Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Tình hình phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong ngành công nghiệpViệt Nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.95 KB, 46 trang )

LỜI MỞ
Thực tiễn đời sống kinh tế – xã hội ở nước ta thời gian qua đã cho thấy,
trong điều kiện nền kinh tế thị trường luôn có sự cạnh tranh gay gắt thì việc sử
dụng, quản lý và phát triển nguồn nhân lực ngày càng đóng một vị trí rất quan
trọng. Trước đây, nếu như việc cạnh tranh giữa các tổ chức sản xuất kinh doanh,
thậm chí cả giữa các quốc gia chỉ đơn thuần là cạnh tranh về quy mô vốn, sau đó
chuyển sang yếu tố công nghệ. Ngày nay, với xu thế khu vực hoá toàn cầu hoá thì
sự cạnh tranh gay gắt nhất, mang tính chiến lược giữa các tổ chức, giữa các quốc
gia đó chính là cạnh tranh về yếu tố con người.
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất thì nguồn nhân lực đã
thực sự trở thành thứ tài sản quý giá nhất, là chiếc chìa vàng khoá dẫn đến thành
công. Nguồn nhân lực với trình độ tiên tiến sẽ chính là nhân tố đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với một nước đang ở trình độ thấp
và còn chậm phát triển như nước ta hiện nay không thể không xây dựng một chính
sách phát triển lâu bền, nâng cao dần chất lượng của người lao động, phát huy
nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho mục tiêu lớn lao của toàn dân tộc đặc
biệt đó là việc phát triển nguồn nhân lực công nghiệp, đây cũng chính là yếu tố
tiên quyết trọng việc phát triển sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam hiện nay. Để tìm ra những bước đi đúng đắn và tìm ra những giải pháp thiết
thực để phát huy nguồn nhân lực công nghiệp hiện tại thì trước nhất cần phải nắm
rõ thực trạng của vấn đề. Đó cũng chính là lý do mà nhóm chúng tôi chọn đề tài
“Tình hình phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong ngành công nghiệp
Việt Nam hiện đại”.

1


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Các khái niệm về nguồn nhân lực
1.1.


Khái niệm nguồn nhân lực
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Theo Liên Hợp

Quốc thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng
lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân
và của đất nước”.
Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao
gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây
nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất
khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Theo tổ chức lao động quốc tế thì: Nguồn nhân lực của một quốc gia là
toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động .
Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực
là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con
người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể
phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của
xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư
trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là
toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố
về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong
độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. nguồn nhân lực được biểu hiện
trên hai mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm
việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ
họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ

2


lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng số những người trong độ

tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc
làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng và chất lượng. Như
vậy theo khái niệm này, có một số được tính là nguồn nhân lực nhưng lại không
phải là nguồn lao động, đó là: Những người không có việc làm nhưng không tích
cực tìm kiếm việc làm, tức là những người không có nhu cầu tìm việc làm, những
người trong độ tuổi lao động quy định nhưng đang đi học…
Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể
hiểu: nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng
lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm
lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của
cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
1.2.

Phân loại nguồn nhân lực
Sự phân loại nguồn nhân lực theo ngành nghề, lĩnh vực hoạt động (công

nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) đang rất phổ biến ở Việt Nam hiện nay, nhưng khi
chuyển sang nền kinh tế tri thức phân loại lao động theo tiếp cận công việc nghề
nghiệp của người lao động sẽ phù hợp hơn. Lực lượng lao động được chia ra lao
động thông tin và lao động phi thông tin. Lao động thông tin lại được chia ra hai
loại: lao động tri thức và lao động dữ liệu. Lao động dữ liệu (thư ký, kỹ thuật
viên...) làm việc chủ yếu với thông tin đã được mã hoá, trong khi đó lao động tri
thức phải đương đầu với việc sản sinh ra ý tưởng hay chuẩn bị cho việc mã hoá
thông tin. Lao động quản lý nằm giữa hai loại hình này. Lao động phi thông tin
được chia ra lao động sản xuất hàng hoá và lao động cung cấp dịch vụ. Lao động
phi thông tin dễ dàng được mã hoá và thay thế bằng kỹ thuật, công nghệ. Như vậy,
có thể phân loại lực lượng lao động ra năm loại: lao động tri thức, lao động quản
lý, lao động dữ liệu, lao động cung cấp dịch vụ và lao động sản xuất hàng hoá.
Mỗi loại lao động này có những đóng góp khác nhau vào việc tạo ra sản phẩm.


3


Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một '' tài nguyên đặc biệt '',
một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát
triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát
triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn
nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là
đầu tư có tinh chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.
1.3.

Phân biệt lực lượng lao động và nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một khái niệm rộng và mang nhiêu khía cạnh, trong đó

bao gồm có lực lượng lao động.
Trong kinh tế học những người trong lực lượng lao động là những người cung cấp
lao động. Năm 2005, lực lượng lao động của toàn thế giới là trên 3 tỉ người.
Thông thường, lực lượng lao động bao gồm tất cả những người đang ở
trong độ tuổi lao động (thường là lớn hơn một độ tuổi nhất định và chưa đến tuổi
nghỉ hưu (55-60 tuổi) đang tham gia lao động. Những người không được tính vào
lực lượng lao động là những sinh viên, người nghỉ hưu, những cha mẹ ở nhà,
những người trong tù, những người không có ý định tìm kiếm việc làm. Ở Việt
Nam, lực lượng lao động được xác định là những người từ 16 tuổi trở lên, đã có
việc làm hoặc đang tìm kiếm việc làm.
1.4.

Sự khác biệt giữa nguồn nhân lực với các nguồn lực khác
Thứ nhất các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa

lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chúng chỉ có tác dụng và có ý thức của

con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí
biết lợi dụng, các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh
tổng hợp cũng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. các nguồn
lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và nói đúng
thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên con người biết cách tác

4


động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao
động là yếu tố quan trọng nhất.
Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác.
Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận. Tính
vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh mà còn
tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới không ngừng phát triển về chất trong
con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở
làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát triển như
một quá trình vô tận. Xét trên bình diện cộng đồng nhân loại.
Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài
nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên. Với
bản chất hoạt động có mục đích sáng tạo ra những hệ thống công cụ sản xuất mới
đã tác động vào tự nhiên một cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển không ngừng
của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá được xã
hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao, từ đó nói lên trình độ
vô tận của con người.
Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật
thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và đang trở
thành hiện thực. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công
nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận
động đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi là tri thức). Ở những nước này lực lượng sản

xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu được
từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức mạnh
của trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc cách mạng con người có thể tạo ra những máy
móc "bắt chước" hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ
ràng bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người
mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ của mình.

5


Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho
thấy sự thành công của công nghiệp hoá hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào hoạch
định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào năng
lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
1.5.

Khái niệm phát triển nguồn nhân lực
Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có nhiều

cách hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực. Theo quan niệm của
Liên hiệp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng
tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất
lượng cuộc sống. nguồn nhân lực.
Có quan điểm cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực: là gia tăng giá trị cho
con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ
năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng
lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng
tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Một số tác giả khác lại quan niệm: Phát triển là quá trình nâng cao năng lực
của con người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử dụng,

khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống phân công
lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế- xã hội.
Từ những luận điểm trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một quốc
gia: chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt
thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những
biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực . Nói một cách khái quát nhất, phát
triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con
người vì sự tiến bộ kinh tế- xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người.

6


Như vậy, phát triển nguồn nhân lực với nội hàm trên đây thực chất là đề
cập đến vấn đề chất lượng nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của nguồn nhân lực
của một quốc gia.
2. Vai trò của nguồn nhân lực đối với ngành công nghiệp
Trong mối quan hệ giữa nguồn nhân lực với phát triển kinh tế nói chung và
phát triển ngành công nghiệp nói riêng, thì nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định
đối với mọi hoạt động và đóng vai trò chủ chốt trong các nguồn lực để phát triển
kinh tế.
Thứ nhất, nguồn nhân lực là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố
quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác.
Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật,
khoa học công nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn
nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng
đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi
dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu
cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn

nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là nguồn nhân lực,
là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội
lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Ngày nay một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên
nhiên không mấy thuận lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát
triển bền vững nếu hội đủ bốn điều kiện:
Một, quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn.
Hai, quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.
Ba, quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo.
7


Bốn, quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba.
Thứ hai, nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định sự thành
công của sự nghiệp Công nghiệp hóa(CNH) – Hiện đại hóa(HĐH) đất nước; là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ
sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên
tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta. đó là
một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ
Nghĩa.
Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn CNH - HĐH rút ngắn, tiếp cận
kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu
nâng cao chất lượng NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công
của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước và phát triển bền vững. Đảng ta đã xác định
phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững.
Thứ ba, nguồn nhân lực là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhằm phát
triển bền vững.

Thứ tư, nguồn nhân lực là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, là điều kiện
đòn bẩy để phát huy năng lực cho nền kinh tế quốc gia nói chung và ngành công
nghiệp nói riêng.
3. Các nhân tố tác động đến việc phát triển nguồn nhân lực trong ngành
công nghiệp
3.1.

Đường lối công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Đảng
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương và của Đảng bộ thành phố về công

nghiệp hóa - hiện đại hóa, nước ta đã xây dựng các chương trình mục tiêu cụ thể,
trên cơ sở tiềm năng, ưu thế nổi trội của mình là một nước có nguồn nhân lực dồi
8


dào, có đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật hùng mạnh và có cơ sở vật chất tương
đối tốt, làm tiền đề cho việc phát triển.
Trong nước đã sớm xây dựng Chiến lược phát triển hoạt động khoa học
công nghệ cho từng thời kỳ nối tiếp nhau (giai đoạn 1986 - 1995 và 1996 - 2005),
lấy việc phát triển khoa học - công nghệ làm tiền đề, làm cơ sở để tiến hành hiện
đại hóa các lĩnh vực khác của nền kinh tế và mọi mặt của đời sống xã hội. Chủ
trương tiếp tục đổi mới cơ chế và nâng cao năng lực quản lý khoa học, công nghệ,
gắn hoạt động khoa học - công nghệ với nhu cầu thị trường, với sản xuất - kinh
doanh; phát triển thị trường công nghệ và thúc đẩy nhanh thương mại hóa công
nghệ đồng thời đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu luận cứ cho
hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đô thị trên
các lĩnh vực. Đẩy mạnh triển khai chương trình phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng cao về trí tuệ và tay nghề, phục vụ phát triển thị trường lao động. Có chính
sách thu hút các cơ sở nghiên cứu công nghệ vào khu công nghệ cao hoạt động
theo cơ chế doanh nghiệp, khắc phục tình trạng bao cấp, hành chính hóa hoạt động

khoa học - công nghệ.
3.2.

Thực trạng tình hình kinh tế xã hội
Theo báo cáo công bố tình hình kinh tế xã hội vào 3 tháng cuối năm 2010

của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mặc dù đứng trước nhiều khó khăn, thách thức nhưng
nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục đà phục hồi của những quý cuối năm 2009 với tốc
độ tăng tổng sản phẩm trong nước đạt 5,83%, gấp gần 1,9 lần tốc độ tăng của các
quý trong năm 2009. Đáng chú ý là sự phục hồi diễn ra ở hầu hết các ngành, các
lĩnh vực kinh tế then chốt:
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,6%
Thị trường trong nước tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng
cao, trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế tăng

9


24,1%, hoạt động du lịch sôi nổi, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng 36,2%
so với cùng kỳ năm trước.
Thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội ước tính tăng 26,23% so với cùng kì năm
trước đặc biệt là khu vực ngoài nhà nước tăng tới 46,38%
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn vừa có tính trước
mắt vừa có tính lâu dài. Chất lượng, hiệu quả tăng trưởng hạn chế; sức cạnh tranh
của nền kinh tế nói chung và của nhiều ngành, nhiều loại sản phẩm hàng hóa, dịch
vụ còn thấp. Một số cân đối kinh tế vĩ mô chưa được cải thiện đáng kể, thiếu tính
bền vững, nhất là cân đối xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; cân đối thu chi ngân
sách Nhà nước; cân đối vốn đầu tư phát triển; chỉ số giá tiêu dùng tăng cao. Những
khó khăn, thách thức đó đã tác động không nhỏ đến sản xuất và đời sống dân cư.
Công tác bảo đảm an sinh xã hội tiếp tục được triển khai tích cực tại các địa

phương nhằm ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Ban hành chính sách tăng
mức hỗ trợ 1,5 lần so với trước cho các đối tượng bảo trợ xã hội. Các giải pháp hỗ
trợ hộ nghèo phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, tăng thu nhập đã được
coi trọng. Các đối tượng cứu trợ xã hội được hưởng chính sách trợ giúp thường
xuyên như: hỗ trợ xây dựng và sửa chữa nhà ở, cấp thẻ bảo hiểm miễn phí, thẻ y tế
và những hỗ trợ khác.
Bên cạnh những kết quả quan trọng nêu trên, tình hình kinh tế - xã hội
trong thời gian này vẫn còn những tồn tại, hạn chế, nếu không tích cực tìm các giải
pháp khắc phục có hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện Kế hoạch
phát triển kinh tế- xã hội trong các năm tiếp theo. Đặc biệt là các yếu tố do tác
động từ phục hồi kinh tế, lạm phát và giá cả thế giới tăng và đặc biệt tăng giá dầu
vào trong nước tiếp tục gây áp lực lớn đến mặt bằng và lạm phát trong thời gian
tới. Xuất khẩu giảm sút, trong khi nhập khẩu tăng làm cho nhập siêu bị đẩy mạnh,
khiến cân đối ngoại tệ và dự trữ ngọai hối giảm sút. Việc huy động vốn cho đầu tư
và sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhất là vốn tín dụng với lãi suất có xu
hướng tăng khi phải vay với lãi suất thỏa thuận.
10


3.3.

Quy hoạch phát triển kinh tế
Trong lĩnh vực công nghiệp, từ năm 2002 đã triển khai “chương trình sản

phẩm công nghiệp chủ lực” góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành
công nghiệp theo hướng ngày càng hiện đại và thâm dụng vốn, công nghệ. Nhìn
chung, ngành công nghiệp đã có một bước tiến đáng kể theo xu hướng chuyển
sang các lĩnh vực hiện đại, có giá trị sản xuất cao.
Ngoài việc tập trung đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa
các ngành, lĩnh vực kinh tế chủ yếu nêu trên, nước ta cũng đã triển khai các

chương trình hiện đại hóa các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác, như đổi mới cơ chế,
chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân; đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn... nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ,
đồng bộ góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa
của đất nước.
4. Quan điểm và chủ trương của Đảng và nhà nước về phát huy nguồn nhân
lực của ngành công nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước
Trong tiến trình của các cuộc cải biến cách mạng xã hội theo hướng tiến bộ,
con người luôn là mục tiêu, đồng thời là động lực của tiến trình đó. Như vậy vai
trò của nhân tố con người được xem như chủ thể của toàn bộ tiến trình cách mạng.
Quan niệm này xuất phát từ một nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Marx : “Con
người là chủ thể của các quan hệ xã hội”.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng do con người, vì con người.
Chính vì mục tiêu cao cả của cuộc cách mạng đó mà khi hình dung trên những nét
đại thể về xã hội tương lai. Marx và Engels đã đặt con người vào vị trí trung tâm.
Con người là chủ thể xây dựng, đồng thời là kết quả của sự phát triển xã hội đó.

11


Công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta do
Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng cũng là nhằm đạt tới mục tiêu cao cả trên.
Để đạt tới mục tiêu đó, nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Tức là phải làm sao phát
huy vai trò tích cực của con người Việt Nam cho sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước. Điều đó có nghĩa là phải tìm ra những giải pháp tốt nhất
nhằm phát huy nhân tố con người – chủ thể của toàn bộ tiến trình đó. Nhận thức
được tầm quan trọng của nhân tố đó, trong các Nghị quyết Ban chấp hành trung

ương Đảng khóa VII, VIII, IX, X, XI Đảng ta luôn đánh giá cao sự phát huy
nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
-

Nghị quyết IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII nêu rõ: “Cùng

với khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực
thúc đẩy. Như vậy giáo dục là một dạng đầu tư cho sự phát triển vì nó là động lực
thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự nghiệp giáo dục đào tạo có tính xã hội hóa cao, nền
giáo dục và đào tạo tốt sẽ cho chúng ta nguồn nhân lực với đủ sức mạnh, đáp ứng
yêu cầu trước mắt và lâu dài. Do vậy sự nghiệp giáo dục phải là sự nghiệp của
toàn Đảng, toàn dân, đồng thời phải tranh thủ sự hợp tác, ủng hộ của các nước trên
thế giới thông qua việc hợp tác giáo dục.
-

Đại hội lần thức VIII của Đảng đã quán triệt một trong những quan điểm về

công nghiệp hóa – hiện đại hóa là : “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm
xây dựng đất nước, không ngừng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh
tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”.
-

Tiếp theo đến đại hội thứ IX, Đảng ta đã xác định: “Phát triển giáo dục và

đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hóa – hiện đại hóa là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản
để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao


12


chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ
thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại
hóa, xã hội hóa”, thực hiện “giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã
hội học tập”. Thực hiện phương châm “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội”.
-

Đại hội X xác định: “Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục

tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế
quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà,
tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; xây dựng nền giáo dục của
dân, do dân và vì dân. Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo; từng bước
xây dựng nền giáo dục hiện đại, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước.
Có thể nhận thấy, từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức rõ vai trò quan trọng
của con người đối với cách mạng Việt Nam và tiến trình phát triển của lịch sử.
Tuy nhiên trong từng thời kỳ, nhận thức của Đảng về vấn đề này cũng có những
khác biệt và được điều chỉnh cho phù hợp với giai đoạn mới. Đại hội XI (2011)
một mặt là sự tiếp nối tư tưởng đó, mặt khác cụ thể hóa, bổ sung, phát triển và làm
sáng tỏ thêm một số nội dung mới. Thể hiện ở những điểm sau:
Một là, lựa chọn phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến
năm 2020 tức là chuyển hướng chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo chiều
rộng sang chiều sâu, coi trọng và gia tăng nhanh chất lượng của nguồn nhân lực.
Hai là, đặt ra yêu cầu phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực
với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”

Đối với Việt Nam, một nước có xuất phát điểm thấp thì sự gắn kết này thực
sự là một yêu cầu nghiêm ngặt và càng phải được coi trọng, thậm chí là vấn đề
sống còn của sự nghiệp đổi mới ở nước ta.

13


Chương 2: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN VÀ SỬ DỤNG
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG NGÀNH CÔNG
NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
1.

Thực trạng nguồn nhân lực

1.1.

Dân số và sự tăng dân số
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2006, Việt Nam có khoảng 84.155.800

người; năm 2008, con số đó không dưới 86 triệu, là nước đông dân thứ 13 trên thế
giới.
Tốc độ gia tăng nguồn lao động của VN rất lớn, hàng năm được bổ sung
khoảng 1 triệu người lao động, vì vậy công tác giải quyết việc làm cho người lao
động đang là vấn đề cấp bách. Năm 2009 nguồn lao động tăng 1,06%)
Hiện nay, Việt Nam vẫn tiếp tục thực hiện KHHGĐ theo Pháp lệnh Dân số
Điều 10: "Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền quyết định số con, thời gian
sinh con và khoảng cách sinh con phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều
kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của các cá nhân, cặp
vợ chồng trên cơ sở bình đẳng".
Các nhà khoa học của Liên hợp quốc đã tính toán rằng, để cuộc sống thuận

lợi, bình quân trên 1km2, chỉ nên có từ 35 đến 40 người. Mật độ dân số nước ta
năm 2008 lên tới gần 260 người/km2. Như vậy, ở Việt Nam, mật độ dân số đã gấp
khoảng 6 - 7 lần "mật độ chuẩn". Trên thế giới, chỉ có 4 nước (ấn Độ, Nhật Bản,
Băng-la-đét, Phi-líp-pin) có dân số nhiều hơn và mật độ dân số cao hơn nước ta.
Có thể khẳng định rằng: Việt Nam là quốc gia có quy mô dân số rất lớn.
Dân số trung bình của Việt Nam năm 2008 đã tăng 70.576 nghìn người so với năm
1921 hay cao gấp trên 5,5 lần, bình quân 1 năm tăng 811,2 nghìn người, tương
đương mức tăng 1,98%/năm. Trong đó:

14


• Thời kỳ 1921 - 1943 tăng 319,5 nghìn người/năm, tương đương mức tăng
1,71%/năm;
• Thời kỳ 1943 - 1951 tăng 56,1 nghìn người/năm hay tăng 0,25%/năm, với
nguyên nhân chủ yếu do hơn 2 triệu người bị chết đói năm 1945 và số
người bị chết trong chiến tranh.
• Thời kỳ 1951 - 1957 tăng 753 nghìn người/năm hay tăng 3,03%/năm;
• Thời kỳ 1957 - 1976 tăng 1.135,8 nghìn người/năm hay tăng 3,08%/năm;
• Thời kỳ 1976 - 1985 tăng 1.190,2 nghìn người/năm hay tăng 2,21%/năm;


Thời kỳ 1985 - 2008 tăng 1.142,9 nghìn người/năm hay tăng 1,60%/năm;
riêng thời kỳ 2000 - 2008 tăng 1.065,6 nghìn người/năm, tương đương mức
tăng 1,31%/năm.
Như vậy, mặc dù tốc độ tăng dân số đã giảm xuống trong những năm gần

đây, nhưng về quy mô tuyệt đối hàng năm vẫn còn tăng trên dưới 1 triệu người,
bằng với quy mô dân số trung bình của một tỉnh. Với quy mô gần 86,2 triệu người,
Việt Nam là nước đông dân thứ 12 trên thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ,

Indonesia, Brazil, Pakistan, Bangladesh, Nigeria, Nhật Bản, Mexico, Philippines.
Mật độ dân số của Việt Nam đạt 260 người/km2, cao gấp trên 5 lần và
đứng thứ 41 trong 208 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới; cao gấp hơn 2 lần và
đứng thứ 8/11 nước ở Đông Nam Á, cao gấp đôi và đứng thứ 16/50 nước và vùng
lãnh thổ ở châu Á.
Việt Nam có tỷ lệ tăng tự nhiên hiện ở mức 1,2%, cao thứ 8 ở Đông Nam
Á, cao thứ 32 ở châu Á và đứng thứ 114 trên thế giới. Đó là kết quả tích cực của
công tác kế hoạch hóa dân số từ khá sớm.

15


Tỷ lệ dân số thành thị của Việt Nam năm 1930 là 7,4%, đến năm 1951 là
10%, từ năm 1976 đã vượt qua mốc 20% và đến năm 2008 đạt 27,9%, năm 2009
đạt 30% đứng thứ 8, thấp hơn tỷ lệ 39% ở khu vực Đông Nam Á, đứng thứ 41 và
thấp hơn tỷ lệ 41% ở châu Á và đứng thứ 177 và thấp hơn tỷ lệ 49% trên thế giới.
Việt Nam là nước có nhiều dân tộc nhưng dân tộc Kinh là chiếm đa số,
khoảng 87,1% tồng dân số của Việt Nam. Các dân tộc khác chiếm 12,9% dân số,
trong đó những dân tộc có dân số lớn, chiếm từ 1,4 đếm 1,8% dân số Việt Nam là
các dân tộc Tày, Thái, Hoa, Khme, Mường, Nùng. Các dân tộc ở Việt Nam đều có
truyển thống lao động cần cù, sáng tạo với nhiều ngành nghề cổ truyền, nhiều kĩ
năng độc đáo, khéo léo thích hợp với các ngành nghề đòi hỏi sự tỉ mỉ kiên nhẫn
như thêu đan, mỹ nghệ, cơ khí điện tử, tinh vi, chính xác.
Tỉ lệ dân số trong độ tuổi lao động tăng và chiếm tỷ trọng lớn nhất. Hiện,
Việt Nam có 58 triệu người trong độ tuổi lao động thực tế và đang ở thời kỳ “dân
số vàng”: bình quân hai người lao động nuôi một người phụ thuộc.
Trong bài phát biểu tại Hà Nội nhân ngày Dân số Thế giới 2010 bà Urmila
Singh, Phó trưởng Đại diện Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc đánh giá: “Với sự thay
đổi cơ cấu dân số, Việt Nam đang bước vào “thời kỳ cơ cấu dân số vàng”. Trong
thời kỳ này, cứ một người trong độ tuổi phụ thuộc (dưới 15 tuổi hoặc trên 60 tuổi)

thì có hai người hoặc hơn trong độ tuổi lao động (từ 15-60 tuổi). Thời kỳ đặc biệt
này chỉ xảy ra một lần trong lịch sử phát triển của bất kỳ một quốc gia nào”. Rõ
ràng Việt Nam đang có một cơ hội “vàng” khi sử dụng một lực lượng lao động trẻ
dồi dào trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế 2010-2020. Tuổi thọ bình quân của
người Việt Nam cũng có bước tiến rõ rệt khi tăng lên đến 73,1 tuổi và dự kiến đạt
75 tuổi vào năm 2020.
Dân số Việt Nam có cơ cấu giới tính tương đối cân bằng. Mặc dù dân thành
thị hiện chiếm khoảng 29,53% (năm 2009) tổng dân số ở Việt Nam nhưng lại
đang tăng nhanh với tốc độ trung bình 3,4%/năm. Khu vực miền Đông Nam Bộ là
nơi có mức đô thị hóa cao nhất. Nguyên nhân chính là do thị trường lao động mở
rộng.
16


Mật độ dân số ở Việt Nam, theo Tổng cục Thống kê, có sự phân bố rất
chênh lệch và mức gia tăng không đồng đều. Cụ thể khu vực đồng bằng sông
Hồng ở miền Bắc đông nhất trên cả nước (25 triệu người) trong khi vùng Tây
nguyên chỉ hơn 5 triệu người. Một số tỉnh như Nam Định, Thanh Hóa... tỉ lệ tăng
dân số không đáng kể vì số người di cư vào các tỉnh thành phía Nam (chủ yếu là
Thành phố Hồ Chí Minh) để làm ăn sinh sống. Ước tính trong năm năm 20042009 có tới 9,1 triệu người di cư.
Năm

Theo giới tính
Nam
49,17
49,16
49,14
49,15
49,52


1999
2001
2004
2007
2009

Nữ
50,83
50,84
50,86
50,85
50,48

Theo khu vực
Thành thị
23,61
24,76
26,3
27,44
29,53

Nông thôn
76,39
75,24
73,7
72,56
70,47

Bảng: cơ cấu dân số phân theo giới tính và khu vực(%)
Năm

2004
2005
2006
2007
2008
2009

Nông-lâm-ngư

Công nghiệp

Dịch vụ

57,9
57,1
55,37
53,91
52,68
51,92

- xây dựng
17,4
18,2
19,23
19,98
20,83
21,54

24,7
24,7

25,4
26,12
26,55
26,54

Bảng: cơ cấu lao động theo các nhóm ngành kinh tế từ năm 2004-2009(%)
Trong những năm vừa qua, từ năm 2004-2009 cơ cấu nguồn nhân lực theo
ngành kinh tế của Việt Nam có sự chuyển biến tích cực: tỷ trọng trong lao động
ngành nông nghiệp giảm, trong ngành công nghiêp và dịch vụ có xu hướng tăng.
Nhưng sự chuyển dịch còn chậm và chất lượng chưa cao, tỷ trọng lao động ngành

17


nông nghiệp vẫn chiếm hơn 50%. Quá trình chuyển dịch này vừa theo xu hướng
chung toàn cầu vừa mang những đặc điểm riêng gắn liền với quá trình phát triển
kinh tế của Việt Nam.
1.2

Tỷ lệ tham gia lao động của ngành công nghiệp
Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam tính đến năm 2007, có khoảng

dưới 5 triệu người, chiếm 6% dân số của cả nước, trong đó, công nhân trong các
doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ thấp, khoảng gần 2 triệu người, bằng khoảng
40% so với lực lượng công nhân nói chung của cả nước; lực lượng công nhân của
khu vực ngoài nhà nước có khoảng 2,70 triệu, chiếm gần 60%. Xu hướng chung là
lực lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước ngày càng ít đi, trong khi
đó, lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước ngày càng tăng lên. Công
nhân có tay nghề cao chiếm tỷ lệ rất thấp so với đội ngũ công nhân nói chung.
Trình độ văn hóa, tay nghề, kỹ thuật của công nhân còn thấp. Số công nhân có

trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn người, chiếm khoảng
3,3% so với đội ngũ công nhân nói chung ở Việt Nam. Số công nhân xuất khẩu lao
động tiếp tục tăng, tuy gần đây có chững lại. Từ năm 2001 đến năm 2006, Việt
Nam đã đưa được gần 375 nghìn người lao động đi làm việc tại trên 40 nước và
vùng lãnh thổ, tăng gấp 4 lần so với thời kỳ 1996-2000 (95 nghìn người). Hiện
nay, lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài có khoảng 500 nghìn người, làm
việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề.
Trong giai đoạn 2006-2009, cơ cấu lao động giữa các ngành công nghiệp
bước đầu có sự chuyển dịch nhưng rất chậm. Ngành công nghiệp dệt may, giày
dép vẫn tiếp tục có lao động chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu, chiếm gần 50% cơ
cấu toàn ngành công nghiệp. Trong cả giai đoạn, chỉ giảm 0,2%, tỷ trọng từ 46,2%
năm 2005 chuyển dịch xuống còn 46% năm 2009, 8 nhóm ngành còn lại chỉ chiếm
hơn 50% trong cơ cấu lao động toàn ngành và có cơ cấu lao động chuyển dịch
không lớn. Mặc dù sự chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm nhưng năng suất
lao động có sự thay đổi theo hướng ngày càng tăng, các ngành thâm dụng lao động

18


trên địa bàn tỉnh trong giai 2006-2010 vẫn được duy trì. Tỷ lệ công nhân cơ khí và
công nghiệp nặng còn rất thấp, khoảng 20% trong tổng số công nhân của cả nước,
trong khi đó, công nhân trong các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm lại
chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%.
Lao động ngành công nghiệp một số tỉnh, thành phố có quy mô công
nghiệp phần lớn có biến động tăng trong tháng này. Cụ thể, Tp. HCM tăng 0,8%;
Hải Phòng tăng 0,4%; Hải Dương tăng 1,2%; Vĩnh Phúc tăng 0,6%; Bắc Ninh
tăng 3,1%; Đà Nẵng tăng 0,1%; Bình Dương tăng 0,3%; Cần Thơ tăng 27,4%.
Riêng Hà Nội giảm 0,1%; Bà Rịa Vũng Tàu giảm 11,1%.
Lao động ngành công nghiệp trong các khu công nghiệp dự kiến tháng
1/2011 tăng 0,9% so với tháng 12/2010, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước

tăng 0,1%, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 0,6% và khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài tăng 1,0%.
I.3.

Tỉ lệ thất nghiệp
Hiện nay, tại nước ta, thất nghiệp chiếm một một tỷ lệ nhất định, đặc biệt là

ở các thành phố lớn, người thất nghiệp trong bài toán lao động vẫn chưa đánh giá
hết được. Tỷ lệ thất nghiệp năm 2001 là 6,8% giảm dần dưới 6% năm 2008 (Số
liệu theo nguồn là Niên giám thống kê và báo cáo của Sở Lao động Thương binh
& Xã hội). Tỷ lệ thất nghiệp năm 2009 bình quân ở mức 5,4%. (Theo
molisa.gov.vn)
Theo báo cáo của Sở Lao động Thương binh và Xã hội TPHCM, tình hình
lao động trên địa bàn thành phố bị mất việc làm, thiếu việc làm từ quý IV năm
2008 đến ngày 31 tháng 3 năm 2009 thì có 188 doanh nghiệp do các lý do khác
nhau đã cắt giảm lao động, và số lao động đã bị cắt giảm là 42.122 người, trong đó
có 25.608 lao động mất việc làm, 16.514 lao động bị thiếu việc làm.
Ngày 31/12, Tổng cục Thống kê cho biết tỷ lệ thất nghiệp năm 2010 của
lao động trong độ tuổi là 2,88%, trong đó tình trạng không có việc làm ở khu vực
thành thị là 4,43% và nông thôn là 2,27%.

19


So sánh với năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp chung đã giảm 0,02%, thất nghiệp
thành thị giảm 0,17% trong khi thất nghiệp nông thôn lại tăng thêm 0,02%. Năm
2009, các tỷ lệ tương ứng là 2,9%; 4,6%; 2,25%.
Bên cạnh tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi, tỷ lệ thiếu việc làm
năm 2010 của lao động trong độ tuổi là 4,5%; trong đó khu vực thành thị là
2,04%, khu vực nông thôn là 5,47%.

Theo Tổng cục Thống kê, năm 2010, lực lượng lao động trong độ tuổi từ 15
trở lên là hơn 50,5 triệu người, tăng 2,68% so với năm 2009; trong đó lực lượng
lao động trong độ tuổi lao động là hơn 46,2 triệu người, tăng 2,12%.
Tỷ lệ dân số cả nước 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động tăng từ
76,5% năm 2009 lên 77,3% năm 2010. Tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm nghiệp
và thủy sản giảm từ 51,9% năm 2009 xuống 48,2% năm 2010; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng từ 21,6% lên 22,4%; khu vực dịch vụ tăng từ 26,5% lên
29,4%.
Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thất nghiệp và thiếu việc
làm của người lao động tại các thành phố lớn trong thời gian qua, đó là:
Thứ nhất, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế trong nước nói chung và
TPHCM nói riêng dẫn tới sự thu hẹp về sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Thứ hai, các doanh nghiệp tái cấu trúc cơ cấu nhằm tăng cường khả năng
cạnh tranh. Theo đó, giải pháp hiệu quả nhất mà các doanh nghiệp thường là để
đổi phó và tồn tại qua cơn suy thoái hay ít nhất là duy trì sự ổn định thị phần và
khả năng sinh lợi là cắt giảm nhân lực, tinh gọn bộ máy.
Thứ ba, do sự suy giảm của thị trường xuất khẩu lao động. Song song với
tình trạng lao động trong nước bị mất và thiếu việc làm đang ngày càng gia tăng
cùng với sự kéo dài của suy thoái kinh tế toàn cầu và trong nước, hiện đang có một
làn sóng lao động di chuyển ngược về Việt Nam từ nước ngoài.
Một mặt, lao động cao cấp còn thiếu kỹ năng nghề, cần được nâng cao chất
lượng đào tạo; mặc khác, lao động phổ thông vẫn còn thừa. Sở dĩ người lao động
20


chưa muốn tìm việc vì tiền lương hiện nay quá thấp, không đủ sống bản thân và tái
tạo sức lao động.
Những khó khăn trên bộc lộ rõ nét từ những năm 2001 đến nay và sẽ tác
động trực tiếp đến cung – cầu trên thị trường lao động. Cũng do biến động mạnh

nguồn lao động, hàng năm khoảng 40.000 lao động mất việc, nghỉ việc, chủ yếu
trong khu vực sản xuất.
Việc tăng dân số - lao động đang tạo ra rất nhiều áp lực cho công tác giải
quyết việc làm tại nước ta. Những khó khăn mà thành phố đối mặt đó là nguồn lao
động biến động mạnh, không ổn định, tình trạng lao động mất việc làm phải tái bố
trí việc làm lớn, đi đôi với chất lượng lao động thấp. Ngoài ra, khoảng cách giữa
đào tạo – sử dụng lao động còn quá lớn. Đáng chú ý nhất là lộ trình cải cách tiền
lương vẫn còn chậm kiến thu nhập giữa các khu vực kinh tế vẫn còn sự chênh lệch
lớn, dẫn đến lao động tại chỗ không muốn vào làm việc trong khu vực công
nghiệp có cường độ lao động cao, thu nhập thấp.
I.4.

Thu nhập ngành
Trong những năm đổi mới vừa qua đi đôi với việc phát triển và ổn định,

nền kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển dịch kinh tế mạnh mẽ, xu hướng của quá
trình này là công nghiệp tăng nhanh và nền kinh tế được hiện đại hóa.
Dựa vào biểu đồ cơ cấu các khu vực ta có thể nhận thấy điều này, đóng góp vào
GDP của ngành công nghiệp liên tục tăng trong vòng hơn 10 năm trở lại đây
ngành công nghiệp đã có đóng góp không nhỏ vào GDP hơn 40%.

21


Cơ cấu các khu vực I, II, III trong GDP thực tế (năm gốc 1994)
Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp cũng phát triển, tăng trưởng ngày càng
cao. Đối với nhóm ngành chế biến nông,lâm, hủy hải sản có mức tăng trưởng đáng
kể đạt hơn 25% trong năm 2009. lợi thế so sánh trong các ngành chế biến, chế tạo
sử dụng nhiều lao động đã được khai thác với ưu thế của ngành công nghiệp chế
biến xuất khẩu so với các sản phẩm xuất khẩu thô.Trong nội bộ ngành công

nghiệp, còn có sự đóng góp của ngành công nghiệp khai thác, ngành công nghiệp
điện nước…

Cơ cấu của ngành công nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp chế biến, công
nghiệp điện nước trong GDP

22


Đây được coi là yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa..
I.5.

Phân bố lao động ngành, khu vực
Sự phân bố lao động ở các nước phát triển không đồng đều, thể hiện qua

đặc điểm nổi bật nhất là đa số lao động làm việc trong nông nghiệp. Hay nói cách
khác tỷ lệ lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động của
nền kinh tế. Xu hướng chung của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động là tỷ lệ
lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ lệ lao động công nghiệp và dịch vụ tăng dần.
Mức độ chuyển dịch nhanh hay chậm tùy thuộc vào trình độ phát triển của nền
kinh tế. Khi thu nhập đầu người thấp luôn tương ứng với nông nghiệp có tỷ trọng
lao động cao.
Cơ cấu nguồn lao động được đào tạo trong những năm qua còn rất bất hợp
lý. Tại các nước phát triển thì cứ 1 thầy có 10 thợ, nhưng ở nước ta, bình quân một
thầy chỉ có 0,95 thợ. .. Đây chính là tình trạng "thừa thầy thiếu thợ". Trong khi số
sinh viên đại học tăng nhanh thì số công nhân kỹ thuật giảm dần. Đến năm 2010,
mỗi năm cần khoảng 20 ngàn lao động kỹ thuật, nhưng khả năng đào tạo nghề
cũng cung ứng 12.000 người/năm. Hiện nay nhu cầu tuyển lao động kỹ thuật hầu
như không được đáp ứng đầy đủ, trong khi lao động phổ thông lại dư thừa quá

nhiều.
Tỷ lệ lao động kỹ thuật đã thấp lại phân bổ không đồng đều giữa các ngành
và các thành phần kinh tế. Rất nhiều lao động kỹ thuật tập trung ở thành phố lớn
còn ở khu vực nông thôn, số lao động đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ càng thấp (chỉ
khoảng 4%). Đặc biệt vùng miền núi, hải đảo, đang thiếu lao động kỹ thuật và trí
thức trầm trọng, trong khi số tri thức dư thừa giả tạo ở các thành phố lớn ngày
càng nhiều. Không những vậy, có những lao động sau khi được đào tạo đã không
làm đúng ngành nghề, thậm chí còn làm công việc của lao động giản đơn.
Sự phân bố không đồng đều nói trên khiến thị trường lao động rơi vào tình
trạng thừa mà thiếu. Nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc tuyển
23


dụng lao động, không chỉ là lao động qua đào tạo mà còn khó tuyển cả lao động
phổ thông.
Số lượng nhu cầu việc làm của các doanh nghiệp tuy nhiều và đa dạng
ngành nghề, tuy nhiên giá công nhân của thị trường lao động vẫn chưa thỏa mãn
được giá trị sức lao động và mức sống của dân cư nhất là các công việc sản xuất
gia công, lao động phổ thông, giản đơn.
1.6.

Thời gian lao động
Ở nước ta, thời gian làm việc được quy định không quá 8 giờ trong một

ngày hoặc 48 giờ trong một tuần. Người sử dụng lao động có quyền quy định thời
giờ làm việc theo ngày hoặc tuần, nhưng phải thông báo trước cho người lao động
biết. Thời giờ làm việc hằng ngày được rút ngắn từ một đến hai giờ đối với những
người làm các công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm …. Bên cạnh đó
người lao động làm việc 8 giờ liên tục thì được nghỉ ít nhất nửa giờ, tính vào giờ
làm việc. Người làm ca đêm được nghỉ giữa ca ít nhất 45 phút, tính vào giờ làm

việc. Người lao động làm việc theo ca được nghỉ ít nhất 12 giờ trước khi chuyển
sang ca khác. Tuy rằng quy định là vậy nhưng về mặt sử dụng thời gian lao động
còn thiếu nghiêm chỉnh, việc kiểm tra thiếu chặt chẽ, nên việc quản lý thời gian
lao động bị buông lỏng, gây ra nhiều lãng phí. Trong nhiều ngành sản xuất và xây
dựng trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp, kỷ luật lao động lỏng lẻo cộng
thêm việc tổ chức sản xuất tổ chức lao động và tổ chức đời sống của công nhân,
viên chức có nhiều thiếu sót, khó khăn, nên số ngày công thực tế, bình quân của
một công nhân, viên chức cao nhất chỉ bằng khoảng 80% mức quy định. Ngày
nghỉ việc, giờ ngừng việc còn nhiều. Tỷ lệ ngày nghỉ không lý do, nghỉ về việc
riêng còn cao. Tình trạng hội họp, học tập trong giờ làm việc quá nhiều và trái với
chế độ. Hiện tượng vi phạm kỷ luật giờ giấc như đến muộn về sớm, nghỉ giữa giờ
kéo dài… còn xảy ra ở nhiều nơi. Thời gian hoạt động có ích của máy móc bị
giảm sút, hạn chế việc phát huy khả năng của thiết bị. Trong khi số giờ lao động
theo chế độ trong ngày chưa tận dụng hết thì nhiều cơ sở lại huy động công nhân,

24


viên chức làm thêm giờ, làm đêm, làm thêm ca, thêm kíp, làm cho quỹ tiền lương
phải chi thêm hàng triệu đồng mà còn làm mệt mọi công nhân, viên chức, nhất là
vào những tháng cuối quý, cuối năm. Điều đó đã ảnh hưởng lớn đến việc hoàn
thành kế hoạch và hạn chế việc phát huy khả năng tiềm tàng trong lao động, trong
sản xuất để không ngừng nâng cao năng suất lao động. Tình hình đó đặt ra cho
chúng ta một vấn đề vừa quan trọng vừa cấp bách là phải làm cho mọi người lao
động, trước hết là cán bộ quản lý, quán triệt sâu sắc ý nghĩa to lớn của việc tiết
kiệm thời gian lao động, đồng thời phải thi hành nhiều biện pháp tổ chức và kỹ
thuật cụ thể để sử dụng đầy đủ nhất và hợp lý nhất sức lao động và thời gian lao
động.
2.


Tình hình phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong ngành công

nghiệp hiện nay
2.1.

Chất lượng lao động trong ngành công nghiệp
Chất lượng lao động là một nhân tố quan trọng tạo ra chất lượng sản phẩm

của quá trình sản xuất - kinh doanh đạt năng suất lao động cao, trung bình hay
thấp so với năng suất lao động trung bình của nền kình tế. Với lực lượng lao động
có chất lượng, được đào tạo huấn luyện tốt, đặc biệt lao động có trình độ chuyên
môn cao sẽ tạo ra sản phẩm, dịch vụ chất lượng và và thúc đẩy các tôt chức doanh
nghiệp hoàn thiện thiết bị, máy móc, quy trình sản suất kinh doanh. Có thể thấy rõ
trong hiện nay vấn đề “chất lượng nguồn nhân lực” là một trong những yếu tố quy
định sự thành, bại của tổ chức, doanh nghiệp.
Có thể nói sự khan hiếm nguồn nhân lực có chất lượng đã diễn ra triền
miên trên nhiều lĩnh vực, nghành nghề, từ đơn vị sản suất kinh doanh đến cả cơ
quan quản lý Nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức xã hội là một
thực trạng bức xúc, một lực cản nặn nề trong công cuộc xây dựng và phát triển
thành phố nói riêng và cả nước nói chung, đặc biệt trong thời kỳ Việt Nam hội
nhập kinh tế thế giới.

25


×