Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Thực trạng và giải pháp liên kết vùng nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm miền trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.91 KB, 100 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Liên kết phát triển kinh tế là nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường nhằm phát
triển hiệu quả, bền vững các thế mạnh về kinh tế được bố trí trên một không gian lãnh
thổ nhất định, tạo nên các cực tăng trưởng. Về phương diện lý thuyết, liên kết phát triển
nội vùng và liên kết vùng dựa trên cơ sở phân công lao động với các lợi thế so sánh khác
nhau là tiền đề nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển vùng nói chung và đầu tư công nói
riêng. Liên kết vùng vừa bổ sung những khiếm khuyết do điều kiện tự nhiên đặc thù, gia
tăng hiệu quả kinh tế theo quy mô, hình thành các vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp
hiện đại, công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh, đảm bảo sự quản lý thống nhất toàn
vùng, đồng bộ hiệu quả, ứng phó với biến đổi khí hậu, phát huy tiềm năng, lợi thế so sánh
của mỗi địa phương trong vùng.
Liên kết vùng tạo ra những tiền đề cơ bản thúc đẩy việc thu hút đầu tư. Muốn đẩy
mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào một vùng kinh tế nói chung, các địa
phương trong vùng đó cần phải thực hiện quá trình liên kết và hợp tác chặt chẽ với nhau
trong việc hoàn thiện môi trường đầu tư chung cho toàn vùng, thống nhất về chính sách,
lãnh thổ, cơ sở hạ tầng nhằm đem lại cái nhìn lạc quan của nhà đầu tư nước ngoài vào
vùng. Chính vì vậy, liên kết vùng làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư cũng như
hệ số cạnh tranh của vùng, những yếu tố được coi là vấn đề then chốt trong việc thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Ở Việt Nam, những năm gần đây bắt đầu hướng tới các nghiên cứu phát triển vùng
và liên vùng, song chưa thật sự trở thành các luận cứ khoa học cho phân tích chính sách
phát triển vùng. Liên kết vùng hiện đang bất cập, chưa chặt chẽ, gây lãng phí đầu tư công
cũng như không phát huy được vai trò trong việc tăng cường vốn đầu tư nước ngoài trong
nhiều năm qua.
Là một trong bốn vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung dần trở thành một vùng phát triển năng động, với tốc độ tăng trưởng nhanh
Page 1


và bền vững, bảo đảm vai trò hạt nhân tăng trưởng và thúc đẩy phát triển khu vực miền


Trung và Tây Nguyên. Tuy nhiên một vấn đề quan trọng của lý thuyết và thực tiễn phát
triển kinh tế vùng hiện nay là sự hợp tác và liên kết nội bộ vùng và liên vùng. Ở góc độ
thực tiễn, cần luận giải nguyên nhân của những hạn chế trong hợp tác và liên kết vùng để
có thể lựa chọn mô hình liên kết và hợp tác phát triển phù hợp, từ đó phát huy một cách
tốt nhất các nguồn lực và lợi thế của vùng nhằm thu hút được dòng vốn đầu tư nước
ngoài bền vững.
Từ những lý do trên, nhóm em đã chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp liên kết
vùng nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung” cho bài nghiên cứu khoa học.

Mục đích nghiên cứu
Từ việc phân tích thực trạng những tác động của liên kết vùng hiện nay của vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung tới việc thu hút FDI chưa hiệu quả nhằm đưa ra những
giải pháp, chính sách phù hợp để thúc đẩy hơn sự liên kết mạnh mẽ của toàn vùng cũng
như từng địa phương, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào toàn vùng.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của bài nghiên cứu là thực trạng của việc liên kết vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung để đưa ra các giải pháp phù hợp giúp tăng cường lượng vốn FDI thu hút vào
vùng lãnh thổ này. Phạm vi nghiên cứu, bài nghiên cứu phân tích cụ thể thực trạng của
việc liên kết vùng trong các lĩnh vực chủ chốt có tác động mạnh tới việc thu hút vốn FDI
như: cơ sở hạ tầng giao thông, khu kinh tế, du lịch và nguồn nhân lực.

Page 2


Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, dựa trên tính logic của
vấn đề nghiên cứu. Trong đó các phương pháp cụ thể được sử dụng và phương pháp phân

tích và tổng hợp, phương pháp diễn giải và quy nạp, phương pháp thống kê…

Kết cấu của bài nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tư liệu tham khảo và danh mục hình-bảng, bài
nghiên cứu được trình bày theo 3 chương như sau:
Chương I: Lí luận chung về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và liên kết vùng
Chương II: Thực trạng liên kết vùng nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
Chương III. Giải pháp liên kết vùng nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.

Page 3


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ LIÊN KẾT VÙNG
1.1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Một số khái niệm
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo tổ chức Thương mại Thế giới, Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi
một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác
(nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để
phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư
lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những
trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là
"công ty con" hay "chi nhánh công ty".
* Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong kinh tế học cổ điển, David Ricardo phân biệt tư bản cố định với tư bản để
quay vòng. Đối với một doanh nghiệp, chúng đều là tư bản hoặc vốn.
Karl Marx bổ sung một sự phân biệt mà thường bị lẫn với khái niệm của Ricardo.

Trong học thuyết kinh tế chính trị của Marx, tư bản lưu động là khoản đầu tư của nhà tư
bản vào lực lượng sản xuất, là nguồn tạo ra giá trị thặng dư. Nó được coi là “lưu động” vì
lượng giá trị nó tạo ra khác với lượng giá trị nó tiêu dụng, có nghĩa là tạo ra giá trị mới.
Nói một cách khác, tư bản cố định là khoản đầu tư vào yếu tố sản xuất không phải con
người như máy móc, nhà xưởng, những tư bản, mà theo Marx, chỉ tạo ra lượng giá trị để
thay thế bản thân chúng. Nó được coi là cố định theo nghĩa giá trị đầu tư ban đầu và giá
trị thu hồi ở dạng các hàng hóa do chúng tạo ra là không đổi.
Đầu tư và tích tụ tư bản trong kinh tế học cổ điển là việc tạo ra tư bản mới. Để
khởi động quá trình đầu tư, hàng hóa được tạo ra nhưng không để tiêu dùng ngay, thay
Page 4


vào đó, chúng trở thành công cụ sản xuất để tạo hàng hóa khác. Đầu tư liên quan chặt chẽ
với tiết kiệm, nhưng không phải là một. Theo Keynes, tiết kiệm là không sử dụng ngay
thu nhập vào hàng hóa hoặc dịch vụ, trong khi đó đầu tư là việc tiêu dùng khoản tiết kiệm
đó vào những hàng hóa vốn.
* Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Thu hút vốn đầu tư là những hoạt động, những chính sách của chính quyền, cộng
đồng doanh nghiệp và dân cư để nhằm quảng bá, xúc tiến, hỗ trợ, khuyến khích các nhà
đầu tư bỏ vốn thực hiện mục đích đầu tư phát triển.
Thực chất thu hút vốn đầu tư là làm gia tăng sự chú ý, quan tâm của các nhà đầu
tư để từ đó dịch chuyển dòng vốn đầu tư vào địa phương hoặc ngành.
1.1.2. Vai trò của vốn FDI đối với nước nhận đầu tư
* Bổ sung cho nguồn vốn trong nước
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một
nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước
không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI.
Đối với bất kỳ quốc gia nào, dù là nước phát triển hay đang phát triển thì để -phát
triển đều cần có vốn để tiến hành các hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế.
Nguồn vốn để phát triển kinh tế có thể được huy động trong nước hoặc từ nước ngoài,

tuy nhiên nguồn vốn trong nước thường có hạn, nhất là đối với những nước đang phát
triển như Việt Nam (có tỷ lệ tích lũy thấp, nhu cầu đầu tư cao nên cần có một số vốn lớn
để phát triển kinh tế). Vì vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài càng giữ vai trò quan ttrọng
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Hoạt động đầu tư nước ngoài là kênh huy động
vốn lớn cho phát triển kinh tế, trên cả giác độ vĩ mô và vi mô. Trên giác độ vĩ mô, FDI
tác động đến quá trình tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phúc lợi xã hội
cho con người, là ba khía cạnh để đánh giá sự phát triển của một quốc gia. Trên giác độ
vi mô, FDI có tác động mạnh mẽ đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
Page 5


nước, vấn đề lưu chuyển lao động giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước…
Đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng và khẳng định rõ vai trò của mình trong việc
đóng góp vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam. FDI có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản
xuất, bổ sung vốn trong nước, tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý, tham gia mạng lưới
sản xuất toàn cầu, tăng số lương việc làm và đào tạo nhân công, tăng nguồn thu cho ngân
sách….
* Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy ñộng
ñược phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí
quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa
quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh
mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi
phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu
hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước.
* Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ doanh nghiệp có vốn đầu
tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các doanh nghiệp khác trong nước có quan hệ
làm ăn với doanh nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực.
Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu

thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.
* Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công
Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi
phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động
địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp
tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo
các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước
Page 6


đang phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao
động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các
nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các
xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
* Làm tăng nguồn thu ngân sách
Đối với nhiều nước đang phát triển, thuế do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với
xuất phát điểm rất thấp. Do vậy, xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ
sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư cho phát triển.
Đóng góp của FDI trong đầu tư xã hội biến động lớn, một phần phản ánh diễn biến thất
thường của nguồn vốn này như đã phân tích ở trên, một phần thể hiện những thay đổi về
đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước. Cùng với sự phát triển, khu vực có vốn
FDI đóng góp ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Theo tính toán của
Tổng cục Thuế, khu vực FDI đóng góp khoảng 480 triệu USD vào ngân sách Nhà nước,
tăng 4,2 lần so với năm 1994. Tỷ trọng đóng góp nhỏ là do các doanh nghiệp FDI được
hưởng chính sách khuyến khích của Chính phủ thông qua giảm thuế thu nhập trong
những năm đầu hoạt động. Tuy nhiên nếu tính cả thu từ dầu thô thì tỷ trọng này ước
khoảng 20%. Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc tăng thặng dư của tài
khoản vố, góp phần cải thiện cán cân thanh toán và động thái của cán cân vốn trong thời
gian qua.


1.2. Liên kết vùng
1.2.1. Quan điểm về phân định vùng
Có nhiều quan điểm khác nhau phân định về vùng lãnh thổ phát triển kinh tế – xã
hội. Quan điểm cực tăng trưởng (tiêu biểu Gustav Ranis, Strauss, Hall) lưu ý đến tính
chất tăng trưởng kinh tế của các vùng có lợi thế so sánh có thể tiến hành công
Page 7


nghiệp hóa nhanh, làm nền tảng cho quá trình công nghiệp hóa trên toàn bộ nền kinh tế.
Trong các cực tăng trưởng này tập trung các ngành công nghiệp mũi nhọn và các ngành
bổ trợ, các hoạt động dịch vụ phục vụ cho phát triển công nghiệp với một hạ tầng phát
triển có thể kết nối với các cảng biển, các đầu mối giao thông. Điểm đúng đắn của quan
điểm này là tìm ra các điểm đột phá phát triển và tạo nên các tác động lan tỏa phát triển.
Hiện nay, ở các nước đang vận dụng học thuyết này để xây dựng các mô hình phát triển
khu chế xuất, vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế.
Một hệ thống quan điểm khác lại thiên về chính trị, xem vùng kinh tế là đặc trưng
của các nhóm xã hội có liên quan đến các quá trình kinh doanh của các chủ thể kinh tế.
Phái tân cổ điển, trong học thuyết của mình, cũng nêu lên tính chất xã hội của các vùng
kinh tế. Họ lưu ý đến khía cạnh các lợi ích thông qua phân chia lợi nhuận của các nhóm
xã hội để xem xét các vùng kinh tế. Họ cho rằng sự khác nhau căn bản giữa các vùng
kinh tế là sự dôi dư nguồn lợi nhuận có được từ kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc
nhóm chính trị xã hội khác nhau. Sự phiến diện trong xem xét vùng kinh tế chỉ
coi trọng đến lợi ích kinh tế của các nhóm xã hội sẽ dẫn đến việc hoạch định chiến
lược cơ cấu thiên lệch về các ngành có lợi ích kinh tế cao, không tuân thủ lợi ích
chung của toàn bộ nền kinh tế.
Mặc dù có sự khác nhau về vấn đề này nhưng nhìn chung, việc phân định vùng
cần có những lưu ý sau:
- Một lãnh thổ có các điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý tương đồng nhau
- Vị trí kinh tế và trình độ phát triển kinh tế tương hợp

- Đặc trưng của các nguồn lực phát triển tương đồng nhau
- Các quan hệ kinh tế của các nhóm xã hội, của các doanh nghiệp, của các đơn vị
hành chính… có tác dụng thúc đẩy phát triển hay kìm hãm sự phát triển của các vùng phụ
cận.

Page 8


- Đặc trưng khác biệt của vùng so với các vùng khác như thế nào. Hay nói cách
khác là lợi thế so sánh của vùng và mỗi địa phương trong vùng.
1.2.2. Các khái niệm về liên kết vùng
Nghiên cứu phát triển vùng và liên kết vùng khá phát triển trong những năm 1950
của Thế kỷ 20. Nhưng khoa học nghiên cứu vùng được xem xét trở thành một lĩnh vực
nghiên cứu chính thức, là một khoa học có hệ lý thuyết, các phương pháp và các công cụ
tính toán vào tháng 12/1954. Trong những thập niên 1960 hệ lý thuyết về vùng bắt đầu
phát triển mạnh khi trên thực tế, những liên kết phát triển giữa các vùng nông nghiệp và
công nghiệp phát triển mạnh, khi sự phân bố không gian lãnh thổ công nghiệp, nông
nghiệp vùng được triển khai sâu rộng ở các nước Châu Âu và Châu Mỹ. Hiệp hội Khoa
học nghiên cứu vùng cũng ra đời vào thời gian đó.
Phái Kinh tế học cổ điển không tập trung nghiên cứu các vấn đề phát triển vùng
một cách bài bài, song những hàm ý về liên kết địa phương trong phát triển vùng đã được
nêu lên. David Ricardo (1772-1823) trong cuốn Principles of Political Economy and
Taxation (Những nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khóa) đã cổ vũ cho việc
phát triển thương mại dựa trên lợi thế so sánh. Dựa trên các lợi th ế so sánh về lao động,
về nguồn tài nguyên thiên nhiên để tạo nên các trung tâm kinh tế lớn. Richardo cũng cho
rằng, các trung tâm kinh tế này sẽ đầu tàu cho sự phát triển kinh tế quốc gia.
John Friedmann (1966), trong tác phẩm Regional development policy: A case
study of Venezuela; Cambridge, Mass: MIT Press đã đưa ra một cách tiếp cận về liên kết
không gian trong phát triển vùng tương đối giống lý thuyết cực tăng trưởng của
Perroux là mô hình trung tâm - ngoại vi. Quan điểm của ông nhấn mạnh về tổ chức

không gian vùng với các liên kết sản xuất và thương mại trong một trung tâm có sự dồi
dào về các nguồn lực, trong đó có nguồn lực con người có chất lượng tay nghề cao. Ở
những trung tâm này, vì vậy có sự phát triển và đổi mổi liên tục dẫn đến ảnh hưởng lan
tỏa thu hút sự phát triển ở các vùng ngoại vi. Các vùng ngoại vi có nhiều lao động ở một
trình độ thấp hơn và sự phát triển lại phụ thuộc vùng trung tâm. Với cách tiếp cận nghiên
Page 9


cứu về đầu vào – đầu ra, trong tác phẩm The strategy of economic development, GS
Hirschman (1958) khi đề cập đến liên kết kinh tế vùng ông đã sử dụng khái niệm liên kết
ngược (backward linkages, upstream linkages) và liên kết xuôi (forward linkages,
downstream linkages) để nghiên cứu các mối quan hệ ngành và liên ngành. Ông cho
rằng các hiệu ứng liên kết ngược (backward linkage effects) nảy sinh từ nhu cầu
cung ứng đầu vào của một ngành nào đó mới được thiết lập; còn hiệu ứng liên kết xuôi
phát sinh từ việc sử dụng đầu ra của ngành đó như là đầu vào của các ngành khác đi
theo. Nói cách khác bất kỳ một ngành nào mới được thiết lập cũng kéo theo các hoạt
động sản xuất khác nhằm cung cấp đầu vào cho nó; và mọi ngành, trừ các ngành sản xuất
hàng hóa cuối cùng, đều kéo theo các hoạt động khác sử dụng đầu ra của nó như đầu vào
của mình. Hiệu ứng liên kết được xem như các xung lực tạo ra các khoản đầu tư mới
thông qua sự vận động của các mối quan hệ đầu vào - đầu ra. Đây chính là điểm mấu
chốt trong lý thuyết phát triển kinh tế của Hirschman khi ông khuyến nghị cần tập trung
đầu tư vào những ngành có các mối liên kết mạnh, lan tỏa phát triển mạnh để thông qua
sự ức lan tỏa của chúng thúc đẩy tăng trưởn kinh tế.
1.2.3. Nguyên tắc phân bố vùng và liên kết vùng
Các nghiên cứu của các nhà học giả vùng về liên kết vùng đã nêu lên các nguyên
tắc liên kết vùng cơ bản là:
- Nguyên tắc thứ nhất: Phân bố lãnh thổ các ngành và phân bố vùng phải dựa trên
các lợi thế so sánh mà có thể làm cho tổng chi phí sản xuất và phân phối sản phẩm đến
thị trường thấp nhất. Các yếu tố tài nguyên có sẵn, hệ thống hạ tầng tốt... sẽ tạo điều kiện
cho ngành công nghiệp được lựa chọn có chi phí so sánh thấp. Chi phí so sánh thấp cũng

là yếu tố để lựa chọn phân bố vùng công nghiệp. Trong công nghiệp chế biến việc gắn
phân bố công nghiệp với vùng nông nghiệp làm đầu vào cho công nghiệp sẽ làm giảm chi
phí so sánh và tăng giá trị gia tăng cho ngành nông nghiệp. Dựa trên lợi thế so sánh tĩnh
và động để phân công các địa phương trong một vùng và giữa các vùng trong một quốc
gia nhằm tăng hiệu quả đầu tư, tránh làm vụn nền kinh tế, tạo lợi thế quy mô và tính khác
Page
10


biệt hàng hóa, từ đó tạo ra các liên kết phát triển trong chuỗi ngành hàng có sức cạnh
tranh vùng.
- Nguyên tắc thứ hai: Sự song hành sử dụng nguyên liệu cho nhiều nơi sẽ làm
giảm hiệu suất sử dụng nguồn lợi và làm mất đi các lực liên kết vùng. Do vậy, nguyên tắc
tối ưu hóa sử dụng nguồn lợi được nêu lên như là chỉ tiêu quan trọng cần được lưu ý khi
phân bố lãnh thổ phát triển.
- Nguyên tắc thứ ba là hiệu quả quy mô. Các chi phí trên một đơn vị sản phẩm sẽ
giảm khi sản lượng gia tăng. Việc lựa chọn quy mô hợp lý phải dựa trên sự phân tích chi
tiết cầu thị trường trong và ngoài nước, phân tích các mối liên kết giữa các nhà máy cùng
loại sản phẩm.
1.2.4. Các điều kiện để thực thi liên kết vùng bền vững
Các nhà nghiên cứu vùng và liên kết vùng trên thế giới và khu vực không ngừng
bổ sung vào các cơ sở thực tiễn và lý luận cho việc phát triển vùng và liên kết vùng bền
vững. Capello, Richard Wave, Isard Walter... đã tổng kết các cơ sở quan trọng tạo lập liên
kết nội vùng và liên vùng như sau:
- Các lợi thế so sánh vùng có vai trò quan trọng trong việc hình thành hệ thống
phân công lao động và chuyên môn hóa; và do đó hình thành mối liên kết nội vùng và
liên vùng.
- Lợi thế quy mô nhờ chuyên môn hóa. Lợi thế nhờ quy mô tác động lan tỏa đến
các vùng khác nhờ sử dụng các nguyên liệu đầu vào và kiến thức, lao động có kỹ năng...
Với quy mô thị trường và chi phí giao thông giảm sẽ hình thành nên các cụm trung tâm

công nghiệp với các cụm ngành có liên kết chuỗi với nhau, hay là hình thành các vùng
chuyên canh nông nghiệp gắn liền với nó là công nghiệp chế biến và cơ khí, dịch vụ phục
vụ phát triển nông nghiệp của vùng chuyên canh đó.
- Sự đồng thuận về thể chế và các nhóm xã hội chia sẽ lợi ích chung trong đó có
lợi ích phát triển riêng của địa phương. Sự đồng thuận giữa quản lý vĩ mô và các chủ thể
Page
11


kinh tế vi mô khác như doanh nghiệp, hộ gia đình, đồng thuận giữa nội vùng và liên
vùng, trong đó có liên vùng quốc tế.
- Sự đồng bộ về cơ chế chính sách, khung khổ thể và quản trị vùng trên các khía
cạnh: (i) đảm bảo các quyền về tài sản (cả hữu hình và vô hình), tạo khung khổ cho việc
xây dựng và thực hiện các loại hợp đồng và cung cấp đầy đủ thông tin cho các chủ thể;
(ii) tạo ra sự công khai, minh bạch trong các chính sách và hoạt động của bộ máy công
quyền; và (iii) tạo điều kiện cho sự tham gia của dân cư vào quá trình hoạch định và thực
thi chính sách.
- Hệ thống hạ tầng phát triển đồng bộ và hiện đại với các loại hình hạ tầng khác
nhau. Hạ tầng trong nhiều trường hợp quyết định sự thành công hay thất bại của các mối
quan hệ liên kết nội vùng và liên vùng.
1.2.5. Các kiểu liên kết vùng
* Liên kết giữa các chủ thể vĩ mô:
Liên kết dọc: phân cấp Trung ương, chính quyền địa phương, Bộ với các sở
chuyên ngành; liên kết quản lý ngành và quản lý lãnh thổ theo địa phương.
Liên kết ngang:
- Các bộ chuyên ngành liên kết trong xử lý các vấn đề mang tính liên ngành.
- Liên kết giữa các địa phương với nhau.
* Liên kết các chủ thể vi mô
Đây là liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, doanh nghiệp và hộ gia đình,
liên kết giữa doanh nghiệp và các trường, thể hiện trong việc chuyển giao khoa học kỹ

thuật, phối hợp với các tổ chức nghề nghiệp nhằm cung cấp thông tin, đàm phán chính
sách... Các doanh nghiệp thiết lập các liên kết theo chuỗi sẽ tạo thành mạng sản xuất
trong vùng và liên vùng , tạo nên sức cạnh tranh cho vùng dựa trên lợi thế so sánh và lợi
thế quy mô, tính khác biệt sản phẩm.
Page
12


* Liên kết mang tính chất lãnh thổ
Liên kết mang tính chất lãnh thổ là liên kết các cực/trung tâm phát triển với các
phần còn lại của vùng.
Chiến lược cực tăng trưởng nhấn mạnh đến lợi thế quy mô của việc tập trung, và
kéo theo sự hình thành của các cực tăng trưởng có quy mô vừa được hiểu như nơi thu
hút lao động di cư mà nếu không có nó thì nguồn lao động này sẽ tới cực lớn nhất. Thêm
vào đó, các cực trung gian này sẽ mang lại hiệu ứng lan tỏa đến các vùng ngoại vi của
chúng; và như vậy trong dài hạn sẽ đạt được tăng trưởng cân bằng trong toàn vùng và
toàn quốc gia.
Tuy nhiên, các chính sách hình thành các cực tăng trưởng sẽ không tránh
khỏi sự chủ quan, do lợi ích địa phương cục bộ chi phối. Nhiều chính sách của Chính
phủ với dựđịnh ban đầu là tập trung nguồn lực vào một số trung tâm có tiềm năng thực
sự với vai trò cực tăng trưởng, có sức lan tỏa phát triển, như là đầu tàu kéo vùng kém
phát triển phát triển theo. Song, sau đó trước sức ép của nhiều nhóm lợi ích khác nhau,
nên các nguồn lực này bị phân tán ra nhiều trung tâm. Kết cục là sự phân tán
nguồn lực, sẽ không tạo ra được những hiệu ứng nào đáng kể đối với sự tăng trưởng và
phát triển trong vùng nói riêng và quốc gia nói chung.
* Liên kết nông thôn đô thị
Hình thức liên kết này sẽ giải quyết được các vướng mắc, hay các đối lập, khác
biệt giữa nông thôn và đô thị. Nhằm phát triển các mô hình liên kết theo kiểu lảnh thổ
trên đây, cần phải gạt bỏ các trở ngại trong chính sách phát triển như: sự phân tách
trong hoạch định chính sách thành các cơ quan lập kế hoạch nông thôn và thành thị;

không nên tách biệt các đô thị khỏi vùng ngoại vi trong hoạch đ ịnh quy hoạch và quản lý
ở cấp địa phương; xóa bỏ tư duy lợi ích cực bộ nên có sự lựa chọn thứ tự ưu tiến đầu tư
để hình thành cực cực phát triển, tạo nên các lan tỏa phát triển trong hệ thống
vùng.
Page
13


1.3. Tác động của liên kết vùng tới thu hút FDI
1.3.1. Các yếu tố có ảnh hưởng tới việc thu hút FDI tại nước nhận đầu tư
1.3.1.1. Tình hình chính trị
Ổn định chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự thu hút đầu tư nước
ngoài bởi nó đảm bảo việc thực hiện các cam kết của chính phủ trung ương và chính
quyền địa phương trong các vấn đề về sở hữu vốn đầu tư, hoạch định các chính sách ưu
tiên, định hướng phát triển đầu tư của một nước. Ổn định chính trị sẽ là nơi an toàn cho
sự vận động của vốn đầu tư và là nơi có khả năng sinh lợi cao hơn các nơi khác, giúp
giảm bớt độ rủi ro cho các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngược lại, tình hình chính trị không ổn định sẽ dẫn tới việc bất ổn định về chính
sách và đường lối phát triển không nhất quán. Chính phủ đương thời cam kết không quốc
hữu hóa tài sản, vốn của người nước ngoài nhưng một chính phủ mới lại chưa chắc đã
thống nhất quan điểm này và tiến hành những thay đổi khiến quyền sở hữu vốn của người
nước ngoài bị đe dọa. Hoặc khi chính phủ mới lên lãnh đạo sẽ gây thay đổi định hướng
đầu tư của nước chủ nhà (thay đổi lĩnh vực khuyến khích, ưu tiên, thay đổi chiến lược
xuất nhập khẩu …) khiến các nhà đầu tư trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan và phải
chấp nhận thua lỗ.
1.3.1.2. Môi trường luật pháp
Quá trình đầu tư luôn diễn ra trong một thời gian dài và có liên quan tới rất nhiều
các lĩnh vực khác nhau, nên một môi trường pháp lý ổn định và có hiệu lực là yếu tố quan
trọng để quản lý và thực hiện đầu tư có hiệu quả. Môi trường luật pháp này bao gồm các
chính sách, quy định, luật cần thiết và đầy đủ, nhất quán, không chồng chéo và có tính

hiệu lực cao. Một số vấn đề mà các nhà đầu tư nước ngoài thường quan tâm như:

Page
14


- Chính sách sở hữu tài sản tư nhân: đây là chính sách được sử dụng để kiểm soát
hoạt động của các nhà đầu tư tư nhân bằng việc khống chế mức vốn sở hữu nhằm hạn chế
sự can thiếp quá sâu của nhà đầu tư nước ngoài.
- Chính sách thuế, lệ phí, thời hạn cho thuê đất: các yếu tố này tác động trực tiếp
tới giá thành sản phẩm và tỷ suất lợi nhuận.
- Chính sách quản lý ngoại hối: bao gồm quy định về việc mở tài khoản ngoại tệ,
chuyển ngoại tệ ra nước ngoài … nhằm kiểm soát dòng ngoại tệ bị chảy ra nước ngoài
của nước nhận đầu tư.
- Chính sách khác: chính sách quản lý hoạt động đầu tư, chính sách công nghệ,
chính sách lao động tiền lương ….
Ngoài ra, thủ tục hành chính cũng là vấn đề cần quan tâm với các nhà đầu tư nước
ngoài khi đây là công việc đầu tiên mà các nhà đầu tư cần phải làm khi quyết định đầu tư.
Một bộ máy quản lý nhà nước gọn nhẹ, cán bộ quản lý có năng lực và phẩm chất, thủ tục
hành chính đơn giản phù hợp sẽ tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư tiết kiệm được thời gian
và chi phí, bảo đảm tỷ suất lợi nhuận của dự án.
1.3.1.3. Tình hình kinh tế
Tình hình phát triển kinh tế không chỉ tác động tới các nhà đầu tư đang tìm kiếm
đối tác mà còn tới các dự án đầu tư đang triển khai trong nước. Tình hình kinh tế bao
gồm trình độ phát triển kinh tế trong hiện tại cũng như tiềm năng tăng trưởng trong tương
lai. Các nhà đầu tư sẽ gặp thuận lợi khi đầu tư vào các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao
và bền vững do họ dễ dàng tiếp cận thị trường với tâm lý người tiêu dùng lạc quan. Tốc
độ tăng trưởng GDP cao cũng thể hiện phần nào được khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế so với các khu vực khác.
1.3.1.4. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Khi quyết định đầu tư vào một quốc gia hay vùng nào đó thì vị trí địa lý là là một
trong yếu tố quan trọng. Bởi một vùng lãnh thổ nếu có những điều kiện địa lý thuận lợi
Page
15


cho việc giao lưu vận chuyển hàng hóa mới có thể trở thành bàn đạp để những nước đi
đầu tư thực hiện mục đích của mình. Vì vậy nó có ý nghĩa như một lợi thế so sánh nhằm
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Cũng như vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của vùng lãnh thổ nhận đầu tư cũng trở
thành một lợi thế so sánh nhằm thu hút FDI. Điều kiện tự nhiên ở đây có thể kể tới là các
điều kiện về khoáng sản, đất, rừng, nước, khí hậu hay không gian của vùng nhận đầu tư.
Những yếu tố này liên quan đến việc lựa chọn lĩnh vực để đầu tư và khả năng sinh lời của
dự án. Ví dụ như khi hậu nhiệt đới gió mùa thường ảnh hưởng không tốt đến tuổi thọ của
máy móc thiết bị có nguồn gốc từ phương Tây, ảnh hưởng tới chi phí cũng như khả năng
sinh lời của nguồn vốn đầu tư. Nguồn nguyên liệu đầu vào phong phú cũng là yếu tốt thu
hút nhà đầu tư, giảm chi phí và giá thành. Điều kiện tự nhiên không chỉ trực tiếp ảnh
hưởng đến các yếu tố đầu vào và còn quyết định tính chất đầu ra. Dân cư đông sẽ là
nguồn cung cấp sức lao động dồi dào và là thị trường tiềm tăng để tiêu thụ hàng hóa.
1.3.1.5. Điều kiện cơ sở hạ tầng
Trong đầu tư trực tiếp nước ngoài thì kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng quyết
định đến hiệu quả sản suất kinh doanh, nhất là ảnh hưởng đến tốc độ chu
chuyển vốn. Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm cả mạng lưới giao thông, hệ
thống thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ tài chính ngân hàng. Trình độ cơ sở hạ tầng
phần nào phản ánh được trình độ phát triển của mỗi quốc gia, nó tạo ra bộ mặt của đất
nước và môi trường cho hoạt động đầu tư. Sự phát triển cân đối và toàn diện cơ sở hạ
tầng của một quốc gia được đề ra như một nhu cầu hàng đầu trong việc thu hút FDI.
Cơ sở hạ tầng là một trong số các nhân tố tạo nên sự hấp dẫn với FDI nên thực tế
cũng cho thấy những quốc gia nào mà cơ sở hạ tầng yếu kém rất khó thu hút các nhà đầu
tư nước ngoài, khi đã không thu hút được đầu tư nước ngoài thì khả năng tạo cơ sở hạ

tầng cũng rất hạn chế. Do đó để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này cần đi trước một bước,
tiến hành đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng, đáp ứng yêu cầu FDI đặt ra với
lĩnh vực này. Như vậy, để thu hút được FDI có rất nhiều việc phải làm, song điều quan
Page
16


trọng hơn là làm sao để dòng chảy đó được duy trì liên tục. Câu trả lời là: phải đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng bởi số lượng FDI có tăng lên hay không theo thời gian còn phụ
thuộc vào sự thoả mãn thường xuyên về cơ sở hạ tầng như đường xá, giao thông vận tải,
thông tin liên lạc. Tăng trưởng cao của FDI thường đi đôi với kế hoạch triển vọng về phát
triển cơ sở hạ tầng của nước chủ nhà. Malaixia với những dự án khổng lồ về xây dựng cơ
sở hạ tầng cho đến năm 2020 của thủ tướng Mahathir, là một trong những minh chứng rõ
ràng nhất về thu hút FDI.
Về vai trò của cơ sở hạ tầng, theo kết quả khảo của nhóm 25 nước bao gồm nước:
Indonêxia, Hàn Quốc ….trong khu vực Châu Á -Thái Bình Dương cho thấy những chỉ
tiêu cụ thể như số máy điện thoại trên 100 người dân, mức độ hiện đại của hệ thống thông
tin liên lạc, chất lượng của đường bộ, đường sắt … là một trong những điều hiện được
xem xét để duy trì FDI ở nước này.
1.3.1.6. Điều kiện nguồn nhân lực
Vấn đề nguồn nhân lực cho doanh nghiệp FDI đang nổi lên và là một thách thức
lâu dài. Nguồn nhân lực và đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao của vùng nhận đầu
tư đang trở thành một trong những yếu tố tiên quyết cho việc thu hút FDI trong những
năm gần đây. Thực tế có không ít dự án FDI đã phải vừa xây dựng vừa chuẩn bị nguồn
nhân lực. Một vấn đề mà hầu hết các nước nhận đầu tư đang phải đối mặt là những vùng
thu hút được nhiều vốn FDI nhất lại là vùng có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất. Nghịch lý này
cho thấy lao động địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài. Sự
thiết hụt nghiêm trọng lao động có tay nghề cao chính là nguyên nhân quan trọng khiến
khả năng hấp thụ FDI kém.
Nhà đầu tư khi quyết định đầu tư tại địa phương thường có nhu cầu sử dụng lao

động ngay tại địa phương đó nhằm tận dụng được nguồn nhân công giá rẻ và tránh được
các chi phí không cần thiết khi phải di chuyển nguồn nhân lực từ nước đầu tư đến hoặc
các rắc rối trong vấn đề luật pháp của nước sở tại. Nên nguồn lao động có ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư tại địa
Page
17


phương. Chính vì vậy, nguồn lao động của địa phương sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức
hấp dẫn của địa phương đối với nhà đầu tư, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của địa
phương. Khi đánh giá về nguồn lao động, người ta xem xét dưới hai góc độ: số lượng và
chất lượng nguồn lao động. Các yếu tố sử dụng để đánh giá nguồn lao động như: số
lượng người lao động, chất lượng nguồn lao động, trình độ người lao động, mức lương và
đạo đức nghề nghiệp của người lao động. Một địa phương có lượng cung cấp lớn về nhân
công với mức lương thấp thì có lợi thế hơn trong việc thu hút các ngành sản xuất sử dụng
nhiều lao động với kĩ năng thấp nhưng lại gặp bất lợi đối với việc thu hút các ngành sản
xuất sản phẩm tinh vi, đòi hỏi kỹ năng cao. Một địa phương có nguồn lao động với chất
lượng cao nhưng giá nhân công quá cao thì chưa chắc đã hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Nói một cách khác, nhà đầu tư sẽ lựa chọn địa phương có nguồn lao động phù hợp với
nhu cầu của họ và mức chi phí cho việc sử dụng lao động là thấp nhất.
1.3.2. Liên kết vùng là giải pháp chiến lược cho việc thu hút FDI
Liên kết vùng tạo ra những tiền đề cơ bản thúc đẩy việc thu hút đầu . Muốn đẩy
mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào một vùng kinh tế nói chung, các địa
phương trong vùng đó cần phải thực hiện quá trình liên kết và hợp tác chặt chẽ với nhau
trong việc hoàn thiện môi trường, chính sách thu hút đầu tư để đưa ra một mô hình xúc
tiến đầu tư chung cho toàn vùng.
Thật vậy, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ảnh hưởng của nhiều nhân tố, vấn
đề này đã được đưa ra trong lý thuyết chiết trung về sản xuất quốc tế, mô hình OLI của
John Dunning (1977). Dunning đã tổng hợp các yếu tố chính của nhiều công trình khác
nhau lý giải về FDI và đề xuất rằng có ba điều kiện cần thiết để một doanh nghiệp có

động cơ tiến hành đầu tư trực tiếp: lợi thế về sở hữu , địa điểm và nội bộ hóa. Các tiếp
cận này được biết tới dưới tên mô hình OLI. Trong đó các lợi thế về địa điểm bao gồm
không chỉ các yếu tố nguồn lực mà còn cả các yếu tố về kinh tế, xã hội như dung lượng
và cơ cấu thị trường, khả năng tăng trưởng của thị trường và trình độ phát triển, môi
trường văn hóa, pháp luật thể chế.
Page
18


Liên kết vùng là “điểm tựa” thu hút FDI, bởi mỗi một vùng (bất kể quy mô và
hình thức như thế nào) đều có một số đặc điểm chung, nổi trội so với các vùng khác. Sự
khác biệt giữa các vùng tự nó cũng hàm nghĩa là mỗi vùng đều có những thế mạnh và thế
yếu đặc thù, tạo ra những lợi thế tuyệt đối và tương đối nhất định trong sự phân công lao
động xã hội. Liên kết vùng không chỉ bù đắp những khoảng trống, thiếu hụt nguồn lực
giữa các vùng mà còn gia tăng tính lợi ích nhờ hiệu quả kinh tế theo quy mô. Chính vì
vậy phần nào liên kết vùng làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư cũng như hệ số
cạnh tranh của vùng, những yếu tố được coi là vấn đề then chốt trong việc thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để cụ thể hơn vấn đề này, nhóm sẽ xem xét tác động của liên
kết vùng trong những lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm:
1.3.2.1. Liên kết vùng trong hoạch định chính sách
Môi trường pháp lý là vấn đề quan trọng đầu tiên mà các nhà đầu tư quan tâm
trước khi quyết định bỏ vốn vào đầu tư trên một vùng lãnh thổ nào. Các chính sách, nghị
định, bộ luật của Nhà nước ban hành nói chung và các chính sách ưu tiên, khuyến khích
của các chính quyền địa phương nói riêng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới lĩnh vực đầu tư và
tỷ suất lợi nhuận của các nhà đầu tư. Cũng giống như môi trường pháp lý quốc gia, các
chính sách giữa các vùng có những đặc điểm, lợi thế và vị trí địa lý tương đồng cũng cần
sự thống nhất và đồng bộ, đặc biệt là các chính sách về đầu tư. Các nhà đầu tư, đặc biệt là
các nhà đầu tư nước ngoài luôn mong muốn mở rộng thị trường đầu tư ở nhiều tỉnh thành
nên nếu các chính sách giữa những địa phương này có sự mâu thuẫn sẽ gây bất lợi cho
các nhà đầu tư. Đặc biệt, nếu các cấp lãnh đạo vì muốn thu hút đầu tư nước ngoài nhiều

hơn vào địa phương mình sẽ liên tiếp đưa ra các chính sách có lợi cho nhà đầu tư nhằm
cạnh tranh với chính địa phương xung quanh mình. Điều này có thể đem lại lợi ích ban
đầu cho địa phương đó, nhưng về lâu dài, lại chỉ đem lại lợi ích cho nhà đầu tư nước
ngoài, khi mà các địa phương tự cạnh tranh lẫn nhau, gây bất lợi cho đôi bên. Thay vào
đó, nếu cá địa phương cùng nhau xây dựng những chính sách đầu tư phù hợp và thống
nhất thì chính những địa phương đó có thể tạo một hành lang pháp lý chắc chắn vừa thu
hút được vốn đầu tư, vừa dễ dàng kiểm soát các hoạt động đầu tư nước ngoài, tránh tình
Page
19


trạng lách luật của các công ty xuyên quốc gia. Mặt khác, về phía các nhà đầu tư nước
ngoài, họ có thể tiết kiệm được thời gian cũng như chi phí cho các vấn đề hành chính, dễ
dàng mở rộng quy mô kinh doanh tới các tỉnh lân cận.
1.3.2.2. Liên kết vùng trong hệ thống cơ sở hạ tầng
Như đã đề cập ở trên, kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản
suất kinh doanh và tỷ suất lợi nhuận của các dự án, là yếu tố tiên quyết cho việc quyết
định bỏ vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm cả
mạng lưới giao thông, hệ thống thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ tài chính ngân
hàng, đặc biệt hệ thống mạng lưới giao thông là bài toán khó với các khu vực đang cần
thu hút vốn FDI, do nằm trong vòng luẩn quẩn của việc thiếu vốn phát triển giao thông
dẫn tới khả năng thu hút vốn cũng càng hạn chế. Chính vì điều kiện thiếu thốn cả về vốn
và trình độ, liên kết vùng chính là lời giải tốt nhất cho vấn đề này.
Liên kết vùng trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông chính là việc hợp tác phát
triển để kết nối mạng kết cấu hạ tầng giao thông thông qua việc hình thành các trục giao
thông kết nối các vùng và nội bộ vùng, kết nối giữa nội địa và cảng biển, sân bay với
nhau nhằm đảm bảo nhu cầu di chuyển một cách thuận tiện giữa các địa điểm khác nhau.
Liên kết hệ thống hạ tầng giao thông bao gồm liên kết trong hệ thống đường bộ, đường
biển và đường hàng không.
Trước tiên về hệ thống đường bộ, việc liên kết vùng được cho là việc hình thành

các trục giao thông lớn xuyên suốt các tỉnh thành trong khu vực cần liên kết với nhau
cũng như với các tỉnh thành xung quanh. Cụ thể, liên kết vùng được thể hiện qua việc xây
dựng các đoạn đường bộ cao tốc, các đường quốc lộ, các đường thuộc hành lang kinh tế
Đông-Tây, Bắc-Nam, nối thông các tuyến đường bộ ven biển và triển khai các tuyến
đường sắt cao tốc chất lượng cao xuyên tỉnh. Điều này góp phần tránh lãng phí vốn khi
mà nguồn vốn đầu tư phát triển của nước nhận đầu tư còn hết sức hạn hẹp. Do nếu mỗi
địa phương tự xây dựng những bản quy hoạch đường theo những chiều hướng khác nhau,
sẽ vừa không đẹp mắt trong quy hoạch vùng, vừa dễ tạo sự mất đồng bộ về chất lượng
Page
20


trong hệ thống giao thông. Ngoài ra, nếu có sự thống nhất về kế hoạch xây dựng giữa các
tỉnh thành lân cận với nhau còn tránh được tình trạng lãng phí thời gian di chuyển giữa
các địa phương do các trục giao thông liên tỉnh được xem xét một cách tổng thể có lợi
cho đôi bên. Việc tạo lập không gian giao thông chung thuận tiện giữa các vùng không
chỉ nhằm phục vụ nhu cầu đi lại của người dân, mà chính là tạo điều kiện cho việc lưu
chuyển hàng hóa sản xuất được dễ dàng hơn. Đây cũng chính là điểm mà các nhà đầu tư
nước ngoài thực sự quan tâm khi quyết định bỏ vốn đầu tư. Các nhà đầu tư đến từ các
nước phát triển luôn có một tầm nhìn chiến lược dài hạn, nên dĩ nhiên họ sẽ không dừng
lại ở việc sản xuất kinh doanh nhằm kiếm lợi nhuận trên một địa phương mà luôn muốn
mở rộng địa bàn đầu tư, chiếm lĩnh những thị trường mới, mà trước mắt là những vùng
lãnh thổ lân cận. Hệ thống giao thông càng hiện đại, thông thoáng và đồng bộ thì càng
giảm bớt chi phí và thời gian di chuyển các nguồn nguyên liệu đầu vào cũng như các sản
phẩm đầu ra tới các thị trường khác nhau, giúp nhà đầu tư giảm chi phí cũng như giá
thành, dễ dàng hơn trong mở rộng sản xuất kinh doanh.
Về hệ thống đường biển, liên kết vùng vẫn tiếp tục phát huy vai trò trong việc thu
hút đầu tư qua mạng lưới giao thông quan trọng này. Với những vùng lãnh thổ có lợi thế
về đường biển dài, chính quyền địa phương cũng như trung ương luôn chủ trương xây
dựng cảng biển nhằm phát huy tối đa lợi thế chiến lược này. Tuy nhiên việc mỗi địa

phương đều đồng loạt xây dựng các cảng biển có vị trí địa lý gần nhau, tương đồng về
chức năng lại đem lại vô vàn những hiệu ứng tiêu cực. Chi phí xây dựng cảng biển là vô
cùng lớn, thậm chí vượt quá ngân sách của từng địa phương khiến cho quy mô cảng biển
ở mỗi địa phương thường rất nhỏ, năng lực còn yếu, năng suất khai thác thấp do hầu hết
chỉ phục vụ nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa ở địa phương chứ chưa có khả năng thu hút
từ những địa phương khác dẫn tới sự lãng phí trong đầu tư. Ngoài ra, do không có sự
thống nhất nên mỗi địa phương đều xây dựng cảng biển với chức năng như nhau, không
có sự phân chia nhiệm vụ rõ ràng, chưa phân định rõ cảng chính, cảng hỗ trợ của vùng sẽ
dễ tạo sự cạnh tranh không đáng có. Trước những hiệu ứng không mong muốn như vậy
thì liên kết vùng là hướng đi thích hợp hơn trong việc quy hoạch hệ thống các cảng biển.
Page
21


Các địa phương giáp biển, đặc biệt là các địa phương có vị trí địa lý gần nhau nên cùng
xây dựng một kế hoạch tổng thể, dựa vào lợi thế cạnh tranh của từng vùng để hoạch địch
chức năng của các cảng biển như: cảng biển phục vụ đón các tàu khách quốc tế, cảng
biển nước sâu, cảng hỗ trợ hoặc theo ba loại cảng biển I, II và III trong danh mục phân
loại cảng biển của Việt Nam. Liên kết vùng còn thể hiện ở vấn đề tổ chức vận tải theo
hướng đa phương thức với các hệ thống và dịch vụ trung chuyển hàng hóa và hành khách
theo các phương thức vận tải như cảng cạn, trung tâm logistic, kho bãi hàng hóa trạm
dừng nghỉ. Điều này sẽ không chỉ giảm sự cạnh tranh bất hợp lý do có chung chức năng
mà còn đáp ứng được đa dạng hơn các nhu cầu về dịch vụ hàng hải. Không còn hiện
tượng bỏ vốn tràn lan mà thay vào đó là đầu tư đúng trọng điểm nên đã giải quyết phần
nào được vấn đề thiếu vốn luôn là vấn đề khó khăn nhất của các địa phương. Hệ thống
cảng sẽ được hoạt động đúng chức năng, phát huy tối đa công suất, giảm chi phí vận
chuyển sẽ thu hút được nhiều nguồn hàng từ các địa phương khác vận chuyển cũng như
phục vụ được nhu cầu xuất nhập khẩu. Theo thống kê, khoảng 90% khối lượng hàng hóa
lưu thông trên thế giới hiện nay được vận chuyển bằng đường biển thông qua các con tàu
thương mại do chi phí vận chuyển thấp, lại vận chuyển được khối lượng hàng hóa lớn

nên hình thức này rất được ưa chuộng. Chính vì vậy, các nhà đầu tư nước ngoài luôn
quan tâm tới hệ thống cảng biển của quốc gia họ muốn đầu tư. Trong khi các nhà đầu tư
nhỏ lẻ cần hệ thống cảng biển nội địa hiện đại, nhanh chóng và thuận tiện để đáp ứng nhu
cầu vận chuyển hàng hóa ở thị trường trong nước thì những công ty đa quốc gia, xuyên
quốc gia thì cần hệ thống tiên tiến hơn, phục vụ nhu cầu xuất khẩu sang các quốc gia thị
trường khác. Do đó, việc liên kết cảng biển lại thành một hệ thống rõ ràng về chức năng
nhiệm vụ sẽ giải quyết được khâu vận chuyển đầu ra của sản phẩm đáp ứng nhu cầu về số
lượng cũng như chi phí thấp sẽ trở thành một trong những yếu tố quan trọng khiến các
nhà đầu tư quyết định bỏ vốn.
Về hệ thống giao thông đường hàng không, liên kết vùng đem lại hệ thống sân
bay chuyên nghiệp với các sân bay nội địa nối các đô thị trong các vùng với nhau cũng
như các trung tâm du lịch trên cả nước và các sân bay quốc tế. Cũng tương tự như hệ
Page
22


thống cảng biển, các sân bay cũng cần sự quy hoạch về chức năng và nhiệm vụ rõ ràng.
Bởi nếu các địa phương “mạnh ai nấy làm” sẽ càng bộc lộ rõ nhược điểm thiếu hụt về
nhân lực và vật lực, dẫn tới tình trạng địa phương nào cũng có sân bay nhưng lại không
có sự phân chia nhiệm vụ theo đúng lợi thế phát triển. Hầu hết sân bay của từng địa
phương là qui mô nhỏ, tần suất bay thấp, các tuyến đường bay chủ yếu là tuyến nội địa và
khả năng kết nối với các tuyến hàng không quốc tế còn nhiều hạn chế. Trong khi đường
hàng không hiện nay là lựa chọn chủ yếu cho khách du lịch trong và ngoài nước, việc
không đáp ứng về số lượng và chất lượng của các chuyến bay sẽ ảnh hưởng không nhỏ
tới tiềm năng phát triển du lịch của vùng. Đặc biệt đối với các nhà đầu tư kinh doanh các
dịch vụ du lịch như khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí,… sẽ rất để tâm tới vấn đề
này bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới lượng khách du lịch tới sử dụng các dịch vụ cũng như
doanh thu của các chủ đầu tư. Nên việc phát triển hệ thống sân bay hiện đại và đồng bộ
giữa các địa phương phần nào tăng sức hút về du lịch cho vùng, cũng như trở thành điểm
thu hút đầu tư về các dịch vụ du lịch hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong cũng như ngoài

nước.
1.3.2.3. Liên kết vùng trong tới đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Trong bối cảnh phát triển như vũ bão của các ngành công nghệ cao, các ngành
dịch vụ có giá trị gia tăng lớn thì nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng
cao đóng vai trò then chốt tới hiệu quả kinh doanh và là một trong những yếu tố cần kể
đến nếu muốn tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Tuy nhiên chi phí đào tạo là vô
cùng lớn, đặc biệt chất lượng đào tạo là vấn đề đáng quan tâm và vô cùng khó khăn nếu
thiếu sự phối hợp giữa các chính quyền với nhau. Liên kết vùng trong phát triển nguồn
nhân lực được hiểu là việc tăng cường sự phối hợp giữa các cơ sở đào tạo, cơ sở dạy nghề
giữa các vùng với nhau, với các doanh nghiệp, tập đoàn trên toàn vùng từ đó phát triển
mối quan hệ hợp tác giữa việc đào tạo nguồn nhân lực trong vùng với hệ thống giáo dục
nước ngoài.

Page
23


Hiện nay, xã hội hóa giáo dục đã giúp giảm phần nào gánh nặng tài chính cho Nhà
nước cũng như đa dạng hóa các hình thức đào tạo với hệ thống các cơ sở đào tạo được
mở rộng hơn. Chính vì vậy xảy ra sự cạnh tranh giữa các cơ sở về đầu vào học viên. Hơn
nữa, chất lượng đào tạo cũng là vấn đề đáng chú ý khi thiếu sự phân loại về lĩnh vực
giảng dạy ở các cơ sở đào tạo, dẫn tới lượng giáo viên chất lượng không đáp ứng, cơ sở
vật chất thiếu thốn, đương nhiên gây ra chất lượng nguồn nhân lực vô cùng yếu kém. Vấn
đề đặt ra là cần sự vào cuộc của các cấp lãnh đạo nhằm phân chia các lĩnh vực giảng dạy,
đầu tư cơ sở vật chất giáo dục đúng trọng điểm, tránh lãng phí, phối kết hợp giữa các
trường nhằm hỗ trợ lẫn nhau. Các trường đại học trọng điểm, là hạt nhân phát triển nguồn
nhân lực cho toàn vùng, sẽ hỗ trợ và giúp đỡ các trường mới được nâng cấp, các trường
dân lập và tư thục như cung cấp đội ngũ giảng viên thỉnh giảng, hỗ trợ các phương tiện
phục vụ giảng dạy và học tập như phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm học liệu....
Vấn đề đầu ra của nguồn nhân lực cũng cần được đảm bảo, cần có sợi dây liên kết

giữa các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp trên toàn vùng, nhằm mở rộng hơn cơ hội lựa
chọn ngành nghề cho học viên và tạo cơ hội cho các công ty tổ chức có thể lựa chọn được
nguồn lao động phù hợp trên cả vùng. Sự liên kết này cần được chú trọng ngay từ lúc học
viên bắt đầu thực hiện khóa học để giúp công tác định hướng nghề nghiệp có hiệu quả
hơn. Các doanh nghiệp cũng có thể đặt ra những tiêu chuẩn cần thiết cho các học viên khi
tốt nghiệp cần đạt được nếu muốn được tuyển dụng, điều này vừa thuận lợi hơn cho các
cơ sở trong việc thiết lập chương trình học phù hợp, vừa giúp các học viên sau khi ra
trường không tốn thêm chi phí và thời gian để đào tạo lại. Đặc biệt là với các công ty đầu
tư trực tiếp nước ngoài, họ luôn mong muốn tận dụng nhiều nhất chi phí tiết kiệm được
từ việc thuê người lao động ở nước sở tại. Có thể nói, liên kết trong giáo dục và đào tạo
nhằm nâng cao nguồn nhân lực của nước sở tại, tạo điều kiện đầu tư cho các nhà đầu tư
nước ngoài.
Nhìn chung, liên kết vùng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy sự
phát triển kinh tế nói chung, đặc biệt đẩy mạnh chỉ số cạnh tranh về môi trường kinh
doanh của toàn vùng – là khía cạnh quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là
Page
24


vốn FDI. Việc không liên kết giữa các địa phương trong vùng sẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa
các địa phương có cùng tiềm năng, lợi thế sẽ dẫn tới sự không khai thác hiệu quả các
nguồn lực.
1.4. Bài học kinh nghiệm từ các nước trên thế giới
1.4.1. Liên kết vùng để thu hút đầu tư của các nước trên thế giới
Trung Quốc: Hợp tác vùng Chu Giang mở rộng là bước tìm tòi mới của 9 tỉnh và
2 khu hành chính nói riêng và Trung Quốc nói chung trong việc tìm kiếm bước phát triển
mới sau hơn 30 năm cải cách và mở cửa. Đây là sự nắm bắt thời cơ, bước đi chủ động
trong bối cảnh toàn cầu hóa và nhất thể hóa kinh tế khu vực được đẩy mạnh. Hợp tác Chu
Giang mở rộng là hợp tác vùng lớn nhất của Trung Quốc, vừa có sự liên kết giữa các tỉnh
(9 tỉnh) với hai khu hành chính đặc biệt (Hồng Kông, Ma Cao), vừa có mối quan hệ rộng

rãi với các nước ASEAN.
Indonexia: Sau cuộc khủng hoảng năm 1997, Indonesia đứng trước thách thức
cần nguồn vốn để phục hồi nền kinh tế. Do nợ công của Indonesia lúc đó đã ở mức cao
khiến khả năng vay nước ngoài thấp và nguồn vốn trong nước cạn kiệt, giải pháp khả thi
nhất là thu hút FDI để phục hồi nền kinh tế. Đồng thời, Indonesia cũng đứng trước thách
thức quản lý nguồn vốn FDI đổ vào nước này, trong đó nổi bật là thách thức duy trì phát
triển đồng đều giữa các vùng miền và phân cấp quản lý hiệu quả.
Liên quan đến phát triển vùng miền, việc phát triển dựa vào nguồn vốn FDI có thể
làm tăng khoảng cách phát triển giữa các vùng và tăng nguy cơ gây bất ổn, xung đột.
Trong khi đó, các địa phương được phân quyền quản lý mạnh mẽ về thu chi ngân sách
theo chương trình phân cấp hóa từ năm 1999. Như vậy, các địa phương nghèo sẽ không
có ngân sách để thực hiện các dự phát triển kinh tế, xã hội.
Để đảm bảo ổn định chính trị do sự đa dạng và cách biệt văn hóa của nhiều nhóm
sắc tộc ở nước này, thì việc đảm bảo phát triển đồng đều giữa các vùng là vấn đề hết sức
quan trọng đối với Indonesia. Chính vì vậy, một số biện pháp, chính sách để hài hòa việc
Page
25


×