Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đề tài: Cách điều hành tỷ giá của chính phủ Việt Nam, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (804.52 KB, 22 trang )

GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc

MỤC LỤC

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 1


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Tình hình tỷ giá USD/VND từ năm 1990 đến năm 2014 (nguồn:
Tổng Cục Thống Kê).
Biểu đồ 2: Diễn biến tỷ giá từ đầu năm 2015 đến nay (Nguồn: Biz Live)
Biểu đồ 3: Các thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Năm năm 2014
(nguồn: Tổng Cục Hải Quan)
Biểu đồ 4: Xuất nhập khẩu theo nhóm loại hình chính năm 2014 (nguồn: Tổng
Cục Hải Quan)
Bảng 1: Các thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Năm năm 2014
(nguồn: Tổng Cục Hải Quan)
Bảng 2: Nhóm 10 hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 2014 (nguồn: Tổng
Cục Hải Quan)
Bảng 3: Xuất nhập khẩu theo nhóm loại hình chính của Việt Nam (nguồn: Tổng
Cục Hải Quan)

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 2



GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc

1. Sự điều hành tỷ giá của Chính phủ Việt Nam
1. 1 Sự hình thành và vận động của tỷ giá cùng chính sách tỷ giá hối đoái trong giai
đoạn trước tháng 3/1989 thời kế hoạch hoá, tập trung kinh tế.
Năm 1950 được coi như là một cái mốc khi mà Trung Quốc, Liên Xô và các nước chủ
nghĩa xã hội Đông Âu thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, đặt nền móng đầu tiên cho
việc hình thành các quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và các nước. Trong hai năm
liên tiếp, 1952-1953, Việt Nam lần lượt kí hiệp định thương mại và nghị định thư mậu dịch
tiểu nghạch với Trung Quốc. Từ ngày 25 tháng 11 năm 1955, tỷ giá chính thức được quy định
giữa đồng Việt Nam (VND) và nhân dân tệ Trung Quốc (CNY) là 1 CNY=1470 VND. Tỷ giá
giá này được xác định dựa trên việc so sánh giá bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại một số
tỉnh lớn của hai nước. Vào thời điểm này, tỷ giá Rúp của Liên Xô (SUR) và nhân dân tệ của
TrungQuốc (CNY) là 1 CNY = 2SUR. Từ đó, tỷ giá tính chéo tạm thời giữa đồng Việt Nam
và Rup của Liên Xô là 1 SUR = 735VND.
Sau đợt đổi tiền vào đầu năm 1959 (1 đồngViệt Nam mới bằng 1000 đồng Việt Nam
cũ) cũng đã có những điều chỉnh tỷ giá tương ứng với sự thay đổi mệnh giá của đồng tiền
(1SUR = 0,735VND). Đến đầu năm 1961 tỷ giá giữa đồng Việt Nam và Rup của Liên Xô
được điều chỉnh lại là 1SUR=3,27VND, do hàm lượng vàng trong đồng Rup được điều chỉnh
tăng 4,44 lần. Năm 1977, các nước xã hội chủ nghĩa thoả thuận thanh toán với nhau bằng tiền
Rup chuyển nhượng (là đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước trong
khối với tỷ giá được quy định sao cho tài khoản giữa các bên sau khi trao đổi ngoại thương
theo khối lượng đã được ghi trong hiệp định ký kết vào đầu năm thì cuối năm số dư phải bằng
zero) có hàm lượng vàng quy định là 0,98712 gam trên mỗi đồng Rup chuyển nhượng.
Bên cạnh tỷ giá Nhà nước còn sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ 1SUR=5,64VND, được
hình thành từ năm 1958 và được xác định trên cơ sở so sánh giá cả hàng hoá xuất khẩu của
Việt Nam bằng đồng Rup nhân dân tệ với giá hàng hoá đó bằng đồng Việt Nam trong 3 năm
1955, 1956, 1957. Tỷ giá kết toán nội bộ này dùng để thanh toán giữa các tổ chức và đơn vị
kinh tế Nhà nước có thu chi ngoại tệ với ngân hàng, tính thu chi với các đối tác ngoại thương.
Tỷ giá kết toán nội bộ này được xác định cố định cho đến tận năm 1986 mới được điều chỉnh

lại là 1SUR=18VND, năm 1987 điều chỉnh lại là 1SUR=150VND, cuối năm 1988 mới được
điều chỉnh lại là 1SUR=700VND và cho đến tháng 3 năm 1989 thì huỷ bỏ chế độ kết toán nội
bộ này.
Sau khi bắt đầu có chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài (1985) thì vấn đề luồng
ngoại tệ bằng Dola Mỹ vào Việt Nam phải được tính đến (nhất là khi Việt Nam thông qua luật
đầu tư nước ngoài vào năm 1987). Và tỷ giá hối đoái chính thức giữa đồng Việt Nam và Dola
Mỹ đã được xác định một cách chủ quan theo tỷ giá hiện tại giữa đồng Việt Nam và đồng Rup
(năm 1985: 1SUR=18VND và mối tương quan Dola-Rup xem như tương đương 1:1. Do đó,
tỷ giá hối đoái chính thức giữa đồng Việt Nam và Dola Mỹ vào năm 1985 là 1USD=18VND).
Cũng bắt đầu từ năm này, thị trường ngoại tệ chợ đen mà chủ yếu là thị trường Dola Mỹ bắt
đầu bột phát một cách mạnh mẽ với sự trợ lực của ba dòng chảy là: dòng kiều hối của kiều
bào đổ về thay thế dân cho những kiện hàng quà biếu mà một phần đáng kể là dưới hình thức
bất hợp pháp. Những lượng lớn Dola Mỹ được cất trữ từ khi miền Nam được giải phóng bởi
các tiểu tư sản Sài Gòn cũ cũng bắt đầu được tung ra ít nhiều. Thứ ba, cùng với việc xoá bỏ
ngăn sông cấm chợ thì dòng chảy hàng buôn lậu qua biên giới cũng gia tăng theo. Mức tỷ giá
hối đoái trên thị trường chợ đen được hình thành và vận động theo những tín hiệu quy luật thị
trựờng đã có một sự chệnh lệch lớn so với tỷ giá chính thức, sự bất hợp lý trong việc xác lập
tỷ giá hối đoái ở giai đoạn này thực chất không quan trọng đối với cả nền kinh tế nói chung vì
tỷ giá là một loại giá cả, mà bản thân phạm trù giá cả cơ bản là không tồn tại trong nền kinh tế
tập trung, bao cấp ngoại trừ việccó ảnh hưởng xấu đến ngân sách Nhà nước.

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 3


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc
Với việc thực hiện tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá chính thức thường cố định trong
thời gian tương đối dài và thấp hơn rất nhiều so với mức tỷ giá trên thị trường. VD: giai đoạn
từ năm 1985 đến 1988, 1 Rup có giá vào khoảng 1500 VND, 1Dola có giá vào khoảng 3000

VND. Trong khi đó, tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh toán quan hệ xuất nhập khẩu ở mức
khoảng 1SUR=150VND và 1USD=225VND. Từ đó, 1 Rup nhập khẩu Nhà nước phải bù lỗ
một số tiền là 1350 đồng và 1 Dola phải bù lỗ 2775 đồng. Như vậy, nếu kim ngạch trong năm
1987 là 650 triệu SUR-USD, trong đó khu vực đồng Rup là 500 triệu và khu vực Dola là 150
triệu thì số tiền phải bù lỗ lên đến 900 tỷ VND. Tình hình này dẫn đến một thực trạng là
những địa phương, những ngành nghề nào đó càng xuất khẩu nhiều thì ngân sách Nhà nước
càng phải bù lỗ nhiều. Nếu bù lỗ không đủ hay chậm trễ sẽ dẫn đến tình trạng nợ chồng chất
lẫn nhau và thiếu vốn kinh doanh.
Bên cạnh đó, do tỷ giá chính thức quy định thấp, các tổ chức kinh tế và cá nhân có
ngoại tệ lại tìm cách không bán cho ngân hàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân
nước ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản ở ngân hàng để chi tiêu mà thường
đưa hàng từ nước ngoài vào hay sử dụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường. Thực tế này vừa
gây thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước vừa làm phát sinh những tiêu cực trong đời sống kinh tế
xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ những hoạt động phi pháp và chính điều này tác động ngược trở lại
làm tình hình tỷ giá trong thị trường càng diễn biến phức tạp. Đối với nhập khẩu, Nhà nước
thường đứng ra phân phối nguyên vật liệu, trang thiết bị, máy móc nhập khẩu cho các ngành
đơn vị trong nền kinh tế với giá rẻ (theo tỷ giá chính thức). Như vậy, các ngànhh, các đơn vị
được phân phối hàng nhập khẩu thì được chênh lệch giá. Do đó, cách thức xây dựng và điều
hành tỷ giá cùng cơ chế ngoại thương như vậy đã được xem là một trong những nguyên nhân
cơ bản dẫn đến những thâm hụt trầm trọng trong ngân sách Nhà nước ở giai đoạn này. Tóm
lại, tỷ giá hối đoái được xác lập và vận hành ở Việt Nam trong giai đoạn trước tháng 3/1989 là
một hệ thống khá phức tạp, được xác lập theo ý đồ phục vụ cho kế hoạch do Nhà nước quyết
định, không xuất phát từ luật thực tại trong nền kinh tế trong và ngoài nước mà hậu quả là làm
cho việc tính toán, phản ánh thu chi ngân sách Nhà nước bị sai lệch, công tác điều hành ngân
sách Nhà nước gặp khó khăn, cản trở các quan hệ kinh tế cả trong và ngoài nước. Đây cũng là
vừa một biểu hiện và cũng vừa là kết quả của một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.

1. 2 Sự vận động của tỷ giá và chính sách tỷ giá hối đoái từ tháng 3/1989 đến nay,
thời kì nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ
nghĩa.

1. 2.1 Giai đoạn từ 1989-1992
Giai đoạn này có thể được coi là cái mốc quan trọng trong phát triển tỷ giá hối đoái ở
nước ta khi quan hệ ngoại thương được bao cấp với các thị trường truyền thống Đông Âu và
Liên Xô (cũ) bị gián đoạn, khiến chúnh ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán
bằng dola Mỹ. Kể từ đó cơ chế tỷ giá ổn định đã được thay thế dần bằng cơ chế Nhà nước
điều tiết theo quan hệ thị trường. Để đi tới một chính sách tỷ giá hối đoái tự chủ như ngày
nay, cơ chế quản lý ngoại tệ nói chung, quản lý hối đoái nói riêng đã trải qua những điều
chỉnh lớn. Chính trong giai đoạn này nền kinh tế chịu tác động của chính sách thả nổi tỷgiá.
Tỷ giá hối đoái VND/USD biến động mạnh theo xu hướng giá trị đồng dola Mỹ tăng liên tục
kèm theo các cơn “sốt”, các đột biến với biên độ rất lớn (Từ cuối năm1990 trở đi). Đỉnh cao
của mức tăng tỷ giá USD là cuối năm 1991.
Ngày 4/12/1991 giá dola Mỹ trên thị trường tư nhân tại Hà nội và Thành phố Hồ Chí
Minh là 14. 450VND/USD. Giá dola trong tháng 12/1990 đã tăng từ 60 đến 80% so với mức
giá đầu năm. Mặc dù trong giai đoạn 1989-1992 chính sách quản lý ngoại tệ của Nhà Nước đã
có nhiều thay đổi, như chuyển từ hình thức quản lý theo tỷ giá kết toán nội bộ bình quân cho
tất cả các nhóm hàng hoá và duy trì tương đối ổn định các tỷ giá này, hoặc nếu có thay đổi thì

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 4


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc
cũng chỉ ở mức nhỏ nhằm ổn định hệ thống giá vật tư và xuất khẩu, nhập khẩu, nên tỷ giá
công bố vẫn cách xa mức giá hình thành trên thị trường.
Diễn biến tỷ giá hối đoái từ năm1989 đến năm 1992 không những nói nên khoảng
cách giữa tỷ giá của nhà nước với tỷ giá hình thành trên thị trường tự do mà còn phản ánh xu
hướng tăng nhanh của giá trị đồng dola ở cả khu vực nhà nước lẫn thị trường. Năm 1990, giá
trị đồng dola vào thời điểm cuối năm đã tăng tới 50% so với đầu năm. Mức tăng giá USD
trong 1991 còn cao hơn. Tình trạng leo thang của giá đồng dola đã kích thích tâm lý nắm giữ

đồng dola, nhằm đầu cơ ăn chênh lệch giá. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng
cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước. Mọi
cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại hiệu quả. Giai đoạn này Ngân hàng không
kiểm soát được lưu thông tiền tệ. Trong các năm 1991-1992 do ảnh hưởng của sự đổ vỡ các
mối quan hệ ngoại thương với Liên Xô và Đông Âu, nhập khẩu giảm sút một cách nghiêm
trọng (năm 1991 là 357. 0 triệu USD đến năm 1992 chỉ còn 91,1 triệuUSD ). Các doanh
nghiệp tiến hành nhập khẩu theo hình thức trả chậm và phải chịumột lãi suất cao do thiếu
dola, dola đã thiếu lại càng thiếu dẫn đến các cơn sốt dolatheo chu kỳ vào giai đoạn này. Đến
đầu năm 1992 Chính phủ đã có một số cải cách trong việc điều chỉnh tỷ giá (như buộc các
doanh nghiệp có dola phải gửi vào ngân hàng, bãi bỏ hình thức quyđịnh tỷ giá theo nhóm
hàng…) làm cho giá dola bắt đầu giảm (cuối năm 1991 tỷ giáVND/USD có lúc lên tới 14500
đến tháng 3/1992chỉ còn 11550 VND/USD và tiếptục giảm cho đến cuối năm 1992.
1.2.2 Giai đoạn cố định tỷ giá 1993-1997
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước vào
thị trường ngoại tệ, tỷ giá dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ đầu cơ trong các doanh
nghiệp được tung ra, hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu. Động thời có một lượng
ngoại tệ được chuyển về do người Việt Nam ở nước ngoài gửi về cho người thân tăng lên
khoảng 300-400 triệu USD làm cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và kéo theo tỷ giá
VND/USD giảm mạnh. Lĩnh vực tài chính - tiền tệ bắt đầu trở ngại. Bên cạnh đó, cùng với
việc quản lý các đại lý thu đổi ngoại tệ còn lỏng lẻo, sự chênh lệch lớn giữa tỷ giá hối đoái ở
thị trường chính thức và thị trường chợ đen dẫn đến việc các đại lý lợi dụng danh nghĩa của
Nhà nước để buôn bán trục lợi, các ngân hàng không thu mua được lượng ngoại tệ đáng kể
qua nguồn này. Một mặt tình trạng này làm hạn chế khả năng kiểm soát các luồng ngoại tệ lưu
hành trong nước. Mặt khác làm gia tăng các giao dịch trên thị trường chợ đen bất hợp pháp,
tâm lý đầu cơ, găm giữ ngoại tệ tăng mạnh.
Việc ngân hàng Nhà nước khống chế chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán là cứng
nhắc. Điều này làm cho tỷ giá vận hành thoát ly hoàn toàn quan hệ cung cầu và không khuyến
khích các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại hoạt động theo đúng quan hệ nội tại
của nó và thực tế không ít các ngân hàng thương mại đã phá rào. Cuối cùng sự vận động của
tỷ giá trong giai đoạn này đã gợi nên một số điểm cần lưu ý trong việc điều hành chính sách

như sau:
- Trước tiên, những vận động của tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này cho thấy tỷ giá
hối đoái của Việt Nam phá nhạy cảm trước những thay đổi của tình hình kinh tế từ bên
ngoàivà yếu tố tâm lý, cán cân thương mại luôn là những yếu tố có trọng số lớn đối với sự vận
động của tỷ giá hối đoái.
- Việc sử dụng các công cụ hành chính trong can thiệp vào tỷ giá là cần thiết vào
những lực cung cầu, ngoại tệ có những mất cân bằng nhưng phải đủ mạnh để yếu tố tâm lý
không có khả năng phát huy tác động xấu.
Trước những tồn tại của việc”thả nổi” mất kiểm soát tỷ giá, chính phủ đã thay đổi cơ
chế điều hành tỷ giá với những nội dung cụ thể sau:
- Quy định biên độ giao động của tỷ giá với tỷ giá chính thức được công bố bởi Ngân
hàng nhà nước (công bố tỷ giá chính thức mỗi ngày và xác định rõ biên độ dao động); Tăng

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 5


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc
cường sức mạnh của các biện pháp hành chính mà cụ thể là buộc các đơn vị kinh tế (trước hết
là đơn vị kinh tế quốc doanh) có ngoại tệ phải bán cho Ngân hàng theo tỷ giá nhất định.
- Bãi bỏ hoàn toàn hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại
thương giữa ngân sách với các đơn vị kinh tế tham gia vào hoạt động ngoại thương. Thay vào
đó là việc áp dụng tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước công bố.
Để hạn chế tác động của các yếu tố phi kinh tế, một mặt chính phủ đã tăng cường công
tác thông tin, cho công khai hoá một cách nhanh chóng và chính xác chỉ số kinh tế quan trọng
như tỷ giá chính thức, tỷ giá thị trường, chỉ số giá, sự biến động giá vàng… Nhờ vậy hạn chế
được hoạt động đầu cơ, giải tâm lý hoang mang.
Mặt khác, chính phủ cũng thông quan nhiều hình thức, tốc độ, mức can thiệp để thể
hiện rõ quyết tâm cải cách triệt để nền kinh tế nói chung và áp dập tắt nguy cơ bùng nổ trở lại

lạm phát nói riêng.
Mặt khác, chính phủ cũng cho thấy có sự chú trong tăng cường thực lực kinh tế cho
hoạt động can thiệp vào tỷ giá bằng cách gia tăng mạnh mẽ dự trữ ngoại tệ, lập quỹ ổn giá.
theo số liệu báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước cho thấy, chính phủ thường dành
một tỷ trọng khá lớn trong tổng lượng tiền cung ứng thêm cho nền kinh tế để tăng tài sản có
ngoại tệ. Những biện pháp can thiệp trên đã phần nào xoá đi tâm lý gặm giữ ngoại tệ, góp
phần làm giảm Dola và tỷ giá được ổn định trong những năm tiếp theo.
- Đẩy mạnh hoạt động của trung tâm giao dịch ngoại tệ (trung tâm giao dịch ngoại tệ
tại trực tiếp Hồ Chí Minh được mở cửa từ tháng 8 năm 1991) để cho các đơn vị kinh tế và các
tổ chức tín dụng trao đổi, mua bán ngoại tệ với nhau theo giá tự thoả thuận, tạo ra môi trường
điều kiện để cung cầu thực sự gặp nhau. Sau đó, tiến dần tới việc thành lập thị trường ngoại tệ
liên Ngân hàng tháng 9 năm 1994.
Tính đến cuối năm 1992, đầu năm 1993, những biện pháp can thiệp đã đem lại một kết
quả như mong đợi, nạn đầu cơ ngoại tệ về cơ bản đã được giải toả, những đồng ngoại tệ đã
được hướng mạnh và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tình hình cung - cầu ngoại tệ đã
được cải thiện với cùng kỳ trong những năm trước đó, Dola có xu hướng giảm giá. Mức tỷ giá
trên thị trường chợ đen chỉ giao động trong phạm vi từ 10.200 đến 10.400 đồng Việt Nam ăn
1 Đôla Mỹ. Thậm chí có lúc tỷ giá tụt xuống ở mức 1USD = 9.750VND. Mặc dù có nhiều ý
kiến cho rằng tình hình này phần lớn là nhờ vào lượng kiều hối vào nhiều (ước tính trong
tháng 1 năm 1993, nhân dịp tết nguyên đán, có trên 60.000 Việt kiều về thăm quê đã đem theo
một lượng ngoại tệ khoảng 400 triệu Dola Mỹ). Dĩ nhiên không thể phủ nhận đóng góp của
lượng kiều hối này vào việc làm ra tăng cung ngoại tệ trên thị trường. Trên thực tế cho thấy,
lượng kiều hối này tăng giảm hoàn toàn không ổn định qua các năm và chỉ tập trung vào
những thời gian ngắn nhất định trong năm, trong khi tình hình cung - cầu ngoại tệ và tỷ giá
hối đoái luôn được ổn định trong suốt thời gian dài từ năm 1993 đến đầu năm 1997.
Mức tỷ giá trên thị trường chính thức cũng không có sự chênh lệnh nhiều so với tỷ giá
trên thị trường chợ đen, là minh chứng cho thấy, mặc dù có sự can thiệp mạnh trở lại của nhà
nước, nhưng tỷ giá vấn được xác định tương đối phù hợp với quy luật của thị trường. Điều
này có thể được chứng minh bằng thực tế là tỷ giá của các Ngân hàng và tỷ giá trên thị trường
chợ đen biến động tương đối sát gần nhau.

Một minh chứng nữa là tính từ năm 1993 đến 1996, tình hình giá cả đồng Dola Mỹ
trên thị trường tiền tệ quốc tế thường xuyên có sự biến động mạnh so với hàng loạt các đồng
tiền chủ chốt khác như: Yên Nhật. Mác Đức, NDT của Trung Quốc… Trong khi đó, đồng
Dollar Mỹ lại có sự ổn định trên thị trường Việt Nam, điều này cho thấy biện pháp can thiệp
của chính phủ mà đặc biệt là Ngân hàng nhà nước thật sự phát huy tác dụng một cách mạnh
mẽ. Trong bối cảnh nến kinh tế thế giới và thị trường tiền tệ quốc tế đầy biến động mà nền
kinh tế xã hội Việt Nam lại đạt được sự ổn định và tăng trưởng cao, điều này đã thể hiện tính
hợp lý về cơ bản của các tỷ số kinh tế vĩ mô và tất yếu là có biến số tỷ giá hối đoái. Tuy
nhiên, khi đánh giá về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và ngoại thương của Việt Nam từ cuối

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 6


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc
năm 1992 đến đầu năm 1997, tất cả các công trình nghiên cứu trong những năm gần đây và
cũng theo nhận định chung của các nhà kinh tế thì đây là giai đoạn tăng giá mạnh của đồng
tiền Việt Nam. Các kết luận thường cho rằng: Chính điều này là nguyên nhân gây ra tình trạng
thâm hụt lớn trong ngoại thương của Việt Nam. Ví dụ: Nếu ước tính một cách tương đối và
lấy gốc là năm 1992 thì đầu năm 1997, chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam đã tăng 36.8% trong
khi ở Mỹ là 16,5% thì theo thuyết ngang giá sức mua, nếu tỷ giá chính thức vào đầu năm
1993, là 1 USD = 10.500 VND thì đầu năm 1997 tỷ giá phải là 1USD =103.000(1+ 16,5%) =
12.095VND. Trong khi đó, tỷ giá chính thức trên thị trường Việt Nam thực tế chỉ khoảng
1USD = 1.100VND. Như vậy theo ngang giá sức mua, đồngViệt Nam đã tăng giá thực tế xấp
xỉ 9%. và số liệu thực tế cho thấy nếu xét về giá trị tuyệt đối bằng tiền tệ thì thâm hụt trong
cán cân thương mại của Việt Nam đã có sự tăng liên tục qua các năm (1993 là 547, 1994 là
1170, 1995 là 2345, 1996 là 3150 triệu Dollar Mỹ). Nếu so sánh mức thâm hụt này với tổng
kim ngạch xuất khẩu thì con số cũng có chiều hướng tăng lên (năm 1993 là 8,4% năm 1994 là
12,8% năm1995 là 18,4% và năm 1996 là 17,7%).

Bên cạnh đó sự thâm hụt trong cán cân thương mại của Việt Nam phải đặc biệt nghiêm
trọng trong 3 năm liên tiếp 1994, 1995, 1996, có thể nói phần lớn là do tác động trực tiếp của
việc Trung Quốc phá giá mạnh của đồng CNY vào đầu năm 1994. Số liệu thực tế cho thấy,
ngay sau cuộc phá giá kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc (chính ngạch) tăng lên rất nhanh.
Nếu như trong năm 1992 kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc là 31,8% USD, chiếm 1,3%
tổng kim ngạch xuất khẩu thì trong các năm 1994, 1995, 1996, con số này lần lượt là 144,2%
triệu USD chiến 2,7%, 793,9 triệu USD chiếm 10,5% và 926,5% triệu USD chiếm 8,8%.
Thực tế đó cũng đã chỉ ra rằng sự điều hành chính sách tỷ giá hối đoái và chính sách ngoại
thương của Việt Nam trong giai đoạn từ cuối năm 1993 đến đầu năm 1997 đôi khi quá thụ
động. Sự phá giá mạnh của đồng CNY vào cuối năm 1993 là một sự kiện không có tác động
trực tiếp đến ngoại thương của Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nói chung. Nhưng có thể
thấy rằng trong suốt những năm 1993 đến 1995, hoàn toàn không có bất kỳ một điều chỉnh
nào trong chính sách tỷ giá hối đoái nhằm phản ánh hay đối phó tình hình này (điều này phản
ánh tính tự chủ trong chính sách tiền tệ nói chung và trong đó có chính sách tỷgiá hối đoái nói
riêng là chưa cao). Tỷ giá tính chế trực tiếp giữa NDT của Trung Quốc và Việt Nam cũng như
hoạt động buôn bán tiểu ngạch ở các tỉnh biên giới phíabắc hầu như vẫn được “thả nổi”.
1.2.3 Giai đoạn từ tháng 7/1997 đến ngày 26/2/1999
Ngày 2/7/1997 Thái lan phải “thả nổi” tỷ giá hối đoái kết thúc gần 14 năm duy trì một
chế độ cố định và cũng là ngày đánh dấu làm nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á
với một ảnh hưởng rộng khắp trên phạm vi toàn thế giới. Việt Nam cũng không thể tránh khỏi
cuộc khủng hoảng. Theo đánh giá chung của các nhà nghiên cứu cũng như của các cơ quan thì
cuộc khủng hoảng này hoàn toàn có ảnh hưởng ít nhiều đối với nền kinh tế Việt Nam. Xét
thêm góc độ vĩ mô, sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á đối với nền
kinh tế Việt Nam tạo nên một cơn sốc rộng khắp thể hiện trên một số mặt sau:
- Thứ nhất, đối với lĩnh vực Tài chính Ngân hàng
+ Tạo sức ép giảm giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại tệ
+ Tác động xấu đến hoạt động giao dịch ngoại tệ
+ Tăng gánh nặng nợ cho các doanh nghiệp
+ Gây sức ép đối với lãi suất đồng tiền Việt Nam và đe doạ sự mất ổn định của hệ
thống Ngân hàng.

+ Tác động đến xuất khẩu: tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực châu Á Thái Bình Dương chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch, riêng các nước ASIAN chiếm 23%
tổng kim ngạch trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng nên cuộc khủng hoảng tất yếu sẽ làm giảm
xuất khẩu của Việt Nam.
+ Tác động đến nhập khẩu: Sự mất giá của đồng tiền trong khu vực đã kích thích gia
tăng nhập khẩu, trước hết là nhập khẩu tiểu ngạch từ Thái lan và hàng trung chuyển từ

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 7


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc
Campuchia, Lào và Việt Nam. Thực tế cho thấy, đến cuối năm 1997, hàng loạt các báo đi đều
lên tiếng về tình trạng nhập lậu hàng gia tăng mạnh ở các tỉnhbiên giới tây nam.
- Thứ hai, đối với lĩnh vực đầu tư:
Do tỷ giá tăng, lãi suất tăng, thị trường hàng hoá diễn biến phức tạp cùng với dự đoán
không tốt trong tương lai tất yếu sẽ là các doanh nghiệp hạn chế đầu tư và Ngân hàng cũng rất
dè dặt khi cho vay. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có xu hướng giảm ngay từ trước khi
nổ ra cuộc khủng hoảng, sau khi cuộc khủng hoảng, nhiều dự án đầu tư dở dang bị đình lại,
nhiều phương án đầu tư mới tạm hoãn và điều này cũng thật rễ hiểu khi mà các quốc gia bị
khủng hoảng nặng nề lại là những quốc gia đang dẫn đầu danh sách những quốc gia đầu tư
nhiều nhất vào Việt Nam.
- Thứ ba, đối với thu chi ngân sách nhà nước.
Gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên liệu tăng lên cùng với sụt giảm của thị trường
tiêu dùng lẫn thị trường xuất khẩu đã làm nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ từ đó sẽ ảnh hưởng
xấu đến nguồn thu ngân sách. Bên cạnh đó, sự xa sụt của nền kinh tế tất yếu đòi hỏi phải ra
tăng một số khoản chi. Báo cáo của Ngân hàng nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng Ngân
hàng trong 6 tháng đầu năm 1998 đã chỉ rõ “Thu ngân sách 6 tháng thực hiện đạt 30% so với
kế hoạch năm. Chi ngân sách khó khăn hơn mức bội thu bội chi có xu hướng gia tăng”.
- Thứ tư, Tăng trưởng kinh tế dự trữ quốc gia và nợ nước ngoài.

Khủng hoảng khu vực đã gián tiếp ảnh hưởng đến cán cân vãng lai, đến đầu tư của
nước ngoài. Từ đó, gây ra khó khăn cho sự phát triển kinh tế nói chung (tốc độ tăng trưởng
5,8% trong năm 1998 là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 1989). Nền kinh tế khó khăn sẽ
tác động suy giảm đến tổng cầu, giảm thu nhập và tiêu dùng của cư dân. Thị trường suy yếu
một phần sẽ tác động ngay lập tức đến các Ngân hàng thương mại. Dự trữ quốc gia tất yếu sẽ
phải chịu sức ép suy giảm một phần do nguồn cung ngoại tệ giảm bớt, một phần do đáp ứng
nhu cầu ngoại tệ thiết yếu cho nền kinh tế và hỗ trợ cho đồng Việt Nam vào những lúc cao
điểm. Trong bối cảnh đó, chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam về cơ bản không có gì khác
so với giai đoạn từ năm 1993 đến khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á. Nhưng
là giai đoạn với những điều chỉnh nhỏ, liên tục trong chính sách tỷ giá hối đoái, nói chung và
công tác quản lý ngoại hối nói riêng nhằm hạn chế những tác động của cuộc khủng hoảng.
Nếu trong giai đoạn từ cuối năm 1992 đến tháng 7 năm 1997 chỉ có một lần duy nhất điều
chỉnh biên độ giao dịch từ 1% đến 5% vào ngày 27/2/2997 thì từ tháng 7/ 1997 đến đầu năm
1999 có nhiều lần thay đổi với các mốc chính như sau:
Ngày 13/10/1997 thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định mở rộng biên độ giao
dịch nên mức 10%. Ngày 16/2/1998 Ngân hàng nhà nước quyết định nấng tỷ giá hính thức từ
1 USD = 11.175 VND nên mức 1 USD = 11.800 VND, tăng 5,6%, ngày 7/8/1998, Ngân hàng
nhà nước quyết định thu hẹp biên độ giao dịch xuống còn 7% đồng thời nâng tỷ giá chính
thức lên 1USD = 12.998 là 1USD = 12.992 VND, ngày 6/11/98 là 1 USD = 12.989 VND
ngày 26/11/98 là 1 USD = 12.987 VND… cho đến ngày15/1/99 thì tỷ giá chính thức chỉ còm
ở mức 1 USD = 12.980 VND.
Việc Ngân hàng nhà nước điều chỉnh liên tục tỷ giá chính thức cùng biên độ trong giai
đoạn này có nhiều lý do, do gạt bỏ những lý do khác và chỉ đứng trên góc độ lựa chọn chế độ
tỷ giá thì có thể thấy. Nếu phân loại chế độ tỷ giá gồm 3 chế độ chính là chế độ tỷ giá cố định,
chế độ tỷ giá thả nổi thuần tuý và nằm giữa hai thái cực này gọi chung là chế độ tỷ giá bán thả
nổi hay thả nổ có quản lý, thì việc có nhiều những điều chỉnh trong tỷ giá chính thức cùng
biên độ tuy không làm thay đổi về cơ bản mà hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về lựa chọn chế
độ tỷ giá: “Một chế độ tỷ giá thả nổi sẽ góp phần hạn chế những cơn sốc và xuất phát từ thị
trường thế giới (đơn khủng hoàngr tài chính Đông Nam Á)”.
1.2.4 Giai đoạn 26/2/1999 đến nay

Trước ngày 26/2/99 tỷ giá hối đoái được ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày và
trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng được phép mua bán trong một biên độ nhất định. Ngoài ra

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 8


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc
còn tồn tại một loại tỷ giá là tỷ giá chợ đen tạo ra một hệ thống đa tỷ giá phức tạp tỷ giá chính
thức của NHNN công bố không được xác định theo tín hiệu thị trường nên không có ý nghĩa
kinh tế. Tuy vậy khi có sự thay đổi của tỷ giá vẫn có những tác động đến nền kinh tế.
Đến nay khi nền kinh tế vận động mạnh theo cơ chế thị trường thì việc xác định tỷ giá
như trên không còn phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường và thông lệ quốc tế. Từ
26/2/99 tỷ giá hối đoái chính thức công bố hàng ngày được xác định trên cơ sở bình quân mua
bán thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó, đồng
thời biên độ giao dịch cũng được rút xuống là 0,1% (Quyết định 64/1999 QĐ - NHNN7 và
65/1999/QĐ-NHNN7).
Có thể nói đây là một bước đổi mới rất quan trọng không những trong quan niệm,
trong tư duy mà cả trong thực tiễn quản lý, với cơ chế này làm cho tỷ giá hối đoái trên thị
trường vận động một cách khách quan phản ảnh đúng hơn các quan hệ cung cầu về ngoại tệ ở
trên thị trường, đồng thời cũng phù hợp với cơ chế điều hành tỷ giá của nhiều nước trên thế
giới.
Song song với việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá NHNN Việt Nam cũng đã có
quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất (QĐ số 241/2000/QD-NHNN ngày 2/8/2000
bằng việc bãi bỏ cơ chế điều hành lãi suất cơ bản thay bằng và tổ chức tài chính được quyền
ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng nhưng không được vượt qua mức lãi suất cơ bản
và biên độ quy định trong từng thời kì.
Trong năm 2007 và quý I/2008, VND lên giá do vốn nước ngoài vào nhiều, lãi suất
VND tăng cao, lãi suất USD giảm nên có hiện tượng chuyển dịch từ ngoại tệ sang VND, tỷ

trọng tiền gửi ngoại tệ/tổng tiền gửi giảm từ 25,9% năm 2006 xuống 21,5% vào tháng 4/2008,
trong khi đó vay bằng ngoại tệ lại tăng từ 21% lên 23%. Nhưng từ tháng 5/2008 đến nay, thị
trường ngoại tệ có diễn biến ngược lại, huy động ngoại tệ tăng nhanh, tín dụng ngoại tệ có xu
hướng giảm mạnh, nguyên nhân chính làdo vào thời điểm giữa tháng 5, tỷ giá VND/USD đảo
chiều (VND mất giá mạnh). Những diễn biến bất thường trên thị trường ngoại tệ có thể gây
mất cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại, gây mất an toàn cho
hoạt độngcủa hệ thống ngân hàng, từ đó nền kinh tế Việt Nam bị chao đảo nghiêm trọng.
Theo các chuyên gia, VND đang được định giá cao hơn giá trị thực của nó do lạm phát
của Việt Nam cao hơn lạm phát của 17 đối tác thương mại chính. Nhiều chuyên gia cho rằng,
việc neo VND so với USD khiến nhập khẩu tăng mạnh, xuất khẩu chịu thiệt, trong khi Việt
Nam đang cần tập trung đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, thực tế hiện nay
tại Việt Nam lại cho thấy, xuất nhập khẩu đều tăng mạnh. Lấy tỷ giá của đồng nội tệ/USD của
các nước Việt Nam, Philippines, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia ở mỗi thời điểm chia cho
tỷ giá tương ứng ở tháng 1-2005 (để có điểm gốc là 1 cho tiện so sánh).
Trong thời gian này đồng USD đã mất giá đáng kể so với các đồng tiền khác (như
Euro, Yên hay Bảng Anh) và cũng mất giá so với các đồng tiền của Philippines, Trung Quốc,
Thái Lan và Malaysia, nói cách khác các đồng tiền này đã lên giá so với USD (Pillipines cỡ
27%, Trung Quốc cỡ 16%, Thái Lan và Malaysia cỡ 20% vào tháng 4 - 2008 so với tháng 12005). Ngược lại đồng ViệtNam vẫn bị neo vào đồng USD (thậm chí còn mất giá so với
USD).
Theo các chuyên gia của Dragon Capital, chính chế độ tỷ giá hối đoái này đã khuếch
đại tác động của sự tăng giá thức ăn và năng lượng thế giới lên giá cả ở Việt Nam và gây ra
lạm phát tăng nhanh so với các nước đó.
Hiện nay, để thực thi chế độ neo tỷ giá có điều chỉnh, hàng ngày Ngân hàng Nhà nước
công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về tỷ giá giao dịch liên ngân hàng và biên
độ dao động cho phép. Theo đó, định hướng của Ngân hàng Nhà nước là:
- Cơ bản giữ tỷ giá ổn định, song có xem xét diễn biến trên thị trường ngoại hối thế
giới (sự biến động của các ngoại tệ mạnh, đặc biệt là USD) để điều chỉnh khi cần thiết.

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu


Trang 9


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc
- Cho phép tỷ giá được dao động trong một biên độ nhất định (có lúc cao nhất lên đến
±5%, sau giảm còn ±3% và từ năm 2011 là ±1%, năm 2015: ±3%).
- Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra tuyên bố về giới hạn điều chỉnh
của tỷ giá trong năm để thị trường biết trước (ví dụ tuyên bố điều chỉnh tỷ giá không quá ±2%
năm trong năm 2014 và 2015).
Biểu đồ 1: Tình hình tỷ giá USD/VND từ năm 1990 đến năm 2014
(nguồn: Tổng Cục Thống Kê)
- NHNN sẵn sàng can thiệp mỗi khi thị trường tự do có biến động mạnh. Trước hết,
bằng các tuyên bố chính thức về ổn định thị trường. Sau đó, nếu thị trường vẫn có biến động
mạnh, thì áp dụng các nghiệp vụ mua vào, bán ra USD để giữ tỷ giá ổn định.
- Nếu tỷ giá trên thị trường vẫn tiếp tục dao động mạnh trong một thời gian dài,
NHNN sẽ có động thái điều chỉnh tỷ giá, thường là với mức độ nhỏ vài phần trăm. Lần điều
chỉnh tỷ giá lớn nhất gần đây là tháng 2/2011 với mức tăng 9%, các đợt điều chỉnh sau đó đều
áp dụng mức độ giao động thấp hơn.
1.2.5 Sự điều chỉnh tỷ giá của Việt Nam năm 2015
Biểu đồ 2: Diễn biến tỷ giá từ đầu năm 2015 đến nay (Nguồn: Biz Live)
Dưới sự gia tăng giá trị của đồng tiền USD nửa cuối năm 2014, khiến cho NHNN phải
điều chỉnh tỷ giá 1%, và ngày 7/1, từ 21. 246 VND/USD lên 21. 458 VND/USD. Tiếp sau đó
4 tháng, ngày 7/5, NHNN lại tiếp tục tăng tỷ giá 1% lên 21. 673 VND/USD.
Ngay sau đó, dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ của lộ trình tăng lãi suất cơ bản của Cục dự
trữ liên bang Mỹ (FED). Đồng thời, chịu tác động sâu sắc từ những thay đổi trong chính sách
tiền tệ của Trung quốc trong thời gian gần đây như: giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, Ngân hàng
trung ương Trung quốc (PBOC) cắt giảm mạnh lãi suất tiền gửi, tiền vay và việc phá giá đồng
CNY 3 lần liên tiếp trong ba ngày 11, 12, 13/8/2015. PBOC đã giảm tỷ lệ tham chiếu CNY
ngày 11/8 là 1. 9% và 4. 6% sau ba lần. Vì Trung quốc là đối tác chiếm tỷ trọng thương mại
lớn của Việt nam, nên việc điều chỉnh tỷ giá đồng CNY sẽ có tác động không ít bất lợi đến

nền kinh tế Việt nam, đặt biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu.
NHNN đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng (BQLNH) 3 lần (biên độ giao
dịch tăng 1% ngày 7/1, tăng tiếp tục 1% ngày 7/5 và tăng 2% ngày 11/8) kể từ đầu năm và sử
dụng hết biên độ tăng tỷ giá 2% đã cam kết trong năm nay. Những diễn biến trên thị trường
tiền tệ thế giới đã tạo áp lực lớn lên tỷ giá trong nước mặc dù NHNN thường xuyên đưa ra các
tuyên bố và cam kết nhằm ổn định tâm lý thị trường về việc duy trì mức biến động tỷ giá ở
mức 2%.
Trước sức ép từ việc PBOC điều chỉnh tỷ giá tham chiếu, các đồng tiền khác trên thế
giới đặc biệt ở Châu Á đều điều chỉnh giảm. NHNN Việt Nam cũng đã nới rộng biên độ giao
dịch ngoại tệ VND/USD từ mức ±1% lên ±2% trong ngày 11/8 và lên ±3% ngày 19/8/2015,
đồng thời điều chỉnh tỷ giá BQLNH từ mức 21. 673 VND/USD lên 21. 890 VND/USD (mức
điều chỉnh tăng 1%) nâng mức sàn và trần tỷ giá giao dịch tương ứng 21. 233 và 22. 547
VND/USD. Bên cạnh đó, ngày 13/8 để đáp ứng nhu cầu thị trường, NHNN đã phải nâng tỷ
giá bán ra cho các NHTM từ 21. 820 VND/USD lên 22. 085 VND/USD.

Việc điều chỉnh lần này được cho là tất yếu để ứng phó với việc đồng CNY mất
giá và những diễn biến bất lợi khi FED điều chỉnh tăng lãi suất trong thời gian tới
nhằm tránh việc tâm lý thị trường bất ổn, tỷ giá giao dịch vượt trần và các hoạt động
tiêu cực khác trên thị trường chợ đen.
Tóm lượt chính sách điều chỉnh tỷ giá 2015 của Ngân hàng Nhà nước như sau:
Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 10


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc
Đầu năm 2015
Ngân hàng Nhà nước cam kết cả năm 2015 sẽ điều hành tỷ giá trong phạm vi biên độ
2%
07/01/2015

Tỷ giá tăng 1%
Thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 3/1/2015 về những nhiệm vụ giải pháp chủ yếu
chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách
nhà nước năm 2015
21. 246
21. 458
21. 243
21. 673
07/05/2015
Tỷ giá tăng 1%
Thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội được đề ra cho năm 2015 và đối phó
với các tác động bất lợi trên thị trường quốc tế.
21. 485
21. 673
21. 465
21. 890
12/08/2015
Tăng biên độ tỷ giá từ ±1% lên ±2%
Đồng Nhân Dân Tệ CNY giảm giá mạnh nhất trong vòng 2 thập kỷ qua.
21. 673
21. 240
22. 106
19/08/2015
Tỷ giá tăng 1%, nới biên độ ±3%
Đồng Nhân Dân Tệ CNY tiếp tục phá giá mạnh, khả năng FED điều chỉnh tăng lãi suất
trong thời gian tới.
21. 673
21. 890
21. 233
22. 547


1.3 Đánh giá chính sách điều chỉnh tỷ giá của NHNN
1.3.1 Tác dụng tích cực của chính sách neo tỷ giá có điều chỉnh:
Giữ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp được ổn định: việc tỷ
giá được duy trì ổn định giúp các doanh nghiệp liên quan đến hoạt động xuất - nhập khẩu có
thể lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh trong năm và thực thi kế hoạch đó một cách ổn định.
Giữ cho gánh nặng nợ nước ngoài của từng doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ quốc
gia nói chung không tăng lên.
Giảm áp lực lên lạm phát: việc giữ cho đồng nội tệ không bị mất giá trong một khoảng
thời gian tương đối dài giúp giảm áp lực cả đối với lạm phát kỳ vọng và lạm phát thực tế.

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 11


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc
1.3.2 Những bất lợi của chính sách neo tỷ giá có điều chỉnh đối với nền kinh tế:
NHNN hiện theo đuổi chính sách neo tỷ giá có điều chỉnh bằng cách giữ tỷ giá ổn
định trong một thời gian khá dài và tuyên bố mức dao động tỷ giá thường không quá 2% năm.
Trong khi đó, trên cục diện chung của thị trường thế giới, đồng USD hiện vẫn đang trong xu
hướng lên giá mạnh so với hầu hết các đồng tiền chủ chốt khác trên thế giới.
Neo giá trong lúc trên thế giới giá USD tăng, khiến đồng VND tăng giá quá cao so với
USD cũng như so với các đồng tiền ngoại tệ khác, khiến năng lực cạnh tranh của hàng hóa
xuất khẩu Việt Nam bị giảm mạnh. Đồng VND tăng giá quá cao không khuyến khích xuất
khẩu, nhưng lại khuyến khích nhập khẩu, khiến xuất khẩu có thể giảm và nhập khẩu tăng, do
đó nhập siêu có khả năng tăng.
Việc đồng VND tăng giá quá cao so với USD còn gây ra tình trạng tỷ giá chính thức
có thời điểm chênh lệch lớn so với tỷ giá thị trường tự do. Điều đó khiến hoạt động đầu cơ
ngoại tệ vốn được giảm mạnh trong mấy năm qua có thể sẽ bùng quát quay trở lại. Hoạt động

này nếu mạnh lên có thể sẽ gây bất lợi lớn cho hoạt động của thị trường ngoại hối.
Việc USD liên tục tăng giá trong khi NHNN vẫn duy trì tỷ giá ổn định trong một thời
gian dài, sẽ có lúc buộc phải điều chỉnh tỷ giá cho sát thực tế nếu để tích tụ lâu ngày, chênh
lệch tỷ giá quá cao so với thị trường tự do sẽ phải điều chỉnh với biên độ lớn, gây ra cơn sốc,
bất ổn lớn.

1.4 Một số kiến nghị
Để việc thực thi chính sách neo tỷ giá có điều chỉnh đạt được hiệu quả tốt hơn, cần lưu
ý những điều sau:
- Thứ nhất, không nên neo tỷ giá chỉ vào một ngoại tệ duy nhất là USD. Có một thực
tế USD là đồng tiền có vai trò quan trọng hàng đầu trên thị trường thế giới, đồng thời phần
lớn các giao dịch xuất - nhập khẩu của Việt Nam với nhiều quốc gia khác nhau được thực hiện
bằng USD. Song, nếu theo giá trị kim ngạch xuất – nhập khẩu sau thị trường Mỹ chúng ta vẫn
có khối lượng giao dịch đáng kể bằng các đồng tiền khác, chẳng hạn bằng Euro với EU và
bằng Yen với Nhật Bản (hai thị trường này hiện chiếm khoảng 1/3 kim ngạch xuất - nhập
khẩu của Việt Nam) và Tệ với Trung Quốc. Ngoài ra, vay nợ bằng Euro và Yen cũng chiếm
một tỷ trọng đáng kể trong tổng nợ nước ngoài. Do vậy, nên có công thức neo tỷ giá dựa trên
rổ ngoại tệ chủ chốt (USD, Euro, Yen và CNY) có tính đến quyền số của mỗi ngoại tệ trong
tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu và tổng vay nợ của nước ta
- Thứ hai, tránh đưa ra tuyên bố mức điều chỉnh tối đa của tỷ giá trong năm. Việc
tuyên bố mức điều chỉnh tối đa cứng của tỷ giá trong năm có tác dụng tốt là thể hiện quyết
tâm và ý chí của Chính phủ và NHNN muốn duy trì sự ổn định thị trường và sẵn sàng can
thiệp khi cần để đảm bảo sự ổn định đó. Tuyên bố này cũng là định hướng để doanh nghiệp
yên tâm lên kế hoạch sản xuất, kinh doanh năm mà không phải lo ngại sự biến động lớn của
tỷ giá. Tuy nhiên, việc đưa ra mức điều chỉnh tối đa cứng của tỷ giá trong năm sẽ gặp bất lợi
khi tỷ giá trên thị trường ngoại hối quốc tế biến động mạnh.
- Thứ ba, không nên để quá lâu không điều chỉnh tỷ giá. Việc USD liên tục tăng giá
trong khi NHNN vẫn duy trì tỷ giá ổn định trong một thời gian dài, khiến khi buộc phải điều
chỉnh tỷ giá cho sát thực tế sẽ phải điều chỉnh với biên độ lớn, gây ra cú sốc bất ổn lớn. Do
vậy, nên điều chỉnh tỷ giá thường xuyên hơn, song mỗi lần với biên độ điều chỉnh nhỏ để

tránh gây sốc thị trường.

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 12


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc

2. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời
gian tới:
2.1 Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam trong ngắn hạn:
Những tháng cuối năm 2015 và năm 2016, kim ngạch xuất khẩu có khả năng giảm sâu
do doanh nghiệp đang phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh và giữ vững thị
phần tại các thị trường xuất khẩu.
Thống kê 9 tháng đầu năm 2015, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 120,7 tỷ USD, tăng
9,6% so với cùng kỳ năm 2014, nhưng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam có nhiều nhóm
ngành bị sụt giảm thị trường do sức ép về giá.
Đơn cử, nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản, ước đạt 3,93 tỷ USD, giảm 45,5%; nhóm
ngành nông sản, thủy sản, ước đạt 15,14 tỷ USD, giảm 9,9% so với cùng kỳ năm 2014…
Nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu của một số nhóm ngành hàng
là: do tác động suy yếu của một số nền kinh tế; thị trường tài chính biến động, đặc biệt đồng
USD lên giá so với nhiều đồng tiền khác trên thế giới, trong đó có những đối thủ cạnh tranh
trong xuất khẩu với Việt Nam.
Bên cạnh đó, giá hàng hóa trên thị trường thế giới ở mức thấp, nguồn cung các nước
xuất khẩu dồi dào, tạo sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường đã ảnh hưởng hoạt động xuất khẩu
của doanh nghiệp Việt Nam.
Xuất khẩu ngành tôm 9 tháng đầu năm 2015 giảm 28,4% so với cùng kỳ là do tác
động của đồng VND có giá cao hơn một số đồng tiền khác trên thị trường, đặc biệt là đối với
các đối thủ cạnh tranh về xuất khẩu.

Cụ thể, từ đầu năm đến nay, Thái Lan phá giá đồng tiền 18%, Malaysia giảm 32%, Ấn
Độ giảm 20%… nên có thời điểm mặt hàng tôm xuất khẩu Việt Nam có giá đắt nhất trên thế
giới. Ngoài ra, hiện tại giá thành tôm xuất khẩu Việt Nam đắt hơn giá các đối thủ cạnh tranh
tại những thị trường xuất khẩu khoảng 20%.
Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng cao su giảm. Mặc dù các doanh nghiệp đang nỗ lực đa
dạng thị trường, giảm sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, đồng thời chuyển sang các thị
trường Ấn Độ, Indonesia. . . nhưng tình hình xuất khẩu của ngành này đang gặp khó khăn do
giá giảm sâu vì cung vượt cầu, dẫn đến lượng hàng tồn kho tăng cao.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, khi hàng rào thuế quan được cắt giảm thì các
nước có xu hướng áp dụng nhiều hàng rào kỹ thuật, biện pháp phòng vệ thương mại. Vì vậy,
hiện nay hàng hóa Việt Nam không chỉ bị cạnh tranh gay gắt về giá, mà còn đối mặt với nguy
cơ mất thị phần do các vụ kiện phòng vệ thương mại từ các thị trường xuất khẩu.

2. 2 Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam trong dài hạn:
2.2.1 Cân bằng quan hệ thương mại với các nước ở khu vực Đông Á
Việc gia nhập vào TPP và AEC sẽ giúp Việt Nam cân bằng được quan hệ thương mại
với các khu vực thị trường trọng điểm, tránh phụ thuộc quá mức vào một khu vực thị trường
nhất định.

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 13


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc

Biểu đồ 3: Các thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Năm năm 2014

Bảng 1: Các thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Năm năm 2014
Số liệu thống kê cho thấy, khu vực Đông Á, bao gồm Trung Quốc, Đài Loan, Hồng

Kông, Nhật Bản và Hàn Quốc luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch xuất nhập khẩu
của Việt Nam, thường xuyên ở mức trên 60%, nếu tính riêng nhập khẩu thì lên tới trên 75%.
Với sự gần gũi về vị trí địa lý, việc Đông Á chiếm tỷ trọng lớn trong quan hệ thương mại với
Việt Nam là việc khó tránh. Tuy nhiên, tỷ trọng trên là quá lớn, có thể tiềm ẩn rủi ro khi kinh
tế Đông Á có biến động bất lợi. Đàm phán và ký kết FTA với một số thị trường trọng điểm
như Mỹ, EU có thể giúp chúng ta khắc phục tình trạng mất cân đối này.
2.2.2 Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu của Việt Nam

Có thể thấy trong thời gian qua, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại
những kết quả tích cực và có những tác động sâu đến kinh tế và xã hội Việt Nam. Quá
trình này giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận thị trường xuất nhập khẩu dễ dàng hơn,
Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 14


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh, môi trường kinh doanh được cải
thiện và minh bạch hơn, thế và lực của Việt Nam trên trường thế giới ngày càng được
nâng cao.
Hòa chung với bối cảnh thương mại quốc tế, bên cạnh việc trở thành thành viên
của các tổ chức trong khu vực và trên thế giới (ASEAN, WTO…), Việt Nam hiện nay
đã tham gia vào rất nhiều các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa
phương. Các FTA mà Việt Nam đã và đang là thành viên như: ASEAN - Nhật Bản,
ASEAN - Hàn Quốc, ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Úc - New
Zealand, Việt Nam - Nhật Bản, Việt Nam - Chi lê (đàm phán đã kết thúc nhưng Hiệp
định chưa cón hiệu lực). Các Hiệp định này thực sự đã mang lại nhiều lợi ích to lớn
cho Việt Nam cũng như các nước thành viên tham gia. Hiện nay, Việt Nam đang tham
gia đàm phán một số FTA mới có tính mở rộng và có tính song phương cao hơn so với
các Hiệp định trên, như: Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương

TPP, Hiệp định Việt Nam - Liên minh Châu Âu, Hiệp định Việt Nam - khối thương
mại tự do châu Âu EFTA, Hiệp định Việt Nam - Hàn Quốc, Hiệp định Việt Nam - Liên
minh Thuế quan. Trong số 5 FTA mà Việt Nam đang đàm phán thì có 3 nước được coi
là đối tác chiến lược và có tác động lớn đối với nền kinh tế Việt Nam đó là: Hoa Kỳ,
châu Âu và Nga. Nếu Việt Nam thực hiện đầy đủ các hiệp định đã ký thì từ nay đến
năm 2018, GDP của nước ta sẽ tăng ba điểm phần trăm/năm, lợi ích ròng 2,4 tỉ
USD/năm.
Việc tham gia các khu vực thương mại tự do đã tạo cho Việt Nam những cơ hội
thuận lợi để phát triển kinh tế và tăng trưởng xuất khẩu. Với các ưu đãi về cắt giảm
thuế quan và về rào cản phi thuế quan, thị trường xuất khẩu của Việt Nam sẽ được mở
rộng. Nhìn tổng thể khi Việt Nam đã tham gia khu vực thương mại tự do, phần lớn
hàng xuất khẩu đã và sẽ được hưởng thuế xuất nhập khẩu ưu đãi, thậm chí tới 0%,
mang lại lợi thế cạnh tranh lớn và triển vọng sáng sủa cho nhiều ngành hàng, đặc biệt
là dệt may, da giày, thủy sản, đồ gỗ là các ngành xuất khẩu quan trọng hiện nằm trong
nhóm 10 sản phẩm xuất khẩu chủ lực.
Ngoài ra, các FTA còn giúp cải thiện các biện pháp hạn chế nhập khẩu từ các
đối tác thương mại. Trường hợp tham gia TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội được tham vấn
giữa chính phủ với chính phủ các nước đối tác về các vụ kiện chống bán phá giá và
chống trợ cấp. Việt Nam cũng có thể có được cam kết của các thành viên không sử
dụng hoặc hạn chế các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp. Ngoài ra, Việt
Nam có thể có cơ hội sử dụng các cam kết của TPP về hàng rào kỹ thuật và các biện
pháp vệ sinh dịch tễ để tránh các tranh chấp.

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 15


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc


Bảng 2: Nhóm 10 hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 2014
Bên cạnh đó, việc tận dụng các ưu đãi về thuế quan từ việc cấp giấy chứng
nhận xuất xứ hàng hoá (C/O - Certificate of Origin) - chứng từ quan trọng trong bộ hồ
sơ xuất nhập khẩu để đảm bảo quyền ưu đãi trong các FTA được các doanh nghiệp
Việt Nam chủ động và tích cực tận dụng. Tỉ lệ hàng hóa được hưởng ưu đãi của Việt
Nam cao so với các đối tác trong khu vực và luôn có xu hướng tăng lên qua các năm
thực hiện với giá trị đơn hàng tăng cao. Riêng với Hàn Quốc, trên 90% hàng xuất khẩu
của nước ta được hưởng ưu đãi về thuế thông qua FTA ASEAN - Hàn Quốc. Trong bối
cảnh kính tế khó khăn hiện nay, việc tận dụng những ưu đãi thuế quan thông qua các
FTA giữa Việt Nam và các nước, được coi là một trong những giải pháp hữu hiệu giúp
doanh nghiệp tiếp tục gia tăng xuất khẩu vào nhiều thị trường, nhất là mốc thời gian
hướng tới việc thiết lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) cũng như hoàn thành các
Hiệp định FTA đang đến gần.
Các FTA còn giúp ổn định nguồn và hạ giá đầu vào hàng nhập khẩu. Do nhập
khẩu của Việt Nam thường xuyên chiếm khoảng 80% GDP nên việc ổn định và hạ giá
nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng đến việc ổn định, duy trì tăng
trưởng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ngay trên thị trường
trong nước với hàng nhập khẩu từ các nước và ở thị trường ngoài nước với hàng cùng
chủng loại của các đối tác khác.
2.2.3 Nhập khẩu của Việt Nam tăng nhanh chóng

Bên cạnh những cơ hội mở ra cho Việt Nam, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
cũng dẫn đến nhiều thách thức to lớn, đó là khả năng cạnh tranh quốc tế khá hạn chế
của hàng hóa, dịch vụ, doanh nghiệp Việt Nam và khả năng cạnh tranh thấp của quốc
gia, nguy cơ bị phá sản của các doanh nghiệp và mất thị trường trong nước cho các đối
thủ nước ngoài, suy thoái tài nguyên, tác động xấu về văn hóa, an ninh.
Cam kết giảm thuế nhập khẩu đối với các nhóm hàng từ các nước đối tác FTA sẽ khiến
luồng hàng hóa nhập khẩu từ các nước này gia tăng nhanh chóng dẫn đến sức ép cạnh tranh

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu


Trang 16


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc
nội địa ngày càng lớn. Hệ quả là thị phần của các nhà sản xuất trong nước tại sân nhà sẽ bị
ảnh hưởng, dẫn đến nguy cơ sản xuất của không ít doanh nghiệp bị thu hẹp. Ngoài ra nguồn
ngân sách thu thuế nhập khẩu cũng bị giảm đáng kể khi Việt Nam giảm thuế nhập khẩu xuống
0% cho các nước đối tác.

Biểu đồ 4: Xuất nhập khẩu theo nhóm loại hình chính năm 2014
Trường hợp của hiệp định TPP, những mặt hàng Việt Nam kỳ vọng thu được lợi ích
nhiều nhất là dệt may, da giày thì những mặt hàng này vẫn phải đối mặt với khó khăn về xuất
xứ hàng hóa. Theo điều khoản về xuất xứ hàng hóa đang đàm phán của TPP, hàng dệt may
xuất khẩu từ một thành viên TPP sang thành viên khác phải sử dụng nguyên liệu và có quy
trình sản xuất gần như toàn bộ thuộc “nội khối TPP” mới được hưởng ưu đãi (trừ một số
ngoại lệ trong giai đoạn đầu). Như vậy, sản phẩm nào sử dụng nguyên liệu của các nước bên
ngoài TPP không được hưởng ưu đãi. Trong khi đó, Việt Nam hiện chủ yếu là nền kinh tế gia
công xuất khẩu dựa trên nhập khẩu phần lớn nguyên vật liệu đầu vào (từ các nước bên ngoài
TPP như Trung Quốc, Hàn Quốc) nên ưu đãi sẽ rất hạn chế.

Bảng 3: Xuất nhập khẩu theo nhóm loại hình chính của Việt Nam
Để tận dụng được những ưu đãi từ FTA và Incoterms ®2010 trước tiên cần có sự liên
kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và các ngành chức năng. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu
cần cải thiện năng lực kinh doanh, markerting, xây dựng thương hiệu, dịch vụ khách hàng,
cần hiểu rõ chuỗi cung ứng của mình trong đó chú trọng quản lý logistics, làm chủ quyền thuê
và kiểm soát vận tải - logistics, linh hoạt sử dụng Incoterms 2010 trong các hợp đồng ngoại
thương… đồng thời cần chủ động nghiên cứu quy tắc xuất xứ, mức cắt giảm thuế quan, các
hàng rào kỹ thuật… một cách thấu đáo và chuẩn bị đàm phán hợp đồng ngoại thương hiệu


Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 17


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc
quả. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nhỏ, cùng loại hình, có mối quan hệ tin cậy nên kết
hợp với nhau trong những giao dịch thương mại, tập hợp vốn để thực hiện thành công những
thương vụ “mua FOB - bán CIF”.

2. 3 Một số giải pháp
Với những thuận lợi và thách thức nêu trên, để Việt Nam có thể hưởng lợi một cách
tốt nhất từ các tổ chức thương mại quốc tế mà Việt Nam đang tham gia nói chung và từ TPP
nói riêng, tận dụng được mọi ưu thế của mình sau khi hội nhập thì trước hết cần phải có
những thay đổi về chính sách và pháp luật trong nước để thúc đẩy phát triển những ngành có
lợi thế so sánh.
Với những ngành sẽ được lợi sau khi TPP có hiệu lực, như: dệt may, thủy sản, nông
sản… cần chủ động các nhân tố lao động, vốn, đất đai và các tài nguyên khác. Với các ngành
kém được lợi thế, như: chăn nuôi, lâm nghiệp, công nghiệp… cần tái cơ cấu để tăng năng
suất, hiệu quả hơn.
Đặc biệt, sau khi tham gia TPP, Việt Nam cần phải điều chỉnh cả những yếu tố thương
mại như những nội dung liên quan tới lao động, quyền sở hữu trí tuệ… khẳng định sự cấp
thiết phải tiến hành cải cách thể chế, tự do hóa thị trường.
Hiện nay, khi trình độ công nghệ của Việt Nam còn nhiều hạn chế thì Chính phủ cần
tăng cường hỗ trợ nghiên cứu, đào tạo và ứng dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật hợp lý khi các
hàng rào thuế quan bị gỡ bỏ nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước.
Doanh nghiệp Việt Nam vì có năng suất lao động thấp, trình độ công nghệ lạc hậu nên
chi phí sản xuất và giá thành mới cao hơn so với những doanh nghiệp có năng suất cũng như
trình độ công nghệ cao.
Nếu thuế suất cho hàng nhập khẩu vào trong nước từ các quốc gia thành viên về còn

0% thì doanh nghiệp chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi khó khăn trong việc cạnh tranh tiêu
thụ hàng hóa ngay trên chính thị trường nước nhà.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc là Việt Nam mở cửa thị trường
dịch vụ, là cơ hội cho các nhà cung cấp có tiềm lực lớn, có kinh nghiệm và danh tiếng lâu
năm, có ưu thế về cung cấp dịch vụ trên thế giới “đổ bộ” vào thị trường trong nước. Và tất
nhiên nó cũng đồng nghĩa với việc các đơn vị cung cấp dịch vụ của Việt Nam sẽ gặp khó khăn
nghiêm trọng và có thể bị mất thị phần trên thị trường nội địa, hay nói cách khác là "thua đau
trên sân nhà", nếu như không nỗ lực tự thay đổi bản thân.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn có lợi thế là có một thị trường tiêu thụ lớn, nguồn lao động
dồi dào, dư địa thị trường còn nhiều nên hy vọng rằng ta vẫn có thể tự lực để tự cường, thoát
khỏi "cái bóng" đơn thuần chỉ là một thị trường gia công của khu vực và thế giới sau khi đã
bước chân qua được cánh cửa của Hiệp định kinh tế lịch sử TPP trong năm nay.

Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 18


GVHD: ThS. Trương Văn Khánh – ThS. Trẩm Bích Lộc

TÀI LIỆU THAM KHẢO
GS. TS Võ Thanh Thu, 2005, Kỹ Thuật Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu, NXB Tổng
Hợp TP. HCM,
TS. Trương Văn Khánh – ThS. Trầm Thị Bích Lộc, 2015, slide bài giảng môn Kinh
Doanh Xuất Nhập Khẩu.
Niên giám thống kê hải quan về hàng hóa xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2014.
Mỹ Phương, 2015, Xuất khẩu có thể giảm sâu trong thời gian tới, http://bnews. vn/,
truy cập ngày 12/10/2015
2013, Những tác động đến doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam khi tham gia WTO
và FTA, http://www. ipcs. vn/, truy cập ngày 12/10/2015.


Tiểu Luận Môn Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu

Trang 19



×