Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Nợ công việt nam, thực trạng và giải pháp giai đoạn 2008 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.18 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Dù là công khai hay ngấm ngầm thì cũng đã có không ít những vụ phá sản tầm cỡ
quốc gia diễn ra trong suốt thời kỳ thế giới lâm vào khủng hoảng kinh tế. Có rất nhiều lý
do dẫn tới cuộc khủng hoảng toàn cầu này nhưng trong đó phải kể đến tình trạng nợ công
tràn lan ở nhiều nước. Nợ công khó kiểm soát ở nhiều quốc gia chính là nguyên nhân khiến
nền kinh tế phục hồi rất chậm chạp, mong manh và đứng trước nguy cơ tiếp tục khủng
hoảng. Bất kể từ nước giàu có nhất thế giới như Mỹ, hay Nhật Bản cho tới những quốc gia
phát triển ở châu Âu như Đức, Pháp, Hy Lạp, Tây Ban Nha,… hay Trung Quốc “chủ nợ
lớn nhất của Mỹ và các quốc gia”, tất cả các “đại gia” này đều đang mắc một khoản nợ
công không hề nhỏ. Việt Nam trong nền kinh tế thị trường và hội nhập cũng không tránh
khỏi tình trạng trên. Trong khi tích lũy từ nội bộ nền kinh tế thông qua chi tiêu để dành của
quốc gia liên tục giảm thì nợ công liên tục tăng, nguồn để đầu tư tăng và ngân sách lại
ngày càng trở nên thâm hụt. Và đáng lo ngại hơn cả là vay nợ nhưng làm ăn kém hiệu quả
và khả năng trả nợ ngày càng khó khăn hơn. Điều đó càng khiến nợ công ở Việt Nam tăng
cao và tiến tới mức nguy hiểm.
Nợ công đang làm nóng nghị trường Quốc hội, mà trong đó gây tranh cãi nhiều nhất
là quy mô, tính an toàn và tài trợ nợ công. Vì vậy nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài
“Nợ công Việt Nam, thực trạng và giải pháp giai đoạn 2008-2010” để chúng ta phần
nào hiểu rõ hơn thực trạng nợ Chính phủ Việt Nam những năm qua. Bên cạnh đó là một số
đề xuất giúp chúng ta thoát khỏi tình trạng này.

1


PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG
1.1. Khái niệm
Nợ Chính phủ (hay còn gọi là nợ công hay nợ quốc gia) là tổng giá trị các khoản tiền
mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương tới địa phương đi vay. Việc đi vay này là nhằm
tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách Nhà nước và thường được đo lường bằng phần
trăm so với tổng sản phẩm quốc nội GDP.


1.2. Phân loại
 Theo nguồn gốc:
o Nợ trong nước: Là các khoản vay từ người cho vay trong nước
o Nợ nước ngoài: Là các khoản vay từ người cho vay nước ngoài
 Theo thời hạn khoản nợ:
o Nợ ngắn hạn: Là các khoản nợ có kì hạn dưới 1 năm
o Nợ trung hạn: Là các khoản nợ có kì hạn từ 1 năm đến 10 năm
o Nợ dài hạn: Là các khoản nợ có kì hạn trên 10 năm
1.3. Các hình thức vay nợ của Chính phủ
 Phát hành trái phiếu Chính phủ:
o Trái phiếu phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ
có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn.
o Trái phiếu phát hành bằng ngoại tệ có rủi ro tín dụng cao hơn vì Chính phủ có thể
không đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra còn có rủi ro về tỷ giá hối đoái khi đến thời
hạn thanh toán.
 Vay trực tiếp:
o Vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại hay các thể chế siêu quốc gia như
Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, …
o Hình thức này có độ tin cậy tín dụng thấp do đó khả năng vay nợ bằng hình thức
phát hành trái phiếu không cao.
1.4. Tính nợ Chính phủ
Nợ Chính phủ thường được tính toán đo lường bằng phần trăm so với GDP. Nợ
thường được tính tại từng thời kỳ, giai đoạn. Khi tính toán nợ Chính phủ ta thường hay vấp
phải một số vấn đề sau:
 Lạm phát:
Thâm hụt ngân sách thường không điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát trong tính
toán, vì trong chi tiêu Chính phủ các khoản trả lãi vay theo lãi suất danh nghĩa trong khi
đáng lẽ nên tính theo lãi suất thực tế ( Lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng tỷ lệ
lạm phát). Trong những thời kỳ lạm phát cao và nợ Chính phủ lớn thì ảnh hưởng của lạm
phát là rất lớn tới nợ công.

 Tài sản đầu tư:
Các nhà kinh tế cho rằng nên trừ tổng tài sản của tài sản Chính phủ trong tính toán nợ
Chính phủ. Tuy nhiên, tính toán theo cách này sẽ gặp phải vấn đề những gì nên coi là tài
sản của Chính phủ và tính toán giá trị của chúng như thế nào.
2


 Các khoản nợ tiềm tàng (Nợ ngầm)
Các khoản chi trả trợ cấp cho hưu trí, bảo hiểm xã hội, … hay các khoản Chính
phủ đứng ra bảo đảm cho các khoản vay mà trong tương lai không có khả năng thanh toán
cũng cần được tính vào nợ Chính phủ, bởi lẽ rốt cuộc đó cũng là tiền do Chính phủ phải
chi ra.
1.5. Tác động của nợ Chính phủ
 Tính trung lập của nợ Chính phủ:
o Quan điểm truyền thống cho rằng cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ Chính phủ
kích thích tiêu dùng và làm giảm tiết kiệm quốc dân. Sự gia tăng tiêu dùng làm tăng tổng
cầu và thu nhập quốc dân trong ngắn hạn nhưng dẫn đến khối lượng tư bản ít hơn (do đầu
tư giảm) và thu nhập quốc dân thấp hơn trong dài hạn.
o Quan điểm Barro-Ricardo lại cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng
nợ Chính phủ không kích thích chi tiêu cả trong ngắn hạn vì các cá nhân dự tính rằng, hiện
giờ chính phủ giảm thuế và phát hành trái phiếu bù đắp thâm hụt, thì đến một thời điểm
trong tương lai chính phủ sẽ lại tăng thuế để có tiền trả nợ hoặc in tiền để trả nợ (mà hậu
quả là lạm phát tăng tốc). Do đó, người ta tiết kiệm hiện tại để có tiền đóng thuế trong
tương lai hoặc mua hàng hóa và dịch vụ sẽ lên giá.
Hai quan điểm nói trên tuy khác nhau nhưng cùng xuất phát từ hành vi của người tiêu
dùng và do vậy khi áp dụng cần nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng.


Về hiệu suất của tác động nợ Chính phủ tới sự tăng trưởng của nền kinh tế:


Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn một
khoản nợ Chính phủ lớn làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại.

3


PHẦN 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2010
2.1.

Tình hình nợ công thế giới

Kinh tế thế giới vừa trải qua cơn bão khủng hoảng dữ dội nhất kể từ sau cuộc đại suy
thoái 1929-1933 và đang chật vật hồi phục. Thế nhưng, sự hồi phục hiện nay của kinh tế
thế giới rất mong manh, bấp bênh và không loại trừ khả năng có thể bị suy thoái trở lại bởi
nhiều nguyên nhân, trong đó tình trạng nợ công tràn lan ở nhiều nước là một nguyên nhân
quan trọng.
Trong những năm gần đây, sự quan tâm của thế giới đang đổ vào Hy Lạp, nơi mà núi
nợ đang đè lên lưng nước này. Nó đã đẩy nền kinh tế nước này vào nguy cơ sụp đổ với
tổng số nợ công lên tới 300 tỷ Euro (chiếm 124% GDP năm 2009) và mức thâm hụt ngân
sách hai con số, trong khi tăng trưởng kinh tế tiếp tục âm. Hiện nay, Hy Lạp là nước có
mức nợ công thuộc loại nhiều nhất tại châu Âu so với quy mô nền kinh tế và được ví như
“một người bệnh đang trong thời kỳ nguy kịch”. Mức độ tín nhiệm tài chính của nước này
đã bị tụt xuống hạng BBB-. Điều này đồng nghĩa với khả năng đi vay tiền từ bên ngoài trở
nên khó khăn. Nếu không trả được, Hy Lạp sẽ trở thành nước bị vỡ nợ, các chủ nợ sẽ tìm
cách siết nợ, và như vậy, nền kinh tế nước này sẽ rơi vào khủng hoảng khi mà các nhà đầu
tư tìm cách tháo chạy khỏi Hy Lạp. Tình trạng nợ công chồng chất không chỉ là hiện tượng
đơn lẻ diễn ra ở Hy Lạp hay Băng Đảo và Đu-bai gần đây, mà đã trở thành hiện tượng khá
phổ biến trên thế giới. Không riêng các nước đang phát triển mới đi vay, mà cả những
nước phát triển giàu có cũng mắc nợ.
Hiện nay, Mỹ là con nợ lớn thuộc loại hàng đầu thế giới với tổng số nợ lên tới 13.000

tỷ USD, chiếm khoảng 93% GDP. Mức thâm hụt ngân sách của Mỹ năm 2010 dự kiến là
9,9%. Điều này báo hiệu núi nợ của Mỹ sẽ tăng lên tới mức xấp xỉ 100% GDP vào cuối
năm nay.
Kể cả Nhật Bản, đã từng có thời người ta tưởng có thể sẽ “mua hết nước Mỹ”, vậy
mà bây giờ cũng trở thành một con nợ “cỡ bự” với mức nợ tương đương với 227% GDP và
thâm hụt ngân sách dự kiến 10,2 % năm 2010.
Rồi đến Trung Quốc, nước hiện được coi là chủ nợ nước ngoài lớn của Mỹ và nhiều
nước khác với nguồn dự trữ quốc gia trên 2000 tỷ USD, song cũng không phải là không
mắc nợ. Theo Giáo sư Victor Shih từ trường Đại học Northwestern của Mỹ, các chính
quyền địa phương của Trung Quốc đã vay mượn tổng cộng trên 11 nghìn tỷ nhân dân tệ
(tương đương với 1,68 nghìn tỷ USD) từ năm 2004 cho tới cuối năm 2009 và Trung Quốc
có thể sẽ phải đối mặt với thâm hụt ngân sách khổng lồ, chiếm hơn 10% GDP trong năm
2010.
Ấn Độ, một nền kinh tế lớn đang lên ở châu Á cũng đang đối mặt với tình trạng nợ
công nặng nề. Tỷ lệ nợ so với GDP năm 2009 lên tới 88,9% và mức thâm hụt ngân sách
năm 2010 dự kiến là 6,8%. Hiện Ấn Độ bị xếp hạng tín dụng quốc gia BBB- giống như Hy
Lạp.
Trong liên minh châu Âu (EU), hầu hết các nước đều đang trong tình trạng nợ nần.
Ngay cả Đức, nền kinh tế mạnh nhất châu Âu, cũng đẫm mình trong nợ với mức 84,5%
GDP. Nợ công của Pháp cuối năm 2009 đã lên xấp xỉ 1500 tỷ Euro, tương đương với 82,6
% GDP, mức thâm hụt ngân sách 7,6 % và dự kiến còn tiếp tục với mức 7,1% năm 2010.
Tình hình của Italy lại còn đáng buồn hơn với mức nợ công lên tới 120 % GDP năm 2009
và dự kiến thâm hụt ngân sách 5,6% năm 2010, trong khi tăng trưởng kinh tế tiếp tục khó
khăn (-2,3%). Một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Băng Đảo, Ai-xơ-len cũng
đang lâm tình cảnh nợ nần bi đát. Các nước này đều có tỷ lệ nợ gần ngang, thậm chí có
nước còn lớn hơn GDP và thâm hụt ngân sách vượt xa mức quy định (3%) của EU, trong
khi triển vọng tăng trưởng kinh tế rất ảm đạm. Trường hợp Tây Ban Nha rất đáng lo ngại
4



và nhiều chuyên gia cảnh báo rằng Tây Ban Nha có thể sẽ đi theo con đường của Hy Lạp,
bởi với ngân sách bị thâm hụt ngang mức 11,4% GDP, tổng nợ công và tư tương đương
300% GDP - những con số này trầm trọng hơn của Hy Lạp rất nhiều. Trong khi đó, thất
nghiệp của Tây Ban Nha cũng rất cao, tới 20% (4,5 triệu người) và nhất là hệ thống ngân
hàng rất mong manh.
Tình trạng nợ gia tăng đến mức không thể chấp nhận được ở nhiều nước như vậy báo
hiệu một triển vọng không mấy sáng sủa của kinh tế thế giới. Một số ý kiến cho rằng,
không loại trừ khả năng khủng hoảng nợ xảy ra tại một trong số mắt xích xung yếu nhất
hiện nay sẽ dẫn đến một cuộc suy thoái kinh tế mới có thể lan rộng.
Cả thế giới đang chìm trong cơn lốc xoáy nợ công. Tất cả các nền kinh tế lớn mạnh
trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Trung Quốc; từ châu Mỹ, châu Âu tới châu Á đều
đang đối đầu với bài toán nợ công và Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó.
Trong suốt những năm gần đây, giai đoạn 2008-2010 nợ công của Việt Nam cũng đang
tăng dần.
Vậy thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay liệu có an toàn?
2.2.

Thực trạng Việt Nam giai đoạn 2008-2010

2.2.1. Quy mô nợ công
Chấn động từ cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp đang có nguy cơ lan rộng sang
một số quốc gia EU khác khiến các nước, nhất là những nước có nợ công lớn và thâm hụt
ngân sách kinh niên, phải đánh giá lại tình trạng tài khóa của mình. Tại Việt Nam, tình
trạng nợ công liên tục tăng làm cho yêu cầu nâng cao chất lượng quản lý nợ công của Việt
Nam cũng trở nên cấp thiết. Theo World Factbook nợ công của Việt Nam năm 2008 là
khoảng 38% GDP, nhưng đến năm 2009 đã tăng nhanh lên mức 52,3% GDP. Còn theo Bộ
Tài chính thì nợ công tại Việt Nam năm 2009 chỉ ở mức 39% GDP. Và trong năm 2010 thì
nợ công đã lên tới 56,7% GDP.
Ủy ban Pháp luật Quốc hội công bố khoản nợ công tại Việt Nam vào khoảng 42%
GDP. Trong khi đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội lại đưa ra kết luận rằng nợ Chính phủ

đang tăng cao: từ 33,8% GDP năm 2007 lên 36,2% GDP năm 2008, 41,9% năm 2009 và
lên 44,6% năm 2010, kèm theo đó là lời cảnh báo nợ Chính phủ đã tăng sát mức trần cho
phép.
Với cách tính nợ công của Tổ chức Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc
(UNCTAD) được nhiều nước trên thế giới sử dụng thì nợ công còn bao gồm cả nợ của
doanh nghiệp nhà nước theo cơ chế tự vay tự trả, nợ của công ty cổ phần tương ứng với tỷ
lệ phần vốn góp của Nhà nước, quỹ bảo hiểm xã hội mà Nhà nước sử dụng để mua trái
phiếu hay đầu tư vào các công trình kinh tế trọng điểm quốc gia. Mà theo vậy thì nợ công
của Việt Nam phải lên tới trên 72% GDP, bởi đến hết năm 2008, tổng dư nợ của các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước đã là 20% GDP, chưa kể đó là những con số thống kê chưa
đầy đủ, rõ ràng. Minh chứng điển hình là trường hợp Vinashin có tổng số dư nợ thực tế lên
tới 120.000 tỷ đồng chứ không phải 86.000 tỷ như đã báo cáo. Theo số liệu của Tạp chí
kinh tế The Economist thì tổng nợ công của Việt Nam hiện là 50,935 tỷ USD, tương đương
51,6% GDP.
Như vậy là chỉ riêng việc tính toán nợ công cũng đã gây ra những bất cập. Điều đó
cho thấy sự thiếu thống nhất trong đánh giá, thống kê và thiếu chặt chẽ, liên kết giữa các
cơ quan quản lý vấn đề này. Tuy mỗi con số phản ánh một cái nhìn khác nhau về một vấn
đề được xem là “sức khỏe của một nền kinh tế” nhưng nó đều cho thấy rằng quy mô nợ
công tại Việt Nam đang ngày càng lớn.
5


Biểu đồ 1: Nợ công và cán cân ngân sách của Việt Nam (2007-2010)
(số liệu 2010 là ước tính)
Nợ công của Việt Nam tăng nhanh trong bối cảnh thâm hụt ngân sách (cả trong và
ngoài dự toán) tăng từ -7.3% GDP năm 2007 lên tới 9,6% GDP năm 2009 (theo EIU),
trong khi thâm hụt ngân sách đã trở thành kinh niên, đầu tư lại không ngừng mở rộng kéo
theo lạm phát và lãi suất cao khiến cho việc tài trợ nợ công ngày càng trở nên đắt đỏ. Mức
thâm hụt đã vượt xa ngưỡng “báo động đỏ” 5% theo thông lệ quốc tế, khiến tính bền vững
của nợ công càng bị giảm sút. Trong khi đó, với nhu cầu tiếp tục đầu tư để phát triển, chắc

chắn nợ công của Việt Nam sẽ còn tăng trong nhiều năm tới. Cụ thể là, với tỉ lệ tiết kiệm
nội địa chỉ khoảng 27% GDP trong khi mức đầu tư toàn xã hội mỗi năm khoảng 42% GDP
thì Chính phủ sẽ phải tiếp tục đi vay rất nhiều (bên cạnh vốn đầu tư nước ngoài bù đắp
khoản thiếu hụt đầu tư). Điều này vi phạm một nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền
vững, đó là nợ công ngày hôm nay phải được tài trợ bằng thặng dư ngân sách ngày mai.
Đây là nguyên nhân chính khiến Fitch giảm xếp hạng tín dụng dài hạn của Việt Nam từ
BB-xuống B+ (tức là thấp hơn “mức đầu tư” bốn bậc) vào cuối tháng 7-2010. Như vậy có
thể thấy mỗi công dân đều có quyền lợi và cả trách nhiệm từ các khoản vay của Nhà nước.

Biểu đồ 2: Tỷ lệ dư nợ của Chính phủ từ năm 2007 đến năm 2010

Bảng
1: Xếp hạng nợ công của một số quốc gia trên thế giới
6


Báo cáo về ngân sách Nhà nước tính đến 31/12/2009 tổng số dư nợ công bằng 52,6%
GDP, năm 2010 dư nợ Chính phủ bằng 44,3% GDP, dư nợ quốc gia bằng 42,2% GDP và
dư nợ công bằng 56,6% GDP. Xu hướng gia tăng nợ công đang ở mức báo động, tốc độ
tăng dư nợ chính phủ bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 đã là 24,3%. Nợ công của
nước ta năm 2010 ở mức 56,7% GDP (GDP năm 2010 ước thực hiện là 1.951 nghìn
tỷ đồng). Trong đó:
o Nợ chính phủ khoảng 44,5% GDP.
o Nợ được chính phủ bảo lãnh khoảng 11,6% GDP (Quyết định số 1016/QĐ-TTg,
phê duyệt hạn mức vay thương mại nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh năm 2010 là
1.600 triệu USD).
o Nợ của chính quyền địa phương tương đương khoảng 0,6% GDP.
o Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP khoảng 42,2%.
o Nghĩa vụ trả nợ Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước khoảng18,9%.
o Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung dài hạn so với xuất khẩu khoảng 5,1%.

Chỉ chú trọng nhiều đến ngưỡng nợ làm mức tỷ lệ phần trăm trong GDP theo mục
tiêu, chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề quan trọng hơn đó là kiểm soát xu hướng gia
tăng của tỷ lệ này.
Cụ thể hơn về vấn đề nợ nước ngoài, nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP bằng
39%, thuộc diện quốc gia có nợ nước ngoài vừa phải, nếu xét theo khuyến nghị của Ngân
hàng Thế giới (WB), theo đó trên 50% được cho là nợ quá nhiều; nghĩa vụ trả nợ nước
ngoài trung dài hạn so với xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ chỉ bằng 4,2% (WB cho phép đến
25%); dự trữ ngoại hối so với nợ nước ngoài ngắn hạn là 290% (khuyến nghị của WB là
trên 200%); nghĩa vụ trả nợ Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước 5,1% (ngưỡng
an toàn của WB là dưới 35%)…
Không kể nợ được Chính phủ bảo lãnh, trong tổng số dư nợ nước ngoài Chính phủ
gần 23,943 tỷ USD, có đến 19,325 tỷ USD lãi suất từ 1-2,99%; trên 1,5 tỷ USD lãi suất từ
3-5,99%; 281,7 triệu USD lãi suất 0-99% và 919 triệu USD ở mức lãi suất 6-10%. Ngoài
ra, hơn 1,9 tỷ USD dư nợ còn lại được áp lãi suất thả nổi theo lãi suất liên ngân hàng của
thị trường London (LIBOR)..
Cơ cấu đồng tiền vay trong tổng dư nợ nước ngoài Chính phủ cũng khá đa dạng,
được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của
Chính phủ.
So với thời điểm cuối năm 2005, con số gần 28 tỷ USD nợ nước ngoài tính đến ngày
31/12/2009 đã gấp gần 2 lần (so với 14,2 tỷ USD), sau khi hàng loạt các khoản vay của
WB, ADB, Nhật Bản… được chuyển vào ngân sách trong năm vừa qua. Như vậy thì tốc độ
gia tăng nợ nước ngoài của nước ta khá nhanh trong trung và dài hạn mang lại những bất
ổn nhất định trong nền kinh tế. Như vậy thì liệu trong tương lai với tỷ lệ nợ như vậy và tốc
độ gia tăng tương đối nhanh như vậy thì nợ công nói chung của nước ta có đang lo ngại
hay không, có an toàn chưa?

7


2.2.2. Tính an toàn của nợ công hiện nay


Hình 1: Nợ công của Việt Nam trong năm 2010
Tính tới 16h40 ngày 12/10/2010 (theo giờ Việt Nam), hiển thị trên đồng hộ đo nợ
công của tạp chí kinh tế thế giới The Economist số nợ công toàn cầu là 39.942.437.066.497
(khoảng 40 nghìn tỷ USD). Theo đó, nợ công của Việt Nam năm 2010 là 50,935 tỷ USD
(khoảng 51,6% GDP), và nợ bình quân trên đầu người là 580,91USD/người.
Quốc gia
Nhật Bản
Iceland
Anh
Pháp

Nợ công tính trên đầu
người (USD)
83697
43286
26602
31785

Malaysia
Canada
Mỹ
Thái Lan
Philippines
Indonesia
Trung Quốc
Việt Nam

4184
37000

27683
2064
1071
743
713.6
580.91

8


Bảng 2: Nợ công tính trên đầu người của một số quốc gia ngày 12/10/2010
(Thống kê dựa trên số liệu của tạp chí The Economist)
Theo như bảng trên ta thấy hiện tại Nhật Bản đang là nước có số nợ công trên đầu
người lớn nhất thế giới, đứng sau là Iceland và một số nước châu Âu và mức nợ công trên
đầu người ở Việt Nam chỉ là 580.91 USD/người. So sánh trên bảng 2 thì nợ công trên đầu
người của Việt Nam được xếp vào hạng thấp trong khu vực châu Á - khu vực có tỉ lệ nợ
công trên đầu người thấp. Khu vực có tỉ lệ nợ công trên đầu người cao nhất là châu Âu và
Bắc Mỹ và ở mức trung bình là khu vực Nam Mỹ.
Xét trên phương diện nợ công trên đầu người thì nợ công ở Việt Nam chưa cao và
được cho là thấp trong khu vực châu Á và trên thế giới nhưng xét về nợ công trên tổng
GDP thì nợ công ở Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình.
Tỷ lệ nợ công trên GDP và nợ công trên đầu người đều chỉ phán ánh một cách phiến
diện mức độ an toàn hay rủi ro của nợ công. Bởi lẽ, ví như ở Hy Lạp, nợ công khoảng
100% GDP đủ để bị phá sản thì ở Nhật Bản, nợ công trên đầu người có là cao nhất thế giới
vẫn được coi là an toàn. Do đó, độ an toàn của nợ công không chỉ phụ thuộc vào những
con số nêu trên mà chủ yếu phụ thuộc và “sức khỏe của nền kinh tế” và khả năng trả nợ.
Vậy nợ công ở Việt Nam những năm gần đây là an toàn hay nguy hiểm? Đó còn là
một câu hỏi gây tranh cãi cho tất cả các nhà kinh tế học trong nước và trên thế giới.
Trong cơ cấu nợ công chủ yếu là nợ dài hạn. Ví dụ năm 2011 bố trí 85 ngàn tỷ đồng
để trả nợ so với 590 ngàn tỷ thu ngân sách (tương đương 15%) thì vẫn an toàn. Tuy nhiên,

nếu phần thu còn lại sau khi trả nợ và chi thường xuyên ngày càng giảm và tiếp cận đến
không thì việc vay nợ đã đến ngưỡng mất an toàn.
Theo TS. Tô Văn Trường, ông nhận định độ an toàn tài chính quốc gia đang có nguy
cơ vượt ngưỡng cho phép. Bởi tính đến 31/12/2009, nợ công so với GDP chiếm 52,6%,
trong đó nợ Chính phủ chiếm 41,9%, trong khi quy định của Thủ tướng về chỉ tiêu nợ
Chính phủ là 50%. Mức dư nợ công năm 2010 là 52,6%, nợ nước ngoài chiếm 38,8% và
nợ công là 57% GDP năm 2011.
Bà Keiko Kubota, kinh tế trưởng của Ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam nhận
xét: “Mặc dù mức nợ của Việt Nam nhỏ hơn ngưỡng nhưng vẫn có thể gặp các cú sốc
không lường được như GDP thấp hơn so với dự tính, hay do lạm phát tăng cao, tỷ giá thay
đổi, các khoản dự phòng không như dự toán, thì sẽ làm nợ công tăng lên”. Theo bà phải
đảm bảo nợ là bền vững và khoản nợ đó phải lành mạnh mà ở Việt Nam thì không phải tất
cả các khoản nợ đều lành mạnh.
Các chuyên gia của WB hay IMF đều cho rằng nợ công của Việt Nam vẫn là an toàn.
Ủy ban Tài chính - Ngân sách thấy rằng, với dự báo khả năng về tốc độ tăng trưởng kinh tế
và thu ngân sách nhà nước năm 2011, cùng với cơ cấu nợ công chủ yếu là nợ dài hạn và
hiện vẫn đủ khả năng trả nợ nên nợ công của Việt Nam nằm trong ngưỡng an toàn.
“Nhưng do dư nợ hiện đã ở mức cao, xu thế được vay nợ trung và dài hạn với lãi suất ưu
đãi sẽ giảm dần, nên cần thay đổi cơ cấu nguồn vốn, bảo đảm trả nợ đến hạn, giảm dần vay
nợ. Điều mấu chốt là phải tăng cường hiệu quả đầu tư, đảm bảo duy trì các chỉ số nợ ở
trong giới hạn an toàn, phù hợp với tiềm lực của đất nước”, Ủy ban Tài chính - Ngân sách
của Quốc hội nhấn mạnh.
Ông Alex Warren – Rodriguez, chuyên gia Kinh tế trưởng của Chương trình phát
triển liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam cho rằng nếu chỉ vào ngưỡng nợ công tính trên
GDP là chưa đủ. Bởi Việt Nam chưa thể dự báo được những điều sẽ xảy ra, mà cần phải có
một “thước đo chuẩn” từ các nền kinh tế khác có hoàn cảnh và điều kiện kinh tế tương tự.
9


Dẫn ví dụ từ trường hợp của Argentina, một quốc gia dù có mức nợ công dưới 60% và

ngân sách tài chính khá tốt, nhưng vẫn xảy ra khủng hoảng nợ, chuyên gia Alex Warren –
Rodriguez phân tích: “Điều quan trọng là chúng ta phải giám sát được thực trạng kinh tế vĩ
mô. Nợ công và nợ tư xuất phát từ tình hình tài chính, dựa trên tình hình kinh tế Việt Nam,
thế giới. Do đó cần mở rộng cách thức suy nghĩ và hiểu về nợ và phân tích nợ. Khi đó, mới
dự đoán được tình huống nợ có thể xảy ra. Ví dụ việc tăng thuế, có tác động tốt đến tài
chính công hiện tại, nhưng cũng ảnh hưởng đến khả năng bền vững của tài chính công về
dài hạn. Trường hợp của Argentina, trong những năm 90 của thế kỷ trước, các cơ quan của
Chính phủ Argentina, họ đưa ra chính sách tài chính công rất tốt, như thâm hụt ngân sách
dưới 3%, nợ công tính trên GDP dưới 60%, lạm phát thấp, và Argentina cũng là nước giàu.
Tuy nhiên, mọi việc đã thay đổi chỉ trong 3 – 4 năm, rủi ro đã xảy ra ảnh hưởng đến tài
chính công của Argentina, dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ ở nước này. Đây là những ví dụ
cho ta thấy tình hình chỉ thay đổi rất nhanh”. Nợ công của Việt Nam năm 2010 là 56,6%
GDP, dư nợ chính phủ bằng 44,3% GDP, dư nợ quốc gia bằng 42,2% GDP. Vay nợ nước
ngoài giảm, vay nợ trong nước tăng. Mặc dù vậy, mức dư nợ chính phủ và nợ quốc gia
tăng sát mức trần cho phép, điều hành ngân sách và đảm bảo an ninh tài chính trong năm
2010 gặp khó khăn.
Bản báo cáo thẩm tra (Của ai? Viết về cái gì?) cũng chỉ ra rằng, khi nợ quốc gia tăng
sát mức an toàn, vay nợ trong nước và nước ngoài gặp khó khăn và phải vay với lãi suất
cao, dẫn tới an ninh tài chính quốc gia đứng trước khó khăn cho các năm sau.
Ngưỡng nợ công của Việt Nam đã hơn 50%. Dẫu các chuyên gia kinh tế quốc tế cho
rằng, ngưỡng nợ công hơn 50% GDP của Việt nam là có thể chấp nhận được, nhưng Việt
Nam không thể chủ quan. Thực tế cho thấy ngưỡng nợ hay quy mô nợ chỉ là điều kiện cần
thiết để hạn chế các nguy cơ về ngân sách có thể xảy ra.
Như vậy, trong khi tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thông qua chỉ tiêu để dành của quốc
gia liên tục giảm thì nợ công liên tục tăng, nguồn để đầu tư tăng và ngân sách lại ngày càng
trở nên thâm hụt. Mức thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã vượt xa ngưỡng "báo động đỏ"
5%. Đây là mức còn gây tranh cãi. Thí dụ, theo mức chuẩn của khối EUR, thì thâm hụt
ngân sách không được quá 3% GDP mới được xét là thành viên của Khối. Tất nhiên, họ
phải trả giá như khủng hoảng nợ công vừa qua vì đã không tuân thủ như vậy theo thông lệ
quốc tế, khiến tính bền vững của nợ công càng bị giảm sút.

Nợ công của Mỹ hiện nay chiếm tới 90% GDP (theo Wiki là 93%). Trong đó có tới
trên 60% là do Bộ Tài chính Mỹ phát hành tín/trái phiếu để đầu tư ra nước ngoài, còn 32%
là nợ do sử dụng Quỹ An ninh xã hội (chủ yếu ở dạng quỹ lương hưu của người Mỹ). Như
vậy 60% "nợ" được đầu tư và mang lại lợi nhuận cho Chính phủ Mỹ, một phần được sử
dụng làm nguồn dự trữ bảo lãnh.
Đối với Việt Nam, đáng lo hơn cả là vay nợ nhưng làm ăn kém hiệu quả và khả năng
trả nợ ngày càng khó khăn hơn. Nguy cơ đã thấy rõ không giữ nổi tài chính quốc gia trong
ngưỡng an toàn. Thiếu hụt ngân sách ngày càng tăng, tỷ lệ chi ngân sách nhà nước thực
hiện so với tỷ lệ ngân sách Quốc hội biểu quyết thường cách xa nhau khoảng 20%.

10


Biểu đồ 4: Thâm hụt ngân sách của Việt Nam với các nước trên th ế giới.
Nguồn: Ngân hàng Thế giới, Natixis, UB Ngân sách QH Mỹ (2010).
2.2.3. Tài trợ nợ công ở Việt Nam
Từ những gì đã xảy ra trong thực tiễn, chúng ta cũng nhìn nhận lại những gì mà bội
chi ngân sách với những đầu tư quá hoang phí mà không cần nghĩ đến rủi ro hay không
đong đo được rủi ro. Ví như vụ Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam Vinashin với số
nợ lên tới 86.000 tỷ VND nhưng thực chất là tới 120.000 tỷ VND.
Con tàu ma Vinashin do tập đoàn quốc doanh quản lý chưa kịp ra khơi vùng vẫy
trước sóng gió đã vội đắm ngay trước bãi đóng tàu của mình để lại “tờ di chúc” với khoản
nợ khổng lồ (hơn 100.000 ngàn tỷ đồng) cho người dân lao động nghèo Việt Nam giải
quyết!
Trong báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư thì con số GDP bình quân đầu người năm
2010 tại Việt Nam ước khoảng 1.200 USD, tức GDP của cả nước năm 2010 ước đạt
khoảng 103 tỉ USD thì khoản nợ của Vinashin được xác định tương đương 6% GDP của cả
nước năm 2010. Con số GDP trên đây chỉ là ước tính, tức là có thể đạt, có thể không đạt,
từ đó tỉ lệ nợ Vinashin trên GDP cả nước có thể cao hơn 6%.
Riêng một mình Vinashin mà khoản nợ đã chiếm tỉ lệ 6% GPD, trong khi đó, khối

Doanh Nghiệp nhà nước với tiềm năng tài chính và nguồn lực to lớn nhưng mức độ lợi
nhuận thấp, thậm chí có doanh nghiệp lỗ nhiều năm liền. Do đó, mức nợ của các doanh
nghiệp nhà nước thực sự là một mối lo ngại cho nền kinh tế.
Hơn nữa, trong những năm tới, nếu những dự án đang cần rất nhiều vốn như dự án
đường sắt cao tốc Bắc – Nam (56 tỉ USD), dự án xây dựng thủ đô (60 tỉ USD), nhà máy
điện hạt nhân ở Ninh Thuận (hơn 10 tỉ USD)… được thực hiện thì mức nợ công sẽ còn
tăng cao.
Như vậy có thể thấy vấn đề nợ công chưa được quan tâm đúng mức; cách tính bội chi
chưa rõ ràng. Việc vay nợ của các tập đoàn có tính vào bội chi ngân sách hay không? Từ
bài học của Vinashin cho thấy nếu tập đoàn này bị phá sản thì Chính phủ phải can thiệp và
chịu trách nhiệm với các khoản vay của tập đoàn. Tảng băng ngầm trong những món nợ
“tư” đã bắt đầu “nổi” lên và có ít nhất 300 triệu USD nợ của riêng Vinashin đã biến thành
“nợ công” của quốc gia.
Ngày 15/9/2010, Văn phòng Chính phủ ký công văn truyền đạt ý kiến của Phó Thủ
tướng Nguyễn Sinh Hùng quyết định cho Vinashin khoản tiền 300 triệu USD để trả nợ.
Khối lượng vay vốn nước ngoài được chính phủ bảo lãnh cho Vinashin năm 2009 đã ở
mức gần 4 tỷ USD, tăng gấp 4 lần mức 0,91 tỷ USD trong năm 2005. Tỷ trọng nợ nước
ngoài trong tổng dư nợ của Chính phủ cũng tăng lên mức 14,27% năm 2009, gấp 2 lần
mức 6,4% năm 2005. năm 2005- 2010, dư nợ được Chính phủ bảo lãnh tăng qua các năm.
Bình quân 5 năm qua tăng khoảng 40%/năm. Trong đó, nợ trong nước tăng khoảng
42%/năm, nợ nước ngoài tăng khoảng 38%/năm. Tỷ lệ dư nợ được Chính phủ bảo lãnh so
với GDP cũng tăng qua các năm, bình quân ở mức 7% GDP/năm, trong đó, bảo lãnh vay
nợ trong nước ở mức 5% GDP/năm và bảo lãnh vay nợ nước ngòai ở mức 2% GDP/năm.
Báo cáo của Chính phủ Việt Nam nói năm 2010 có 20/21 đơn vị thuộc khối tập đoàn, tổng
công ty 91 làm ăn có lãi, trừ Vinashin. Như vậy chúng ta thấy được thực trạng đầu tư công
11


của Việt Nam quá quan liêu, yếu kém, không mang lại hiệu quả, nếu chưa muốn nói còn
thua lỗ.

Trên đấy mới chỉ là đơn cử một trường hợp điển hình về Vinashin. Ngoài ra, Việt
Nam còn rất nhiều những tài trợ công không hiệu quả. Chính phủ đi vay nợ để đầu tư
nhưng lại không làm cho đồng tiền sinh lợi để thu lợi nhuận và trả lãi. Quá ưu ái những
“đứa con cưng”, những tập đoàn, doanh nghiệp Nhà nước mà Chính phủ đã khiến cho tình
trạng nợ công của Việt Nam ngày một trầm trọng. Nếu Nhà nước vẫn tiếp tục tài trợ nợ
công kiểu này thì chắc chắn Việt Nam sẽ sớm vượt ngưỡng an toàn về nợ công mà hiện
chúng ta đang ở ngưỡng cảnh báo.
2.3.

Nguyên nhân dẫn đến nợ công

o Nguồn thu giảm sút là một nguyên nhân dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách và
gia tăng nợ công. Trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở Việt Nam là nhân tố làm giảm
nguồn thu ngân sách. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), kinh tế không chính
thức ở Việt Nam ở mức 15,6% GDP so với 13,1% GDP của Trung Quốc và Singapore;
11,3% GDP của Nhật Bản. Hệ thống thuế với nhiều mức thuế cao và bộ luật phức tạp cùng
với sự điều tiết dư thừa và thiếu hiệu quả của cơ quan quản lý là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng trốn thuế và kinh tế ngầm phát triển ở Việt Nam. Việt Nam là một trong những nước
có tỷ lệ tham nhũng cao. Không chỉ có công nhân viên chức không chịu nộp thuế, mà việc
nhận tiền hối lộ còn khá phổ biến từ Trung ương đến địa phương.
o Do sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng nguồn vốn
không hiệu quả: Chính phủ gia tăng huy động vốn trong từ bên ngoài như vay nước ngoài,
phát hành trái phiếu chính phủ…. Việc chính phủ đã chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở
hạ tầng) mà hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ dẫn đến mức nợ ngày càng
tăng. Bên cạnh đó, với việc Việt Nam gia nhập nhóm nước thu nhập trung bình, các khoản
vay quốc tế ưu đãi sẽ dần không còn nữa mà thay vào đó là các khoản vay thương mại với
lãi suất cao hơn nhiều.
o Nguyên nhân thứ ba là khi nhắc đến nợ công, người ta còn phải tính đến các khoản
do chính quyền địa phương hoặc doanh nghiệp đi vay dưới sự bảo lãnh của Chính phủ.
Theo ước tính, khoản vay của doanh nghiệp hiện chiếm khoảng 10% tổng dư nợ công và là

khoản đáng lo ngại nhất bởi phần lớn là vay với kỳ hạn ngắn. Trong trường hợp doanh
nghiệp mất khả năng trả nợ, Chính phủ đương nhiên sẽ phải gánh trách nhiệm với tư cách
là người bảo lãnh. Như vậy thì nợ công sẽ tăng lên.
o Mức lãi suất cao khiến việc vay mới và tài trợ nợ công trở nên đắt đỏ hơn, do vậy
ảnh hưởng tới tính bền vững của nợ công. Một bằng chứng cụ thể là ngay cả khi mới sớm
thoát khỏi suy giảm kinh tế thì chỉ số CPI và lãi suất ở Việt Nam đã tăng nhanh trở lại, cao
hơn nhiều so với hầu hết các nền kinh tế trong khu vực. Hệ quả là khi Chính phủ đi vay
bằng cách phát hành trái phiếu trong nước, lợi suất phải trả đã lên tới 11-12%. Tương tự
như vậy, khi Chính phủ phát hành trái phiếu quốc tế, phải trả cũng cao hơn so với các đối
thủ cạnh tranh (như Indonesia và Philippines) do mức độ rủi ro cao hơn.
o Một nguyên nhân sâu xa hơn và cũng không kém phần quan trọng đó chính là hiệu
quả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam còn kém hiệu quả, nạn tham nhũng,
quan liêu tràn lan…Về nguyên tắc, nợ công của Việt Nam bao gồm nợ của Chính phủ, của
các chính quyền địa phương và phần vay của doanh nghiệp do Chính phủ bảo lãnh. Tuy
nhiên, nhiều chuyên gia khuyến cáo cần tính tới cả phần doanh nghiệp Nhà nước tự đi vay,
vì suy cho cùng nếu doanh nghiệp có vấn đề gì, Nhà nước với tư cách chủ sở hữu cũng sẽ
phải đứng ra xử lý thay, đơn cử như trường hợp của một tập đoàn kinh tế quy mô lớn gần
đây như Vinashin chẳng hạn.
12


o Việc tiếp tục áp dụng các biện pháp kích cầu, tăng trưởng còn chủ yếu dựa vào đầu
tư, trong khi đó nhiều dự án đầu tư không hiệu quả, chậm tiến độ. Điều này dẫn đến tỷ lệ
bội chi ngân sách cao và Chính phủ phải vay nợ để bù đắp.
o Tính bền vững của nợ công không chỉ phụ thuộc vào cán cân ngân sách mà còn
phụ thuộc vào một số nhân tố khác. Đầu tiên là tốc độ tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng GDP
cao là điều kiện cần để tăng nguồn thu và đạt thặng dư ngân sách. Tuy nhiên, nếu tăng
trưởng GDP chỉ do tăng các yếu tố đầu vào vật chất (vốn và lao động) mà không tăng được
năng suất thì chắc chắn đến một lúc nào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ giảm. Có vẻ như điều
này sẽ xảy ra cho Việt Nam trong khoảng 7-10 năm tới, vì theo Viện Nghiên cứu quản lý

kinh tế trung ương, trong những năm gần đây tốc độ tăng năng suất của Việt Nam khá
thấp, và tăng trưởng GDP chủ yếu nhờ vào việc gia tăng lao động và vốn. Theo dự báo của
EIU, tốc độ tăng GDP trung bình hằng năm của Việt Nam sẽ giảm còn khoảng 5% sau năm
2020 và 3-4% sau năm 2030.
o Khủng hoảng nợ công cũng đến do việc chính phủ không minh bạch các số liệu,
chính phủ cố gắng vẽ nên bức tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách về những
chính sách sắp ban hành để khắc phục những khó khăn về ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ
mô thì hiệu lực của những chính sách đó sẽ bị hạn chế nhiều.
o Do tiết kiệm trong nước thấp dẫn đến việc vay nợ cho chi tiêu công cao dẫn đến nợ
công ngày càng tăng cao. Ngoài ra, hệ thống lương hưu cũng tạo nên những gánh nặng
không nhỏ cho chi tiêu công.
Nếu so sánh giữa mức gia tăng nợ công trong thời gian qua với tốc độ tăng trưởng
GDP thì việc Việt Nam mang nợ như hiện nay là không đáng. Không thể lấy một số nước
có tỷ lệ nợ so với GDP tới 200% để biện minh bởi họ là những nền kinh tế phát triển, việc
vay nợ được quản lý rất chặt và đầu tư hiệu quả. Việt Nam thì chưa làm được điều này.

13


PHẦN 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
Như trên đã phân tích về lý luận và thực tiễn một số nền kinh tế lớn trên thế giới,
khi xem xét, đánh giá nợ công không chỉ chú ý vào tỷ lệ nợ/GDP cao hay thấp mà quan
trọng hơn là hiệu quả sử dụng vốn vay như thế nào, tức là quản lý nợ công có hiệu quả,
phát huy được các tác động tích cực của nợ công và giảm bớt tác động tiêu cực của nó.
Hiệu quả sử dụng các khoản vay nợ phụ thuộc nhiều vào chính sách quản lý các khoản vay
của ngân sách nhà nước. Do tính chất khác biệt giữa nguồn vay và nguồn từ thuế và phí,
việc quản lý một cách chặt chẽ đòi hỏi phải có các cơ chế quản lý riêng biệt đối với các
khoản chi từ nguồn vay nợ và các khoản chi thông thường (từ nguồn thu thuế và phí). Theo
đó, các khoản chi từ nguồn vay nợ đòi hỏi phải có các quy định quản lý chặt chẽ theo hiệu
quả đầu ra, đảm bảo các tiêu chí về hoàn trả nợ (gốc và lãi), tiêu chí về tiến độ giải ngân và

hiệu quả sử dụng vốn, tiêu chí về giảm thiểu rủi ro và các tiêu chí khác. Những quy định
này thường áp dụng với mức độ đòi hỏi thấp hơn, hoặc không áp dụng đối với các khoản
chi tiêu ngân sách thông thường (được chi từ nguồn thu thuế và phí). Việc có những quy
định về quản lý ngân sách riêng biệt đối với các khoản chi từ nguồn vay nợ được coi là một
tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá tính bền vững của nợ công nói riêng và ngân sách
nhà nước nói chung.
Để nợ công được quản lý chặt chẽ từ khâu vay nợ, sử dụng và thanh toán nợ đến hạn,
nâng cao hiệu quả sử dụng, giữ vững uy tín quốc gia trong thanh toán nợ, đảm bảo an ninh
tài chính đối với các khoản nợ công, hạn chế rủi ro, cần thực hiện tốt một số nội dung như
sau:
o Một là, Chính phủ cần xây dựng kế hoạch chiến lược về vay nợ công trên cơ sở và
phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch thu, chi ngân sách nhà nước
trong từng giai đoạn, thời kỳ. Kế hoạch chiến lược về vay nợ công xác định rõ mục đích
vay (vay nợ để tài trợ thâm hụt ngân sách, tái cơ cấu nợ và cho vay lại hoặc vay để tài trợ
cho các chương trình, dự án đầu tư quan trọng, hiệu quả, vay nhằm đảm bảo an ninh tài
chính quốc gia), mức huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo từng đối tượng
vay trong nước và ngoài nước, với hình thức huy động vốn và lãi suất thích hợp. Kế hoạch
chiến lược về vay nợ công cũng cần chỉ rõ đối tượng sử dụng các khoản vay, hiệu quả dự
kiến; xác định chính xác thời điểm vay, số vốn vay từng giai đoạn, tránh tình trạng tiền vay
không được sử dụng trong thời gian dài hoặc chưa thực sự có nhu cầu sử dụng.
o Hai là, đảm bảo tính bền vững về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nợ công, có
khả năng thanh toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi ro, chi phí. Muốn
vậy, cần thiết lập ngưỡng an toàn nợ công; đồng thời thường xuyên đánh giá các rủi ro phát
sinh từ các khoản vay nợ Chính phủ trong mối liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước,
tổng kim ngạch xuất khẩu, cán cân thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích
lũy để trả nợ…
o Ba là, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay về cho vay lại và các khoản vay được
Chính phủ bảo lãnh. Chính phủ vay về cho vay lại và bảo lãnh vay là các hoạt động thường
phát sinh khi doanh nghiệp cần huy động một lượng vốn lớn trên thị trường vốn quốc tế,
nhưng không đủ uy tín để tự mình đứng ra vay nợ. Khi đó, Chính phủ có thể giúp doanh

nghiệp tiếp cận được với các nguồn vốn quốc tế với quy mô lớn, lãi suất thấp. Các khoản
vay và bảo lãnh này thực chất là nghĩa vụ ngân sách dự phòng, làm nảy sinh nguy cơ ngân
sách nhà nước phải trang trải các khoản nợ của khu vực doanh nghiệp trong tương lai, khi
doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc mất khả năng thanh toán. Nguy cơ này sẽ càng cao hơn
nữa khi Chính phủ vay và phát hành bảo lãnh không dựa trên những phân tích thận trọng
về mức độ rủi ro cũng như năng lực trả nợ của doanh nghiệp. Do đó, việc vay về cho vay
lại và bảo lãnh vay cần hết sức thận trọng, chỉ nên ưu tiên cho các chương trình, dự án
trọng điểm của Nhà nước hoặc thuộc các lĩnh vực ưu tiên cao của quốc gia. Kiểm soát chặt
14


chẽ các khoản vay nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh và việc cấp bảo lãnh cho các
doanh nghiệp vay nợ trong nước; khuyến khích phát triển mô hình hợp tác công - tư .
o Bốn là, nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm soát vào việc sử dụng vốn vay, vốn
được Chính phủ bảo lãnh. Chúng ta cần nhìn nhận và đánh giá lại hiệu quả đầu tư các dự
án để tăng cường hiệu quả sử dụng đồng vốn, tăng cường hiệu quả đầu tư. Chúng ta phải
theo đuổi mục tiêu phát triển kinh tế đi đôi với kiểm soát tiền vay và vạch ra kế hoạch trả
nợ. Đây là vấn đề cốt yếu đảm bảo cho khả năng trả nợ và tính bền vững của nợ công.
Chính phủ là người đứng ra vay nợ, nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng các
khoản vốn vay, mà là các chủ dự án, các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh nghiệp;
trong mọi trường hợp, ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủi ro trong toàn bộ quá
trình vay nợ. Để bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân
thủ hai nguyên tắc cơ bản là: không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương mại nước
ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và bảo
đảm khả năng trả nợ; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên quá trình sử
dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị sử
dụng trực tiếp vốn vay như: tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương
mại, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng.
o Năm là, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ công.
(Nghị định 79 về quản lý nợ công đã có tiến bộ khi đề cập tới yêu cầu công khai minh bạch

nợ công và dự trù ngân sách nhà nước để trả nợ dần. Những nhà kinh tế học đang trông
chờ Nghị định 79 được triển khai sẽ công bố rõ hơn những số liệu kinh tế hiện nay) Việc
công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng các khoản nợ
công và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ công. Để thực hiện tốt nguyên
tắc quan trọng đó, nợ công cần phải được tính toán, xác định đầy đủ trong quyết toán ngân
sách nhà nước và phải được cơ quan chuyên môn độc lập kiểm tra, xác nhận.
o Sáu là, điều cần thiết hiện nay là Nhà nước ta phải thay đổi mô hình tăng trưởng
dựa vào vốn, cải thiện lại năng suất và tăng mức độ hiệu quả doanh nghiệp nhà nước thì
mới có thể tăng cường chi tiêu đầu tư, sử dụng chính sách tài khóa một cách hiệu quả. Do
đó, việc nên làm là phải ổn định lại các yếu tố vĩ mô khác để đảm bảo tăng trưởng bền
vững trong dài hạn, tuyệt đối không chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng cao.
o Bảy là, phát hành trái phiếu và in tiền là hai phương pháp giải quyết bài toán thâm
hụt ngân sách và tăng vốn đầu tư, nhưng lại gây ra lạm phát. Hơn nữa mức độ hiệu quả sử
dụng vốn từ Chính phủ còn quá kém nên khối nợ công ngày một lớn hơn mà lại có tác
động thấp tới kích thích tăng trưởng kinh tế. Sử dụng hai kênh này phải đúng thời điểm và
có đánh giá đúng tác động đánh đổi qua lại giữa các chỉ tiêu vĩ mô có thể có, một cách hợp
lý.
o Tám là, cần giảm thiểu thâm hụt ngân sách quốc gia. Do thâm hụt ngân sách cần
khoản bù đắp, hệ quả là khả năng trả nợ lại càng kém đi. Hãy học tập từ bài học ở châu Âu
khi đối phó với khủng hoảng hồi đầu năm 2010. Họ tăng cường tiết kiệm, giảm trợ cấp,
tăng thuế đối với người thu nhập cao, thoái vốn tại những doanh nghiệp làm ăn không hiệu
quả... Kết quả là trong quý II năm 2010, thay vì tăng trưởng âm, kinh tế châu Âu đã phát
triển 1%.
o Chín là, Nhà nước ta nên đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tìm cứu cánh lúc cần thiết.
Cũng phải nói tới một bất lợi đối với Việt Nam là hệ số rủi ro của ta còn ở mức cao,
6,75%, lại thêm thanh khoản thấp, tần suất vay của ta ít nên khi đi vay bao giờ ta cũng phải
vay với lãi suất cao. Trong khi đó, Indonesia và Phillippines tuy có hệ số rủi ro tương
đương Việt Nam nhưng họ vẫn được ưu đãi hơn khi đi vay nhờ tính thanh khoản cao hơn
và tích cực hơn trong hợp tác quốc tế.
15



o Cuối cùng, không nên đầu tư vào các siêu dự án chỉ vì vay vốn quá dễ dàng mà
không tính tới hiệu quả đầu tư và khả năng trả nợ.
Nợ quốc gia có thể cao nhưng với cơ cấu trả nợ và vay nợ hợp lý thì mới tăng khả
năng kích thích tăng trưởng kinh tế. Việt Nam cần công khai và tính toán đầy đủ các khoản
vay, thu chi ngân sách, các khoản bảo lãnh của Chính phủ với các tổ chức, các khoản nợ
của doanh nghiệp nhà nước. Từ đó mới có thể đưa ra kế hoạch vay mượn, trả nợ và sử
dụng vốn cho phù hợp.

16


KẾT LUẬN
Như vậy, qua những phân tích ở trên phần nào chúng ta đã hiểu được tình thế của
kinh tế Việt Nam nói chung và nợ Chính phủ nói riêng. Có thể nói Việt Nam đang đứng
giữa ranh giới của bờ vực thẳm. Nợ công ở Việt Nam tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân
sách thì kéo dài suốt bao năm qua. Mở rộng đầu tư công với quy mô lớn nhưng hiệu quả
đầu tư lại vô cùng thấp kém kèm theo lạm phát tăng, lãi suất cũng tăng khiến tài trợ nợ
công càng đắt đỏ và mức độ nợ công ngày càng lớn. Trong khi đó Bộ Tài chính chưa đưa
ra được một chiến lược cụ thể để quản lý nợ công. Tất cả những câu hỏi, thắc mắc về nợ
công, một bài toán lớn cần giải quyết ngay thì vẫn đang bị bỏ ngỏ. Tính an toàn của nợ
công trong giai đoạn tới sẽ ở mức độ nào? Nợ công sẽ được tài trợ ra sao? Đây là câu hỏi
chờ đợi câu trả lời từ Chính phủ.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- www.cafef.vn

- www.vneconomy.vn
- www.doanhnhan360.com
- www.vnbusiness.vn
- www.bsc.com.vn
- www.vcbs.com.vn
- www.daibieunhandan.vn
- www.tapchicongsan.org.vn
- www.vietnamnet.vn
- www.vnexpress.net
- www.vi.wikipedia.org

- TS. Trần Du Lịch, “Tái cơ cấu đầu tư công – Nhìn trong mối tương quan hệ thống
với sự phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia” - Tạp chí Phát triển kinh tế số 243,
tháng 1/2011.
- Lê Quốc Hội, “Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2010 và khuyến nghị cho năm
2011” - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 392, tháng 1/2011.
- Hoàng Vĩnh Long, “Vinashin_bài học cho chiến lược phát triển” - Tạp chí Nghiên
cứu kinh tế số 392, tháng 1/2011.
- Nghị quyết về việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật
quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước.
- Nguyễn Văn Lịch, “Khủng hoảng nợ của Hy Lạp: thực trạng và triển vọng” - Tạp
chí Nghiên cứu kinh tế số 392, tháng 1/2011.

18


MỤC LỤC

19




×