Tải bản đầy đủ (.docx) (109 trang)

Chống chuyển giá ở các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhằm tăng thu ngân sách nhà nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.72 KB, 109 trang )

1

MỤC LỤC

1


2

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NSNN
DN
MNC
Thuế TNDN
NNT
ĐTNN
OECD
SGATAR

:
:
:
:
:
:
:
:

Ngân sách Nhà nước
Doanh nghiệp
Công ty đa quốc gia


Thuế thu nhập doanh nghiệp
Người nộp thuế
Đầu tư nước ngoài
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
Hiệp hội các nhà nghiên cứu và quản lý

WTO

thuế châu Á
: Tổ chức thương mại thế giới

2


3

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Biểu đồ 2.1: Số vốn FDI đăng kí và vốn thực hiện ở Việt Nam,
giai đoạn 2000 – 2013........................................................................47
Biểu đồ 2.2: FDI thực hiện so với tổng đầu tư toàn xã hội và đóng góp của khu vực
FDI trong GDP...................................................................................49
Biểu đồ 2.3: Tổng kết những trường hợp theo dõi của cơ quan thuế về các
doanh nghiệp FDI chuyển giá thông qua góp vốn đầu tư..................56

3


4


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Ở bất kỳ một quốc gia nào, sự ra đời và tồn tại của Nhà nước và sự xuất

hiện của sản xuất hàng hóa bao giờ cũng gắn liền với sự ra đời và tồn tại của
ngân sách nhà nước. Ngân sách đã trở thành công cụ quan trọng nhất được Nhà
nước sử dụng để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, huy
động nguồn tài chính, điều tiết vĩ mô và thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
Trong đó thuế là bộ phận quan trọng nhất của Ngân sách Nhà nước, góp phần to
lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, quản lý thu thuế
hiện nay nói chung và đối với doanh nghiệp nói riêng ở các nước đang phát triển
như Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức khác nhau, tạo ra sức ép
ngày càng tăng đối với nhiệm vụ thu thuế của Nhà nước. Một trong những thách
thức lớn đó là việc gian lận thuế của doanh nghiệp qua chuyển giá, đặc biệt là
trong khu vực các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI).
Dẫn số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong giai
đoạn 2006-2010, thu ngân sách khối FDI đạt hơn 10,5 tỷ USD, tăng bình quân
trên 20%. Trong năm 2011, thu nộp ngân sách của khu vực FDI đạt 3,5 tỷ USD.
Riêng năm 2012, khu vực FDI nộp ngân sách 3,7 tỷ USD (không kể dầu thô),
chiếm 11,9% tổng thu ngân sách. Có thể thấy rằng, số lượng các doanh nghiệp
FDI ngày càng tăng qua các năm cùng với đó, nguồn đóng góp vào ngân sách
của khu vực này cũng tăng nhưng không đáng kểso với số vốn đăng kí và số
lượng các doanh nghiệp FDI. Tỷ lệ đóng góp này còn khá thấp chưa tương xứng
với tiềm năng cũng như quy mô của khu vực FDI trên phương diện GDP.
Nguyên nhân chính không phải là do các doanh nghiệp này gặp khó khăn trong
sản xuất mà là do khu vực FDI đã và đang thực hiện hành vi chuyển giá, gây
thất thu một số lượng lớn cho NSNN Việt Nam.
Theo báo cáo của Tổng cục thuế, trong 3 quý đầu năm 2013, ngành thuế đã có

nhiều đợt thanh, kiểm tra kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang hoạt động tại Việt Nam trong giai đoạn 5


5

năm từ năm 2007 đến 2012. Trong đó, đã có khoảng 122 *doanh nghiệp tại 23
tỉnh, thành bị ngành thuế thanh tra đặc biệt do nghi án chuyển giá với tổng số
tiền bị buộc truy thu hơn 200 tỷ đồng.
Tổng kết bức tranh lỗ lãi của khu vực doanh nghiệp FDI trong đợt này của Tổng
cục Thuế, với Hà Nội đứng đầu cả nước về nghi án các doanh nghiệp FDI
chuyển giá với số thuế truy thu lên tới 98 tỷ đồng, tiếp đó là TP. Hồ Chí Minh
với hơn 15 tỷ đồng; Thái Bình hơn 7 tỷ đồng, Quảng Ninh, Lâm Đồng 5 tỷ đồng
và Hải Phòng 1,3 tỷ đồng...
Đó là chưa kể đến các doanh nghiệp FDI có hành vi chuyển giá ngày một phức
tạp, tinh vi mà cơ quan thuế chưa thể phát hiện. Do đó, con số thật sự về số
lượng thất thu từ thuế có thể còn lớn hơn rất nhiều. Trong khi Việt Nam hiện
nay lại đang trên đà phát triển mạnh mẽ, nhu cầu đầu tư phát triển ngày càng
lớn, đòi hỏi phải tăng cường nguồn thu cho ngân sách nhà nước và huy động
vốn quốc gia thì số thuế bị thất thu này càng đáng lo ngại hơn bao giờ hết.
Trước thực trạng nhức nhối của hoạt động chuyển giá tại các doanh nghiệp FDI
gây thất thu cho ngân sách Nhà nước Việt Nam, tập thể tác giả xin nghiên cứu,
tập trung tìm hiểu vấn đề: “Chống chuyển giá ở các doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài nhằm tăng thu ngân sách Nhà nước Việt Nam”
2.

Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài gồm những nội dung sau:

Một là, hệ thống cơ sở lý luận về chuyển giá và chống chuyển giá của các doanh

nghiệp FDI.
Hai là, hệ thống cơ sở pháp lý của Việt Nam và phân tích, đánh giá thực trạng
chuyển giá của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam ảnh hưởng đến thu ngân
sách Nhà nước.
Ba là, đề xuất các giải pháp các giải pháp, kiến nghị nhằm ngăn ngừa chống
chuyển giá để tăng thu ngân sách Nhà nước.
*Nguồn : Tổng cục thuế - Bộ tài chính(Báo cáo công tác thanh tra thuế 2013)


6
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

1

Đối tượng nghiên cứu: Hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp FDI và ảnh
hưởng của chuyển giá đến thu ngân sách Nhà nước.

2

Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Về không gian: Hoạt động chuyển giá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam.
Về thời gian: Hoạt động của chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài từ khi mở cửa kinh tế đến nay.
4.

Phương pháp nghiên cứu


Phương pháp chủ đạo: phương pháp lý thuyết suy luận logic, phân tích – tổng
hợp, so sánh – đối chiếu.
Để có thể nhìn nhận tương đối chính xác về các vấn đề liên quan đến hiện tượng
chuyển giá, ngoài một số thông tư, văn bản quy định, văn bản pháp luật trong
nước và quốc tế, nhóm nghiên cứu thêm các bài báo ở Việt Nam và quốc tế.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là đi từ thực tiễn tình hình các giao dịch liên
kết, thực trạng chuyển giá, công tác quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá
tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, từ đó tổng hợp, so sánh, đối chiếu
và đề ra các giải pháp cho vấn đề tăng thu cho ngân sách nhà nước bằng hoạt
động chống chuyển giá tại Việt Nam. Sơ đồ dưới đây thể hiện rõ phương pháp
nghiên cứu của đề tài:


7

Lý thuyết chuyển giá, hoạt
động chuyển giá, doanh nghiệp
FDI, quản lý thuế với hoạt động
chuyển giá

Kinh nghiệm
quốc tế
lĐánh giá thực trạng

P Phát hiện vấn đề nghiên

cứu
Giải pháp và kết luận


5.

Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày trong phạm vi 3 chương
như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chuyển giá của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
ảnh hưởng đến tăng thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng hoạt động chuyển giá và chống chuyển giá nhằm tăng thu
ngân sách nhà nước ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp chống chuyển giá của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
nhằm tăng thu ngân sách Nhà nước Việt Nam.


8

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN GIÁ CỦA DOANH
NGHIỆP FDI ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NSNN
1.1. Tổng

quan về chuyển giá của doanh nghiệp

1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của chuyển giá
1.1.1.1 Khái niệm
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa,
dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn hoặc các
bên liên kết qua biên giới, không theo giá thị trường mà theo hướng có lợi, nhằm
giúp các DN giảm thiểu nghĩa vụ thuế, tối đa hóa lợi nhuận, từ đó chuyển vốn
đầu tư hoặc lợi nhuận về nước, chiếm lĩnh thị trường (đặc biệt là các công ty đa
quốc gia).

Về sâu xa, chuyển giá là việc chia quyền đánh thuế giữa các quốc gia, theo
đó, thu nhập sẽ được chuyển về quốc gia, vùng lãnh thổ có thuế thấp hoặc nước
xuất khẩu tư bản để tính thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, ngày nay chuyển giá
không chỉ xảy ra ở các giao dịch xuyên quốc gia, mà còn diễn ra ở các giao dịch
trong một nước, đặc biệt là giữa DN được hưởng ưu đãi thuế và DN không được
hưởng ưu đãi thuế, giữa DN nhà nước và DN “sân sau” của DN đó, giữa các DN
có quan hệ nhân thân...
Như vậy, cần hiểu hành vi chuyển giá theo một nghĩa rộng hơn. Theo đó,
chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện bằng cách thay
đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết nhằm tối
thiểu hóa tổng số thuế phải nộp của các đối tác liên kết.
Các đối tác liên kết ở đây có thể là:
-

Các công ty thành viên trong một công ty đa quốc gia
Các công ty hoặc đơn vị thành viên trong một tổng công ty, công ty
Các công ty độc lập mà chủ sở hữu của chúng có mối quan hệ đặc biệt,
thường là mối quan hệ thân nhân.

1.1.1.2 Đặc điểm của chuyển giá
Vấn đề chuyển giá diễn ra không phải mới đây, mà đã xuất hiện từ nhiều
năm trước, chuyển giá là một hình thức gian lận thương mại. Nó là một hành vi


9

mang tính chủ quan, áp đặt giá cả mua bán lên các giao dịch nội bộ, không căn
cứ trên giá thị trường, quy luật cung cầu giữa các công ty mẹ và công ty con hay
giữa các công ty con với nhau nhằm mục đích cuối cùng là tối thiểu hóa số thuế
phải nộp. Chuyển giá được diễn ra dưới rất nhiều hình thức, dựa vào từng hoàn

cảnh mà các công ty có thể áp dụng các mánh khóe để trốn thuế dưới qua
chuyển giá khác nhau.
Chuyển giá có những đặc điểm sau:
-

Không có sự thương lượng trước trong điều kiện thị trường cạnh tranh
mà nó thường gắn với quan hệ, liên kết giữa bên giao và bên nhận, do

-

chủ công ty điều hành.
Được xác định không hợp lý nhằm chủ động dồn thu nhập vào nơi
không phải nộp thuế hoặc nộp thuế thấp, dồn chi phí vào nơi có thuế

-

cao.
Đối với công ty đa quốc gia, việc giao nhận là cùng trong một tập
đoàn, nên thu nhập chung của tập đoàn thường là không thay đổi,
nhưng thu nhập sau thuế thì lớn hơn vì đã gian lận được thuế.

1.1.2. Điều kiện thực hiện chuyển giá của các DN FDI.
Động cơ cốt lõi của hành vi chuyển giá là lợi nhuận của DN. Các bên liên
kết định giá chuyển giao hàng hóa, dịch vụ và tài sản với nhau theo hướng có
thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế phải nộp của họ, qua đó làm tăng tổng lợi
ích cuối cùng. Về mặt kỹ thuật, các bên liên kết dùng các biện pháp định giá sao
cho nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp
hơn.
Như vậy, các DN thực hiện thủ thuật chuyển giá khi môi trường kinh
doanh có những yếu tố sau:

1.

Có sự chênh lệch về thuế suất thuế thu nhập DN giữa các quốc gia khác nhau

2.

Có quy định nhiều mức thuế suất thuế thu nhập DN với những đối tượng
khác nhau trong một quốc gia

3.

Có các quy định về miễn, giảm thuế thu nhập DN có thời hạn.

1.1.3. Nguyên nhân của hành vi chuyển giá
Theo thông lệ quốc tế, chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách


10

giá đối với hàng hóa, dịch vụ được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập
đoàn qua biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế phải
nộp của các công ty đa quốc gia trên toàn cầu. Để làm được điều này, công ty đa
quốc gia thường nắm bắt và vận dụng những quy định khác biệt về thuế giữa các
quốc gia, các ưu đãi trong quy định thuế để xây dựng và áp dụng một chính sách
về giá giao dịch nội bộ trong tập đoàn. Theo đó, giá chuyển giao giữa các thành
viên trong nội bộ tập đoàn có thể được định ở mức cao hay thấp tùy vào lợi ích
đạt được từ những giao dịch này. Sở dĩ giá cả có thể bị tác động trong những
giao dịch liên kết là do:
Thứ nhất, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể
hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó, họ hoàn toàn có

quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn.
Thứ hai, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên
kết nên sự khác biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh
có cùng lợi ích không làm thay đổi lợi ích toàn cục.
Thứ ba, việc quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong
nhóm liên kết không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng
nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ
nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Sự khác nhau về
chính sách thuế của các quốc gia là điều không tránh khỏi do chính sách kinh tế
- xã hội mỗi nước khác nhau, đồng thời, sự hiện hữu của các quy định ưu đãi
thuế là điều tất yếu, nên chênh lệch mức độ điều tiết thuế hoàn toàn có thể xảy ra.
1.1.4. Phương thức chuyển giá phổ biến của các DN FDI
1.1.4.1. Chuyển giá thông qua hình thức nâng cao giá trị tài sản góp vốn
Đầu tư dưới dạng liên doanh: việc nâng giá trị tài sản đóng góp sẽ làm
cho phần vốn góp của bên phía có nâng giá trị góp vốn tăng, nhờ đó, sự chi phối
trong các quyết định liên quan đến hoạt dộng của dự án liên doanh sẽ gia tăng và
mức lời được chia sẽ tăng. Ngoài ra, khi dự án kết thúc hoạt động theo tỷ lệ trị
giá tài sản được chia cao hơn.
Đối với các công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài thì việc nâng tài sản


11

góp vốn sẽ giúp họ tăng mức khấu hao trích hàng năm, làm tăng chi phí đầu vào.
Việc tăng mức khấu hao tài sản cố định sẽ giúp chủ đầu tư:
1

Nhanh hoàn vốn đầu tư cố định, nhờ đó giảm thiểu rủi ro đầu tư.

2


Giảm mức thuế TNDN phải đóng cho nước tiếp nhận đầu tư

1.1.4.2. Chuyển giá bằng cách nâng khống trị giá công nghệ, thương hiệu…
(tài sản vô hình)
Việc định giá chính xác được tài sản vô hình của các nhà đầu tư hết sức khó, lợi
dụng việc này mà các MNC chủ sẽ thổi phồng phần góp vốn bằng thương hiệu,
công thức pha chế, chuyển giao công nghệ… nhằm tăng phần góp vốn của mình
lên. Một số trường hợp phía góp vốn bằn tài sản vô hình có xuất trình giấy
chứng nhận của công ty kiểm toán nhưng độ tin cậy, trung thực của các giấy
chứng nhận này rất khó kiểm định.
1.1.4.3. Nhập khẩu nguyên vật liệu từ công ty mẹ ở nước ngoài, hoặc từ
công ty đối tác trong liên doanh với giá cao
Đây là hình thức chuyển một phần lợi nhuận ra nước ngoài thông qua việc thanh
toán tiền hàng nhập khẩu. Ngoài ra, việc mua hàng nhập khẩu với giá đắt làm
chi phí sản xuất tăng, dẫn tới lợi nhuận chịu thuế TNDN giảm.
1.1.4.4. Chuyển giá thông qua hình thức nâng chi phí các đơn vị hành chính
và quản lý
Các công ty mẹ thường sử dụng các hợp đồng tư vấn hay thuê trung gian. Một
số đối tác liên doanh cũng bị ép nhận chuyên gia với chi phí rất cao nhưng hiệu
quả lại thấp. Chi phí này phía liên doanh nước chủ nhà gánh chịu.
Một số công ty thuê người quản lý doanh nghiệp FDI với lương cao, ngoài ra
còn phải trả một khoản tiền lớn cho công ty nước ngoài cung cấp nhà quản lý. Ở
một số trường hợp cũng có hiện tượng chuyển giá ở khâu này khi công ty cung
cấp nguồn nhân lực cũng là công ty con của cùng một tập đoàn.
Một số trường hợp còn thực hiện chuyển giá thông qua hinh thức đào tạo ở
nước ngoài: cử chuyên viên, công nhân sang học tập, thực tập tại công ty mẹ với
chi phí cao.
Một hình thức chuyển giá của công ty có vón FDI là trả lương, chi phí cho



12

chuyên gia tư vấn được gủi đến từ công ty mẹ. Loại hình tư ván này rất khó xác
định số lượng và chất lượng để xác định chi phí cao hay thấp. Lợi dụng điều
này, nhiều công ty FDI thực hiện hành vi chuyển giá mà thực chất là chuyển lợi
nhuận về nước dưới danh nghĩa là phí dịch vụ tư vấn.
1.1.4.5. Thực hiện chuyển giá thông qua việc điều tiết giá mua bán hàng hóa
Khi thuế nhập khẩu cao thì công ty mẹ bán nguyên liệu, hàng hóa với giá thấp
nhằm tránh nộp thuế nhập khẩu nhiều. Trong trường hợp này, công ty mẹ sẽ
tăng cường hoạt động tư vấn, huấn luyện, hỗ trợ tiếp thị với giá cao để bù đắp lại
hoặc mua lại sản phẩm với giá thấp. Đối với hàng hóa nhập khẩu mà thuế suất
thấp, công ty ký hợp đồng nhập khẩu với giá cao nhằm nâng chi phí để tránh
thuế.
1.1.4.6. Chuyển giá thông qua hh ình thức tài trợ bằng nghiệp vụ vay từ công
ty mẹ
Bằng hh ình thức này, các công ty con tạo ra cơ cấu vốn và nguồn vốn bất hợp lý
như dùng nguồn vốn vay từ công ty mẹ để tài trợ cho tài sản cố định và tài sản
đầu tư dài hạn mà không tăng vốn góp và vốn chủ sở hữu nhằm đẩy chi phí hoạt
động tài chính lên cao như chi phí chênh lệch tỷ giá, chi phí lãi vay… và chuyển
một phần lợi nhuận về nước dưới dạng lãi vay, chi phí bảo lãnh vay vốn để tránh
thuế, tránh lỗ do chênh lệch tỷ giá về sau.
1.1.4.7. Chuyển giá thông các trung tâm tái tạo hóa đơn
Trung tâm tái tạo hóa đơn đóng vai trò trung gian giữa công ty mẹ và các công
ty con. Hàng hóa trên chứng từ hóa đơn thì được bán từ công ty nơi sản xuất
hàng hóa qua trung tâm tái tạo hóa đơn và sau đó thì trung tâm này bán lại cho
công ty phần phối bằng cách xuất hóa đơn và chứng từ kèm theo. Thông qua
việc này sẽ định vị lại loại ngoại tệ của đơn vị sản xuất và trung tâm tái tạo hóa
đơn. Nhưng thực tế , hàng hóa đượ chuyển giao trực tiếp từ công ty sản xuất qua
thẳng công ty phân phối mà không qua trung tâm tái tạo hóa đơn. Hình thức này

thường xảy ra trong ngành dược phẩm.


13

1.1.5. Động cơ khiến các doanh nghiệp thực hiện chuyển giá.
1.1.5.1. Động cơ bên ngoài
Thứ nhất, khi phát hiện ra thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giữa hai quốc
gia có sự khác biệt lớn, với mục tiêu luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận của mình
các doanh nghiệp nước ngoài sẽ tiến hành thực hiện hành vi chuyển giá nhằm
mục đích giảm thiểu tối đa khoản thuế mà doanh nghiệp này phải nộp cũng như
tối đa hóa lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Khi có chênh lệch về thuế suất
thì thủ thuật chuyển giá mà các doanh nghiệp nước ngoài thường sử dụng đó là
nâng giá mua đầu vào các nguyên liệu,hàng hóa và định giá bán ra hay giá xuất
khẩu thấp tại các công ty con đóng trên các quốc gia có thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp cao. Như vậy, bằng cách thực hiện này thì các doanh nghiệp nước
ngoài đã chuyển một phần lợi nhuận từ quốc gia có thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp cao sang quốc gia có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp và
như vậy mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đã được thực hiện thành công. Như vậy
động cơ ở đây là có sự khác biệt về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thứ hai, kỳ vọng về sự biến đổi trong tỷ giá và trong chi phí cơ hội đầu tư. Với
mục đích là bảo toàn và phát triển nguồn vốn đầu tư ban đầu, các doanh nghiệp
nước ngoài sẽ tiến hành đầu tư vào một quốc gia nếu họ dự đoán rằng trong
tương lai đồng tiền của quốc gia này sẽ mạnh lên nghĩa là số vốn đầu tư ban đầu
của họ được bảo toàn và phát triển, ngược lại họ sẽ rút đầu tư ra khỏi một quốc
gia nếu họ dự đoán rằng trong tương lai đồng tiền của quốc gia này sẽ bị yếu đi
nghĩa là vốn đấu tư ban đầu của họ bị giảm đi.
Ta sẽ xét một ví dụ nhỏ sau: giả sử có một doanh nghiệp nước ngoài đang định
đầu tư vào sản xuất tại Việt Nam với số vốn ban đầu là 100 triệu usd với tỷ giá
USD/VND là 19000 tại thời điểm đầu tư, như vậy tổng vốn đầu tư tương đương

với 1900 tỷ đồng. Thời hạn đầu tư của dự án là 10 năm và giả sử cuối thời hạn
đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài rút vốn đầu tư trong tình trạng là hoà vốn kinh
doanh. Xảy ra 3 trường hợp đối với lợi nhuận mà nhà đầu tư thu được ở Việt
Nam do chênh lệch tỷ giá:
1

Tỷ giá vẫn giữ nguyên là 19000: như vậy với tình trạng hoà vốn thì vốn vẫn bảo


14

toàn là 1900 tỷ đồng. Doanh nghiệp nước ngoài rút vốn ra khỏi việt nam là hoàn
toàn hợp lý bởi lợi nhuận mang lại do chênh lệch tỷ giá là 0%.
2

Việt Nam đồng tăng giá 10% so với USD, tức lúc này tỷ giá USD/VND giảm và
1900 tỷ việt nam đồng quy đổi thành 110 triệu USD. Như vậy lúc này doanh
nghiệp đã có lợi nhuận thu được từ chênh lệch giá mang lại là bằng đúng 10%.

3

Trường hợp ngược lại là tỷ giá USD/VND tăng lên và 1900 tỷ việt nam đồng lúc
này chỉ đổi được 91 triệu USD. Như vậy đối với vốn đầu tư của doanh nghiệp
nước ngoài bị giảm xuống. Lúc này lỗ do chênh lệch tỷ giá cũng bằng đúng tỷ lệ
giảm giá của đông việt nam là 10%.
Thứ ba, do chi phí cơ hội cũng là một động lực để các doanh nghiệp nước ngoài
thực hiện hành vi chuyển giá. Khi đó các doanh nghiệp nước ngoài nhận ra rằng
các khoản lợi nhuận của họ chỉ có thể chuyển về nước sau khi kết thúc năm tài
chính và sau khi được kiểm tra của cơ quan thuế và chịu sự kiểm soát ngoại tệ
của cơ quan quản lý ngoại hối. Vì vậy, các cơ hội đầu tư có thể sẽ bị bỏ lỡ. Do

đó các doanh nghiệp này sẽ tiến hành thurt huật chuyển giá nhằm thu hồi nhanh
vốn đầu tư và bắt lấy cơ hội đầu tư khác. Trong các hoạt động liên doanh liên
kết với các đối tác trong nước thì các doanh nghiệp nước ngoài sẽ định giá thật
cao các yếu tố đầu vào mua từ công ty nhằm tăng cường tỷ lệ góp vốn và nắm
quyền quản lý. Ngoài ra,các doanh nghiệp này có thể cấu kết với cac công ty
nước ngoài khác làm lũng loạn thị trường trong nước.
Thứ tư, do tình hình lạm phát của các quốc gia khác nhau, nếu quốc gia nào có
tỷ lệ lạm phát cao tức đồng tiến nước đó bị mất giá. Do đó doanh nghiệp sẽ tiến
hành chuyển giá nhằm bảo toàn lượng vốn đầu tư và lợi nhuận.
Thứ năm, yếu tố tình hình kinh tế chính trị của các quốc gia mà doanh nghiệp
nước ngoài có chi nhánh hay công ty con. Các chính sách kinh tế thay đổi ảnh hưởng
đến quyền lợi của các công ty con cũng như chi nhánh thì khi đó các doanh nghiệp
sẽ thực hiện các hành vi chuyển giá nhằm chống lại các tác động. Hoặc nếu tình hình
chính trị bất ổn, để giảm rủi ro và bảo toàn vốn kinh doanh bằng cách chuyển giá thì
các doanh nghiệp nước ngoài muốn thu hồi vốn đầu tư sớm. Ngoài ra hoạt động
chuyển giá cũng nhằm làm giảm các khoản lãi từ đó giảm áp lực đòi tăng lương của


15

lực lượng lao động cũng như làm giảm sự chú ý của các cơ quan thuế của nước
sở tại.
1.1.5.2 Động cơ bên trong
Thứ nhất, do sai lầm trong kế hoạch kinh doanh, sai lầm trong việc nghiên cứu
và đưa sản phẩm mới vào thị trường ,các chi phí quản lý hay chi phí quảng cáo
dẫn đến kết quả kinh doanh bị thua lỗ. Vì vậy để tạo ra một bức tranh tài chính
tươi sáng hơn cho công ty khi đứng trước các cổ đông và các bên hữu quan khác
thì chuyển giá như là một cứu cánh để thực hiện ý đồ trên.
Thứ hai, ngoài ra do việc thực hiện chuyển giao các sản phẩm và dịch vụ có tính
đặc thù cao, độc quyền và tính bảo mật cao như trong các ngành công nghệ

thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí y dược,…..nhằm giảm các rủi ro khi giao
dịch các sản phẩm này thì chuyển giá là phương pháp được các doangh nghiệp
nước ngoài lựa chọn.
Thứ ba, do được hưởng lợi các đặc quyền,đặc lợi trong quá trình kêu gọi đầu tư
của nước chủ nhà và nắm trong tay các quyền về kinh tế chính trị xã hội.
1.1.6. Tác động của chuyển giá
1.1.6.1 Tác động của chuyển giá đến tình hình tài chính của tập đoàn
Chuyển giá là hành vi thực hiện chính sách chuyển giao sản phẩm (tài sản
hữu hình, tài sản vô hình, dịch vụ, vay, mượn vật tư, tiền vốn) giữa các thành
viên của các tập đoàn kinh tế, công ty đa quốc gia không theo giá giao dịch
thông thường trên thị trường với mục đích tối thiểu hoá nghĩa vụ thuế tính chung
trong tập đoàn nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mình dựa vào chính sách ưu đãi
thuế hoặc quy định thuế suất của mỗi vùng, miền hay mỗi quốc gia khác nhau.
Khi thực hiện hành vi chuyển giá thành công, các tập đoàn kinh tế, công
ty đa quốc gia đã nâng được mức lợi nhuận của mình lên tương ứng với mức độ
chuyển giá trong tập đoàn. Hành vi này đã tạo ra nguồn tài chính có thể giúp cho
tập đoàn, công ty đa quốc gia dễ dàng thực hiện kế hoạch và mục tiêu kinh
doanh của mình. Mặt khác, nó đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các
chủ thể sản xuất kinh doanh, làm cho quá trình phá sản tại các công ty nhỏ lẻ,
đơn nhất diễn ra nhanh hơn, dẫn tới việc độc quyền trong sản xuất, kinh doanh.


16

Theo đó, tập đoàn, công ty đa quốc gia nào có mức độ thực hiện hành vi chuyển
giá thành công lớn hơn (nghĩa vụ thuế thấp hơn) thì sẽ có lợi thế nhiều hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích do hành vi chuyển giá mang lại, tập
đoàn kinh tế, công ty đa quốc gia có hành vi chuyển giá sẽ có nguy cơ phải gánh
chịu những hình phạt rất nghiêm khắc nếu cơ quan thuế của các quốc gia mà tập
đoàn kinh tế có đơn vị thành viên phát hiện hành vi chuyển giá làm giảm lợi

nhuận trước thuế của các đơn vị thành viên này. Khi đó, các đơn vị thành viên
ngoài việc phải nộp tiền phạt và tiền thuế tăng thêm, còn có thể bị thu hồi giấy
phép kinh doanh, uy tín của tập đoàn trên thương trường quốc tế cũng bị giảm
sút nghiêm trọng và là tâm điểm chú ý của cơ quan thuế tại các quốc gia có đơn
vị thành viên khác.
Thêm vào đó, mặc nhiên, khi một doanh nghiệp được hưởng lợi về nghĩa
vụ thuế thông qua hành vi chuyển giá, doanh nghiệp này sẽ thu lợi cao hơn
những doanh nghiệp khác có cùng điều kiện nhưng không thực hiện hành vi
chuyển giá. Một môi trường cạnh tranh lành mạnh phải tạo ra khả năng hưởng
lợi chính đáng từ hoạt động kinh doanh chính đáng. Ngoài ra, với việc được lợi
nhờ chuyển giá, các doanh nghiệp này có thể mua nguyên liệu đầu vào với giá
cao làm cho các doanh nghiệp khác không thể mua được nguyên liệu phục vụ
sản xuất, kinh doanh, đẩy các doanh nghiệp khác vào tình trạng phá sản.
1.1.6.2 Tác động của chuyển giá đến nền kinh tế của mỗi quốc gia
Do hành vi chuyển giá là hành vi tránh thuế để tối thiểu hoá tổng số thuế
phải nộp tính chung cho cả tập đoàn, công ty đa quốc gia, nên số thuế tổng hợp
của các quốc gia sẽ bị giảm đi tương ứng. Tuy nhiên, hành vi này lại có tác động
khác nhau đến số thu ngân sách của mỗi quốc gia. Các tập đoàn kinh tế xây
dựng kế hoạch tránh thuế bằng cách chuyển toàn bộ hay một phần lợi nhuận
trước thuế từ quốc gia có mức thuế suất cao sang quốc gia có mức thuế suất
thấp, làm giảm thu nhập chịu thuế và số thuế phải nộp tại quốc gia có mức thuế
suất cao, đồng thời làm tăng thu nhập chịu thuế và số thuế phải nộp tại quốc gia
có mức thuế suất thấp. Từ các hành vi điều chỉnh lợi nhuận và số thuế phải nộp
này, tác động vĩ mô của chuyển giá đến nền kinh tế của quốc gia có thể được


17

phân tích từ phía quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư và quốc gia xuất khẩu vốn
đầu tư như sau:

a.
1

Đối với quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư

Hoạt động chuyển giá diễn ra dưới dạng định giá cao các yếu tố đầu vào nhằm
rút ngắn thời gian thu hồi vốn của công ty mẹ, dẫn đến các luồng vốn có xu
hướng chảy ngược ra khỏi quốc gia tiếp nhận đầu tư. Hành vi chuyển giá này sẽ
làm thay đổi cơ cấu vốn của nền kinh tế quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư, dẫn
tới sự phản ánh sai lệch kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế,
tạo ra một bức tranh kinh tế không trung thực.

2

Trường hợp, quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư có mức thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp hoặc loại thuế tương đương với thuế thu nhập doanh nghiệp thấp
(thiên đường thuế) có lợi thế về số thu thuế thông qua chuyển giá. Tuy nhiên, lợi
thế này không bền vững khi mà các quốc gia khác có liên quan tăng cường các
biện pháp quản lý về giá chuyển nhượng. Đây là nguyên nhân dẫn tới khủng
hoảng kinh tế tại các thiên đường thuế này.

3

Do có lợi thế về nguồn vốn đầu tư dồi dào, các công ty đa quốc gia dễ dàng thôn
tính các công ty trong nước thông qua các chiêu thức quảng cáo và khuyến mại
lớn dẫn tới hậu quả là lũng đoạn thị trường. Các công ty trong nước không đủ
tiềm lực tài chính để cạnh tranh nên dần dần sẽ bị phá sản hoặc buộc phải thay
đổi ngành nghề, sản phẩm kinh doanh. Khi đó, các công ty đa quốc gia dần trở
nên độc quyền, thao túng thị trường trong nước, độc quyền kiểm soát giá cả và
sẽ dẫn đến hậu quả quốc gia này sẽ gặp khó khăn trong quá trình hoạch định

chính sách kinh tế vĩ mô và không thể thúc đẩy các ngành sản xuất nội địa phát
triển, thiệt hại cho người tiêu dùng. Sự phụ thuộc kinh tế của quốc gia tiếp nhận
đầu tư vào các công ty đa quốc gia này sẽ kéo theo sự chi phối về chính trị.
b.

Đối với quốc gia xuất khẩu vốn đầu tư

Thông thường, các quốc gia xuất khẩu vốn đầu tư có mức thuế suất thuế
thu nhập doanh nghiệp hoặc loại thuế tương đương với thuế thu nhập doanh
nghiệp cao, hành vi chuyển giá sẽ chuyển lợi nhuận ra nước ngoài làm thất thu
thuế, dẫn tới làm mất tính cân đối trong kế hoạch thu chi của Chính phủ quốc


18

gia này. Hành vi chuyển giá của các công ty đa quốc gia sẽ làm cho dòng vốn
đầu tư dịch chuyển không theo ý muốn quản lý của Chính phủ, dẫn tới mục tiêu
quản lý kinh tế vĩ mô của Chính phủ sẽ gặp khó khăn.
Chúng ta có thể dễ dàn nhận ra tác động tích cực đối với các DN FDI khi
họ thực hiện hành vi chuyển giá đó làdoanh nghiệp được lợi về thuế thì phần
thuế lẽ ra có thể thu được theo Luật đã không được nộp vào ngân sách nhà nước.
Thêm vào đó, mặc nhiên, khi một doanh nghiệp được hưởng lợi về nghĩa vụ
thuế thông qua hành vi chuyển giá, doanh nghiệp này sẽ thu lợi cao hơn những
doanh nghiệp khác có cùng điều kiện nhưng không thực hiện hành vi chuyển
giá. Một môi trường cạnh tranh lành mạnh phải tạo ra khả năng hưởng lợi chính
đáng từ hoạt động kinh doanh chính đáng. Ngoài ra, với việc được lợi nhờ
chuyển giá, các doanh nghiệp này có thể mua nguyên liệu đầu vào với giá cao
làm cho các doanh nghiệp khác không thể mua được nguyên liệu phục vụ sản
xuất, kinh doanh, đẩy các doanh nghiệp khác vào tình trạng phá sản.
1.2 Chuyển giá với nguồn thu Ngân sách nhà nước


1.2.1 Khái quát nguồn thu của NSNN
Ngân sách nhà nước, hay ngân sách chính phủ, là một phạm trù kinh tế và là
phạm trù lịch sử; là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân
sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc
gia. Song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa
ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh
vực nghiên cứu.
Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản
thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia. Luật Ngân sách
Nhà nước của Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày
16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của
Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và
được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ
của nhà nước.
Ở Việt Nam, đứng về phương diện pháp lý, thu NSNN bao gồm những khoản


19

tiền Nhà nước huy động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước. Về mặt bản chất, thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính
để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu
cầu chi tiêu của mình. Thu NSNN chỉ bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy
động vào ngân sách mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp
cho đối tượng nộp. Theo Luật NSNN hiện hành, nội dung các khoản thu NSNN
bao gồm:
1


Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật

2

Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước

3

Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân

4

Các khoản viện trợ

5

Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật
Cần lưu ý là không tính vào thu NSNN các khoản thu mang tính chất hoàn trả
như vay nợ và viện trợ có hoàn lại. Vì thế, các văn bản hướng dẫn Luật NSNN
(Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ và Thông tư
59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính) chỉ tính vào thu NSNN các
khoản viện trợ không hoàn lại; còn các khoản viện trợ có hoàn lại thực chất là
các khoản vay ưu đãi không được tính vào thu NSNN.
Như vậy, thu ngân sách nhà nước là sự phân chia nguồn tài chính quốc gia giữa
nhà nước với chủ thể trong xã hội dựa trên quyền lực nhà nước, nhằm giải quyết
hài hòa các lợi ích kinh tế, xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy
nhà nước cũng như yêu cầu thực hiện các chức năng nhiệm vụ kinh tế xã hội của
nhà nước. Trong đó, thuếlà một khoản thu chủ yếu và quan trọng nhất của ngân
sách, mang tính chất nghĩa vụ bắt buộc mà mọi tổ chức, cá nhân phải đóng góp
theo đúng qui định của pháp luật.

1.2.2 Mối quan hệ giữa chuyển giá của doanh nghiệp với thu NSNN
Tại các quốc gia có mức thuế suất thấp được ví là "thiên đường" thuế, các công
ty đa quốc gia thường tiến hành chuyển giá lãi, do đó, các quốc gia này sẽ có lợi
về số thuế thu được thông qua chuyển giá. Tuy nhiên, lợi thế này không bền


20

vững khi các quốc gia khác có liên quan tăng cường biện pháp chống chuyển
giá. Đây là một trong số những nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng kinh tế ở các
"thiên đường" thuế này. Bên cạnh đó, do có lợi thế về nguồn vốn đầu tư dồi dào,
các công ty đa quốc gia dễ dàng thôn tính các công ty trong nước để lũng đoạn
thị trường. Các công ty trong nước không đủ tiềm lực tài chính để cạnh tranh,
nên dần dần sẽ bị phá sản hoặc buộc phải thay đổi ngành nghề, sản phẩm kinh
doanh. Khi đó, các công ty đa quốc gia dần trở nên độc quyền, thao túng thị
trường trong nước, kiểm soát giá cả. Hậu quả là các quốc gia này sẽ gặp khó
khăn trong quá trình hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, không thể thúc đẩy
các ngành sản xuất nội địa phát triển, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Xa hơn
nữa, sự phụ thuộc kinh tế của quốc gia tiếp nhận đầu tư vào các công ty đa quốc
gia này sẽ kéo theo sự chi phối về chính trị.
Ở trường hợp ngược lại, với các quốc gia có thuế suất cao, các công ty đa quốc
gia thường tiến hành chuyển giá lỗ. Tác động đầu tiên của chuyển giá lỗ là làm
thất thu ngân sách nhà nước của nước tiếp nhận đầu tư khi doanh nghiệp hạch
toán lỗ để không phải chịu thuế. Thêm vào đó, chuyển giá khiến luồng vốn có
xu hướng chảy ngược ra khỏi quốc gia tiếp nhận đầu tư, làm thay đổi cơ cấu vốn
của nền kinh tế, dẫn tới sự phản ánh sai lệch kết quả hoạt động sản xuất, kinh
doanh của nền kinh tế, tạo ra một bức tranh kinh tế không trung thực. Đối với
các chủ thể kinh tế, chuyển giá tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh.
Khi một doanh nghiệp được hưởng lợi về nghĩa vụ thuế thông qua hành vi
chuyển giá, họ sẽ thu lợi cao hơn những doanh nghiệp khác có cùng điều kiện,

nhưng không thực hiện hành vi chuyển giá. Ngoài ra, với việc được lợi nhờ
chuyển giá, các doanh nghiệp này có thể mua nguyên liệu đầu vào với giá cao
khiến các đối thủ cạnh tranh không thể mua được nguyên liệu phục vụ sản xuất,
kinh doanh, đẩy họ vào tình trạng phá sản. Mặt khác, khi thực hiện chuyển giá,
các doanh nghiệp FDI có thể không quan tâm khai thác yếu tố đầu vào từ thị
trường trong nước, không kéo doanh nghiệp nội phát triển mà còn chèn ép, lất át
họ.
Trong các liên doanh, chuyển giá cũng tạo ra giá trị ảo, có thể gây ra tình trạng


21

lỗ “ảo” kéo dài, làm cho phía đối tác nước sở tại không trụ nổi, buộc phải rút lui
khỏi liên doanh và bị thôn tính thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Khi xảy ra hành vi chuyển giá mà không có quy định pháp luật để xử lý hoặc
không được xử lý theo quy định của pháp luật thì sẽ có hai tác động cơ bản đến
NSNN, đó là làm thất thu ngân sách nhà nước. Đây có thể coi là tác động hiển
nhiên đầu tiên vì với việc doanh nghiệp được lợi về thuế thì phần thuế lẽ ra có
thể thu được theo Luật đã không được nộp vào ngân sách nhà nước.
1.3 Các phương pháp chống chuyển giá
Để tránh được hiện tượng chuyển giá, các giao dịch giữa các công ty liên kết
phải được định giá theo giá giữa hai doanh nghiệp độc lập – nguyên tắc định giá
sòng phẳng.
Do gặp những khó khăn trong quá trình tìm kiếm các nghiệp vụ mua bán hàng
hoá giữa các công ty độc lập có cùng các điều kiện tương đương với các nghiệp
vụ chuyển giao nội bộ để có thể so sánh với nhau,và có thể áp dụng trực tiếp
nguyên tắc căn bản giá thị trường,các doanh nghiệp nước ngoài thường áp dụng
các phương pháp tính giá chuyển giao nội bộ khác nhau ,tuỳ thuộc vào các đặc
điểm của nghiệp vụ chuyển giao hàng hoá, tuỳ thuộc vào đặc tính của hàng hoá
mà chọn phương pháp thực hiện thích hợp.

Các phương pháp định giá theo hướng dẫn của OECD được các doanh nghiệp
nước ngoài áp dụng phổ biến như sau :
1

Phương pháp định giá chuyển giao trên cơ sở giá tự do có thể so sánh được

2

Phương pháp giá bán lại

3

Phương pháp giá vốn cộng lãi

4

Phương pháp chiết tách lợi nhuận

5

Phương pháp lợi nhuận ròng của nghiệp vụ chuyển giao
Tuỳ theo mỗi phương pháp cụ thể nêu trên, giá thị trường của sản phẩm có thể
được tính trực tiếp hay gián tiếp ra đơn giá sản phẩm hoặc gián tiếp thông qua tỷ
suất lợi nhuận gộp hoặc tỷ suất sinh lời của sản phẩm.


22

1.3.1 Phương pháp định giá chuyển giao trên cơ sở giá tự do có thể so sánh
được (CUP)

Phương pháp này so sánh giá cả của hàng hoá, dịch vụ, TSCD hữu hình và vô
hình trong các giao dịch giữa các bên độc lập và liên kết. Tuỳ vào mối quan hệ
so sánh mà ta có thể chia phương phạp CUP này thành 2 loại :
1

Phương pháp CUP nội bộ:

Dùng giá của các sản phấm hàng hoá dịch vụ được chuyển giao giữa các công ty
con của một doanh nghiệp nước ngoài với giá cảhàng hoá,dịch vụ mà một thành
viên của doanh nghiệp nước ngoài bán ra bên ngoài cho một công ty hoàn toàn
độc lập trong cùng các điều kiện so sánh được với nhau.
2

Phương pháp CUP đối ngoại:

Sử dụng giá cả hàng hoá, dịch vụ của nghiệp vụ chuyển giao mua bán giữa nội
bộ các công ty của các doing nghiệp nước ngoài và giao dịch giữa hai chủ thể
hoàn toàn độc lập khác nhưng phải cùng điều kiện tương đương.
Phương pháp này được áp dụng kèm theo điều kiện là các giao dịch đem ra so
sánh không có các khác biệt nào trọng yếu ảnh hưởng đáng kể đến giá của sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ. Nếu có sự khác biệt thì sự khác biệt này phải được tính
toán và điều chỉnh cho phù hợp.
Các yếu tố ảnh hưởng trọng yếu đến giá của hàng hoá và dịch vụ thường là:
3

Đặc tính vật chất, chất lượng và nhãn hiệu thương mại của sản phẩm

4

Các điều kiện hợp đồng trong việc cung cấp,chuyển giao sản phẩm.Ví dụ

như mua hàng với số lượng lớn sẽ được chiết khấu làm cho giá mua rẻ
hơn hay thời hạn thanh toán và thời hạn chuyển giao sản phẩm

5

Quyền phân phối ,tiêu thụ sản phẩm có ảnh hưởng tới giá trị kinh tế

6

Thị trường diễn ra các giao dịch mua bán

Để đảm bảo các giao dịch nội bộ tuân thủ giá thi trường thì các doanh nghiệp
nước ngoài cần phải thực hiện so sánh như sau:
7

Gía bán hàng hoá, dịch vụ của một công ty thành viên của doanh nghiệp
nước ngoài cho một công ty hoàn toàn độc lập

8

Gía bán hàng hoá, dịch vụ trong 1 nghiệp vụ mua bán của hai công ty hoàn


23

toàn độc lập với nhau không có mối liên kết
9

Gía bán hàng hoá, dịch vụ của một công ty hoàn toàn độc lập cho một công
ty là thành viên của doanh nghiệp nước ngoài đó


Phương pháp này thường được áp dụng trong các trường hợp sau :
1

Các giao dịch riêng lẻ về từng chủng loại hàng hoá lưu thông trên thị trường

2

Các giao dịch riêng lẻ về từng loại hình dịch vụ,bản quyền, khế ước vay nợ

3

Các công ty kinh doanh thực hiện cả giao dịch độc lập và giao dịch liên kết
cho cùng một chủng loại sản phẩm

Đây được coi là phương pháp gần gũi nhất với nguyên tắc cân bản giá trị thị
trường. Trong thực tế đây là phương pháp thích hợp nhất cho cả bên mua và bên
bán vì giá cả có thể so sánh với độ chính xác tương đối cao với giá cả trên thị
trường vì vậy mà cả bên mua và bên bán đều có một khoản lợi nhuận tương đối
phù hợp với mức bình quân thị trường.
1.3.2 Phương pháp giá bán lại ( resales price method)
Phương pháp giá bán lại này dựa vào giá bán lại (hay giá bán ra) của sản phẩm
do cơ sở kinh doanh bán cho bên độc lập để xác định giá (chi phí) mua vào của
sản phẩm đó từ bên liên kết. Như vậy, phương pháp này bắt đầu bằng việc tính
toán:
Giá bán lại(hay giá bán ra) – lợi nhuận gộp – các chi phí khác
Trong đó lợi nhuân gộp bao gồm các khoản chiết khấu mà công ty độc lập này
được hưởng và tổng các khoản chiết khấu này phải đủ bù đắp cho các chi phí
bán hàng, chi phí quản lý và điều hành doanh nghiệp cũng như một mức lợi
nhuận hợp lý.

Các khoản chi phí khác là các chi phí liên quan đến việc mua sản phẩm và vận
chuyển sản phẩm như thuế nhập khẩu, chi phí hải quan, chi phí bảo hiểm, chi
phí vận chuyển. Như vậy sau khi loại trừ hai yếu tố lợi nhuận gộp và chi phí
khác thì phần còn lại có thể xem được xem như là giá cả theo nguyên tắc thị
trường (ALP).
Điều kiện để áp dụng phương pháp này:
Thứ nhất, các bên giao dịch phải độc lập với nhau, không có bất kì ràng buộc


24

nào. Vì nếu có tồn tại các ràng buộc,liên kết thì giá bán ra của các sản phẩm này
sẽ không còn mang tính khách quan và tuân theo quy luật thị trường nữa.
Thứ hai, không có sự khác biệt quá lớn về điều kiện giao dịch khi so sánh giữa
giao dịch độc lập và giao dịch liên kết gây ảnh hưởng trọng yếu đến tỷ suất lợi
nhuận gộp bán ra (doanh thu thuần). Các nghiệp vụ mua hàng được chọn phải có
liên quan đến nghiệp vụ chuyển giao mà ta cần xác định giá thị trường.
Thứ ba, nếu xảy ra trường hợp có khác biệt thì các khác biệt này cần phải được
loại bỏ trước khi đem ra so sánh. Trong thực tế có các trường hợp không tồn tại
các nghiệp vụ hoàn toàn phù hợp với nhau để có thể so sánh, vì vậy có thể tính
toán giá cả theo nguyên tắc thị trường bằng cách dựa trên khoản chiết khấu có
nguồn gốc từ chính công ty thương mại một thị trường tương tự. Chúng ta cần
phải biết là trong thực tế giữa các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ của các doanh
nghiệp nước ngoài và nghiệp vụ chuyển giao có thể so sánh được tồn tại những
khác biệt do sự vận động không ngừng của nền kinh tế như lạm phát ,lãi suất và
các ràng buộc về kinh tế, các thoả ước kinh tế….
Trong thực tế có một số trường hợp phương pháp này không hề phù hợp, không
thể thực hiện được do có những yếu tố tác động đến mức chiết khấu (tỷ lệ lãi
gộp) và các chi phí khác. Các yếu tố đó xảy ra trong các trường hợp sau:
1


Hàng hoá được các công ty thương mại mua về sau đó đem gia công chế biến
thếm và làm thay đổi đáng kể giá trị của sản phẩm vì vậy mà ảnh hưởng
đến việc xác định tỷ lệ chiết khấu hợp lý.

2

Hàng hoá mua về sau đó đem thay đổi nhãn hiệu bằng nhãn hiệu có uy tín
hơn và bán ở mức giá cao hơn dẫn đến khó khăn trong việc xác định
khoản chiết khấu hợp lý.

3

Thời gian từ lúc mua hàng đến lúc bán hàng quá lâu và khoảng cách địa lý
làm cho kéo theo các rủi ro về tỷ giá, lạm phát và những biến động của
nền kinh tế.

4

Khác nhau về mặt chức năng kinh doanh (ví dụ như đại lý phân phối độc
quyền, thực hiện các chương trình quảng cáo, khuyến mãi, bảo hành)
cũng làm ảnh hưởng đến tỷ suất lãi gộp hay mức chiết khấu.


25
5

Khác nhau về chủng loại, qui mô, khối lượng, thời gian quay vòng của sản
phẩm và tính chất hoạt động của thị trường như là công ty thương mại này
là bán buôn hay bán lẻ.


6

Phương pháp hạch toán kế toán, phải đảm bảo các bên tham gia vào giao
dịch liên kết cùng hạch toán theo cùng phương pháp kế toán, phương
pháp theo dõi hàng tồn kho. Nếu các bên tham gia vào các giao dịch sử
dụng các phương pháp kế toán khác nhau vào các nghiệp vụ thì việc so
sánh các nghiệp vụ sẽ trở nên khập khiễng.

Do đó mấu chốt của phương pháp này là xác định mức chiết khấu (tỷ lệ lãi gộp)
một cách hợp lý. Nhưng chúng ta cũng không thể lấy tỷ lệ chiết khấu hay tỷ lệ
lãi gộp bình quân cho toàn ngành mà áp đặt vào để so sánh. Phương pháp này
thường được áp dụng cho các trường hợp giao dịch đối với các công ty thương
mại, các sản phẩm thuộc khâu cung cấp các dịch vụ giản đơn và thường thời
gian phân phối từ khi mua hàng đến khi bán hàng ngắn và ít bị ảnh hưởng biến
động của tính thời vụ. Đồng thời các sản phẩm bán ra không qua gia công chế
biến, lắp ráp hay thay đổi cấu trúc ban đầu của sản phẩm làm tăng một phần
đáng kể giá trị của sản phẩm.
1.3.3 Phương pháp giá vốn cộng lãi (cost plus method or mark up method)
Phương pháp giá vốn cộng thêm dựa vào giá vốn hay giá thành của sản
phẩm để xác định giá bán ra của sản phẩm cho các bên liên kết. Gía bán ra của
sản phẩm bằng giá vốn của sản phẩm cộng thêm một khoản lợi nhuận hợp lý.
Mức nâng lợi nhuận này phải được xem xét tới tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến
quá trình sản xuất ra sản phẩm như giá trị tổng vốn trực tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất ra sản phẩm đó bao gồm cả TSCD hữu hình và TSCD vô hình, các
rủi ro có liên quan. Lợi nhuận nâng lên này phải được tính toán sao cho giá cả
chuyển giao trong nghiệp vụ này có thể so sánh căn bản giá thị trường trong các
nghiệp vụ mua bán chuyển giao giữa một công ty là thánh viên của doanh
nghiệp nước ngoài đó và một công ty độc lập hoặc là giao dịch giữa hai công ty
hoàn toàn độc lập với nhau.

Đối với phương pháp này, điều quan trọng là phải xác định phần lợi nhuận tăng


×