Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Đậu nành và những ứng dụng của chúng trong lĩnh vực y khoa trị liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.49 KB, 34 trang )

Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội

tim mạch, ngăn cản sự phát triển các mầm ung thư, ngăn ngừa bệnh thận, bệnh
tiếu đường, bệnh xốp xương, bệnh LỜI
nhiếpMỞ
hộ ĐÀU
tuyến đàn ông, các triệu chứng rối
loạn tiền
phụ loài
nữ. người
Điều làm
các dùng
nhà khoa
họcđểsay
mê bệnh.
nghiênTrải
cứuqua

Từmãn
thờikinh
xa xưa
đã biết
cây cỏ
chữa
khám ngàn
phá năm
ra các
mộcthuốc
có trong


và những
ứng dụng
hàng
lịchhoá
sử, thảo
các cây
được Đậu
phát nành
hiện ngày
càng nhiều
hơn, của
các
chúng trong
khoa phong
trị liệu,phú
trong
các isoílavones
là loại
phương
pháplĩnh
chế vực
biếny cũng
hơn.đóTrong
đó sự ra đời
của hoá
lĩnh thảo
vực
manghọc
lại các
nhiều

hứng
nhất.nhiên đã góp phần to lớn trong việc tìm kiếm và phát
hóa
hợp
chấtthúthiên
hiện các hợp chất có giá trị từ thế giới sinh vật vô cùng phong phú và kỳ diệu.
Do điều kiện địa lý đặc thù, nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió
mùa, nên Việt Nam là một nước có thảm thực vật phong phú và đa dạng sinh
học với nhiều cây dược liệu quý. Nhân dân ta vốn có kinh nghiệm lâu đời trong
việc dùng thuốc thảo mộc, đặc biệt trong điều trị các bệnh viêm nhiễm.
Nghiên cứu hóa học và hoạt tính sinh học của các cây thuốc dân tộc
không chỉ phục vụ việc tìm kiếm thuốc mới, mà còn giúp lý giải cơ chế, tác
dụng chữa bệnh của dược thảo đế sử dụng chúng có hiệu quả hơn, cũng như
góp phần khoa học hóa nền y học cố truyền.
Cùng với hàng ngàn dược liệu có mặt ở khắp các vùng lãnh thổ Việt
Nam, Đậu nành là một trong số những dược liệu quí. Đậu nành thuộc họ cánh
bướm. Đây là loại cây thảo, hằng năm, có nguồn gốc ở Trung Quốc rồi từ đó
lan ra các nước khác Nhật Bản, Việt Nam, Malaixia, Triều Tiên, có mặt ở châu
Âu vào đầu thế kỉ 17.
Đậu nành từ lâu đã được biết đến là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao
vì chứa hàm lượng protein cao hơn bất kì loại nông sản nào. Không những thế
trong Đậu nành còn chứa rất nhiều khoáng chất, các chất sinh tố B đặc biệt là
các hoá chất thảo mộc có khả năng ngăn ngừa và trị liệu bệnh tật. Trong những
năm gần đây, Đậu nành đã và đang chuyến bicn từ thực phấm thành dược
phẩm, là cây thuốc quí được sử dụng trong đông y. Nhiều nghiên cứu khoa học
đã chỉ ra sử dụng Đậu nành có tác dụng giảm nguy cơ các bệnh liên quan đến
Nguyễn Thị Hiếu

21


Hoả dược & HCBVTV- k49


Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội
l. VÀI NÉT VỀ CÂY ĐẬU NÀNH
1.1.

Tìm hiếu chung về cây Đậu nành.

Đậu nành có tên khoa học là Glycine max L, thuộc họ Đậu (Fabaceae),
còn được gọi là Đậu tương hay đại Đậu. [2] Trên thế giới có trên 1000 loại Đậu
tương với nhiều đặc điểm khác nhau, hạt Đậu nành có giá trị dinh dường và
kinh tế rất cao. [5,6]
Đậu nành là loại cây thân thảo, hằng năm. Thân cây mảnh, cao từ 0,8m
đến 0,9m, có lông, cành hướng lên phía trên. Lá mọc cách có ba lá chét hình
trái xoan, mũi gần nhọn, không đều ở gốc. Hoa có màu trắng hay tím xếp thành
chùm ở nách cành. Quả thõng, hình lưỡi liềm, gân bị ép, trên quả có nhiều lông
mềm màu vàng, thắt lại giữa các hạt. Các hạt thứ 2, 3, 5 gần hình cầu, các hạt
còn lại hình thận dài, có màu vàng rơm nhạt. [2] Ớ nước ta phân biệt rõ ràng
Đậu nành (hạt màu vàng nhạt) với Đậu đen, Đậu đỏ nhưng trong các tài liệu
thực vật nước ngoài người ta mô tả hạt Đậu nành có thế có màu vàng, đỏ, lục
hay đen với nhiều đặc điếm khác nhau, hạt Đậu có kích thước nhỏ nhất như hạt
Đậu Hà Lan cho tới lớn nhất giống trái anh đào. [2,6]
Theo từ điển thực phẩm, Đậu nành có nguồn gốc từ Trung Quốc, sau đó
được truyền bá sang Nhật Bản vào khoảng thế kỉ thứ 8, vào nhiều thế kỉ sau đó
có mặt ở các nước Á châu như Thái Lan, Malaisia, Hàn Quốc, Việt Nam... từ
thời cổ xưa Đậu nành đã được sử dụng ở những nước này làm thực phẩm. Cây
Đậu nành có mặt ở châu Âu vào đầu thế kỉ 17 và ở Hoa Kì vào thế kỉ 18, việc

trồng trọt bắt đầu phát triển lớn ở Liên Xô cũ nhưng phát triển nhanh chóng tại
những nước châu Mỹ: những nước thuộc miền trung và đồng bằng sông
Mitsixipi. [2,5,6].
Theo tài liệu [15] Đậu nành có nguồn gốc ở phía Bắc và Đông châu Á, là
một trong những thực phẩm quan trọng. Đậu nành có thể trồng trong suốt mùa
hè và mùa thu, trồng xen trên các cánh đồng trồng lúa.
Nguyễn Thị Hiếu

3

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội

Ngày nay, Hoa Kì là quốc gia đứng đầu sản xuất Đậu nành chiếm 50%
sản lượng trên toàn thế giới, rồi đến Trung Quốc, Ân Độ. Cây Đậu nành là một
trong năm cây thực phẩm quan trọng ở Hoa Kì, theo số liệu thống kê của bộ
nông nghiệp Hoa Ki năm 2008 diện tích trồng cây Đậu nành chuyển gen chiếm
92% trong tổng diện tích trồng cây Đậu nành trên cả nuớc. [5]

Nguyễn Thị Hiếu

4

Hoả dược & HCBVTV- k49



Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội
1.2.

Một số ứng dụng chính từ Đậu nành.

Xưa nay, Đậu nành vẫn được các nhà dinh dưỡng học đánh giá rất cao vì
giàu protit và lipit. Trong lOOg Đậu nành có từ 34 đến 40g protit và khoảng gần
20g lipit, nhiều hơn bất cứ một loại thịt động vật nào. Chất protein trong Đậu
nành ở dưới dạng casein thực vật không khác với casein động vật có trong sữa,
có đầy đủ các axit amin cần thiết cho sự phát triến và duy trì cơ thể con người.
Ngoài ra, Đậu nành còn rất giàu vitamin và muối khoáng. Từ đậu nành, nhân
dân ta đã chế biến nhiều thức ăn ngon như: bột Đậu nành, sữa Đậu nành, Đậu
phụ, Tào phớ, Tương... [1]
Hạt đậu nành có giá trị dinh dưỡng và kinh tế rất cao. Cùng một mẫu đất,
số thu hoạch chất đạm Đậu nành nhiều hơn 33% với bất kỳ một thứ nông sản
nào khác. Hàm lượng protein của Đậu nành cũng cao hơn cả thịt, cá và gần gấp
đôi các loại Đậu khác. [5]
Đậu nành chứa hàm lượng dầu béo cao hơn các loại Đậu khác nên được
coi là loại cây cung cấp dầu thảo mộc. Chất béo lipit của Đậu nành có chứa một
tỷ lệ cao chất fatty axid không bão hoà, có mùi vị thơm ngon, cho nên dùng dầu
Đậu nành thay thế cho mỡ động vật. [5]
Dầu Đậu nành còn được sử dụng để nghiên cứu tổng hợp biodiezen trên
xúc tác NaOH/MgO. Biodiezen là nhiên liệu sinh học nhằm thay thế cho nhiêu
liệu diezen khoáng đang ngày càng cạn kiệt. [3]
Ớ Trung Hoa, Nhật Bản và Hàn Quốc người ta đã chế biến ra được trên
600 sản phẩm khác nhau, trong đó có hơn một nửa loại thực phẩm được chế
theo phương pháp cổ truyền dưới dạng tươi, khô và lên men cho đến các sản
phẩm hiện đại bằng kỳ thuật mới như: cà phê, thịt chay nhân tạo, sôcôla... [5]

Ngày nay, tại các nước Á châu, đậu hũ được xcm là thức ăn hằng ngày và
coi như là một phần của nền văn hoá Á đông giống như văn hoá humburger của
Hoa Kì vậy. [5]
Nguyễn Thị Hiếu

5

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội

Đậu nành sau khi đã ép lấy dầu, người ta dùng bã Đậu chế biến thành
thức ăn nuôi gia súc. Ớ những quốc gia phát triển, họ còn dùng Đậu nành vào
các kĩ nghệ khác như: chế biến cao su nhân tạo, mực in, sơn, xà phòng, chất tơ
nhân tạo, chất nhiên liệu lỏng, dầu làm trơn trong kĩ nghệ hàng không... [5]
Bột Đậu nành sau khi đã loại dầu hay nước Đậu nành sau khi đã tinh chế
được dùng chế men ureaza, thuốc thử đặc hiệu đối với urê trong hoá sinh. [2]
Cây đậu nành còn có khả năng tồn trữ chất đạm của khí trời và làm giàu
chất đạm cho đất. Do đõ kỹ nghệ trồng cây đậu nành không những không làm
hư đất mà còn làm cho đất thêm màu mỡ. [5]
Ngoài giá trị dinh dưỡng, Đậu nành và những món ăn chế biến từ Đậu
nành còn có giá trị phòng và chữa bệnh. [ 1 ] Đậu nành có tác dụng làm cho cơ
thể con người trẻ lâu, sung sức, tăng thêm trí nhớ và tái tạo các mô, làm cứng
xương và tăng sức đề kháng của cơ thể. [5]
Trong y dược, bột Đậu nành (đã làm mất mùi bằng hơi nước) trộn với bột
ngũ cốc, ca cao dùng làm thức ăn cho trẻ sơ sinh, người bị bệnh tiểu đường,
người bị thấp khớp, bệnh gút, người mới ốm dậy, người lao động quá sức. [2]

Lexitin và casein dùng riêng hay phối hợp làm thuốc bổ dưỡng, làm tá
dược Stigmasteron dùng trong tổng họp progesteron. [2]
Trong công nghiệp dược phẩm, bột Đậu nành được dùng chế môi trường
nuôi cấy nấm mốc kháng sinh, chế một số axit amin như acginin, axit glutamic
bằng thuỷ phân axit bột Đậu nành. [2]
Các nhà khoa học còn khám phá ra các hoá thảo mộc Đậu nành có đặc
tính chống lại các mầm ung thư như: ung thư vú, ung thư kết tràng, ung thư
phổi, ung thư dạ dày, ung thư nhiếp hộ tuyến. [5,6,7] Hơn thế nữa, Đậu nành có
khả năng làm hạ cholcstcrol trong máu những người bị xơ vữa động mạch,
phòng ngừa các chứng bệnh về tim mạch, bệnh tiểu đường, bệnh xốp xương,
bệnh thận...[1,5]
Nguyễn Thị Hiếu

6

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội

Isoílavones trong Đậu nành là một trong những hoá thảo mộc đang được
các nhà khoa học say mê nghiên cứu nhất vì nó có những tính năng kì diệu
chống lại các tác dụng gây nên chứng ung thư liên hệ đến hormone, sử dụng
trong điều trị các triệu chứng mãn kinh phụ nữ như: bốc hoả, đổ mồ hôi, mất
ngủ, lo âu, rối loạn chức năng tình dục, lão hoá da, bệnh Alzheimer... [7,4]
Hàm lượng protein cao trong hạt Đậu nành cũng như nhiều hợp chất có
giá trị khiến Đậu nành trở thành một trong những thực phẩm quan trọng trên thế
giới, Đậu nành còn được mệnh danh là “thần dược” của phụ nữ. [6]

2. Thành phần hoá học trong Đậu nành.
Theo GS. Đỗ Tất Lợi [2], toàn cây chứa 12% nước, 16% gluxit, 14-15%
protein, 6% muối khoáng và các chất khác không có nitơ.
Hạt cây là thành phần có giá trị sử dụng nhất vì nó không những chứa
đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết mà còn tồn tại các hoá thảo mộc có tác
dụng phòng ngừa và trị bệnh đặc biệt là các căn bệnh thời đại như: bệnh ung
thư, các bệnh liên quan đến tim mạch
2.1.

Các thành phần có giá trị dinh dưống trong Đậu nành.
2.1.1.

Protein.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, hạt Đậu nành có giá trị dinh dưỡng rất
cao. Người ta đã xác định thành phần protein trong hạt Đậu nành chứa đầy đủ 8
loại amino axit thiết yếu : tryptophan, threonine, isoleuxin, valin, lysin,
methionin, phenylalanin và leucin. Hàm lượng của các chất amino axit này
tương đương với hàm lượng của các chất amino axit trứng gà đặc biệt là
tryptophan gần gấp rưỡi của trứng. [5,7].
Protein trong hạt Đậu nành chứa khoảng trên 38% tuỳ loại, hiện nay
nhiều giống Đậu nành có hàm lượng protcin đặc biệt cao tới 40-50%. Có những
chế phẩm của Đậu nành mang tới 90-95% protein, đây là nguồn protein thực
vật có giá trị cao cung cấp cho con người. [6]
Nguyễn Thị Hiếu

7

Hoả dược & HCBVTV- k49



Đại học Bách khoa Hà Nội

ĐÒ án môn học

Protein của Đậu nành dễ tiêu hoá, không có cholesterol và ít chất béo bão
hoà thuờng có nơi thịt động vật. Hàm lượng protein của Đậu nành cũng cao hơn
cả thịt cá và gần gấp đôi các loại Đậu khác. [5]
2.1.2.

Chất sinh tố và chất khoáng.

Không chỉ giàu protein hơn bất cứ loại thực phẩm nào, kể cả thịt động
vật. Đậu nành còn rất giàu chất sinh tố và chất khoáng như: sắt, canxi, photpho,
kẽm, các vitamin nhóm B: Bi, B2, B3, B6 ngoài ra còn có vitamin E. Trong Đậu
nành còn chứa nhiều chất xơ rất tốt cho tiêu hoá. [5,6]
Theo GS. Đỗ Tất Lợi [2], hạt Đậu nành chứa trung bình 8% nước, 4-5%
chất vô cơ, trong đó rất nhiều Kali 2%, Natri 0,38%, Canxi 0,23%, photpho
0,65%, Magiê 0,24%, lưu huỳnh 0,45%. Đậu nành chứa các vitamin tan trong
nước như: các vitamin Bi, B2, B3, B6; vitamin pp và chứa các vitamin tan trong
dầu như: vitamin A, vitamin D, vitamin E (trong Đậu nành ở châu Á và châu
Mỹ), vitamin K, vitamin F không có vitamin c. Các vitamin A và D xuất hiện
khi hạt mới chín, sau đó bị men oxy hoá phá huỷ. Trong nhóm vitamin B, Đậu
nành chứa lượng vitamin B[ gấp 3 lượng vitamin Bi trong sữa bột và trong bột
những loại hạt Đậu khác chứa tinh bột, lượng vitamin B2 chứa ít hơn trong sữa
bột khoảng 1/3 nhưng lại gấp 6 lần so với một số loại Đậu khác.
2.1.3.

Chất béo và chất cholesteron.


Đậu nành là thực phẩm nhiều protein nhưng lại ít calorit, ít chất béo bão
hoà và hoàn toàn không có cholesteron. [5] Chất béo chiếm khoảng 15-20% có
khi đạt tới 23%. Tỷ lệ phần trăm của các glyxerit axit béo: linolein 49,3%, olein
32%, linolenin 2%, panmitin 6,5%, stearin 4,2%, aracgidin 0,7%, lignoxerin
0,1% và 0,5% axit panmitoleic. [2]
So sánh với các loại Đậu khác thì Đậu nành có chứa các axit bco thict
yếu cao hơn, tổng số chất béo chứa khoảng 18%, thành phần cacbonhydrat
chiếm 31%. [4]
Nguyễn Thị Hiếu

8

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội
2.1.4.

Dầu đậu nành

Dầu Đậu nành thuộc loại dầu khô như dầu hạt lanh, chứa khoảng 14%
chất béo bão hoà, 59% chất béo không bão hoà đa tính, 23% chất béo không
bão hoà đơn tính. Trong số lượng chất béo không bão hoà đa tính lại chứa 8%
linoleic axit (omega - 3- fatty acid), hiếm có trong các thực phẩm nguồn gốc
thực vật. [2,5]
Trong dầu béo Đậu nành còn có photpholipit chủ yếu là lexitin 1-5%.
Lexitin hoặc nằm trong dầu béo (tách ra bằng lạnh), hoặc còn nằm trong phần
bã (tách ra bằng dung môi bay hơi). Ngoài ra dầu béo còn có các chất steron

như: stigmasteron, sitosteron và một số sapogenon khác. [2]
2.2.

Thành phần hoá thảo mộc trong Đậu nành

Điều làm các nhà khoa học thích thú nhất trong những năm nghiên cứu
gần đây là sự khám phá ra các hoá thảo mộc có trong Đậu nành và những ứng
dụng của chúng trong lĩnh vực y khoa trị liệu.
Viện ung thư quốc gia Hoa Kì, viện đại học Havard, viện đại học
Alabama, Minnesota, Helsinki và Finland đã thực hiện nhiều công trình khảo
cứu khoa học để xác định những lợi ích của các hoá thảo Đậu nành. Họ đã thấy
rằng sự tiêu thụ những chất này không những có khả năng ngăn ngừa mà còn có
khả năng trị liệu một số bệnh như: bệnh đau tim, bệnh tai biến mạch máu não,
ung thư vú, ung thư nhiếp hộ tuyến và ung thư kết tràng... [7]
2.2.1.

Protease inhibitor

Năm 1980, Dr. Walter troll thuộc trường đại học y khoa New York
university Medical Center đã khám phá ra rằng Đậu nành nguyên sơ có khả
năng ngăn cản không cho bệnh ung thư phát triển trên các loài động vật, do tác
dụng của chất protease inhibitors. Tiếp sau đó, nhiều nhà khoa học đã khảo sát
và thử nghiệm chất protease inhibitors Đậu nành trong phòng thí nghiệm và

Nguyễn Thị Hiếu

9

Hoả dược & HCBVTV- k49



Đại học Bách khoa Hà Nội

ĐÒ án môn học

thấy rằng nó có tác dụng chống lại sự phát triển mầm ung thư kết tràng, ung thư
phổi, ung thư miệng...[5,7]
Protease inhibitor ngăn ngừa sự tác động của một số gen di truyền gây
nên chứng ung thư. Nó cũng bảo vệ các tế bào cơ thể không cho hư hại, gây nên
bởi sự tác động của môi trường xung quanh như tia nắng phóng xạ và các chất
có thể tấn công ADN. [5,7]
2.2.2.

Phytate[5,7]

Phytate là một hợp thể chất khoáng phosphorus và inositon. Các nhà
khoa học đã chứng minh phytate không những có tác dụng ngăn ngừa mầm ung
thư mà còn có khả năng ngăn ngừa bệnh tim mạch.
Hai nhà nghiên cứu Drs.E.Graí và J. W.Eator đã cho biết phytate bảo vệ
chúng ta khỏi bệnh ung thư kết tràng, kết quả trong phòng thí nghiệm cho thấy
phytate đã liên tiếp ngăn cản không cho bệnh ung thư kết tràng phát triển và
không cho phát sinh mầm ung thư vú.
Mặt khác phytate có tác dụng ngăn cản sự hấp thụ sắt trong ruột do đó
bảo vệ chúng ta khỏi chứng có quá nhiều chất sắt vì chất sắt thặng dư cũng là
một trong những yếu tố nguy hại đến chứng nhồi máu cơ tim. Phytates hành xử
giống như chất antioxydant, vitamin c, Beta - carotin.
2.2.3.

Phytosteron [5,7]


Phytosteron có liên hệ với cholesteron, tuy nhiên cholesteron chỉ có nơi
các thực phẩm có nguồn gốc từ thịt động vật còn phytosteron chỉ có trong các
thực phẩm rau đậu.
Không giống như cholesteron, phytosteron có tác dụng ngăn ngừa các
bệnh về tim mạch qua việc dành chỗ thẩm thấu qua ruột của cholesteron để vào
máu.Do đó cholesteron không vào máu được mà phải bài tiết ra ngoài, lượng
cholesteron trong máu giảm, mức độ giảm tuỳ từng cá thể.

Nguyễn Thị Hiếu

10

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội

Phytosteron cũng có khả năng làm giảm sự phát triển các bướu ung thư
kết tràng và chống lại ung thư da.
2.2.4.Saponin
Năm 2007 các nhà khoa học Hàn Quốc và Nhật Bản dùng bột Đậu nành
đã khử dầu đem chiết xuất trong metanol, butanol 80%. Dịch chiết sau khi làm
khô trong chân không được đem định tính bằng sắc kí lớp mỏng, sắc kí lỏng
hiệu năng cao HPLC và xác định cấu trúc bằng cách ghi phổ. Sau khi xác định
thành phần saponin trong Đậu nành, các khoa học gia tiến hành thí nghiệm thử
hoạt tính của saponin trên chuột đực 5 tuần tuổi bằng cách tiêm qua tĩnh mạch
đuôi. Ket quả cho thấy saponin trong Đậu nành có tác dụng ngăn cản sự di căn
của những tế bào ung thư. [14]

Nhiều công trình nghiên cứu khác đã chỉ ra, saponin là một loại hoá thảo
có đặc tính giống như antioxydant. Saponin có khả năng trực tiếp ngăn cản sự
phát triển ung thư kết tràng đồng thời làm giảm lượng cholesteron trong máu.
2.2.5.

Phenolic axit [5,7]

Phenolic axit là một hoá thảo chống oxy hoá anti - oxidant và phòng
ngừa các nhiễm sắc thể AND khỏi bị tấn công bởi những tế bào ung thư.
2.2.6.

Lecithin [5,7]

Khi nghiên cứu thành phần hoạt chất trong Đậu nành các nhà khoa học
đã nhận thấy, đạm chất Đậu nành có chứa 3% lecithin bằng với lượng lecithin
có trong lòng đỏ trứng gà.
Lecithin là một hoá chất thực vật quan trọng, đóng một vai trò quyết định
trong việc kích thích sự biến dưỡng ở khắp các tế bào cơ thể. lecithin có khả
năng làm gia tăng trí nhớ bằng cách nuôi dưỡng tốt các tế bào não và hệ thần
kinh, làm vũng chắc các tuyến và tái tạo các mô tế bào cơ thể. Ngoài ra, lecithin
có tác dụng cải thiện hệ thống tuần hoàn, bổ xương và tăng cường sức đề

Nguyễn Thị Hiếu

11

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đại học Bách khoa Hà Nội


ĐÒ án môn học

kháng. Khi hệ thần kinh thiếu năng lượng, chất lecithin ở Đậu nành sẽ phục hồi
năng lượng đã mất.
2.2.7.

Browman - Birk Tnhibitor (BBĨ) [5]

BBI là một hoá thảo mới nhất tìm thấy trong Đậu nành, có khả năng ngăn
cản tiến trình phát triển mầm ung thư.
Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học đã thử nghiệm và thành công
trên các mẫu tế bào trong ống thí nghiệm và trong các thú vật qua hai dạng tinh
chế PBBI và cô đặc BBIC. Theo báo cáo kết quả tường trình tại hội nghị khoa
học thế giới về vai trò của Đậu nành trong việc phòng và trị bệnh (1996) thì
PBBI và BBIC đã kiếm soát được sự phát triến tiến trình ung thư miệng, vú,
ruột già, gan, phổi, thực quản cả các tế bào trong ống thử nghiệm lẫn ở các con
chuột bạch và chuột đồng.
Hiện nay BBI đã được dùng trên con người ở vài trung tâm nghiên cứu
và kết quả sơ bộ rất khả quan. BBIC đã được thẩm định là loại thuốc mới bởi cơ
quan F.D.A (the U.S.Food and Drug Administration).
2.2.8.0mega - 3 fatty axit [5]
Omega - 3 fatty axit là loại chất béo không bão hoà có khả năng làm
giảm lượng cholesterol xấu LDL đồng thời làm gia tăng lượng cholesterol tốt
HDL trong máu.
Nhiều nghiên cứu khoa học đã xác nhận tiêu thụ nhiều Omega - 3 fatty
axit giúp ngăn chặn sự phát triển của các bệnh tim mạch.
2.2.9. IsoAavone
Do những tính năng kì diệu trong việc phòng và điều trị bệnh, đặc biệt là
các căn bệnh thời đại, isoílavone đang là hoá thảo thu hút sự quan tâm của các

nhà khoa học hiện nay.

Nguyễn Thị Hiếu

12

Hoả dược & HCBVTV- k49


Daidzein
Genistein
Glyxitein
Formononetin
BiochaninA

RI
R2
R3
-H
-H
-OH
-H
-OH
-OH
-Đại học Bách
-H khoa Hà
-OH
Nội
OCH3
-H

-H
-OCH3
-H
-OH
-OCH3
3.
Thành phần và hoạt tính của isotlavone trong Đậu

Đồ án môn học

nành
3.1.Thành phần isoílavone trong Đậu nành
Năm 2005, các nhà khoa học Brazil đã tiến hành phân tích 18 mẫu Đậu
nành. Mục đích của thí nghiệm là xác định thành phần lóp chất isoíìavon từ đó
so sánh tỉ lệ các chất trong 18 mẫu. Qua phân tích, cho thấy isoílavon trong Đậu
nành là một hợp chất phenolic gồm có: aglucone (daidzein, genistein và
glyxitein), B - glucozit (genistin, daidzin, glyxitin), B - glucozit kết hợp với
nhóm malonyl (6 - o - malonyldaidzin, 6 - o - malonyĩgenistin và 6 - o malonylglycitin), B - gĩucozit kết hợp với nhóm axetyl ( 6 - o - axetyldaidzin,
6-0 - axetylgenistin
và1-6 Cấu
- o - trúc
axetylglycitin).
Hình
hoá học của[18]
các aglucon.
Bằng các phương pháp sắc kí HPLC/DAD và phố uv các nhà khoa học
Bồ Đào Nha cũng đã xác định thành phần của isoílavone trong 40 mẫu hạt Đậu
nành. Sau khi so sánh với các kết quả nghiên cún đã được thực hiện trước đó
với kết quả phân tích trong thí nghiệm, các khoa học gia khang định trong hạt
Đậu nành các aglucone chiếm một lượng nhỏ, hợp chất chính trong hạt Đậu

nành là các dẫn xuất malonyl và dẫn xuất axetyl của B - glucozit. Báo cáo còn
chỉ ra trong hạt Đậu nành còn chứa các aglucone : sissotrin, ononin; các dẫn
xuất axetyl của B - glucozit : 6 - axetylsissotrin, 6 - axetylononin; các dẫn
xuất malonyl của B - glucozit: 6 - malonylsissotrin, 6 - malonylononin. [17]
Năm 2006 các nhà khoa học Hàn Quốc đã thực hiện một nghiên cúư so
sánh thành phần isoílavone trong phôi, lá mầm, hạt và vỏ hạt Đậu nành. Ket
quả nhận được, tổng tỉ lệ trung bình của isoílavone là 2887pg/g trong phôi,
575pg/g trong hạt, 325pg/g trong lá mầm, 33pg/g trong vỏ hạt. Các khoa học
gia cũng đã phân tách được 12 đồng phân isoílavone trong 90 phút/mẫu thí
nghiệm bằng phương pháp HPLC — PDA. [15]
Cấu trúc cơ bản của isoílavon gồm 2 vòng bezen: A và B nối với một dị
vòng pyron. [12]
Nguyễn Thị Hiếu

14
13

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội

Hình 2- Cấu trúc hoá học của các 13-Glucozit.
3.2.

Hoạt tính của isoílavon trong Đậu nành. [4]

Các hoạt chất có tác dụng “phytoestrogen” trong hạt Đậu nành gồm chủ

yếu là daidzin, genistin.
Genistin và daidzin là những phân tủ’ tương đối lớn, tan tốt trong nước,
tính phân cực cao, nên khó hấp thu qua ống tiêu hoá. Muốn cho dễ hấp thu và
trở nên có giá trị sinh học, phải thuỷ phân chúng thành các aglycon, tức làm mất
thành phần glycozit trong phân tử. Muốn vậy, cần có xúc tác enzym đặc hiệu là
glycosidase. ông tiêu hoá của người không tạo được glycosidase, nên cơ thể
không thể thuỷ phân được isoílavon và isoílavon chưa có giá trị sinh học.
Ngược lại, một số tạp khuẩn định cư trong ruột sẽ tạo glycosidase cần cho quá
trình thuỷ phân nêu trên, giúp cho sự hấp thụ các isoílavon. Các aglycon sẽ hấp
thu ở ruột non. Nồng độ đỉnh của aglycon trong máu chỉ đạt được 4-6 giờ sau
khi uống chất chiết xuất từ hạt Đậu nành, tức là khi các glycozit đã được thuỷ
phân qua xúc tác enzym của tạp khuẩn tại ruột.
Lactobacillus sporogenes là vi khuẩn chính sản xuất glycosidase giúp cân
bằng tạp khuẩn ruột, xúc tác cho thuỷ phân daidzin và genistin sang daidzein và
genistein có hoạt tính “phytoestrogen”.

Nguyễn Thị Hiếu

15

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội

Sau khi hấp thu, genistein và daidzein sẽ trải qua các quá trình chuyến
hoá khác nhau, chủ yếu xảy ra tại gan, ua nước hơn, dễ đào thải qua pha giải
độc (pha II) qua thận và mật (có chu kì ruột - gan), qua cả sữa mẹ.

Chất

chuyển

hoá

chính

của

genistein



hydroxy

-

o

-

demethylangolensin. Những chất chuyến hoá chính của daidzein là o demethylan - golensin, glyxitein và equol. Equol là thành phần rất quan trọng
cho hoạt tính của isoílavon Đậu nành trong điều trị các triệu chứng mãn kinh, vì
hoạt tính estrogen của equol mạnh gấp 5 lần hoạt tính này của chất mẹ daidzein
và lớn gấp 2 lần hoạt tính của genistein.
Các phytoestrogen của Đậu nành có nhiều tác dụng sinh học khác nhau.
Một trong những tác dụng quan trọng là sự gắn thuốc chỉ vào các thụ thể
estrogen đặc hiệu, sau đó kích thích thụ thể tạo nên “tác dụng estrogen”.
Thụ thế estrogen (ER) thuộc một họ lớn các thụ thể hormon trong tế bào.

ER kích thích quá trình dinh dưỡng của các mô có chứa thụ thể. Người ta chia
ra hai loại ER là alphe ER (a ER) và beta ER (B ER), phân phối khác nhau
trong các mô:
a ER có mặt tại màng trong tử cung, trong chất đệm của buồng trứng và
ở tuyến vú. Còn B ER mặt khác, tồn tại trong các tế bào nội mô của thành mạch
máu, ở não, thận và trong các tế bào của bàng quang và niệu đạo, trong tế bào
của niêm mạc ruột và phổi, tế bào xương. Vậy những tác dụng khi kích thích a
ER sẽ khác hẳn tác dụng khi kích thích B ER.
Estradiol là hormon estrogen sinh lý chủ yếu, sẽ kích thích chủ yếu a ER
và cho những tác dụng nội tiết rất quen thuộc trên màng trong tử cung và ở vú.
Trái lại, genistein, daidzein và các chất chuyển hoá của chúng kích thích chủ
yếu vào B ER, vì vậy rất khó có tác dụng trcn màng trong tử cung và vú, trong
khi đó lại có nhiều tác dụng thuận lợi khác nhau trên các triệu chứng của mãn
kinh.
Nguyễn Thị Hiếu

16

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đại học Bách khoa Hà Nội

Đồ án môn học

Ái lực của isoílavon trong Đậu nành tới ER thấp hơn ái lực của hormon
estrogen hàng 500 - 10000 lần. Vì vậy những tác dụng của isoílavon trong Đậu
nành luôn luôn yếu hơn rất nhiều so với tác dụng của hormon estrogen thực thụ,
nên thoả mãn được sự cân bằng tinh tế về hormon cần xác định sau khi mãn
kinh. Hơn nữa, tính ưu việt của isoílavon là kích thích được sự tống hợp

globulin trong máu có chức năng gắn các hormon sinh dục ( Sex Hormone
Binding Globulin; SHBG). Ket quả là nếu SHBG (vừa được tăng sinh) mà làm
tăng sự gắn được cơ chất estradiol trong tuần hoàn, sẽ khiến tác dụng estrogen
chậm lại, từ đó trung hoà được một số tác dụng không mong muốn của estradiol
tại màng trong tử cung và tại vú.
3.3.

Tác dụng của isoAavon Đậu nành trong phòng và điều trị bệnh
[4]

Nghiên cứu thăm dò trên lâm sàng, đã chỉ ra những tác dụng có lợi của
Đậu nành trên các triệu chứng vận mạch ở tuổi mãn kinh: isoílavon trong Đậu
nành làm giảm cường độ bốc hoả, giảm số lần đố mồ hôi đêm, mang lại lợi ích
hiển nhiên nâng cao chất lượng sống của phụ nữ mãn kinh. Phụ nữ dùng
placebo sẽ thức giấc trung bình 1,89 lần do bốc hoả và đổ mồ hôi, nhưng ở
nhóm điều trị bằng isoílavon Đậu nành, số lần thức giâc sẽ giảm chỉ còn 1,52
lần. Isoílavon Đậu nành không gây thay đổi có ý nghĩa về FSH hoặc về độ dày
của màng trong tử cung. Không có người nào phàn nàn về rối loạn vú, không
thấy tăng các tác dụng phụ estrogen không mong muốn.
Những nghiên cứu khác ở phụ nữ mãn kinh cho thấy có giảm tuần tự số
lần bốc hoả trong mỗi tuần, giảm ở nhóm dùng isoílavon rõ hơn hẳn so với ở
nhóm dùng placebo, không gây tác dụng phụ nào, dù không đặc hiệu hoặc có
liên quan tới tác dụng estrogen (tại màng trong tủ' cung, qua xét nghiệm tế bào
học của âm đạo hoặc trcn các thông số hormon). Vì vậy, có thc khuyến cáo
dùng isoílavon Đậu nành cho phụ nữ nào có chống chỉ định dùng liệu pháp
hormon thay thế (HRL) hoặc không muốn dùng HRL vì lý do cá nhân.
Nguyễn Thị Hiếu
17
Hoả dược & HCBVTV- k49



Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội

Isoílavon trong Đậu nành cũng thu được sự cải thiện toàn bộ về chất
lượng sống của phụ nữ mãn kinh. Ăn các thực phẩm giàu isoílavon đã cải thiện
rõ rệt những triệu chứng của tuổi mãn kinh (bốc hoả, đổ mồ hôi đêm, mất ngủ,
trầm cảm, khô âm đạo, đau khi giao hợp) so với ở nhóm phụ nữ dùng chế độ
dinh dưỡng thông thường.
Uống isoílavon Đậu nành còn cho thấy có cải thiện ý nghĩa về quá trình
dinh dưỡng da. Tuy nhiên, không nên dùng liều quá cao để tránh gây ra những
tác dụng estrogen không mong muốn.
3.3.1.

Tác dụng trên chuyến hoá của xương

Nhiều nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ gãy xương do loãng xương ở phụ nữ
châu Á thấp hơn hắn so với ở các nước phương Tây. Sự khác biệt này có liên
quan tới sử dụng nhiều thức ăn chế từ Đậu nành. Hiệu lực của isoílavon Đậu
nành trên quá trình dinh dưỡng của xương ở phụ nữ sau mãn kinh đã cho thấy
tăng có ý nghĩa về mật độ khoáng ở xương (BMD) tại các đốt sống L2 - L4 khi
so sánh với phụ nữ theo chế độ ăn nghèo Đậu nành.
Hiệu lực của isoílavon Đậu nành trên chuyển hoá của xương cũng được
khẳng định trong các nghiên cứu lâm sàng khác và còn được xác minh qua các
nghiên cứu trên chuột cống cắt bỏ buồng trứng.
Isoílavon còn làm giảm nguy cơ loãng xương nhò' ức chế được hoạt tính
của huỷ cốt bào, nên có tác dụng hiệp đồng chống tiêu xương nhờ hoạt tính
estrogen của thuốc này.
3.3.2.


Tác dụng trên tim mạch

Chế độ dinh dưỡng giàu Đậu nành sẽ làm giảm nguy cơ bệnh động mạch
vành (CHD). Isoílavon Đậu nành có những tác dụng khác nhau chống rối loạn
lipit — máu ở người mãn kinh, có thc cắt nghĩa được sự giảm các nguy cơ tim
mạch. Đậu nành và chiết xuất của Đậu nành cũng có những tác dụng khác có

Nguyễn Thị Hiếu

18

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đại học Bách khoa Hà Nội

ĐÒ án môn học

lợi cho tim mạch, đã được sơ kết bởi nhóm các chuyên gia Hội Mãn kinh Bắc
Mỹ:
-

Làm giảm huyết áp tâm trương

-

Làm

giảm


cholestreron

toàn

phần,

giảm

cholesteron

“xấu” (tức LDL - cholesteron), giảm triglyxerid, tăng HDL - c, giảm
tỷ số cholesterol toàn phần / HDL - c, giảm tỷ số LDL - c / HDL C;
-

Chống tiểu cầu;

-

Ngăn chặn sự tiến triển của các mảng vữa xơ

-

Cải thiện tính đàn hồi động mạch;

-

Chống oxy hoá, loại bỏ các gốc tự do, đối kháng với tác hại

của sự lipoperoxy hoá của lecithin và của LDL - cholesterol sản sinh

ra các sản phẩm cuối cùng có hại, vì các sản phẩm này có ái lực rất
cao với thành động mạch và gây ra những mảng vữa xơ.
Dựa vào các kết quả trên, cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) Hoa Kỳ đã
chấp nhận từ năm 1999, dùng Đậu nành cùng chế độ dinh dưỡng nghèo axit béo
no, nghèo cholesterol để làm giảm nguy cơ bệnh động mạch vành.
3.3.3.

Tác dụng trên các chức năng nhận thức

Liệu pháp thay thế hormon (HRT) đã chứng tỏ có tác dụng thuận lợi
trong điều trị sự suy giảm nhận thức và sa sút trí tuệ ở phụ nữ cao tuổi. Vì vậy,
có thể suy ra là phytoestrogen cũng có thể có các lợi ích tương tự.
3.3.4.

Tác dụng trên các khối u phụ thuộc hormon

Tỷ lệ một số loại u phụ thuộc hormon ( như u ở màng trong tử cung, ở
vú, buồng trứng ) thay đối rất rõ rệt từ quần thể nọ sang quần thể kia, nhưng tỷ
lộ này rất thấp ở phụ nữ châu Á. Nhận xct này về dịch tc học cho thấy có licn
quan tới chế độ dinh dưỡng giàu Đậu nành ở dân cư châu Á.

Nguyễn Thị Hiếu

19

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đồ án môn học


Đại học Bách khoa Hà Nội

Các nghiên cứu về thực nghiệm và lâm sàng đã chứng minh hiệu lực của
phytoestrogen làm giảm nguy cơ ung thư ở màng trong tử cung, ở vú và buồng
trứng. Ket quả chưa hoàn toàn chắc chắn, cần các nghiên cún tiếp theo để mang
lại một kết luận rằng isoílavon Đậu nành có thể ngăn ngừa hữu hiệu các loại u
nêu trên. Nhưng chắc chắn rằng isoílavon Đậu nành không làm tăng nguy cơ
ung thư, mặc dầu isoílavon có tác dụng estrogen, có thể do isoílavon Đậu nành
chủ yếu kích thích 13 ER, mà 13 ER lại hiếm gặp ở các cơ quan nhạy cảm nhất
với các u phụ thuộc estrogen.
3.3.5.

Tác dụng phụ có thế gặp vói isoAavon của Đậu nành

Đậu nành và isoílavon của Đậu nành dung nạp tốt, loại trù’ một vài trường
hợp hiếm gây rối loạn nhẹ đường tiêu hoá. Đậu nành thuộc họ Đậu (Fabaceae).
Người có dị ứng với rau Đậu cũng có thể bị dị ứng với thức ăn chế biến từ Đậu
nành ( t à o phớ, sữa Đậu nành, Đậu phụ, bột Đậu nành, tương...). Những phản
ứng này là do protein chứa trong Đậu nành.
3.4.MỘÍ số qui trình chiết tách isoílavon trong Đậu nành.
* Tại Hàn Quốc[15]
Các nhà khoa học đã thực hiện một nghiên cứu so sánh thành phần
isoílavon trong phôi, lá mầm,vỏ hạt và hạt Đậu nành. Trong quá trình nghiên
cứu, các khoa học gia nhận định, phương pháp sắc kí lỏng cao áp ( HPLC ) là
phương pháp tối ưu nhất để phân tách isoílavon từ các mẫu thí nghiệm. Quá
trình phân tách được thực hiện như sau:
Chín mẫu Đậu nành sử dụng trong thí nghiệm có kích cỡ hạt đa dạng từ
trung bình đến lớn, trọng lượng 25 - 40g /lOOhạt. Điều kiện gieo trồng và chăm
sóc các mẫu tốt, thu hoạch vào vụ mùa 2004 tại Hàn Quốc sau đó được cất giữ,
bảo quản trong kho và đcm phân tích vào năm 2005. Mau được nghiền sơ bộ

qua máy nghiền để tách riêng các thành phần : phôi, mầm, vỏ hạt.

Nguyễn Thị Hiếu

20

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội

Các mẫu được đế khô, làm lạnh, sau đó nghiền thành bột mịn. Trộn 2
gram bột mẫu với lOml axetonitrit (ACN) và 2ml HC1 0,1N. Hỗn hợp được để
trong 2h ở nhiệt độ phòng trước khi đem lọc qua giấy lọc Whatman. Sau khi
lọc kiệt, dịch cô được để lạnh khô ở - 40°c rồi hoà tan lại trong lOml metanol
80% và lọc qua tia lọc 0,45pm.
Phân tích bằng sắc kí lỏng cao áp dựa theo phương pháp đã được thực
hiện bởi Wang và Murphy (1994) và Kim, Jung, Ahn và Chung (2005). Hệ
thống sắc kí lỏng cao áp được sử dụng để nghiên cứu gồm : máy sắc kí lỏng cao
áp hãng Shimadzu, sử dụng detector photodiot array phân giải cao ( hãng SPD
MI OA) cùng với lắp cột sắc kí 250mm X 4,6 mm I.D X 5pm; quá trình dò bằng
detector uv 254nm.
Bộ tổng hợp dung môi linear HPLC gradient, sử dụng pha động gồm
dung môi A ( 0,1 % glacial axetic axit trong nước c ấ t ) và dung môi B ( 0,1%
glacial axetic axit trong ACN ). Bơm 20pl mẫu vào máy sắc kí lỏng cao áp. Quá
trình tách các pic tốt nhất khi dung môi B tăng tủ' 15% đến 35% trong thời gian
là 60 phút, giữ ở 35% trong 5 phút, và trở về 15% trong 5 phút với tốc độ dòng
lml/phút. Tổng thời gian phân tách một mẫu khoảng 85 phút, sau đó chuyển

sang mẫu kế tiếp.
Cả dung môi và nước cất sử dụng trong sắc kí lỏng cao áp HPLC phải đạt
độ tinh khiết 99,9% và đã hút chân không.
*Tại Brazil [18]
Cũng bằng HPLC, các nhà khoa học Brazil đã xác định được thành phần
isoílavon trong 18 mẫu Đậu nành khác nhau. Quá trình phân tách được thực
hiện như sau:
Mười tám mẫu cây Đậu nành được gieo trồng tại các thời đicm khác nhau
trong vụ mùa 2002/2003 tại Brazil. Sự phân loại mẫu dựa trên số ngày kể từ khi

Nguyễn Thị Hiếu

21

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đại học Bách khoa Hà Nội

Đồ án môn học

gieo trồng đến khi thu hoạch. Các mẫu được đem phân tích thành phần
isoílavon và độ hoạt động của B- glucosidase.
Nghiền 30g hạt mỗi mẫu thành bột, lấy khoảng 250mg mẫu chiết trong
ống nghiệm với 3ml hệ dung môi dimetyl suníoxit ( DMSO) : metanol ( 1:4 v/v
) trong 15-17h ở nhiệt độ phòng và sau đó li tâm. Phần nổi trên mặt được lọc
qua tia lọc 0,43pm.
Bom 20pl mẫu vào sắc kí lỏng cao áp hãng Shimadzu ( LC - 10AT VP),
sử dụng detector photodiot array phân giải cao ( SPD - MI OA VP) và lò ( CTO
- 10AS VP) giữ ở nhiệt độ 26°c. Sử dụng cột sắc kí CLC - ODS (M) C18 kích

CỜ 250mm X 4,6 I.D X 5pm. Pha động gồm dung môi 1 là nước và dung môi 2
là axetonitrit.
Quá trình tách các pic, ban đầu 100% nước và 0% axetonitrit, thay đổi tới
45% nước và 55% axtonitrit trong thời gian 25 phút. Isoílavon được dò ra ở
260nm. Giữ 100% axetonitrit trong 2 phút và quay trở lại điều kiện ban đầu
trong khoảng thời gian 8 phút kế tiếp. Tống thời gian phân tách một mẫu
khoảng 40 phút. Tốc độ dòng là lml/phút. Thành phần isoílavon được biểu thị
mg/lOOg bột khô.
* Tại Bồ Đào Nha [17]
Quá trình phân tách được thực hiện như sau:
100 mgram của hạt Đậu nành đem tán thành bột ( kích cỡ 250 mesh) hoà
với lOOOpl etanon : nước ( 1:1). Dịch chiết được quay li tâm tốc độ 10.000
rpm/iophút. Sau đó bơm 50pl mẫu dung dịch nổi trên mặt vào máy sắc kí lỏng
cao áp, tốc độ dòng 0.8mĩ/phút. Pha động H2O/CH3CN được bơm vào cột
LichroSorb RP18, nhiệt độ 24°c. Quá trình dò được thực hiện bằng detector diot
phân giải khoảng bước sóng từ 200nm — 400nm. Xác định cấu trúc của
ílavonoid dựa vào phân tích phổ UY.

Nguyễn Thị Hiếu

22

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội

* Tại Australia, một nhóm các nhà khoa học cũng sử dụng HPLC đế phân tích

sự thay đổi thành phần isoílavon trong các sản phẩm chế biến từ Đậu nành [16 ]
Ngoài phưong pháp HPLC để phân tách và xác định thành phần isoílavon
trong Đậu nành. Bằng việc kết họp các phương pháp phân tích khác nhau, các
nhà khoa học đã tách và xác định được hầu hết các thành phần hoạt chất chứa
trong Đậu nành
Nhóm các nhà khoa học Hàn Quốc và Nhật Bản đã thực hiện qui trình
chiết tách saponin từ Đậu nành như sau:
Bột Đậu nành được tách dầu trong bộ chiết Soxhlet với n- hexan. Sau
khi tách dầu được chiết xuất với metanol. Thu hồi dung môi, phần còn lại tiếp
tục chiết với butanol 80%. Thu hồi butanol bằng phễu tách. Dịch chiết được
làm khô trong chân không. Phần bã được hoà tan lại trong nước và làm lạnh
khô. Sắc kí lớp mỏng chỉ ra hai vết y hệt nhau. Ngược lại sắc kí lỏng cao áp, sử
dụng pha động Choloroíòrm và metanol đã chỉ ra dịch chiết chứa soyasaponin I
và soyasaponin II. [18].
Khi phân tích thành phần polyphenol trong hạt Đậu nành, các nhà khoa
học Serbia đã định tính được tannin bằng sắc kí lóp mỏng xenlulo, định tính
được các ílavonoid và proanthoxyanidin sử dụng sắc kí lóp mỏng silicagen.
[11].
Trong một nghiên cứu của nhóm các nhà khoa học Hoa Kỳ và Tây Ba
Nha đã đề cập đến phương pháp chiết các protein từ Đậu nành của nhóm các tác
giả De Mejia, Vasconez, De Lumin, Nelson (2004), phương pháp phân tích các
amino axit bằng HPLC của nhóm tác giả Martinez - Villaluenga, Gule - Wicz,
Frias, Gule Wiczand Vidal - Valverde (2007). [21]

Nguyễn Thị Hiếu

23

Hoả dược & HCBVTV- k49



Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội

4.Sự khảo sát dân số và những thử nghiệm trong phòng thí nghiệm về hoạt
tính của Đậu nành. [5]
Trong hơn 20 năm qua đã có hơn 30 cuộc nghiên cứu về sự liên hệ giữa
thực phẩm Đậu nành và bệnh ung thư được thực hiện ở nhiều nơi trên thế giới.
Hầu hết các kết quả cho thấy, những người ăn thực phẩm Đậu nành thường
xuyên có tỷ suất về bệnh ung thư thấp hơn những người không ăn hay ít ăn
thường xuyên thực phẩm Đậu nành.
Một nghiên cún ở Singapore so sánh 200 phụ nữ bị bệnh ung thư vú với
420 phụ nữ không bị bệnh ung thư vú cho thấy rằng, những người ăn thực phẩm
Đậu nành khoảng 55 gram/ngày ít bị nguy cơ lâm bệnh ung thư tới 50% so với
những người không ăn hay ăn ít.
Tại Nhật Bản, những người ăn Đậu nành hoặc Đậu hũ đã giảm nguy cơ
ung thư kết tràng 40%
Ớ Trung Hoa, thường xuyên uống sữa Đậu nành có độ giảm nguy cơ
bệnh ung thư dạ dày đến 50% so với những người không uống.
Ờ Hồng Kông, một nghiên cứu trên 200 phụ nữ đã cho thấy rằng những
người ăn Đậu hũ và các thực phẩm Đậu nành khác hàng ngày đã giảm nguy cơ
mắc bệnh ung thư phổi đến 50 % so với những người ăn 3 lần một tháng.
Mùa thu năm 1989, Viện Đại Học Alabama cho biết kết quả cuộc thử
nghiệm Đậu nành về bệnh ung thư vú. Ket quả cho thấy, nhóm chuột ăn Đậu
nành đã giảm 50% ung thư vú so với nhóm chuột không ăn. Ket quả này đã dẫn
đến những cuộc thử nghiệm khác và cung cấp dữ liệu căn bản chứng minh rằng
Đậu nành có tác dụng ngăn ngừa bệnh ung thư.
Ngoài ra, các cuộc thí nghiệm khác trên súc vật trong phòng thí nghiệm
hay thí nghiệm các tế bào ung thư trong ống kính hay đĩa kính cũng cho những

kết quả tương tự.Một trong các thí nghiệm được xem là nổi tiếng là cuộc thí

Nguyễn Thị Hiếu

24

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội

nghiệm năm 1981 bởi các nhà khoa học thuộc American Health Foundation ở
New York.
Nghiên cúu bột Đậu nành, protein Đậu nành, và các thực phẩm Đậu nành
khác cho thấy rằng chúng có chứa chất chống oxy hoá có tác dụng chiến đấu
chống lại tế bào ung thu.
Một nghiên cứu khác của các nhà khoa học Nhật Bản cho biết, các sản
phẩm Đậu nành đều có tác dụng ngăn cản không cho lập thành hoá chất nitrit là
chất hoá học có thế kiến tạo hay kích thích mầm ung thu. Đặc biệt hơn miso,
một loại thức ăn phổ thông dưới dạng lên men của Nhật đã bảo vệ cơ thể khỏi
bị hu hại của tia phóng xạ.
Một vài nghiên cứu đầu tiên cho rằng protein Đậu nành có tác dụng giảm
luợng cholesteron trong máu đã đuợc thực hiện bởi Drs.S.D. Kowry và
R.E.Hodges, M.D thuộc university of Iowa Medical school, vào những năm
1960.
Hơn mười năm sau, vào năm 1977, Dr.C.R.Sirtori, M.D thuộc University
of Milan đã nghiên cứu về sự tác dụng của protein Đậu nành với lượng
cholesteron trong 1000 bệnh nhân. Ket quả protein Đậu nành đã làm giảm tổng

lượng cholesteron từ 8 - 25% và từ 15 - 25% hàm lượng LDL cholesteron. Ket
quả này không có liên hệ với chất béo vì chất béo trước và sau thử nghiệm
không thay đổi.
Trong suốt 25 năm qua, kể từ khi những cuộc nghiên cứu đầu tiên hoàn
thành, nhiều nghiên cứu khác tiếp tục cho những kết quả tương tự. Dr. Kenneth
Carrolĩ thuộc University of Westem Ontario, Canada đã đánh giá kết quả của
40 nghiên cún khác nhau về tác dụng protein của Đậu nành và cho biết 34
nghicn cứu đã cho thấy là cholcstcron giảm trung bình 15%.
Một trong những kết quả nghiên cứu mới nhất của University of
Kentucky đã được đăng tải trên tạp chí y dược của Anh, số ra 3-8-1995. Bác sĩ
Nguyễn Thị Hiếu

25

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đại học Bách khoa Hà Nội

ĐÒ án môn học

James. w. Anderson. M.D., giáo sư y khoa và dinh dưỡng cùng đồng nghiệp
của ông đã dùng máy tính phân tích 38 công trình nghiên cứu trong 7 năm thử
nghiệm 730 người tình nguyện. Kết quả, cholesteron xấu LDL giảm 13% nhưng
không làm giảm cholesteron tốt HPL. Tiêu thụ 47gram protein Đậu nành trên
một ngày trong một tháng, giảm 9,3% LDL cholesteron.
Theo Bs. Hương Liên trên tạp chí “Cây thuốc quý - số 25” [5], Đậu nành
và những món ăn chế biến từ Đậu nành có khả năng làm hạ cholesteron trong
máu những người bị xơ vữa động mạch.
Qua nghiên cứu, người ta thấy khẩu phần ăn có bổ sung Đậu nành ( dưới

các món sữa Đậu nành, Đậu phụ, bánh ngọt Đậu nành, bột Đậu...) đã làm thay
đối tốc độ chuyến hoá axit cholic và steroit. Lượng axit cholic và steroit trong
phân những người uống sữa Đậu nành đều cao hơn bình thường.
Các nhà nghiên cún đã theo dồi nhiều bệnh nhân có cholesteron máu cao,
trong đó gần một nửa có kèm theo cao huyết áp được điều trị với chế độ ăn có
bổ sung Đậu nành hàm lượng cụ thể như sau: Đậu phụ 150g, hạt Đậu nành 80g
dùng hằng ngày chế biến thành các món ăn khác nhau như: sữa Đậu nành, chả
giò, bánh ngọt... đã làm hạ tỷ lệ cholesteron máu trung bình từ 10-20%. Đồng
thời chế độ ăn trên còn làm hạ huyết áp ở gần 80% bệnh nhân có cholesteron
máu cao kèm theo cao huyết áp.
Cũng trên tạp chí y dược của Anh, số ra 3-8-1995, giáo sư James.
W.Anderson.M.D đã công bố kết quả nghiên cứu về tác dụng của Đậu nành
trong việc trị liệu bệnh tiểu đường. Cuộc nghiên cứu đã được tiến hành trên 12
bệnh nhân tiểu đường loại II trong 5 năm. Mười hai bệnh nhân được chia thành
hai nhóm. Một nhóm với chế độ dinh dưỡng bình thường bằng protein thịt và
các sản phấm có nguồn gốc từ thịt, nhóm còn lại với chế độ dinh dưỡng đặc biệt
bằng protein Đậu nành và sữa Đậu nành là chính. Vào ngày cuối của tuần lễ thứ
8, cả hai nhóm được kiểm tra toàn bộ sức khoẻ, sau đó họ được thay đổi chế độ
Nguyễn Thị Hiếu

26

Hoả dược & HCBVTV- k49


Đồ án môn học

Đại học Bách khoa Hà Nội

dinh dưỡng ngược lại nhau trong thời kì hai. So sánh các dữ kiện thu thập, kết

luận chế độ dinh dưỡng bằng thực phẩm Đậu nành có hiệu lực làm giảm lượng
đường trong máu.
Ket quả nghiên cứu trên phù hợp với kết quả do phương pháp trị liệu
bệnh tiểu đường loại II ấn định bởi các nhà khoa học thuộc ủy Ban Y Sĩ Trách
Nhiệm Y Khoa Hoa Kì nghiên cứu và khuyến cáo áp dụng từ năm 1982.
Dr.Neil Breslau thuộc viện đại học University Of Texas Health Science
Center đã thí nghiệm nhiều loại protein khác nhau để xem sự cân bằng của
canxi. Ket quả cho thấy, nhóm ăn protein thịt và phomát đã mất 50% canxi so
với nhóm chỉ ăn protein Đậu nành. ích lợi của protein Đậu nành trong nghiên
cứu này cũng tương tự như là những thử nghiệm đã thực hiện nơi động vật, từ
đó họ đưa ra khuyến cáo tiêu thụ protein Đậu nành vào thời kì còn trẻ giúp
chúng ta ngăn ngừa bệnh xốp xương.
Ngoài khả năng phòng và trị liệu một số bệnh như đã nói trên, các nhà
khoa học cũng đã chứng minh được Đậu nành còn có tác dụng trong phòng
ngừa và điều trị một số loại bệnh khác như: ung thư nhiếp hộ tuyến, bệnh thận,
cao huyết áp và sạn mật.
Do những giá trị tuyệt vời về dinh dưỡng và trị liệu, Đậu nành đã và đang
thu hút được sự chú ý của rất nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Đây là
một đề tài hứa hẹn nhiều thành công trong tương lai. Các nhà khoa học vẫn
đang tiếp tục nghiên cứu những hoạt tính sinh học của các hoạt chất trong Đậu
nành để có kết luận toàn diện nhất.

Nguyễn Thị Hiếu

27

Hoả dược & HCBVTV- k49



×