm tòi, tháo gỡ khó khăn, học hỏi kinh nghiệm của tỉnh
khác, biết kịp thời giải quyết mâu thuẫn và xử lý tình huống từ lúc manh nha,
19


×