Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

LUẬN VĂN: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.07 KB, 105 trang )












LUẬN VĂN:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận
dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ,
công chức ở Việt Nam hiện nay










1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng Cộng
sản và Nhà nước Việt Nam xác định là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của mình trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. "Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam" [11, tr.83], trong đó có vấn đề cán bộ. Hồ Chí Minh rất quan


tâm đến công tác cán bộ; Người coi "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc"[43,
tr.269], và "Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém"[43,
tr.240].
Kế thừa tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất coi
trọng công tác cán bộ, luôn quan tâm xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức của mình; coi đó là lực lượng then
chốt bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề xây dựng và phát
triển đội ngũ cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thể hiện rõ trong
nhiều văn kiện của đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) chỉ ra:
"Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình độ chuyên môn và kỹ năng
nghề nghiệp cao vừa giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, công tâm,
vừa có đạo đức liêm khiết khi thi hành công vụ"[10, tr.132]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
3 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII (1997) coi: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng"[16, tr.66]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng (2001) khẳng định:
Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, coi trọng
cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực trong thi
tuyển cán bộ, công chức. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết
là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, về đường lối, chính sách, về kiến thức
và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công
chức theo đúng chức năng, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất

lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu
kém và thoái hóa. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào
tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn [11, tr.135].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) chỉ rõ: "Xây
dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức thực sự là công
bộc của nhân dân" [22, tr.125], và đưa ra giải pháp: "Đổi mới chính sách cán bộ và
công tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ công vụ rõ ràng, minh bạch, đội ngũ cán

bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực gắn với chế độ hưởng thụ thỏa đáng và
công bằng" [22, tr.254]. Đặc biệt Bộ Chính trị khóa IX đã có Nghị quyết số 48-
NQ/TW ngày 24-5-2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 2020; trong đó có chỉ ra "xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước
phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của cải cách hành chính nhà nước" và "ban hành luật
về công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ được làm những
gì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cán
bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ,
công chức".
Những văn kiện đó của Đảng là cơ sở chính trị để Nhà nước thể chế hóa thành
pháp luật cụ thể, đáp ứng được yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
cán bộ, công chức. Để thực hiện các nghị quyết đó của Đảng, Nhà nước đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật như pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 (sửa
đổi năm 2000 và năm 2003) cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành, quyết
định 136/2001/QĐ-TTg ngày 17-9-2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 đến 2010 Những văn
bản này tạo tiền đề pháp lý cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch
vững mạnh, vừa hồng, vừa chuyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ những cơ sở chính trị và pháp lý kể trên, đội ngũ cán bộ, công chức ở nước
ta ngày càng phát triển vững mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất ngày càng

được nâng cao, là công bộc của nhân dân, đáp ứng yêu cầu cơ bản của sự nghiệp đổi
mới đất nước.
Mặc dù vậy, cũng như tình trạng chung của hệ thống pháp luật mà Nghị quyết
48 của Bộ Chính trị đã chỉ ra là: "Nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa
đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống"; các văn bản quy
phạm pháp luật về cán bộ, công chức và hoạt động công vụ trong những năm qua
cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình
trạng "Không ít cán bộ, công chức vừa kém về đạo đức, phẩm chất, vừa yếu về năng

lực, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ" [11, tr.78], rơi vào căn bệnh mà Hồ
Chí Minh đã chỉ ra là "tự tư tự lợi". Do đó cần thiết phải nghiên cứu, luận chứng để
xây dựng, ban hành, tiến tới hoàn thiện hơn pháp luật cán bộ, công chức, tạo cơ sở
pháp lý vững chắc cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức vừa có phẩm chất
đạo đức, vừa có trình độ năng lực, bảo đảm vừa hồng vừa chuyên, thực sự là công
bộc của nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vì những lý do trên, tác giả chọn nội dung "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
và vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay"
làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật, chuyên ngành Lịch sử và Lý luận Nhà nước và Pháp
luật tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ cán
bộ, công chức là đòi hỏi khách quan cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Để bảo đảm
điều đó trước hết phải tạo ra được cơ sở pháp lý bằng cách hoàn thiện chế định pháp
luật cán bộ, công chức; Đảng và Nhà nước ta đã xác định cơ sở chính trị của tiến
trình đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế trong những năm
gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và nghiên
cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức. Liên quan tới nội dung nghiên
cứu của luận văn này có một số công trình sau:

- Tác phẩm "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" do các tác giả
Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), Nhà xuất bản (Nxb) Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Tác phẩm "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ" của tác giả
Bùi Đình Phong, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002.
- Tác phẩm "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức"
các tác giả Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005.

- Luận án tiến sĩ Luật "Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về công chức nhà
nước ở nước ta", tác giả Nguyễn Văn Tâm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 1997.
- Luận văn Thạc sĩ Luật "Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và vận dụng trong
sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam", tác giả Trần Nghị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2002.
- Luận văn Thạc sĩ Luật "Hoàn thiện pháp luật về công chức hành chính nhà
nước ở Việt Nam hiện nay", tác giả Phạm Minh Triết, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 2003.
Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học hoặc nhiều công
trình, luận văn, luận án khác có đề cập ít nhiều tới vấn đề này.
* Đánh giá chung: Các công trình, bài viết khoa học trên đề cập tới vấn đề
hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức hoặc trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ, công chức và đưa ra những giải pháp cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu
gắn kết tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ với việc vận dụng để hoàn thiện pháp luật
cán bộ, công chức ở nước ta.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ; trong đó làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của cán
bộ, tiêu chuẩn cán bộ, việc lựa chọn, huấn luyện và sử dụng cán bộ, chính sách đối
với cán bộ; từ đó làm cơ sở luận giải cho việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay. Bên cạnh đó luận văn
cũng nghiên cứu lý luận chung về cán bộ và tư tưởng cán bộ để làm cơ sở cho việc tiếp
cận tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn là phân tích, làm sáng tỏ những nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ, về tầm quan trọng của cán bộ,
về tiêu chuẩn cán bộ, việc lựa chọn, huấn luyện và sử dụng cán bộ, chính sách đối với

cán bộ, đề xuất quan điểm, giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn thiện
pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.
* Luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Luận giải vấn đề lý luận chung về cán bộ và tư tưởng cán bộ.
- Phân tích, làm rõ nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về cán bộ.
- Làm rõ nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
- Lý giải yêu cầu khách quan của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, về nhà nước và pháp
luật cũng như những quan điểm về vấn đề này trong các văn kiện, nghị quyết của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng mác-xít và các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn trình bày một cách tương đối có hệ thống nguồn gốc ra đời và quá
trình phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ; những nội dung cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ, về tiêu chuẩn cán bộ, về lựa chọn,
huấn luyện và sử dụng cán bộ, về chính sách đối với cán bộ. Thông qua những phân
tích đó, luận văn góp phần khẳng định cùng với lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ đóng vai trò nền tảng trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật cán bộ,
công chức ở nước ta hiện nay.
- Luận văn chỉ ra yêu cầu khách quan của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.

- Luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Từ kết quả mà luận văn đạt được, có thể thấy một số ý nghĩa sau đây:
- Góp phần làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
- Góp phần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ để hoàn thiện pháp luật
cán bộ, công chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

- Có thể sử dụng luận văn làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy về
tư tưởng Hồ Chí Minh, về vấn đề hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta
hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn này, ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, được chia thành 2 chương, 6 tiết.

Chương 1
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ

1.1. Khái niệm và đặc điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
1.1.1. Tư tưởng và tư tưởng về cán bộ
* Khái niệm tư tưởng:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, thì đời sống xã hội có hai loại nhu
cầu cơ bản là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, trong đó lĩnh vực vật chất quyết
định lĩnh vực tinh thần, nhưng lĩnh vực tinh thần có tính độc lập tương đối và tác
động trở lại lĩnh vực vật chất. Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội được gọi là ý
thức xã hội; còn ý thức xã hội bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những tình
cảm, tâm trạng, truyền thống… của cộng đồng xã hội, nó nảy sinh từ chính tồn tại xã
hội và phản ánh sự tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Như thế,
tư tưởng chính là bộ phận của ý thức xã hội. Vậy tư tưởng là gì? Đã có nhiều định

nghĩa về tư tưởng:
+ Theo cuốn Từ điển triết học do Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội ấn hành năm
1957 thì coi tư tưởng là sự phản ánh của hiện thực trong ý thức, là biểu hiện mối
quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh;
+ Theo cuốn Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội ấn hành
năm 1994 thì coi tư tưởng là những quan điểm, ý nghĩ phản ánh thế giới vật chất
trong nhận thức của con người và thể hiện mặt này hay mặt khác của thế giới khách
quan;
+ Theo cuốn Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ
điển học ấn hành năm 2002, thì theo nghĩa hẹp, tư tưởng là suy nghĩ hoặc ý nghĩ;

theo nghĩa rộng thì tư tưởng là những quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối
với hiện thực khách quan và đối với xã hội;
+ Theo cuốn Từ điển triết học do Nhà xuất bản Văn hóa- Thông tin, Hà Nội ấn
hành năm 2002, thì coi tư tưởng là một hình thái phản ánh thế giới xung quanh con người,
tổng hợp các quan niệm, khái niệm thành một thể duy nhất.
Thuật ngữ tư tưởng được bắt nguồn từ tiếng Hy-lạp, idea, có nghĩa là hình
thức.
Về nguồn gốc: Do là bộ phận của ý thức xã hội, nên tư tưởng cũng được xuất
phát từ việc con người tiến hành hoạt động sản xuất vật chất để bảo đảm nhu cầu sinh
tồn của mình, từ đó và sau đó, xã hội mới thường xuyên diễn ra các quá trình sản
xuất tinh thần, đúng như Mác viết: "Con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và
mặc đã, rồi mới có thể làm ra chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo,… được" [32,
tr.500]. ý thức xã hội từ tự phát như tình cảm, mong ước,… dưới tác động trực tiếp
của các điều kiện ấy, được lưu truyền, cùng với nhận thức tăng lên, con người dần
tìm đến quy luật bên trong của tồn tại xã hội, nghiên cứu chiều sâu bản chất của các
mối quan hệ xã hội, để đúc kết thành quan điểm, tư tưởng. Qua đó, cho thấy tư tưởng
là tầm cao của ý thức xã hội, được hình thành một cách tự giác thông qua những hoạt
động thực tiễn của con người. Vì vậy, tư tưởng là sự phản ánh điều kiện vật chất xã
hội đương thời, nhưng cũng có sự kế thừa; nó xâu chuỗi, phân tích, tổng hợp, khái

quát hóa những yếu tố của tâm lý xã hội cùng với kế thừa từ những quan điểm, tư
tưởng có trước.
Về bản chất: Tư tưởng chính là biểu hiện khái quát mang tính lý luận của đời
sống xã hội hiện thực, trong đó điều kiện sinh hoạt vật chất của con người là yếu tố
quyết định. Nó chính là sản phẩm của sự phản ánh hiện thực thông qua lăng kính của
nhà tư tưởng, mà theo Mác, tư tưởng luôn gắn với lợi ích và trong xã hội có giai cấp
thì tư tưởng bao giờ cũng mang tính giai cấp: "Những tư tưởng thống trị của một thời
đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị" [31, tr.625].

Về cấu trúc: Do tư tưởng là sự phản ánh khái quát ở trình độ lý luận đối với
hiện thực xã hội, mà hiện thực rất phong phú, đa dạng, nên tư tưởng cũng có cấu trúc
phản ánh nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Về thực tế: Tư tưởng có vai trò rất to lớn. Do được hình thành một cách tự
giác thông qua các hoạt động thực tiễn, được khái quát hóa mang tầm lý luận nên tư
tưởng có thể trở thành vũ khí sắc bén trong đấu tranh chính trị xã hội giữa các giai
cấp. Theo ăngghen, thực chất của đấu tranh tư tưởng chính là biểu hiện của cuộc đấu
tranh giai cấp: "Tất cả mọi cuộc đấu tranh trong lịch sử, không kể nó diễn ra trên địa
hạt chính trị, tôn giáo, triết học hay trên bất kỳ một địa hạt tư tưởng nào khác- thực ra
chỉ là biểu hiện ít nhiều, rõ rệt của cuộc đấu tranh của các giai cấp trong xã hội" [33,
tr.373].
Như vậy, tư tưởng chính là sự phản ánh khái quát, trừu tượng tồn tại xã hội
của ý thức, trong đó có biểu hiện các lợi ích nhất định, mà khi được hệ thống hóa
thành hệ tư tưởng, nó được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau như chính trị,
tôn giáo, pháp luật, văn hóa,…
Từ những phân tích trên có thể khái quát: Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực khách
quan trong ý thức của con người trên cơ sở nghiên cứu, phân tích khái quát thành lý luận;
nó là sự biểu hiện và phản ánh những lợi ích nhất định.
* Tư tưởng về cán bộ:
Về nguyên tắc, như một lẽ tự nhiên, bất kỳ Nhà nước nào muốn tồn tại và phát
triển được phải tạo dựng cho mình một đội ngũ những con người nhất định trở thành

chủ thể tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước nhằm duy trì sự tồn tại của Nhà nước
mình. Vì thế tất nhiên sẽ hình thành tư tưởng lý luận về những con người đó.
Với Nhà nước XHCN cũng không nằm ngoài quy luật trên. Để bảo đảm cho
sự tồn tại và phát triển của mình, Nhà nước cũng cần một đội ngũ những con người
nhất định là lực lượng tổ chức và thực hiện quyền lực của Nhà nước mình. Đến lượt

mình, đội ngũ những con người ấy phải được hình thành, phát triển trên một nền tảng
cơ sở lý luận nhất định; ấy là tư tưởng về cán bộ.
Như trên đã trình bày, tư tưởng là sự phản ánh một cách khái quát và trừu
tượng tồn tại xã hội của ý thức con người, thông qua những nghiên cứu, phân tích,
tổng hợp của những nhà tư tưởng nhất định. Nếu ta gắn khái niệm tư tưởng với điều
kiện xã hội có phân chia giai cấp, ở đó có Nhà nước, mọi giai cấp và các tầng lớp đều
hướng tới quyền lực nhà nước, thì thấy điều tất yếu là các giai cấp tìm cách hình
thành tư tưởng của mình về vấn đề Nhà nước, trong đó có tư tưởng về những con
người là chủ thể nắm giữ, tổ chức và thực hiện trực tiếp quyền lực nhà nước. Với
Nhà nước XHCN, thì đó là tư tưởng về cán bộ.
Thực tế, tài liệu bàn về cán bộ và công tác cán bộ có khá nhiều. Tuy nhiên lại
chưa có cuốn từ điển hay công trình khoa học pháp lý nào bàn cụ thể khái niệm tư
tưởng về cán bộ. Vậy thực chất của tư tưởng về cán bộ là gì?
ở nước ta, khái niệm cán bộ được hiểu theo nghĩa khá rộng. Trên thực tế thì
cán bộ được coi là những công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan, tổ chức
của hệ thống chính trị, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Từ đó
có thể thấy: "Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị
nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các
quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát
triển của tổ chức" [61, tr.18].
Từ thực tiễn đó, trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và khoa học pháp
lý có thể khái quát: Tư tưởng về cán bộ là nhận thức lý luận về cán bộ và công tác cán
bộ được hình thành bởi các nhà tư tưởng; được thể hiện thành các quan điểm, khái niệm
về cán bộ và công tác cán bộ như vị trí,vai trò của cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, việc huấn

luyện, đào tạo cán bộ, sử dụng, quản lý cán bộ,…
Tư tưởng về cán bộ là bộ phận của ý thức hệ, nên luôn mang tính giai cấp, nó
có vai trò rất quan trọng, là cơ sở chính trị để hình thành trên thực tế những tiêu

chuẩn, những quy định mang tính luật hóa về cán bộ. Tư tưởng về cán bộ sẽ bị lịch
sử bỏ qua nếu không được bổ sung, phát triển một cách kịp thời để đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn; nhưng sự phát triển đó cũng phải luôn mang tính kế thừa.
Các khái niệm tư tưởng và tư tưởng về cán bộ đã đề cập, nghiên cứu kể trên là
cơ sở lý luận để xác định khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
* Tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một chủ đề rộng, một hệ thống lý luận phong phú và
bao quát nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, được hình thành từ khá sớm;
và có thể nói từ năm 1930, bằng việc tổ chức Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh
đã là một nhà tư tưởng kiên định lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên thực tế hơn
70 năm qua Đảng Cộng sản và Nhà nước ta rất coi trọng vận dụng, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng đề cập từ rất sớm và từng bước
bổ sung, hoàn thiện. Trong diễn văn khai mạc Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II
của Đảng (1951), đồng chí Tôn Đức Thắng đã khẳng định: "Đường lối chính trị, nề
nếp làm việc và đạo đức cách mạng của Đảng ta hiện nay là đường lối, tác phong,
đạo đức của Hồ Chủ tịch" [13, tr.9]. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh được đề cập
chính thức tại lễ kỷ niệm 70 năm ngày sinh của Người (19/5/1960), khi ấy đồng chí
Trường Chinh viết: "Nhân dịp này, chúng ta hãy ôn lại tiểu sử và sự nghiệp của Hồ
Chí Minh, tìm hiểu và học tập tư tưởng, đạo đức và tác phong của Người để phục vụ
Đảng, phục vụ nhân dân được tốt hơn" [4, tr.20]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ V của Đảng (1982) xác định: "Đảng phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức
học tập một cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong toàn Đảng" [8, tr.61]. Còn Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ
lên CNXH (1991) xác định: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động" [7, tr.21]. Nhưng phải tới

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh mới
được chính thức làm rõ:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của
nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân,
xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn
dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn
hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về
đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân
ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta [11,
tr.83].
Quan điểm trên của Đảng cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh không đơn giản chỉ
là một tập hợp những ý tưởng hay suy nghĩ cụ thể của Hồ Chí Minh về những sự việc
cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể, mà là một hệ thống, quan niệm về con đường
cách mạng Việt Nam được hình thành trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin; đó
là "sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa, nhân nghĩa
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, được nâng lên tầm
cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin" [23, tr.19].


Tư tưởng Hồ Chí Minh có vị trí hết sức quan trọng đối với tiến trình cách
mạng Việt Nam, trở thành ngọn cờ chỉ lối thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong
hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Nó mãi
mãi soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần
to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Như vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm sâu sắc, toàn
diện về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề cán bộ.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ:
Trước hết cần khẳng định rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là bộ phận
cấu thành hữu cơ của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, nằm trong mối quan hệ sâu
sắc và mật thiết với các vấn đề quan trọng khác thuộc tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự
vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cán bộ vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam, cùng với việc kế thừa tinh hoa truyền thống dân tộc, tạo thành hệ tư
tưởng về cán bộ một cách toàn diện, đặc sắc Hồ Chí Minh.
Để hiểu rõ thế nào là tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, cần thấy rằng Hồ Chí
Minh rất coi trọng vai trò của con người, đặc biệt là người cán bộ. Người từng nói: "Con
người là vốn quý nhất, là lực lượng to lớn nhất"

[48, tr.310], và Người luôn coi "Cán bộ
là gốc của mọi công việc" [43, tr.269], "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do
cán bộ tốt hoặc kém"

[43, tr.240]. Vì vậy nếu có được đội ngũ cán bộ tốt, ngang tầm
là điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi; từ đó trong hoạt
động cách mạng của mình, tư tưởng về cán bộ của Người được hình thành qua các
công việc cụ thể của thực tiễn, từ việc phát hiện, lựa chọn, đánh giá cán bộ đến việc
dùng cán bộ, từ việc huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đến việc khen thưởng,
phê bình, kỷ luật cán bộ Tất cả những yếu tố đó nằm trong mối liên hệ mật thiết,
đúc kết nên sự hoàn chỉnh, phong phú của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
Ngay từ việc hiểu người cán bộ một cách cụ thể "Là những người đem chính

sách của Đảng, của Chính phủ, giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng

thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt
chính sách cho đúng"

[43, tr.269], Hồ Chí Minh đã tạo ra một sự dễ hiểu, gần gũi về
người cán bộ, nhưng cũng đồng thời đòi hỏi những nét cơ bản nhất về nhân cách,
phẩm chất, năng lực của người cán bộ. Tất cả đã tạo nên một hệ thống lý luận sâu
sắc, toàn diện trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về cán bộ. Từ đó Người đã xây dựng
những luận cứ khoa học để chỉ ra vai trò của người cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, việc
huấn luyện cán bộ cũng như các công việc quan trọng là đánh giá và sử dụng cán bộ.
Và điều quan trọng hơn là ở chỗ tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ nói riêng cũng như
toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người nói chung không chỉ đơn thuần được hình thành
trên một bệ phóng duy nhất là lý luận, mà nó được đúc rút từ thực tiễn, được kiểm
nghiệm qua thực tiễn hoạt động của chính Hồ Chí Minh.
1.1.3. Đặc điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về cán bộ, từ vị trí, vai trò và tầm quan
trọng của cán bộ đến tiêu chuẩn cán bộ; từ việc phát hiện, lựa chọn, đánh giá cán bộ
đến việc sử dụng cán bộ; từ việc huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đến việc đãi
ngộ, kiểm soát cán bộ, … đã hợp thành một hệ thống tư tưởng hoàn chỉnh, mà cốt lõi
nhất là ở việc coi trọng đánh giá đúng vai trò quyết định là "cái gốc của mọi công
việc" của cán bộ; từ đó có kế hoạch chiến lược về hình thành đội ngũ cán bộ vừa có
đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa chuyên, xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh đủ sức
đáp ứng được các yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ lịch sử. Với Hồ Chí Minh
mọi việc trong công tác cán bộ đều cùng nhằm tới hình thành người cán bộ đạt tiêu
chuẩn cả đức, cả tài, xây dựng một đội ngũ cán bộ vững mạnh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ mang đặc trưng rất riêng, có thể nói đó là
đặc sắc Hồ Chí Minh với những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là hệ thống những tư tưởng hết sức
sâu sắc, toàn diện, đầy đủ về các vấn đề cán bộ và công tác cán bộ, đồng thời cũng rất

cụ thể, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện. Người đề cập tới mọi vấn đề cán bộ: từ xếp
rất đúng, đánh giá rất cao vị trí, vai trò và tầm quan trọng của cán bộ, đến việc đề ra

tiêu chuẩn cán bộ một cách toàn diện gồm cả đức, cả tài, cả trình độ tư duy lý luận
đến phương pháp và phong cách làm việc; đồng thời Người lại đặc biệt coi trọng và
đề cao vấn đề sử dụng cán bộ một cách thiết thực ở tất cả các khâu, từ phát hiện,
tuyển chọn cán bộ đến trọng dụng, cất nhắc cán bộ, từ huấn luyện, đào tạo cán bộ đến
kiểm soát cán bộ, Vì vậy mà tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ không chỉ có ý nghĩa
về nhận thức, về lý luận, mà còn có ý nghĩa rất lớn trong chỉ đạo thực tiễn.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ được xây dựng thành hệ thống lý
luận toàn diện và đầy đủ trên cơ sở thực tiễn, bám sát thực tiễn; nó không chỉ dừng
lại ở sự phản ánh bề ngoài một cách giản đơn, mà đi sâu vào bản chất bên trong của
vấn đề, mang tính khái quát cao, có tính lý luận sâu sắc; vì vậy tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ đã vượt qua được những hạn chế về thời gian, luôn mang tính thời
sự.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ có tính dự báo cáo. Nhờ nắm bắt
được bản chất và tính quy luật khách quan của vấn đề nên tư tưởng của Người không
chỉ có ý nghĩa chỉ đạo để giải quyết các công việc về cán bộ và công tác cán bộ cụ
thể đương thời khi Hồ Chí Minh còn sống, mà còn chỉ ra, thích ứng với xu hướng có
tính quy luật của tương lai. Những tư tưởng có tính dự báo đó của Hồ Chí Minh
không phải là dự báo ngẫu nhiên, mà được hình thành trên cơ sở những phân tích lý
luận và thực tiễn sâu sắc nên luôn mang tính khoa học cao. Vì thế tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ đã ra đời cách đây nhiều chục năm, nhưng đến nay vẫn luôn là vấn
đề mới, vấn đề thời sự, mang hơi thở của chính cuộc sống hiện đại; đó vẫn là kim chỉ
nam, là nền tảng tư tưởng cho công tác cán bộ trong tiến trình xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta hiện nay.
Từ những phân tích trên có thể khái quát: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là
hệ thống những quan điểm lý luận toàn diện và sâu sắc về cán bộ và công tác cán bộ
ở nước ta được hình thành trên cơ sở tiếp thu, kế thừa tư tưởng, quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin về cán bộ cách mạng cùng với truyền thống trọng dụng nhân tài

gắn với tiêu chuẩn đạo đức ở Việt Nam được nảy sinh và kiểm nghiệm qua thực tiễn
ở Việt Nam; là cơ sở tư tưởng chỉ đạo công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước ta.

1.2. nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ nói
riêng không phải chỉ là sản phẩm chủ quan trong tư duy lý luận của Người, hay chỉ là
sự thêu dệt để ngợi ca lãnh tụ; mà nó ra đời do đòi hỏi khách quan, đáp ứng yêu cầu
cấp thiết của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trở thành điều tất yếu. Tư tưởng ấy được
hình thành dưới sự tác động và ảnh hưởng của những bối cảnh lịch sử xã hội cụ thể
của dân tộc và của thời đại, của các yếu tố quốc tế lúc Hồ Chí Minh đã sống và hoạt
động. Những điều kiện và những đòi hỏi ấy đã được Hồ Chí Minh nắm bắt một cách
chính xác để qua đó vận dụng vào thực tế cách mạng Việt Nam, và phát triển thành
tư duy lý luận khoa học về cán bộ.
Như vậy, có thể thấy rằng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung chính là sự gặp
gỡ, thâu tóm có chọn lọc giữa tinh hoa, truyền thống dân tộc với trí tuệ thời đại trong
những điều kiện cụ thể trên cơ sở tư duy lý luận và thực tiễn Hồ Chí Minh để tạo ra
hệ tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đặc sắc.
1.2.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
Là nhà cách mạng luôn gắn liền với hoạt động thực tiễn, mà mục tiêu lớn nhất
là độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, Hồ Chí Minh đã sớm đặt câu
hỏi "cách mạng trước hết phải có cái gì?", và Người thấy trước hết phải có một tổ
chức cách mạng gồm những con người tiêu biểu làm đầu tầu để dẫn dắt cách mạng đi
đến thành công, rồi sau này sẽ là những người làm việc trong bộ máy nhà nước, trong
hệ thống chính trị. Những con người đó chính là đội ngũ cán bộ. Vì vậy, vấn đề cán
bộ đã hình thành rất sớm trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trở thành bộ phận quan trọng,
một trong những vấn đề cốt lõi trong tư tưởng của Người. Do đó, có thể khẳng định
rằng nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ cũng chính là các yếu tố
chi phối sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
1.2.1.1. Truyền thống dân tộc, yếu tố quê hương và gia đình


Việt Nam là quốc gia có truyền thống lịch sử lâu đời với nền văn hóa sớm
phát triển, cũng sớm hình thành Nhà nước và pháp luật. Các Nhà nước ở Việt Nam,
nhất là từ thời kỳ độc lập tự chủ thế kỷ XI dưới triều Lý trở đi, vấn đề xây dựng Nhà
nước với nền độc lập tự cường ngày càng được chú trọng. Trong điều kiện ấy, các
Nhà nước của quốc gia Việt Nam phong kiến rất quan tâm tới việc chăm lo xây dựng
đội ngũ quan lại của Nhà nước mình. Dù đội ngũ quan lại ấy được tạo dựng, rèn rũa
để bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến; nhưng do các điều kiện lịch sử cụ
thể và truyền thống của dân tộc Việt Nam, đội ngũ quan lại có nhiều yếu tố mang đặc
điểm gần dân, thân dân, gắn bó với dân, ít có điểm tách biệt, đối lập với dân, mà
thường xuất phát từ dân, có nhiều điều kiện sống trong lòng dân, được dân che chở,
đùm bọc, ủng hộ, nhất là những khi vận mệnh dân tộc nước nhà bị đe dọa, lâm nguy.
Những yếu tố và điều kiện đó làm cho đội ngũ quan lại của các nhà nước phong kiến
Việt Nam bớt đi tính xa dân và quan liêu. Trong đội ngũ ấy còn có nhiều tấm gương
thanh liêm, trong sáng.
Một truyền thống quý báu nữa của dân tộc là sự quý trọng và trọng dụng nhân
tài, luôn coi:
Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh
và hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp kém. Vì thế, các
bậc thánh nhân chẳng ai không coi trọng việc kén chọn kẻ sĩ, bồi dưỡng
nhân tài, vun trồng nguyên khí là công việc cần kíp. Bởi vì kẻ sĩ có quan
hệ trọng đại với quốc gia như thế, cho nên được quý trọng không biết
nhường nào [2, tr.27].
Đối với dân tộc Việt Nam, truyền thống yêu nước có trong mỗi con người nói
chung, cũng như hiện hữu trong đội ngũ quan lại của các Nhà nước phong kiến nói
riêng, nó được hun đúc để trở thành điều cốt lõi trong bản sắc văn hóa Việt Nam.
Tất cả những yếu tố kể trên trở thành truyền thống dân tộc có ảnh hưởng rất
lớn tới tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ. Đó là cơ sở ban đầu hình thành nên tư duy
về một đội ngũ những con người với những tổ chức là lực lượng tiên phong trong đấu

tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước sau này. Đó là tư duy về đội ngũ cán

bộ, công chức mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đối với Hồ Chí Minh, truyền thống dân tộc, đặc biệt là truyền thống yêu nước
đã trở thành động lực lớn thôi thúc Người đi tìm đường cứu nước, là cơ sở ban đầu
để Người đến với và tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng vào thực
tiễn Việt Nam, từ đó hình thành nên tư tưởng về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, trong đó có tư tưởng về cán bộ, như chính Người đã thừa nhận: "Lúc đầu
chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa Cộng sản đã đưa tôi theo
Lênin, tin theo quốc tế thứ Ba" [44, tr.171]
Cùng với truyền thống dân tộc, yếu tố quê hương và gia đình cũng có ảnh
hưởng lớn đến tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
nói riêng. Nơi Hồ Chí Minh sinh ra là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, đã đóng
góp cho đất nước nhiều con người và lãnh tụ kiệt xuất như Nguyễn Biểu, Đặng Dung,
Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu,… Lẽ dĩ nhiên những bậc tiền bối kiệt xuất muốn
phát triển được phong trào, phải chú trọng trước tiên tới vấn đề tổ chức và con người
cho phong trào. Đặc biệt như Phan Bội Châu, đã sớm nghĩ tới nguồn nhân lực lâu bền
cho cách mạng, nên đã tuyển chọn và gửi nhiều thanh niên tiên tiến đi học ở nước
ngoài qua phong trào Đông du. Dù không tán thành con đường và cách đi của Phan
Bội Châu, nhưng phương thức tư duy về công tác tổ chức ấy có ảnh hưởng không
nhỏ tới tư tưởng Hồ Chí Minh về việc gây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ sau này.
Còn gia đình, thân tộc Hồ Chí Minh, đặc biệt tư tưởng của người cha "chủ trương
lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị, xã hội" [23, tr.24], với lòng yêu nước,
thương dân sâu sắc, một nhân cách lớn với phẩm chất và nghị lực phi thường; từ đó,
"Nguyễn Sinh Sắc đã góp phần xây dựng tư tưởng, đạo đức, nhân cách Hồ Chí
Minh." Cái nôi gia đình và thân tộc mẫu mực ấy chính là cơ sở, điểm tựa, là vườn
ươm, bệ phóng cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh sau này. Chính từ nền
tảng đó, khi gặp trào lưu tư tưởng mới, tiến bộ của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin
đã được Hồ Chí Minh thâu tóm, nâng lên tầm cao mới.

1.2.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Cùng với truyền thống dân tộc, yếu tố quê hương và gia đình, tư tưởng Hồ Chí

Minh về cán bộ còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc tinh hoa văn hóa nhân loại.
Hồ Chí Minh đã làm giàu tư tưởng, trí tuệ của mình bằng sự thâu tóm, kế thừa những
di sản tư tưởng quý báu của nhân loại. Đó là sự kế thừa có chọn lọc, phê phán chứ
không phải sự sao chép máy móc; cũng không phải sự phủ định sạch trơn, mà luôn là sự
đánh giá một cách công bằng, khoa học. Như Người đã từng viết: “Học thuyết Khổng
Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là lòng nhân
ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa
Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta” [23,
tr.51].
* Về ảnh hưởng của Nho giáo:
Là học thuyết chính trị- pháp lý chỉ ra phương cách cai trị xã hội, trong đó lấy
đạo đức làm chủ yếu, Nho giáo rất quan tâm tới vấn đề người cai trị, đẩy người cai trị
lên vị trí rất cao, nhưng cũng đòi hỏi người cai trị phải có điều kiện và đáp ứng
những yêu cầu phẩm chất nhất định. Đó là tính thân dân với phẩm chất đạo đức và
phải thường xuyên tu thân, rèn đức, nêu gương tốt; đó là đức nhân và lòng thương
người, đức kính cẩn, khiêm tốn và đức tín với dân. Qua đó, Nho giáo đòi hỏi người
cai trị phải thường xuyên sửa mình, tu thân, rèn đức, không ngừng nâng cao trình độ
qua học tập.
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, được học chữ Hán và tiếp thu
văn hóa Khổng- Mạnh từ niên thiếu, nên đạo đức Nho giáo đã thấm vào tư tưởng,
tình cảm Hồ Chí Minh; nhưng không phải là những giáo điều nhằm bảo vệ tôn ti trật
tự phong kiến, mà là tinh thần nhân nghĩa, nên Hồ Chí Minh nhận rõ những chân giá
trị tích cực cũng như điểm duy tâm, lạc hậu của Nho giáo. Người đề cao những yếu
tố tích cực trong tư tưởng Nho giáo như các mệnh đề nhân nghĩa, trung hiếu, dân vi
quý; từ đó Hồ Chí Minh kết luận: "Học thuyết đức trị của Khổng Tử có ưu điểm là sự
tu dưỡng đạo đức cá nhân" [28, tr.51], và Người cho rằng: "Những người dân An

Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm
của Khổng Tử, và về mặt cách mạng thì đọc các tác phẩm của Lênin" [40, tr.454].
Với Hồ Chí Minh, trong điều kiện chế độ và thời đại mới, thì những tư tưởng

như "Làm chính trị mà dùng đức thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao
khác hướng cả về" [26, tr.38], hay "Giữ mình cho kính cẩn, làm việc thì giản dị" [26,
tr.103] của Nho giáo, người cán bộ cần tiếp thu, học tập. Từ cách nhìn nhận dân vi
quý, tư tưởng Nho giáo không chỉ nói nên mục đích vì dân trong hoạt động của Nhà
nước, mà còn nói lên vai trò, sức mạnh của dân. Thấm nhuần giá trị tiến bộ đó, Hồ
Chí Minh đẩy nó cao hơn với chủ trương "Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng
lợi trên nền nhân dân". Nho giáo mới thấy được sức mạnh của dân mà chưa đi tới dân
là chủ của quyền lực nhà nước, nên đội ngũ quan lại ở vị trí cai trị dân, đứng trên
dân. Hồ Chí Minh trên cơ sở thấy được sức mạnh to lớn của dân, khẳng định dân là
gốc, và xa hơn, dân còn là chủ của quyền lực nhà nước, do đó người cán bộ trong
Nhà nước mới "là người đầy tớ trung thành của nhân dân" [48, tr.663]. Các giá trị của
người quân tử trong Nho giáo đề ra như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng,… được Hồ Chí
Minh vận dụng, kế thừa để bàn về đạo đức và đòi hỏi đạo đức của người cán bộ cách
mạng lên những tầm cao mới như cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,… Từ đó
thấy rằng Hồ Chí Minh đã tiếp thu, sử dụng cái tích cực, phê phán, loại bỏ cái tiêu
cực, đặc biệt là vấn đề đạo đức, như Người chỉ ra: "Đạo đức cũ và đạo đức mới khác
nhau nhiều. Đạo đức cũ như người ngược đầu xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo
đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngẩng lên trời" [44,
tr.320]; từ đó, Hồ Chí Minh đảo lại thế đứng ấy như Mác và ăngghen đã tiếp thu, cải
tạo phép biện chứng duy tâm của Hê-ghen để đặt lại nó trên nền duy vật.
Trong kho tàng tư tưởng chính trị phương Đông, bên cạnh Nho giáo, Hồ Chí
Minh còn chịu ảnh hưởng và tiếp thu phần tích cực, tiến bộ của nhiều học thuyết
khác như Mặc, Lão, Phật; như tư tưởng đòi hỏi nhà cầm quyền "làm đầy tớ" cho nhân
dân của Mặc Tử, thì Hồ Chí Minh nói về Chính phủ mới: "Chúng ta phải hiểu rằng,
các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các dân làng đều là công bộc của
dân" [38, tr.261].

* Về ảnh hưởng của tư tưởng phương Tây:
Tư tưởng văn hóa phương Tây là bộ phận quan trọng của tư tưởng văn hóa
nhân loại, là một trong những cơ sở quan trọng để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí

Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ nói riêng.
Học chữ Hán và tiếp thu tư tưởng Nho giáo từ nhỏ, nhưng sinh thời của Hồ
Chí Minh cũng là lúc Nho giáo suy vi, trở nên bế tắc, bất lực trước các vấn đề của
thời cuộc, trong khi Việt Nam đã là một xứ thuộc Pháp, bắt đầu tiếp thu những giá trị
tư tưởng văn hóa, chính trị phương Tây. Trong điều kiện ấy, Hồ Chí Minh còn nhỏ đã
vào học trường Tiểu học Pháp Việt ở Vinh, rồi trường Tiểu học Đông Ba, trường
Quốc học Huế, để từ đó, trên cái nền và vốn văn hóa phương Đông cổ học nhất định,
Người đã bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây, tiếp xúc với những khẩu hiệu
như dân chủ, bình đẳng, tự do, bác ái, tư tưởng giải phóng con người khỏi thần quyền
tôn giáo…. Những tư tưởng đó thôi thúc Người hướng sang phương Tây: "Khi tôi độ
13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái,… Và từ
thửa ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn
đằng sau những chữ ấy" [39, tr.477].
Trong 30 năm bôn ba nước ngoài, đi qua và sống ở nhiều quốc gia, tiếp xúc
với nhiều luồng tư tưởng, nhiều học thuyết khác nhau của phương Tây, đặc biệt là
các nhà tư tưởng lớn thời kỳ phục hưng, thế kỷ ánh sáng như Vol-te, Rut-xo, Mông-
tec-ski-ơ…, những yếu tố tích cực, tiến bộ từ các cuộc cách mạng Tư sản phương
Tây, đã ảnh hưởng lớn đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là các vấn đề
dân chủ, nhân quyền, dân quyền, tự do, bình đẳng,… Những tư tưởng đòi hỏi Nhà
nước được tổ chức đáp ứng yêu cầu của pháp quyền, dân chủ, tổ chức nhà nước
không phải là bộ máy cai trị nhân dân, mà là bộ máy tổ chức và thực thi quyền lực
của nhân dân. Lẽ tất nhiên khi tiếp thu những giá trị tích cực, tiến bộ đó, Hồ Chí Minh
cũng đồng thời chỉ ra những hạn chế của nó như: "Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh
Mĩ, nghĩa là cách mệnh Tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ,
kỳ thực trong nước thì tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa" [40, tr.274].

* Về ảnh hưởng từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin:
Dưới sự tác động biện chứng giữa các mối quan hệ cá nhân, dân tộc và thời
đại đã đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin- đỉnh cao của tinh hoa trí tuệ
nhân loại. Đó là bộ phận có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành tư

tưởng Hồ Chí Minh. Nhờ thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến
bộ trong truyền thống dân tộc cũng như của nhân loại để tạo nên hệ tư tưởng hết sức
đặc sắc của mình. Mỗi bước phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh hướng tới hoàn
thiện đều không thể tách rời với việc không ngừng học tập và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam. Qua đó, Hồ Chí Minh góp phần
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, trong đó có vấn đề cán
bộ.
Với tư cách là những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội (CNXH) khoa học,
Mác và ăngghen đã đặt nền móng đầu tiên cho vấn đề cán bộ của giai cấp vô sản,
rằng: "Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực
tiễn" [30, tr.181]. Đến Lênin, khi chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, vấn đề xây
dựng đội ngũ những nhà cách mạng chuyên nghiệp cho cách mạng vô sản đã được
hết sức quan tâm. Lênin đòi hỏi giai cấp vô sản phải làm sao có được "Những nhà
chính trị giai cấp thực sự của mình, những nhà chính trị vô sản và không thua kém
những nhà chính trị của giai cấp tư sản" [28, tr.80]. Khi đã giành được chính quyền,
vấn đề cán bộ được đặt ra một cách cấp bách, thì tư tưởng của Lênin về cán bộ ngày
càng được hoàn thiện hơn, nhất là việc đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn và sử dụng cán bộ.
Chủ nghĩa Mác-Lênin rất coi trọng vai trò, vị trí của cán bộ và công tác cán
bộ:
Người Cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh
quyền lãnh đạo của mình, đó là làm cho mình được nhiều, càng ngày càng
nhiều, những người phụ tá trong số những nhà sư phạm thực hành, biết

giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ, biết giới thiệu và chú ý đến kinh
nghiệm của họ [29, tr.407].
Lênin cho rằng, đối với đảng cầm quyền, một trong những vấn đề mấu chốt
đặc biệt quan trọng là vấn đề cán bộ. Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đòi hỏi người cán
bộ phải đạt được những yêu cầu, tiêu chuẩn nhất định:
Về mặt thực tiễn, những người Cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất

trong tất cả các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn
thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của
giai cấp vô sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả
chung của phong trào vô sản [31, tr.614].
Chủ nghĩa Mác-Lênin đòi hỏi người cán bộ phải luôn tự rèn luyện mình cả
năng lực thực tiễn và tư duy lý luận, phải trung thành với sự nghiệp cách mạng, gắn bó
và phục vụ nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân, dám thừa nhận và sửa chữa sai
lầm khuyết điểm: "Luôn luôn hành động dưới sự kiểm soát của nhân dân…, không nấp
sau một chế độ quan liêu giấy tờ, không ngại thừa nhận những sai lầm của mình bằng
cách sửa chữa những sai lầm ấy" [34, tr.35]. Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng rất coi trọng
vấn đề lựa chọn và sử dụng cán bộ, coi đó như một khoa học, phải đặt người cán bộ
vào đúng vị trí thì mới phát huy được khả năng, sở trường của cán bộ.
Hồ Chí Minh khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, Người cũng tiếp thu nhiều quan điểm quan trọng
về cán bộ và công tác cán bộ, từ đó qua yêu cầu và thực tiễn cách mạng Việt Nam,
kết hợp với truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đã tạo nên tính đặc sắc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ- bộ phận cấu thành quan trọng của tư tưởng
Hồ Chí Minh nói chung.
1.2.1.3. Trí tuệ thiên tài, nhân cách, phẩm chất Hồ Chí Minh và hoạt động
thực tiễn của Người

×