Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tranh chấp liên quan đến điều khoản trọng tài của hợp đồng trong giao dịch thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.8 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................2
I.Các khái niệm chung...........................................................................................4
1.Tranh chấp thương mại.......................................................................................4
2. Các tranh chấp có thể phát sinh trong thương mại quốc tế...............................4
3. Các phương thức chủ yếu để giải quyết tranh chấp..........................................4
3.1 Thương lượng..................................................................................................4
3.2 Hòa giải...........................................................................................................5
3.3 Tòa án..............................................................................................................5
3.4 Trọng tài..........................................................................................................6
3.Vấn đề liên quan đến giá trị pháp lý của điều khoản trọng tài.........................11
III.Bài học kinh nghiệm.......................................................................................12
KẾT LUẬN.........................................................................................................16
Tài liệu tham khảo...............................................................................................17

1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, ngoại thương đóng vai trò
khá quan trọng, đó là động lực phát triển kinh tế và là một khâu trọng yếu được Đảng,
Nhà nước quan tâm một cách thiết thực. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển nhanh
chóng của lực lượng sản xuất và phân công lao động trên qui mô toàn thế giới đang
diễn ra ngày càng sâu sắc và xuất hiện ngày càng nhiều các hình thức liên minh, hợp
tác thì trao đổi hàng hoá đóng một vị trí quan trọng trong các hoạt động kinh tế đối
ngoại. Do đó, để hoạt động trao đổi hàng hoá được diễn ra thuận lợi đòi hỏi phải có cơ
sở pháp lý nhất định cho các bên và hợp đồng ngoại thương là hình thức pháp lý cơ
bản của trao đổi hàng hoá quốc tế.
Hợp đồng mua bán Ngoại thương có đầy đủ những đặc điểm như mọi hợp đồng
mua bán khác, sự khác nhau cơ bản giữa hợp đồng mua bán Ngoại thương với các hợp


đồng mua bán khác là ở chỗ hợp đồng mua bán ngoại thương có yếu tố quốc tế được
thể hiện qua các dấu hiệu:
- Chủ thể của hợp đồng
- Đối tượng của hợp đồng
- Đồng tiền thanh toán
Và chính bởi tính chất “quốc tế” này mà việc ký kết hợp đồng ngoại thương đôi khi
xảy ra những xung đột, tranh chấp do mỗi quốc gia đều có những luật về hợp đồng
trong giao dịch thương mại khác nhau. Đứng trước tình hình đó, việc nắm rõ kiến thức
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế để phòng ngừa và đối mặt với những rủi ro
pháp lý liên quan đến hợp đồng là hết sức quan trọng và cần thiết. Nó không những
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khi tham gia ký kết hợp đồng
thương mại quốc tế, mà còn giúp doanh nghiệp ngăn ngừa các hành vi lừa đảo, các
tranh chấp không đáng có gây tổn thất về cả vật chất và uy tín trên thị tr ường, đồng
thời tránh được những rủi ro do xung đột pháp lý hay thiếu hiểu biết về pháp luật gây
ra.
Nhìn nhận được tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, chúng em đã chọn đề tài:
“Tranh chấp liên quan đến điều khoản trọng tài của hợp đồng trong giao dịch
thương mại quốc tế” cho bài tiểu luận của mình. Trong nội dung nghiên cứu của
mình, chúng em đề cập đến một số tranh chấp điển hình và ví dụ thực tiễn về tranh
chấp liên quan đến điều khoản trọng tài trong hoạt động giao dịch thương mại quốc tế

2


ở Việt Nam, từ đó rút ra những nhận xét đánh giá và bài học kinh nghiệm cho doanh
nghiệp.
Mặc dù bản thân nhóm đã có sự chuẩn bị và chủ động trong việc lựa chọn đề tài
nghiên cứu, nhưng do hạn chế về vốn kiến thức chuyên sâu và kinh nghiệm thực tiễn
nên bài tiểu luận của chúng em có thể có những thiếu sót nhất định. Chúng em rất
mong nhận được sự góp ý của Thầy giáo để hoàn thiện hơn kiến thức của mình.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

3


I. Các khái niệm chung
1. Tranh chấp thương mại
Khái niệm: Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng, hay xung đột
về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương
mại.
Tranh chấp thương mại phải hội đủ các điều kiện sau đây:
- Tranh chấp thương mại trước hết là những mâu thuẫn (bất đồng) về quyền và
nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể.
- Những mâu thuẫn (bất đồng) đó phải phát sinh từ hoạt động thương mại
- Những mâu thuẫn (bất đồng) đó phát sinh chủ yếu từ các thương nhân
2. Các tranh chấp có thể phát sinh trong thương mại quốc tế
- Tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng:
+

Do người bán không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ

của mình như đã thỏa thuận trong hợp đồng ( nghĩa vụ giao hàng, cung cấp chứng từ
hàng hóa, thông qua kiểm định, …)
+ Do người mua không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ
của mình như đã thỏa thuận trong hợp đồng ( không mở L/C đúng hạn, thanh toán
chậm hay không thanh toán, không hoặc trì hoãn việc nhận hàng).
- Tranh chấp liên quan đến nghiệp vụ giao dịch, hoạt đồng mua bán hàng hóa,
việc vận chuyển hàng hóa, việc thanh toán, …
- Tranh chấp liên quan đến tính pháp lý của hợp đồng
+ Nội dung hợp đồng

+ Cách thức ký kết hợp đồng
+ Áp dụng sai chế độ ký kết hợp đồng : vi phạm nguyên tắc ký kết, căn cứ
ký kết không hợp pháp, chủ thể ký kết không hợp pháp, hợp lệ
3. Các phương thức chủ yếu để giải quyết tranh chấp
3.1 Thương lượng
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên
tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháp gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ

4


những tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kì bên thứ ba
nào.
Quá trình thương lượng và việc thực thi kết quả thương lượng giữa các bên
cũng không chịu sự ràng buộc của bất kỳ nguyên tắc pháp lý hay những quy định
mang tính khuôn mẫu nào của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp.
Biện pháp thương lượng là biện pháp giải quyết đơn giản, tiết kiệm được thời
gian, chi phí đối với mỗi bên. Nó còn thể hiện thiện chí thương lượng giữa các bên
trong việc giải quyết tranh chấp, sau khi đã thống nhất các bên vẫn giữ được mối quan
hệ tốt với nhau trong các thương vụ sau này. Tuy nhiên, biện pháp chỉ thành công khi
các bên cùng có thiện chí trong việc giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên tỏ ra
quá nóng vội thì quá trình thương lượng coi như thất bại. Mặt khác, nếu mâu thuẫn quá
phức tạp, và liên quan đến nhiều bên thì một bên thứ ba hoặc một cơ quan hòa giải
mới giải quyết được.
3.2 Hòa giải
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba
(hòa giải viên) làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm
kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
Hòa giải viên sẽ tiến hành họp kín với riêng từng bên hoặc họp chung với cả hai
bên để tìm hiểu kỹ nội dung tranh chấp, đưa ra những lý giải, phân tích cho các bên

thấy rõ lợi ích của mình và của bên kia để cùng tìm ra một giải pháp thống nhất giải
quyết tranh chấp hợp tình hợp lý. Hòa giải viên không có quyền hạn gì để ra quyết
định hoặc áp đặt một giải pháp nào đối với các bên, cũng như không thể đưa ra các
biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Quá trình và kết quả hòa giải cũng không chịu sự chi phối bởi các quy định có
tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục hòa giải, phụ thuộc vào sự tự
nguyện của các bên tranh chấp.
3.3 Tòa án
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh
quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản

5


án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sữ
được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án:
- Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, gồm có: khởi kiện và thụ lý
vụ án, hòa giải và chuẩn bị xét xử, phiên tòa sơ thẩm.
- Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm: thủ tục
giám đốc thẩm và tái thẩm.
Giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng tại Tòa án thường là giải pháp cuối
cùng của các bên bởi quyết định của Tòa án có tính chất cưỡng chế rất cao vì được
đảm bảo bằng bộ máy thi hành và giám sát thi hành án của Nhà nước. Ngoài ra trong
quá trình thụ lý và xét xử, Tòa án có thể đưa ra những biện pháp khẩn cấp tạm thời
như tạm giữ tài sản, phong tỏa tài khoản … để bảo vệ bằng chứng, bảo đảm việc thi
hành án.
3.4 Trọng tài
Trọng tài vụ việc: là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận

thành lập để giải quyết tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ chấm dứt tồn tại khi giải
quyết xong vụ tranh chấp.
Đặc trưng
- Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và chấm dứt
hoạt động ( tự giải thể) khi giải quyết tranh chấp xong.
- Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành (vì
chỉ được thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo sự thỏa thuận của các bên) và
không có danh sách trọng tài viên riêng.
- Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.
Trọng tài thường trực : là hình thức trọng tài do các trọng tài viên thành lập ra
để giải quyết tranh chấp thương mại.
Đặc trưng:
- Các trung tâm trọng tài là tổ chức phi Chính phủ, không nằm trong cơ quan
nhà nước.
- Các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau.

6


- Tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài đơn giản, gọn nhẹ.
- Mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động, có quy tắc tố
tụng riêng.
- Hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên
của trung tâm.
Dưới đây là các tình huống tranh chấp thương mại quốc tế cụ thể; tuy nhiên, ở tiểu
luận này chúng em sẽ tập trung vào các tranh chấp liên quan đến trọng tài.
II. Một số tình huống tranh chấp cụ thể trong thực tiễn
1. Vấn đề về quy định điều khoản trọng tài
Theo quy định tại Pháp lệnh trọng tài, cũng như từ kết luận thực tế, Trọng tài
chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên tồn tại một thỏa thuận chọn Trọng tài để

giải quyếttranh chấp, phải một thỏa thuận trọng tài cụ thể, rõ ràng theo đúng quy định
của pháp luật và quy tắc tố tụng trọng tài của TTT.
Như vậy, nếu không quy định cẩn thận thì việc xử lý sẽ lâm vào bế tắc.
Tình huống 1:
Ngày 09/10/2009, Trung tâm Thương mại dịch vụ và xuất khẩu lao động
Petromanning thuộc Công ty Cổ phần Phát triển nguồn lực và dịch vụ dầu khí Việt
Nam (Tập đoàn Dầu khí VN) ký hợp đồng mua của Công ty Steelco (Hồng Kông)
phôi thép.
Hai bên đã mua, bán một số lượng phôi thép với các điều kiện và điều khoản
quy định trong hợp đồng.
Theo đó, Petromanning phải thanh toán tổng giá trị hợp đồng là 2.425.000 USD
(±5%) cho Steelco bằng phương thức thư tín dụng không hủy ngang trả ngay 100%
giá trị hóa đơn bằng đô la Mỹ và phải mở trong vòng 5 ngày kể từ ngày ký kết hợp
đồng. Điều 9 của hợp đồng cũng quy định điều kiện thanh toán như sau: “Trong
trường hợp L/C không được mở trong vòng 07 ngày làm việc sau ngày đến hạn mở
L/C, bên bán sẽ có quyền lựa chọn chấm dứt hợp đồng và trong trường hợp đó bên
mua sẽ phải trả cho bên bán một khoản phạt bằng 2% giá trị hợp đồng. Bên bán cũng
có quyền yêu cầu bên mua phải bồi thường các thiệt hại từ việc bán lại hàng hóa”.

7


Tuy nhiên, sau khi ký kết hợp đồng, Petromanning đã không thực hiện nghĩa vụ
mở L/C theo quy định. Petromanning cũng không thanh toán cho Steelco khoản tiền
phạt do vi phạm hợp đồng, bằng 2% giá trị hợp đồng - tương đương 48.500 đô la Mỹ.
Vì thế, Steelco đã khởi kiện lên Trung tâm trọng tài Quốc tế Hồng Kông để giải quyết
tranh chấp.
Giải quyết của Petromanning: Petromanning không hề tham gia quá trình xét xử
trọng tài, bất chấp các yêu cầu của Hội đồng trọng tài cũng như thông báo của Steelco.
Phán quyết của trọng tài:

Hội đồng trọng tài đã quyết định Petromanning sẽ phải trả ngay cho Steelco
48.500 USD cùng khoản lãi với lãi suất là 5%/ năm tính từ ngày 18/11/2009 ( tạm tính
đến ngày 20-7-2010 là 1.621 USD) cho đến khi Petromanning thanh toán hết.
Ngoài ra, Petromanning sẽ phải gánh chịu và thanh toán các chi phí của Petromanning
và Steelco liên quan đến việc giải quyết vụ việc tại trong tài và các chi phí cho việc ra
Quyết định của Trọng tài nước ngoài theo quy định của Hội đồng trọng tài là 56.031
USD. Trong trường hợp Steelco đã thanh toán bất kỳ khoản tiền nào liên quan đến các
chi phí ra Quyết định của Trọng tài nước ngoài, Petromanning có nghĩa vụ phải hoàn
lại ngay khoản tiền này cho Steelco cùng với một khoản lãi với lãi suất là 5% một năm
tính từ ngày Steelco thanh toán cho đến ngày được bồi hoàn.
Nhận xét:
- Phán quyết của Hội đồng trọng tài là hoàn toàn hợp lí.
- Về phía Petromanning: sau khi có văn bản đề nghị thực hiện hiện nghĩa vụ
thanh toán theo phán quyết của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông nhưng phía
Petromanning vẫn không thực sự tham gia theo phán quyết này . Điều này buộc Công
ty Bizlink ( công ty luật được steelco thuê) phải gửi hồ sơ lên Bộ Tư pháp. Hiện vụ
việc đang được Vụ Quan hệ Quốc tế - Bộ Tư pháp xem xét giải quyết. Theo đúng trình
tự thủ tục, sau khi phê duyệt, hồ sơ vụ việc sẽ được chuyển tới tòa án để tiếp tục xem
xét và ra quyết định thi hành án.
Rõ ràng, Petromanning đã hoàn toàn không coi trọng yếu tố trọng tài
cũng như việc xét xử của hội đồng trọng tài.Vì vậy, không có những biện
pháp giải quyết và bồi thường kịp thời, chính xác theo hợp đồng dẫn tới
hoàn toàn thua thiệt trọng vụ tranh chấp và phải chịu thực hiện án phạt với mức
bồi thường cao .

8


Đánh giá:
Xét về tính chất, vụ Petromanning được các chuyên gia đánh giá là có nhiều

điểm tương đồng với vụ việc Vietnam Airlines (VNA) bị yêu cầu bồi thường 5,2 triệu
euro.
Tình huống 2:
Đầu năm 2000, Công ty TACC ở Việt Nam cho thương nhân nước
ngoài Tsung thuê tàu LS chở lô hàng nông sản từ Việt Nam đi cảng Busan –
Hàn Quốc. Hợp đồng thuê tàu quy định người thuê phải đảm bảo cầu cảng dỡ an
toàn. Điều khoản trọng tài hợp đồng ghi rõ: “Nếu có tranh chấp bằng trọng tài sẽ tiến
hành ở Singapore và áp dụng luật Anh” (Arbitration in Singapore and English law to
apply).Trên hành trình, khi tàu vào cảng ở Busan, chẳng may cầu bến không
an toàn làm cho tàu thiệt hại tổng số tiền 12.000 USD. Chủ tàu lập tức bảo lưu khiếu
nại và đòi Tsung bồi thường. Tsung trả lời qua quýt bằng fax nói mình không có lỗi gì
cả và cuối cùng là im lặng. TACC cảnh báo nếu người thuê không có thiện chí thì chủ
tàu sẽ đưa vụ kiện ra trọng tài Singapore. Tsung vẫn im lặng và TACC không
làm được gì hơn vì hợp đồng không ghi rõ trọng tài nào ở Singapore. Rất tiếc là
điều khoản trọng tài nói trên có trong hợp đồng mà coi như bằng không vì theo
thông lệ Quốc tế (Điều 2 khoản 3 Công ước New York 1958), điều khoản trọng
tài như trên gọi là điều khoản trọng tài không thể thực hiện được vì trong điều khoản
này thiếu cả hai yếu tố cần thiết là tên, địa chỉ trọng tài đóvà quy tắc tố tụng sẽ áp dụng
để giải quyết.
Đánh giá:
Qua vụ việc trên có thể nói rằng vấn đề lựa chọn và quy định tòa án giải quyết
tranh chấp là không đơn giản. Rõ ràng trong trường hợp trên phía Việt Nam bị thiệt rất
nhiều nhưng vẫn không được luật pháp bảo vệ hay không tìm được sự bảo đảm của
pháp luật do những nguyên nhân cơ bản sau:
- Điều khoản trọng tài và luật xét xử không rõ ràng.
- Chọn thẩm quyền xét xử là Tòa án một nước nhưng lại yêu cầu tuân thủ luật
pháp nước khác.
- Xem nhẹ và không hiểu được ý nghĩa pháp lý của việc lựa chọn cơ quan tài
phán.


9


- Chọn thẩm quyền xét xử là tòa án nước này nhưng lại chọn việc chung thẩm
là ở một nước khác.
Với một điều khoản nội dung như sau: “mọi tranh chấp sẽ được giải
quyết bởi trọng tài Việt Nam”. Điều khoản này có trong hợp đồng nhưng không
có giá trị: Không quy định rõ hình thức trọng tài, nếu trọng tài quy chế thì tổ chức nào
(Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam, các tổ chức trọng tài kinh tế thuộc các
tỉnh và thành phố của Việt Nam hay là một tổ chức trọng tài Quốc tế khác
như ICC, SIAC, HKIAC,...). Quy định “tại Việt Nam” trên đây được hiểu là điểm
xét xử của trọng tài mà thôi.
Chính vì vậy đã tạo ra sự xung đột pháp luật, xung đột thẩm quyền tài phán
ngay trong điều khoản trọng tài và luật xét xử của hợp đồng. Từ đó bên có quyền lại bị
mất quyền, có quyền nhưng lại không được luật pháp bảo vệ.
2. Vai trò của Toà án đối với các hoạt động của TTTT thương mại:
Pháp lệnh 2003 ( có sửa đổi trong Luật Trọng tài thương mại năm 2010)
quy định tòa án có thể:
- Chỉ định Trọng tài viên;
- Thay đổi Trọng tài viên ;
- Áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Huỷ phán quyết trọng tài.Trên thực tế, việc tham gia của cơ quan tòa
án có tác dụng rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp Việt
Nam. Ta có thể tìm hiểu qua 1 vụ việc khá hi hữu là trường hợp của công ty Hoàng
Dũng và hợp đồng với EL95 (Công ty Eastland Produce (1995) Pte Ltd Singapore.
Công ty EL95 có quan hệ, ký kết hợp đồng mua cao su với Công ty Hoàng Dũng. Đại
diện Công ty EL95 cáo buộc Công ty Hoàng Dũng đã không thực hiện 13 trên tổng số
15 hợp đồng kí kết. Công ty Hoàng Dũng khẳng định không hề kí kết 2 hợp đồng còn
lại, và đã hoàn thành trách nhiệm.
Phán quyết của trọng tài:

Ngày 19/10/2004, SICOM ( Trọng tài thuộc Trung tâm giao dịch hàng hóa
Singapore) đã ra quyết định 01/2003 quy định phạt công ty Hoàng Dũng của Việt Nam
118 000USD.

10


Ngày 23/4 và ngày 27/2/2007, Tòa an sơ thẩm TAND TP Hồ Chí Minh và Tòa
phúc thẩm TAND tối cao của TP Hồ Chí Minh đã quyết định công nhận và cho thi
hành phán quyết của Sicom tại Việt Nam.
Tình huống phát sinh:
Tuy nhiên, sau đó, với sự tham gia của cơ quan công an, vụ việc đã được xem
xétlại để đảm bảo quyền lợi cho công ty Hoàng Dũng.
Nhận xét: Như vậy dù đã có quyết định của trọng tài, và chấp nhận thi hành án
từ phía tòa án 2 cấp, doanh nghiệp vẫn có thể yêu cầu sự bảo về từ phía cơ quan luật
pháp.
Đánh giá:
Như vậy, các doanh nghiệp cần lưu ý, không chỉ xem xét các điều khoản trong
hợp đồng, mà còn cả những yếu tố pháp lí có liên quan, để tránh những tổn thất không
đáng có.
3. Vấn đề liên quan đến giá trị pháp lý của điều khoản trọng tài
Theo điều 10 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, thỏa thuận trọng tài vô hiệu
trong những trường hợp sau đây:
- Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại được quy định tại
khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh này;
- Người ký thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định của
pháp luật;
- Một bên ký kết thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh
chấp, tổ chức trọng tai có thẩm giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có

thỏa thuận bổ sung;
- Thỏa thuận trọng tài không được lập theo quy định tại Điều 9 của Pháp lệnh
này;
- Bên ký kết thỏa thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe dọa và có yêu cầu tuyên bố
thỏa thuận trọng tài vô hiệu; thời hiệu yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu là
sáu tháng, kể từ ngày ký kết thỏa thuận trọng tài, nhưng phải trước ngày Hội đồng

11


Trọng tài mở phiên họp đầu tiên giải quyết vụ tranh chấp quy định tại Điều 30 của
Pháp lệnh này.
Tình huống:
Năm 2008, tàu Nam Á được cho một công ty Hàn quốc thuê định hạn. Trong
quá trình khai thác, người thuê mua của Hãng dầu Orient Oil Singapore một lượng dầu
trị giá gần $150.000. Hết hạn thuê, tàu được trả lại. Một thời gian sau, chủ tàu (Công
ty Nam Á) nhận được thư đòi khoản tiền trên. Hỏi người thuê tàu thì họ nói đã thanh
toán, họ còn gửi cho chủ tàu xem bản sao lệnh chuyển tiền. Trong khi đó bên bán dầu
khăng khăng chưa nhận được tiền, và yêu cầu chủ tàu thanh toán.
Ý kiến chủ tàu: Trong khoảng thời gian đó, tàu được cho thuê, vì thế chủ tàu
không chịu trách nhiệm
Ý kiến bên bán: Bên bán bán cho tàu Nam Á 08, vì vậy đòi chủ tàu là hoàn
toàn hợp lí.
Trong thời tranh chấp, người thuê tàu tuyên bố phá sản. Sự việc được giải quyết.
Tuy nhiên, ngày 7/2/2011, khi vừa trả xong hàng ở Karachi, tàu bị tòa án Pakistan ra
lệnh bắt giữ theo đơn kiện của bên bán dầu. Chủ tàu tham vấn luật sư. Luật sư liên lạc
với Tòa án.
Phán quyết của Tòa án:
Tòa đồng ý không giữ tàu nếu chủ tàu đóng thế chân hoặc có ngân hàng bảo
lãnh 230.318,74 đô la Mỹ.

Nhận xét:
Như vậy, chủ tàu hoàn toàn phải chịu thiệt hại từ vụ tranh chấp này mà không
nhận được sự bảo vệ từ phía pháp luật và trọng tài, do trường hợp này không có cơ sở
pháp lý bảo vệ quyền lợi chủ tàu.
III. Bài học kinh nghiệm
Trong thương mại quốc tế, tranh chấp tồn tại như một tất yếu, có thể là tranh
chấp hiện tại hoặc tranh chấp tương lai. Mặc dù bao giờ các chủ thể kinh doanh cũng
muốn hoàn thành thương vụ một cách suôn sẻ nhưng tranh chấp vẫn có thể xảy đến
bởi những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Để giải quyết tranh chấp một khi đã
xảy ra và đảm bảo lợi ích của các bên tham gia, trọng tài kinh tế thường được áp dụng
như một trong những biện pháp phổ biến và hữu hiệu nhất. So với những phương pháp

12


khác, trọng tài đảm bảo được tính bảo mật, độ tin cậy cao, nhanh chóng và thường có
chi phí không cao. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, điều khoản trọng tài vẫn chưa
được nhìn nhận, đánh giá một cách đúng vị trí của nó. Theo thống kê có đến hơn 95 %
tranh chấp hợp đồng thương mại trong nước được đưa ra Tòa án nhân dân có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thay vì giải quyết
bằng trọng tài. Do đó, có không ít doanh nghiệp Việt Nam bị xử thua và phải đền bù
tổn thất cho các đối tác nước ngoài một cách đáng tiếc.
Từ việc chỉ ra được những nguyên nhân trên, một số khuyến nghị cũng là
những bài học kinh nghiệm cần thiết cho các doanh nghiệp được đưa ra:
- Đối với doanh nghiệp
+ Cần có hiểu biết về phương pháp trọng tài: Trong bối cảnh kinh tế toàn
cầu, các doanh nghiệp nước ngoài đều sử dụng phương thức trọng tài, các doanh
nghiệp Việt Nam không thể nằm ngoài quy luật chung đó. Khi hội nhập kinh tế quốc
tế thì các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều và phức tạp,
doanh nghiệp Việt Nam cần phải tiếp cận với phương thức trọng tài như là điều khoản

cần có trong luật chơi trong nước và quốc tế. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần
nhận thức lại về phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng trọng
tài và cần nhận thức một cách đầy đủ những ưu thế khi lựa chọn hình thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài, thời gian giải quyết tranh chấp nhanh, ít tốn kém chi phí,
hiệu lực quyết định trọng tài là chung thẩm rút ngắn được các trình tự giải quyết hai
cấp, giữ được bí mật kinh doanh, được lựa chọn người có chuyên môn tương ứng với
vụ tranh chấp để giải quyết tranh chấp, các thủ tục lấy lời khai của các bên trong giải
quyết tranh chấp trọng tài hết sức văn minh bằng văn bản, quyết định trọng tài được cơ
quan thi hành án thi hành theo Luật thi hành án dân sự. . . . Song song đó trong quá
trình hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều vụ tranh chấp
thương mại, đầu tư, nội dung tranh chấp ngày càng phức tạp mà các nước trên thế giới
đều chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là hiệu quả và hợp lý nhất.
+ Khi tham gia ký kết hợp đồng thương mại với các đối tác nước ngoài, các
doanh nghiệp cần phải cân nhắc kỹ lưỡng các điều khoản trong hợp đồng, tất cả mọi
điều khoản cần phải được trình bày rõ ràng, càng chi tiết càng tốt. Cũng như các điều
khoản khác, điều khoản về trọng tài cũng cần được các bên tham gia thoả thuận cụ thể
trong hợp đồng về các yếu tố như trọng tài viên, địa điểm trọng tài, các thủ tục trọng
tài, luật áp dụng vào xét xử… thậm chí cả các chi phí cho việc giải quyết bằng trọng

13


tài cũng cần được đề cập đến trong hợp đồng. Một khi các điều khoản đã được quy
định trong hợp đồng thì các bên sẽ ít nhiều tránh được những sai sót trong quá trình
thực hiện thương vụ kinh doanh. Mặt khác trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, các
bên có thể đối chiếu với những điều khoản đó trong hợp đồng để có quy trách nhiệm
cho các bên liên quan và đưa ra cách xử sự hợp lý.
+ Nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia kể cả trong quá trình đàm phán
ký kết hợp đồng cũng như khi xảy ra sự cố. Luật sư, cố vấn pháp lý, luật gia…sẽ
hướng dẫn chính xác cho doanh nghiệp các thủ tục cần phải thực hiện, những điều nên

và không nên làm. Một trong những lý do khiến hãng hàng không quốc gia Việt Nam
(Việt Nam Airlines) thua kiện một luật sư người Italia số tiền hơn 5,2 triệu euro cũng
bắt nguồn từ việc công ty Việt Nam không tuân theo các thủ tục cần thiết khi tiến hành
tranh chấp, chậm trễ trong việc trả lời thư khiếu nại. Chính việc không nắm rõ luật
pháp lại không có sự tư vấn cần thiết của các chuyên gia đã đẩy công ty Việt Nam rơi
vào tình cảnh khốn khó đó. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần cung cấp đầy đủ thông
tin cho các chuyên gia để có được những lời khuyên chính xác và hữu ích trong quá
trình lập hồ sơ, hoà giải và tranh tụng.
+ Thể hiện thiện chí giải quyết tranh chấp bằng con đường hoà giải. Chúng
ta có thể thảo ra và gửi cho đối tác những thông điệp nhắc nhở hoặc cảnh cáo để kêu
gọi sự tự nguyện tiếp tục thực hiện hợp đồng của họ hoặc ít ra là sẽ đàm phán để giải
quyết tranh chấp hoặc ngay lập tức trả lời thư khiếu nại của bạn hàng khi có bất cứ vấn
đề gì xảy ra.
- Cần học hỏi kinh nghiệm của một số nước quy định pháp luật về trọng tài
+ Về mặt pháp luật trọng tài: Hầu như pháp luật các nước đều quy định rất
rộng thẩm quyền của trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp; cho phép hội đồng
trọng tài được quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; quy định hợp lý, cụ
thể địa điểm tiến hành giải quyết tranh chấp; thành lập hiệp hội trọng tài nhằm giám
sát hoạt động của trọng tài…Việt Nam đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế
giới do đó việc tìm hiểu, chọn lọc, tiếp thu kinh nghiệm của các nước phát triển nhằm
bổ sung cho pháp luật trọng tài Việt Nam là hết sức cần thiết và từ đó tạo hành lang
pháp lý thật sự vững chắc cho hoạt động của trọng tài nói riêng và cả trong các lĩnh
vực khác.
+ Về cơ chế hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài: Trọng tài
các nước trên thế giới hoạt động rất hiệu quả chính là nhờ cơ chế hỗ trợ tích cực của

14


tòa án trong quá trình tham gia tố tụng trọng tài. Ở Mỹ, tòa án hầu như tham gia toàn

bộ vào quá trình tố tụng trọng tài từ việc xem xét thỏa thuận trọng tài cho đến lúc Hội
đồng trọng tài ra phán quyết… Chính vì thế, mà làm cho hoạt động của trọng tài ở các
nước diễn ra nhanh chóng, tích cực, giải quyết nhanh gọn và đáp ứng quyền lợi của
các bên.Từ thực tiễn của các nước, chúng ta cũng cần có các quy định cụ thể về sự hỗ
trợ của tòa án đối với hoạt động của trọng tài.Tòa án cần có sự hỗ trợ tích cực hơn nữa
trong quá trình giải quyết tranh chấp của trọng tài, tránh tình trạng chồng chéo thẩm
quyền giữa trọng tài và tòa án, tránh cho quá trình giải quyết tranh chấp bị gián đoạn,
thiếu linh hoạt và không đạt hiệu quả.

15


KẾT LUẬN
Trong xu thế toàn cầu hóa ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, các
giao dịch thương mại quốc tế được thực hiện ngày càng nhiều. Việc xảy ra xung đột
hay tranh chấp trong các giao dịch đó là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, để có một
môi trường buôn bán trao đổi hàng hóa công bằng và lành mạnh, trọng tài trong giao
dịch thương mại quốc tế là những vấn đề hết sức cần thiết nhằm giải quyết các tranh
chấp, hạn chế sự gian lận, đảm bảo cho sự giao thương được thông suốt. Sử dụng trọng
tài được sử dụng như một phương pháp tối ưu cho việc giải quyết các tranh chấp xảy
ra. Tuy nhiên điều khoản trọng tài chưa được các doanh nghiệp Việt Nam nhìn nhận
và đánh giá một cách đúng mực dẫn đến những tổn thất đáng kể. Vì thế song song với
việc đẩy mạnh sự phát triển của hoạt động ngoại thương cũng là thay đổi cách nhìn
nhận và nhận thức về trọng tài trong thương mại quốc tế của các doanh nghiệp Việt
Nam.

16


Tài liệu tham khảo

1. Giáo trình Giao dịch thương mại quốc tế, Trường Đại học Ngoại thương,
PGS.TS. Phạm Duy Liên, Nhà xuất bản Thống kê, năm 2012.
2. />3. />4. />5. />
17


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
---o0o---

GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

ĐỀ TÀI: “Tranh chấp liên quan đến điều khoản trọng tài của hợp đồng
trong giao dịch thương mại quốc tế”

18



×