LỜI CẢM ƠN
Với mỗi sinh viên đại học, khoá luận tốt nghiệp là việc mốc cuối cùng
đánh dấu sự kết thúc 4 năm học tập trên giảng đường và cũng là bước khởi
đầu làm quen với công việc nghiên cứu và công tác sau này.
Được sự đồng ý của nhà trường, Khoa Quản lý Tài nguyên rừng và
Môi trường, dưới sự hướng dẫn của cô giáo Phí Thị Hải Ninh tôi đã thực
hiện khoá luận tốt nghiệp với tên đề tài: "Nghiên cứu đề xuất giải pháp
quản lý rác thải tại Bệnh Viện Đa Khoa Hà Đông, Quận Hà Đông,
Thành phố Hà Nội".
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến cô Phí
Thị Hải Ninh đã giúp đỡ và hướng dẫn em hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong Trường, Khoa Quản lý tài
nguyên rừng và Môi trường đặc biệt là Bộ môn Quản lý Môi trường, Trường
đại học Lâm Nghiệp, các cán bộ BV Đa Khoa Hà Đông đã cung cấp tài liệu,
đóng góp ý kiến tạo điều kiện thuận lợi cho em thực hiện đề tài này.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn
ủng hộ, giúp đỡ và động viên trong suốt thời gian hoạc tập và nghiên cứu tại
trường.
Do thời gian có hạn, kinh nghiệm chuyên môn rất ít nên chuyên đề
không tránh khỏi còn thiếu sót. Kính mong được sự góp ý, nhận xét, bổ sung
của các thầy cô và các bạn sinh viên để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 05 năm 2011
Người thực hiện
Sinh viên
Đỗ Viết Thêm
MỞ ĐẦU
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang có những bước chuyển mình
mạnh mẽ. Đời sống cuả người dân ngày càng được cải thiện hơn và họ đã
nhận thức khá đầy đủ rằng sự phát triển kinh tế - xã hội một mặt nâng cao
mức sống, mặt khác gây ảnh hưởng tiêu cực đến con người và tự nhiên. Đây
là vấn đề không phải lúc nào cũng được chú trọng đúng mức. Ngày nay, trên
thế giới vấn đề môi trường và sức khỏe đang được quan tâm hàng đầu. Việt
Nam là một nước nằm trong số đó, tuy nhiên vấn đề sức khỏe và môi trường
chưa được chú trọng trong sự phát triển.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra hết sức khẩn
trương, bộ mặt xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cùng với sự phát
triển kinh tế - xã hội, đất nước cũng được phát triển hơn những thập niên
trước đây rất nhiều. Kéo theo đó là nhu cầu của con người tăng lên về vật chất
lẫn tinh thần kéo theo đó là các bệnh viện, phòng khám mọc lên nhanh chóng
không chỉ phát triển về mặt số lượng mà còn đi sâu về chất lượng. Đi đôi với
sự phát triển kéo theo lượng chất thải của bệnh viện cũng tăng lên về số lượng
và phức tạp về thành phần, còn việc quan tâm xử lý, quản lý chất thải của
bệnh viện chưa theo kịp.
Hiện nay chất thải bệnh viện đang trở thành vấn đề môi trường và xã
hội cấp bách ở nước ta, nhiều bệnh viện trở thành nguồn gây ô nhiễm cho khu
dân cư xung quanh, gây dư luận cho cộng đồng. Các chất thải y tế có chứa
đựng các yếu tố truyền nhiễm là chất độc hại có trong rác y tế, các loại hoá
chất và dược phẩm nguy hiểm, các chất thải phóng xạ, các vật sắc nhọn, v.v.
những người tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại đều có nguy cơ nhiễm bệnh
tiềm tàng, bao gồm những người làm việc trong các cơ Sở Y Tế, những người
bên ngoài làm việc thu gom chất thải y tế và những người trong cộng đồng bị
phơi nhiễm với chất thải do sự sai sót trong khâu quản lý chất thải.Các chất
thải y tế này có chứa các chất hữu cơ nhiễm mầm bệnh gây ô nhiễm, bệnh tật
2
nghiêm trọng cho môi trường xung quanh bệnh viện ảnh hưởng xấu đến sức
khoẻ người dân.
Tại Hà Nội cũng như các tỉnh thành khác trong cả nước, tình trạng ô
nhiễm môi trường do rác thải y tế ngày càng nghiêm trọng. Việc nghiên cứu
tình hình quản lý rác thải bệnh viện, đề xuất nhằm tìm ra giải pháp để cải
thiện môi trường cũng là một trong những đề tài đáp ứng được yêu cầu cấp
bách hiện nay của các địa bàn trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Xuất phát từ yêu cầu đó, dựa trên cơ sở khoa học và những nghiên cứu
tài liệu, nghiên cứu thực địa, em xin đưa ra đề tài khóa luận với tên: "Nghiên
cứu đề xuất giải pháp quản lý rác thải tại Bệnh Viện Đa Khoa Hà Đông,
Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội".
Đề tài đã thực hiện với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc cải
thiện và bảo vệ môi trường.
3
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về chất thải y tế
1.1.1. Khái niệm về chất thải y tế
Theo Qui chế quản lý chất thải y tế (Bộ Y tế), chất thải y tế là vật chất
ở thể rắn, lỏng và khí được thải ra từ các cơ sở y tế bao gồm chất thải y tế
nguy hại và chất thải thông thường.
Như vậy, chất thải y tế có thể ở dạng rắn, lỏng, khí và thường có đặc
tính và tác động xấu đối với môi trường và sức khoẻ con người. Người ta
thường phân biệt hai loại chất thải y tế: chất thải nguy hại và không nguy hại.
a/ Chất thải y tế nguy hại
Chất thải nguy hại: là chất thải có chứa các chất hoặc hoá chất có một hoặc
các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, gây ăn mòn,
dễ lây nhiễm với các đặc tính nguy hại), hoặc tương tác với các chất khác gây
nguy hại tới môi trường và sức khoẻ con người[1].
Chất thải y tế nguy hại: là chất thải y tế có chứa một trong các thành phần
như: máu, dịch cơ thể, chất bài tiết, các bộ phận hoặc cơ quan con người,
động vật, bơm, kim tiêm và các vật sắc nhọn, dược phẩm, hoá chất và các
chất phóng xạ dùng trong y tế[1].
b/ Chất thải y tế không nguy hại: là những loại không có khả năng
gây độc, như giấy, nhựa, thực phẩm dư thừa… Đối với loại chất thải này
không cần lưu giữ và xử lý đặc biệt; nhưng để bảo vệ môi trường và công
đồng, chúng cần được thu gom và xử lý phù hợp.
1.1.2. Nguồn gốc, thành phần và khối lượng
Thành phần và khối lượng của từng loại chất thải y tế có đặc trưng theo
chức năng và nhiệm vụ chuyên môn của từng bệnh viện. Chúng có nguồn gốc
chủ yếu từ các phòng khám, khoa chức năng, phòng hành chính – tổng hợp,
và khu dịch vụ trong bệnh viện. Hình 1.1 mô tả nguồn gốc và các dòng thải
chính trong bệnh viện.
4
Hình 1.1.Nguồn phát sinh chất thải bệnh viện Đa Khoa
Một cách đánh giá thuyết phục để có thể dự báo và ước lượng chất thải
y tế nói chung và số lượng hay tỷ lệ chất thải y tế nguy hại nói riêng phải dựa
vào các yếu tố sau:
- Số lượng, đặc điểm, phạm vi cứu chữa, qui mô khám bệnh, điều trị
của tất cả các cơ sở y tế.
Phòng Mổ
Phòng cấp cứu
Khu vực hành
chính
Phòng xét nghiệm,
chụp và rửa phim
Phòng bệnh nhân
không lây lan
Phòng bệnh nhân
lây lan
Khoa dược
5
Buồng Tiêm
- Số lượng giường bệnh tại bệnh viện và các cơ sở y tế có giường bệnh
từ tuyến huyện và tương đương trở lên (do ngành y tế quản lý và do các
ngành khác quản lý).
- Lượng chất thải y tế phát thải mỗi ngày (kg rác/1giường bệnh.ngày đêm).
- Tỷ lệ chất thải y tế nguy hại trên tổng chất thải y tế chung của giường
bệnh (giường bệnh cấp bệnh viện) mỗi ngày.
Trên cơ sở này, có thể áp dụng ước lượng khối lượng chất thải của
bệnh viện cụ thể của khu vực, thậm chí có thể ước lượng khối lượng chất thải
rắn cho phạm vi toàn quốc.
Khối lượng chất thải y tế không chỉ thay đổi theo từng khu vực địa lý,
mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác như:
- Cơ cấu bệnh tật bình thường, dịch bệnh, thảm hoạ đột xuất.
- Loại và qui mô bệnh viện, phạm vi cứu chữa.
- Số lượng bệnh nhân khám, chữa bệnh, tỷ lệ bệnh nhân điều trị nội trú
và ngoại trú.
- Điều kiện kinh tế xã hội của khu vực.
- Phương pháp và thói quen của nhân viên y tế trong việc khám, điều trị
và chăm sóc.
- Số lượng người nhà được phép đến thăm bệnh nhân.
1.2. Tổng quan về quản lý chất thải y tế
1.2.1. Tổng quan về quản lý chất thải y tế trên thế giới
Nghiên cứu về chất thải y tế đã được tiến hành tại nhiều nước trên thế
giới, đặc biệt ở các nước phát triển như Anh, Mỹ, Nhật, Canada... Các nghiên
cứu đã quan tâm đến nhiều lĩnh vực như tình hình phát sinh; phân loại chất
thải y tế; quản lý chất thải y tế (biện pháp làm giảm thiểu chất thải, tái sử
dụng chất thải, xử lý chất thải, đánh giá hiệu quả của các biện pháp xử lý chất
thải...); tác hại của chất thải y tế đối với môi trường, sức khỏe; biện pháp làm
giảm tác hại của chất thải y tế đối với sức khỏe cộng đồng, sự đe dọa của chất
thải nhiễm khuẩn tới sức khỏe cộng đồng; tổn thương nhiễm khuẩn ở y tá, hộ
6
lý và người thu gom rác; nhiễm khuẩn bệnh viện, nhiễm khuẩn ngoài bệnh
viện đối với người thu nhặt rác, vệ sinh viên và cộng đồng.
a. Thực trạng phát sinh chất thải y tế
Khối lượng chất thải y tế phát sinh thay đổi theo khu vực địa lý, theo
mùa và phụ thuộc vào các yếu tố khác quan như: cơ cấu bệnh tật, dịch bệnh,
loại, quy mô bệnh viện, phương pháp và thói quen của nhân viên y tế trong
việc khám, chữa bệnh và chăm sóc bệnh nhân và rác thải bệnh nhân ở các
khoa phòng.… Điều này được thể hiện trên bảng 1.1.
Bảng 1.1. Lượng chất thải phát sinh tại các nước trên thế giới theo tuyến
bệnh viện
Tuyến bệnh
viện
Tổng lượng chất thải y tế
(kg/ giường bệnh /ngày)
Chất thải y tế nguy hại
(kg/ giường bệnh/ngày)
Bệnh viện Trung
Ương
4,1-8,7 0,4-1,6
Bệnh viện tỉnh 2,1-4,2 0,2-1,1
Bệnh viện huyện 0,5-1,8 0,1-0,4
(Nguồn: Môi trường bệnh viện nhìn từ góc độ quản lý an toàn chất thải,2004)
b. Phân loại chất thải y tế
Theo khuyến cáo của Tổ Chức Y tế Thế Giới (1992), ở các nước đang
phát triển có thể phân loại chất thải y tế thành các loại sau: Chất thải không
độc hại (chất thải sinh hoạt gồm các chất thải không lây nhiễm các yếu tố
nguy hại); chất thải sắc nhọn (truyền nhiễm hay không truyền nhiễm); chất
thải nhiễm khuẩn (khác với các vật sắc nhọn nhiễm khuẩn); chất thải hóa học
và dược phẩm (không kể các loại thuốc độc với tế bào); chất thải nguy hiểm
khác (chất thải phóng xạ, các thuốc độc tế bào, các bình có chứa khí có áp
suất cao).
Tuy nhiên, ở các nước phát triển, việc phân loại chất thải y tế được thực
hiện nghiêm ngặt hơn. Ví dụ, ở Mỹ phân loại chất thải y tế được chia thành 8
loại:
7
+ Chất thải cách ly: chất thải có khả năng truyền nhiễm mạnh.
+ Những nuôi cấy và dự trữ các tác nhân truyền nhiễm và chế phẩm sinh học
liên quan.
+ Những vật sắc nhọn được dùng trong điêu trị, nghiên cứu...
+ Máu và các sản phẩm của máu.
+ Chất thải động vật (xác động vật, các phần của cơ thể).
+ Các vật sắc nhọn không sử dụng.
+ Các chất thải gây độc tế bào.
+ Chất thải phóng xạ.
c. Quản lý và xử lý chất thải y tế
Trên thế giới quản lý rác thải bệnh viện được nhiều quốc gia quan tâm
và tiến hành một cách triệt để từ rất lâu. Về quản lý, một loạt những chính
sách, quy định đã được ban hành nhằm kiểm soát chặt chẽ loại chất thải này.
Các hoạt động phân loại, thu gom, lưu giữ và cuối cùng là xử lý được
thực hiện nghiêm ngặt theo đúng quy định, đặc biệt là ở các nước phát triển.
Như ở Hoa Kỳ vào năm 1996 đã bắt đầu có các luật về khí thải của lò đốt và
yêu cầu của khí thải phải lọc bằng hệ thống lọc trước khi đưa vào không khí.
Đối với nước thải, biện pháp xử lý phổ biến và đạt hiệu quả cao là biện
pháp/ công nghệ sinh học. Trong khi đó việc xử lý rác thải phức tạp và khó
khăn hơn do khối lượng lớn và thành phần đa dạng. Đối với rác thải y tế ít
nguy hại, biện pháp xử lý chủ yếu là chôn lấp, và đối với rác thải nguy hại
thường được đốt. Công nghệ đốt rác được các nước phát triển thực hiện cẩn
thận và hiệu quả.
1.2.2. Tổng quan về chất thải y tế ở Việt Nam
a.Thực trạng phát sinh chất thải y tế
Theo kết quả khảo sát của Vụ Điều trị - Bộ Y tế tại 24 bệnh viện năm
1998, cho thấy tỷ lệ phát sinh chất thải y tế theo từng tuyến, loại bệnh viện, cơ
sở y tế rất khác nhau (bảng 1.2). Các bệnh viện sẽ có lượng chất thải rắn y tế
8
phát sinh khác nhau và trong một bệnh viện các khoa khác nhau như khoa hồi
sức cấp cứu, khoa sản, khoa ngoại có lượng chất thải rắn phát sinh là lớn nhất.
Bảng 1.2. Lượng chất thải phát sinh tại các bệnh viện theo tuyến
Tuyến bệnh viện Đơn vị Tổng lượng chất
thải y tế
Chất thải y tế
nguy hại
Bệnh viện TW Kg/giường
bệnh/ngày
0,97 0,16
Bệnh viện tỉnh Kg/giường
bệnh/ngày
0,88 0,14
Bệnh viện huyện Kg/giường
bệnh/ngày
0,73 0,11
Chung Kg/giường
bệnh/ngày
0,86 0,14
(Nguồn: Môi trường bệnh viện nhìn từ góc độ quản lý an toàn chất thải,2004)
Theo kết quả khảo sát của Bộ Y tế (2001), tại 280 bệnh viện lượng chất
thải y tế phát sinh mỗi ngày khoảng 429 tấn/ngày, trong đó lượng chất thải y
tế nguy hại khoảng 34 tấn/ngày, ước tính tổng lượng khoảng 15 triệu tấn/năm
chất thải y tế, trong đó có khoảng 21000 tấn/năm chất thải y tế nguy hại.
b. Thành phần và phân loại chất thải y tế
Căn cứ vào các đặc điểm lý học, hóa hoc, sinh học và tính chất nguy
hại, chất thải trong các cơ sở y tế được phân thành 5 nhóm:
* Nhóm chất thải lâm sàng (clinical waste): bao gồm 5 phân nhóm khác nhau
là:
- Nhóm A: chất thải nhiễm khuẩn (infectious waste): vật liệu thấm máu, dịch,
băng gạc, bông băng, túi đựng dịch, dẫn lưu v.v.
- Nhóm B: các vật sắc nhọn (sharps): như các loại kim tiêm, lưỡi dao mổ, dao
lam dùng trong y tế, ống thuốc tiêm vỡ v.v.
- Nhóm C: chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao phát sinh từ các phòng xét
nghiệm như găng tay, lam kính, bệnh phẩm v.v.
9
- Nhóm D: chất thải dược phẩm bao gồm dược phẩm quá hạn, bị nhiễm
khuẩn, thuốc gây độc tế bào kể cảc các lọ thuốc đã được sử dụng nhưng còn
tồn lưu dư lượng, và hoá chất có tính gây độc đối với tế bào.
- Nhóm E: bệnh phẩm (pathological waste): nhóm này bao gồm các mô và cơ
quan người, động vật, một phần chi thể bị cắt bỏ do các can thiệp phẫu thuật
(cần lưu ý là đối với nhóm chất thải này thì ngay cả khi chúng không chứa
nguồn lây nhiễm nhưng cũng vẫn có khả năng gây ra tác động tâm lý rất
mạnh).
* Nhóm chất phóng xạ: Nhóm chất thải phóng xạ phát sinh từ các hoạt động
chuẩn đoán, hoá trị liệu và nghiên cứu như ống tiêm, bơm tiêm, giấy thấm,
gạc sát khuẩn có sử dụng hoặc bị nhiễm các đồng vị phóng xạ.
* Nhóm chất thải hoá học: Chất thải hoá học bao gồm các hoá chất có thể
không gây nguy hại như đường, axit béo, axít amin, một số loại muối v.v. và
hoá chất nguy hại như phóc-man-đê-hít, hoá chất quang học, các dung môi,
hoá chất dùng để diệt khuẩn y tế và dung dịch làm sạch, khử khuẩn, các hóa
chất dùng trong khử trùng, tẩy uế, thanh trùng v.v.
* Nhóm các bình chứa khí nén có áp suất: Nhóm này bao gồm các bình chứa
khí nén có áp suất như bình đựng oxy, CO
2
bình gas, bình khí dung, các bình
chứa khí sử dụng một lần, v.v. đa số các bình chứa khí nén này thường dễ nổ,
dễ cháy nguy cơ tai nạn cao nếu không được tiêu hủy đúng qui cách.
* Nhóm chất thải sinh hoạt: Nhóm chất thải này có đặc điểm chung như chất
thải sinh hoạt thông thường từ các hộ gia đình gồm giấy loại, vải loại, vật liệu
đóng gói bao gói, thức ăn còn thừa, thực phẩm thải bỏ và chất thải ngoại cảnh
như các loại lá cây, hoa quả rụng v.v.
c. Hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải y tế
* Hoạt động thu gom
Theo báo cáo của Trung Tâm Y tế Dự Phòng các tỉnh, đa số các bệnh
viện (81,25%) đã thực hiện phân loại chất thải ngay từ nguồn nhưng việc
phân loại còn phiến diện và kém hiệu quả do nhân viên tham gia công tác này
10
chưa được đào tạo đủ tới mức trở thành kỹ năng[1]. Việc phân loại còn chưa
theo đúng quy cách như tách các vật sắc nhọn ra khỏi chất thải rắn y tế, còn
lẫn nhiều chất thải sinh hoạt vào chất thải y tế và ngược lại. Hệ thống ký hiệu,
màu sắc của túi và thùng đựng chất thải chưa đúng qui chế quản lý chất thải
bệnh viện, còn tuỳ tiện, có gì sử dụng nấy.
Theo qui định, chất thải y tế và chất thải sinh hoạt đều được hộ lý và y
công thu gom hằng ngày tại khoa phòng. Các đối tượng khác như bác sĩ, y tá
còn chưa được giáo dục, huấn luyện để tham gia vào hoạt động quản lý chất
thải y tế. Tình trạng chung là các bệnh viện không có đủ các phương tiện bảo
hộ khác cho nhân viên trực tiếp tham gia vào phân loại thu gom, vận chuyển
và tiêu huỷ chất thải.
* Lưu trữ, vận chuyển chất thải y tế tới nơi tiêu huỷ
Chất thải rắn y tế được thu gom phân loại và vận chuyển về khu trung
chuyển tại bệnh viện. Thực tế trong quy hoạch xây dựng cũng chưa có những
hướng dẫn cho việc xây dựng, các khu vực trung chuyển chất thải rắn bện
viện. Hầu hết các điểm tập trung chất thải rắn y tế được bố trí trên một khu
đất bên trong khuôn viên bệnh viện thành một khu trung chuyển. Các khu
trung chuyển có điều kiện vệ sinh không đảm bảo, có nhiều nguy cơ gây rủi
ro do vật sắc nhọn rơi vãi, côn trùng dễ dàng xâm nhập ảnh hưởng đến môi
trường bệnh viện. Một số điểm tập trung rác không có mái che, không có rào
bảo vệ, vị trí lại gần nơi đi lại, những người không có nhiệm vụ dễ xâm nhập.
Chỉ có một số ít bệnh viện có nơi lưu trữ chất thải đạt tiêu chuẩn qui định.
Chất thải rắn y tế được nhân viên của Công Ty Môi Trường Đô Thị
(URENCO) đến thu gom các túi chất thải tại khu vực trung chuyển của bệnh
viện. Phần đông các nhân viên bệnh viện lẫn nhân viên của Công Ty Môi
Trường Đô Thị đều thiếu thông tin và hiểu biết về những nguy cơ có liên
quan đến việc thu gom, vận chuyển và tiêu huỷ chất thải rắn y tế nguy hại.
Qua điều tra cho thấy, đa số các nhân viên bệnh viện không biết nơi thiêu huỷ
cuối cùng của bệnh viện ở đâu.
11
Việc phối hợp liên ngành kém hiệu quả trong mọi công đoạn của quy
trình quản lý chất thải bệnh viện. Mới có vài công ty bước đầu nghiên cứu sản
xuất được phương tiện để thu gom, vận chuyển chất thải, tuy nhiên còn đang
ở giai đoạn thí điểm chưa sản xuất đại trà. Đối với các bệnh viện đã phân loại,
tách chất thải y tế và chất thải sinh hoạt để xử lý riêng, nhưng ngay ở một số
địa phương Công Ty Môi Trường Đô Thị do chưa có hệ thống thiết bị đốt,
thiêu huỷ chất thải rắn y tế nguy hại nên đã từ chối vận chuyển và xử lý chất
thải rắn y tế. Chỉ có 18,75% trong tổng số các bệnh viện có chất thải được vận
chuyển ra khỏi bệnh viện bằng xe chuyên dụng của Công Ty Môi Trường Đô
Thị[1] .
* Các phương pháp xử lý và tiêu huỷ chất thải rắn y tế
+ Thiêu đốt chất thải rắn y tế
Một thực tế, trong nhiều năm trước đây khi đầu tư xây dựng bệnh viện
chúng ta hoàn toàn chưa hoạch toán đến khoản chi phí cho xử lý chất thải.
Phần lớn các bệnh viện tự xây dựng lấy lò đốt của mình và cũng không theo
tiêu chuẩn quy định. Tình trạng chung của phần lớn các bệnh viện trong cả
nước hiện nay là thiêu đốt chất thải y tế tại các lò đốt thủ công không có hệ
thống xử lý khí thải kể cả những bệnh viện có khối lượng chất thải y tế cần
thiêu đốt rất đáng kể ở Hà Nội. Trong các lò đốt thủ công xây bằng gạch chất
thải được đốt bằng củi hoặc dầu, theo cách thủ công nên khi vận hành khói
bụi mù mịt, mùi khí cháy khó chịu bay ra khu dân cư.
Hiện nay ở nhiều tỉnh trong cả nước đã có lò đốt chất thải rắn y tế đã
được lắp đặt và đưa vào khai thác vận hành tại Việt Nam, (Phụ lục 3). Trong
đó Hà Nội là tỉnh được đầu tư 5 lò đốt với công suất 450kg/h, nhiều nhất
trong tất cả các tỉnh thành. Ngoài ra Kiên Giang, Thái Nguyên 2 lò. Cũng theo
bảng ta thấy, ở nhiều bệnh viện, số lượng và chủng loại lò đốt chất thải y tế
được sử dụng khá đa dạng và phong phú. Trong đó, lò đốt chất thải hiệu
Hoval MZ4 và MZ2 là được sử dụng nhiều nhất.
12
Công Ty Công Trình Đô Thị (URENCO) Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí
Minh đã đầu tư hệ thống xử lý chất thải rắn y tế bao gồm cả khâu thu gom,
vận chuyển chất thải rắn y tế từ bệnh viện và vận chuyển tới xí ngiệp đốt rác
để tiêu huỷ. Hiện tại có 2 lò đốt chất thải rắn y tế theo mô hình tập trung được
vận hành lò đốt Del Monego 200 tại xí nghiệp đốt rác Tây Mỗ – Hà Nội và lò
đốt Hoval GG-24 tại xí ngiệp đốt rác Bình Hưng Hoà - Thành Phố Hồ Chí
Minh với công nghệ nhập của nước ngoài. Thành Phố Hồ Chí Minh cơ bản đã
ổn định được công tác xử lý chất thải bệnh viện nhờ có hệ thống quản lý, thu
gom năng động. Tại Hà Nội, sau 8 tháng thử nghiệm lò đốt hoạt động tốt, tuy
vậy công suất của lò đốt này cũng chỉ giải quyết được 4 tấn/ngày so với nhu
cầu của hàng chục bệnh viện tại thành phố là trên 12 tấn/ngày.
Một số bệnh viện khác như Viện Lao và Bệnh Phổi, bệnh viện C Đà
Nẵng và bệnh viện Vũng Tàu, với sự giúp đỡ của công ty Wamwe
Engineering, đã lắp đặt lò đốt chất thải y tế Hoval MZ2 của Thuỵ Sĩ có công
nghệ hiện đại với nhiệt độ thiêu đốt có hiệu quả. Qua thời gian theo dõi trên
15 tháng của sở Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường Hà Nội lò đốt của Viện
Lao và Bệnh Phổi đã thiêu đốt trên 10 tấn rác y tế nguy hại với kết quả tốt,
đảm bảo an toàn về môi trường. Tuy nhiên, do số lượng chất thải rắn y tế
nguy hại của Viện Lao và Bệnh Phổi không nhiều nên công suất thiêu đốt của
lò chưa được khai thác hiệu quả. Các mẻ đốt gián đoạn hoặc cách nhật nên
lãng phí nhiên liệu và gây hao tổn thiết bị.
Một số bệnh viện, tuy đã lắp đặt lò đốt hiện đại nhưng lại không hoạt
động được vì vị trí đặt lò đốt gần nhà dân và khi vận hành không đúng kỹ
thuật có khói đen và mùi khí thải bốc lên gây cảm giác khó chịu nên bị nhân
dân phản đối do vậy không vận hành được hoặc một vài thiết bị tạm dừng
khai thác do bị hỏng chưa có phụ tùng thay thế như ở bệnh viện Bạch Mai, Hà
Nội và bệnh viện Hữu Nghị đa khoa Nghệ An).
Còn lại đa số các bệnh viện tiêu huỷ chất thải rắn y tế bằng lò đốt thủ
công không đạt tiêu chuẩn vệ sinh môi trường. Trong các năm 1999-2000, tổ
13
chức y tế thế giới đã viện trợ cho Bộ Y Tế 2 lò đốt chất thải chế tạo tại nước
ngoài để trang bị cho 2 bệnh viện tuyến tỉnh trong đó có lò INCINCO lắp đặt
và đưa vào vận hành tại bệnh viện đa khoa Bắc Ninh. Cũng trong thời gian
trên, chính phủ đã phê duyệt dự án của bộ y tế trang bị 25 lò đốt chất thải
bệnh viện kiểu Hoval bằng nguồn vốn vay của chính phủ cộng hoà Áo, hiện
tại 25 lò đốt rác y tế này đã đi vào hoạt động và cải thiện đáng kể năng lực
tiêu huỷ chất thải rắn y tế nguy hại của nhiều địa phương.
Xử lý chất thải nguy hại bằng phương pháp đốt thường có chi phí đầu
tư và vận hành cao trong biện pháp xử lý chất thải rắn, nhưng lại có ưu điểm
tốt nhất mà các giải pháp khác không có được như: xử lý triết để các nguy cơ
lây lan mầm bệnh, thể tích lượng tro xỉ phải chôn lấp ít, có thể tái sử dụng
nhiệt v.v. nên vẫn được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Đối với nước ta,
lò đốt mới chỉ được áp dụng trong phạm vi rất hạn hẹp để đốt chất thải y tế và
đốt thử nghiệm chất thải công nghiệp như chất thải da dày. Mặc dù số lượng
lò đốt chất thải chưa nhiều nhưng khá đa dạng về nguồn gốc xuất xứ, công
xuất đốt và khả năng xử lý khói thải của lò đốt.
Cho đến nay, vẫn chưa có một nghiên cứu thống kê cụ thể nào về các lò
đốt hiện đang hoạt động tại các bệnh viện ở Việt Nam và hiệu quả xử lý của
các lò thiết kế và chế tạo trong nước. Một vấn đề mà các nhà môi trường quan
tâm là ô nhiễm thứ cấp tạo ra trong quá trình đốt chất thải rắn y tế nguy hại
cần được quan tâm nghiên cứu.
+ Chôn lấp chất thải y tế
Chôn lấp rác thải y tế đang là một trong những vấn đề phức tạp và khó
giả quyết tại các bệnh viện. Trong hầu hết các bệnh viện tuyến huyện và một
số bệnh viện tuyến tỉnh, chất thải y tế được chôn lấp tại bãi rác công cộng hay
chôn lấp trong khu đất của bệnh viện. Trường hợp chôn lấp trong bệnh viện
chất thải được chứa trong hố đào và lấp đất lên, nhiều khi lớp đất phủ trên mặt
quá mỏng không đảm bảo vệ sinh. Đặc biệt đối với một số loại chất thải đặt
biệt như bào thai, rau thai và bộ phận cơ thể bị cắt bỏ sau phẫu thuật được thu
14
gom để đem chôn trong khu đất của bệnh viện hoặc chôn trong nghĩa trang
của địa phương. Do diện tích mặt bằng của bệnh viện bị hạn chế nên nhiều
bệnh viện hiện nay gặp khó khăn trong việc tìm kiếm diện tích đất để chôn lấp
chất thải nguy hại.
Bên cạnh đó, đối với các loại rác thải như vật sắc nhọn, bao bì đựng
hóa chất…được chôn lấp cùng với chất thải y tế khác tại khu đất bệnh viện
hay tại bãi rác cộng đồng. Hiện nay, ở một số bệnh viện vẫn còn hiện tượng
chất thải nhiễm khuẩn nhóm A được thải lẫn với chất thải sinh hoạt và được
vận chuyển ra bãi rác của thành phố, do vậy chất thải nhiễm khuẩn không có
xử lý đặc biệt gì trước khi tiêu huỷ chung.
1.3. Thực trạng quản lý rác thải y tế tại Hà Nội
Thành phố Hà nội đang gặp phải nhiều khó khăn trong vấn đề quản lý
và xử lý rác thải y tế. Hiện nay trên địa bàn thành phố có khoảng 30 bệnh viện
và rất nhiều cơ sở y tế lớn nhỏ khác nhau. Lượng rác thải phát sinh ra từ các
bệnh viện và cơ sở y tế trên địa bàn Hà Nội chiếm một lượng đáng kể so với
tổng số rác thải của thành phố, đã gây ra nhiều vấn đề trong công tác quản lý
chất thải. Hiện nay, mỗi ngày có khoảng 10 – 20 tấn rác thải y tế được thải ra.
Hầu hết rác thải đều được vận chuyển đến các công ty môi trường đô thị trên
Hà Nội như công ty môi trường đô thị ở Cầu Diễn, công ty môi trường đô thị
và công nghiệp 10... Ở các bệnh viện thì luôn luôn phải có bệnh nhân và phải
có người thân chăm sóc bệnh nhân nên lượng rác thải, vì vậy, phức tạp hơn về
thành phần và khối lượng, gây khó khăn hơn cho việc xử lý của bệnh viện.
Đối với việc xử lý chất thải bệnh viện tại Hà Nội, hầu hết chất thải y tế
đều được thu gom và đưa về các công ty môi trường đô thị trong thành phố.
Bệnh viện sẽ ký hợp đồng với các công ty và lượng rác sẽ được vận chuyển
hàng ngày. Một số bệnh viện thì đã sử dụng lò thiêu đốt bằng dầu, củi. Hầu
như các bệnh viện không chú ý nhiều đến việc bảo vệ môi trường, công việc
chính của họ là cứu người do vậy vấn đề môi trường vẫn còn sơ sài. Theo báo
cáo của Bộ Y tế thì sắp tới thành phố sẽ đầu tư kinh phí mua 16 lò đốt chất
15
thải rắn y tế để xử lý toàn bộ lượng rác thải y tế phát sinh trong quá trình
khám và chữa bệnh của 16 bệnh viện thuộc Sở Y tế Hà Nội. 16 bênh viện bao
gồm: Bệnh viện Đa khoa các huyện Hoài Đức, Đan Phượng, Phúc Thọ, Ba
Vì, Quốc Oai, Thanh Oai, Mỹ Đức, Mê Linh, Sóc Sơn, Đông Anh, Phú
Xuyên, Thường Tín, Thạch Thất; Bệnh viện Đa khoa Vân Đình (huyện Ứng
Hòa); Bệnh viện Đa khoa Đức Giang (quận Long Biên) và Bệnh viện Tâm
thần huyện Mỹ Đức. Hiện nay, khu vực nội thành của Hà Nội trước khi mở
rộng, tất cả các bệnh viện đều có hợp đồng thu gom, xử lý rác thải y tế theo lò
đốt rác thải y tế tập trung, một số bệnh viện khu vực phía tây Hà Nội (khu vực
Hà Tây cũ) đã được đầu tư đã lắp đặt lò đốt chất thải rắn y tế độc hại như
bệnh viện Hà Đông, Sơn Tây... Hà Nội phấn đấu trong 2 năm 2010 và 2011
toàn bộ hệ thống xử lý chất thải lỏng y tế và chất thải rắn y tế độc hại sẽ được
đầu tư, lắp đặt, hoàn thiện đưa vào sử dụng, giải quyết cơ bản vấn đề chất thải
độc hại y tế tác động đối với môi trường, đảm bảo vệ sinh y tế và sức khỏe
người dân trong cộng đồng.
1.4. Một số nghiên cứu về quản lý chất thải y tế
1.4.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Theo tổ chức Y tế thế giới, có 18 – 64% cơ sơ y tế chưa có biện pháp
xử lý chất thải đúng cách. Tại các cơ sở y tế, 12,5% công nhân xử lý chất thải
bị tổn thương do kim đâm xảy ra trong quá trình xử lý chất thải bị tổn thương
do kim đâm xảy ra trong quá trình xử lý chất thải y tế.
Theo H.Ô-ga-oa, cố vấn tổ chức Y tế thế giới về sức khỏe, môi trường
khu vực Châu Á, phần lớn các nước đang phát triển không kiểm soát tốt chất
thải y tế, chưa có khả năng phân loại chất thải y tế mà xử lý cùng với tất cả
các loại chất thải. Từ những năm 90, nhiều quốc gia như Nhật Bản, Singapo,
Australia, Newzieland đã đi đầu trong công tác xử lý chất thải y tế, Malaixia
có phương tiện xử lý rác thải tập trung trên bán đảo và các hệ thống xử lý rác
thải riêng biệt cho các bệnh viện ở xa tại Boocneo.
16
Ở các nước phát triển đã có công nghệ xử lý chất thải y tế đáng tin cậy
như đốt rác bằng lò vi sóng, tuy nhiên đây không phải là biện pháp hữu hiệu
được áp dụng ở các nước đang phát triển, vì vậy, các nhà khoa học ở các nước
Châu Á đã tìm ra một số phương pháp xử lý chất thải khác để thay thế như
Philippin đã áp dụng phương pháp xử lý rác bằng các thùng có lắp đậy, Nhật
Bản đã khắc phục vấn đề khí thải độc hại từ các thùng đựng rác có nắp đậy
kín bằng việc gắn vào các thùng có những thiết bị cọ rửa, Indonexia chủ
trương nâng cao nhận thức trước hết cho các bệnh viện về mối nguy hại của
chất thải y tế gây ra để bệnh viện có biện pháp lựa chọn phù hợp.
1.4.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Ở nước ta chất thải y tế đã được quản lý bằng hệ thống các văn bản
pháp luật, nhưng việc thực hiện chưa nghiêm túc theo quy định, hầu hết chất
thải rắn y tế ở các bệnh viện chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra
ngoài môi trường. Nhiều bệnh viện không có hệ thống thu gom, xử lý nước
thải hoặc có nhiều hệ thống cống rãnh đã bị hư hỏng, xử lý xuống cấp, rác
thải không được phân loại, chôn lấp thủ công hoặc đốt thủ công tại chỗ. Thực
trạng như sau:
* Về quản lý rác thải:
Kết quả điều tra năm 2002 của Bộ Y tế tại 294 bệnh viện trong cả nước
cho thấy 94,2% bệnh viện phân loại chất thải y tế tại nguồn phát sinh, chỉ có
5,8% bệnh viện chưa thực hiện. Các bệnh viện tuyến trung ương, tuyến tỉnh,
bệnh viện tư nhân thực hiện phân loại chất thải rắn y tế ngay tại ngồn tốt hơn
các bệnh viện tuyến huyện và bệnh viện ngành. Có 93,9% bệnh viện thực hiện
tách riêng vật sắc nhọn ra khỏi chất thải y tế, hầu hết các bệnh viện sử dụng
chai nhựa, lọ truyền đã dùng để đựng kim tiêm. Nhưng qua kiểm tra thực tế,
việc phân loại chất thải y tế ở một số bệnh viện chưa chính xác, làm giảm
hiệu quả của việc phân loại chất thải. 85% bệnh viện sử dụng mã màu trong
việc phân loại, thu gom và vận chuyển chất thải.
17
Kết quả nghiên cứu tại 6 bệnh viện Đa Khoa tỉnh của Đinh Hữu Dung
(2003) cho thấy: cả 6 bệnh viện đều phân loại chất thải rắn ngay tại nguồn
phát sinh nhưng chưa có bệnh viện nào phân loại đúng theo quy chế của bộ y
tế và việc phân loại phụ thuộc vào hình thức xử lý hiện có của bệnh viện.
Kết quả kiểm tra của Bộ Y tế (2007) tại 4 bệnh viện Hà Nội, bệnh viện
Lao và bệnh viện phổi trung ương được đánh giá là bệnh viện quản lý rác thải
tốt nhất trong 4 bệnh viện được kiểm tra nhưng đoàn kiểm tra đã phát hiện
trong buồng bệnh chỉ có thùng đựng rác sinh hoạt thiếu thùng chứa đờm của
bệnh nhân. Ở bệnh viện Việt Đức tất cả rác thải đều chứa chung trong một túi
đựng rác màu vàng.
Theo báo cáo của bộ y tế (2009) tỷ lệ bệnh viện thực hiện phân loại
chất thải y tế là 95,6% và thu gom hàng ngày là 90,9%. Phương tiện thu gom
chất thải y tế như túi, thùng đựng chất thải, xe đẩy rác, nhà chứa rác còn thiếu
và chưa đồng bộ, hầu hết chưa đạt yêu cầu của quy chế quản lý chất thải y tế.
Chỉ có khoảng 50% các bệnh viện trên phân loại, thu gom đạt yêu cầu theo
quy chế.
* Về nước thải
Kết quả kiểm tra của bộ y tế (2004) tại 175 bệnh viện ở 14 tỉnh, thành
phố thì có đến 31,5% bệnh viện không có hệ thống thoát nước thải, chủ yếu ở
các bệnh viện tuyến huyện. Trong số bệnh viện có hệ thống thoát nước chung
gồm cả nước mưa, nước thải sinh hoạt, nước thải y tế, chỉ có 21,1% bệnh viện
có hệ thống thoát nước thải riêng biệt, 26,3% bệnh viện có hệ thống thoát
nước thải kín, 31,4% hở và 42,3% vừa kín vừa hở.
Theo báo cáo của bộ y tế (2009) tỷ lệ bệnh viện có hệ thống xử lý nước
thải tuyến trung ương là 71%, tuyến tỉnh là 46%, tuyến huyện là 30%, và
bệnh viện tư nhân là 85%. Tính chung tỷ lệ bệnh viện có hệ thống xử lý rác
thải là 37% và chỉ có khoảng 30% trong số này đạt tiêu chuẩn cho phép. Hiện
cả nước có gần 640 bệnh viện cần được trang bị hệ thống xử lý nước thải, số
bệnh viện cần cải tạo lại hệ thống xử lý nước thải khoảng 220 bệnh viện.
18
* Về khí thải bệnh viện
Chỉ có một số bệnh viện lớn có hệ thống xử lý khí thải hoặc có hotte
hút hơi khí độc tại các khoa, phòng xét nghiệm, X quang, còn đa phần các
bệnh viện chưa có hệ thống xử lý khí thải.
19
CHƯƠNG II
MỤC TIÊU- NỘI DUNG – ĐỐI TƯỢNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2. 1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung: Góp phần vào việc nâng cao hiệu quả quản lý rác thải y tế
tại các bệnh viện Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể: Đánh giá thực trạng, từ đó đưa ra giải pháp nâng cao hiệu
quả quản lý chất thải y tế tại bệnh viện Đa Khoa Hà Đông, Thành phố Hà
Nội.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung sau:
- Đánh giá hiện trạng rác thải y tế tại bệnh viện;
- Nghiên cứu ảnh hưởng của rác thải y tế đối với môi trường xung quanh của
bệnh viện;
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý rác thải y tế của bệnh viện;
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rác thải y tế.
2.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lí rác thải y tế
- Đối tượng khảo sát:
- Con người: Cán bộ, viên chức của Bệnh viện, bệnh nhân, người nhà bệnh
nhân.
- Văn bản: Các văn bản luật, văn bản về tổ chức …
- Rác thải bệnh viện
- Cơ sở vật chất để quản lí rác của bệnh viện: xe đẩy, lò đốt …
- Phạm vi và địa điểm nghiên cứu:
Công tác quản lý rác thải tại Bệnh viện Đa khoa Hà Đông
- Thời gian nghiên cứu: từ 14/2/2011 – 20/4/2011
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp kế thừa số liệu thứ cấp
20
Phương pháp kế thừa số liệu thứ cấp rất cần thiết và được nhiều người sử
dụng trong quá trình nghiên cứu, nhằm giảm bớt thời gian và khối lượng công
việc nghiên cứu. Các tài liệu thu thập được đề tài kế thừa và và sử dụng bao
gồm những kết quả nghiên cứu và nhưng thông tin liên quan được công bố ở
các báo cáo và công trình nghiên cứu từ trước đến nay.
Để phục vụ cho quá trình hoàn thiện khóa luận, đề tài đã kế thừa tài
liệu từ các nguồn như sau:
- Tài liệu về điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của bệnh viện;
- Các báo cáo, công trình nghiên cứu có liên quan đến môi trường bệnh viện
và Quận Hà Đông;
- Các số liệu tổng quát về quá trình thu gom, phân loại, xử lý chất thải y tế ở
Việt Nam;
- Tài liệu trên internet, sách, báo chí...
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu ngoại nghiệp
* Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
+ Trực tiếp khảo sát, điều tra các nguồn xả thải và lượng rác thải tại các
nguồn đó;
+ Trực tiếp xuống các khoa chuyên môn, các phòng ban để điều tra cơ cấu tổ
chức, thiết bị vật tư, nhân lực quản lý rác thải của bệnh viện.
* Phương pháp điều tra qua bảng hỏi
Sử dụng bảng hỏi để điều tra các vấn đề môi trường có liên quan đến
rác thải y tế. Số câu hỏi trong 1 bảng hỏi tuỳ thuộc vào đối tượng được hỏi.
Với cán bộ và nhân viên y tế của bệnh viện: bảng hỏi có 18 câu hỏi,
phỏng vấn 40 người và được thực hiện trong một ngày (ngày 20/3/2011) và
thu được các kết quả được tổng hợp trong mẫu biểu 01 và 02.
21
Mẫu biểu 01. Cán bộ nhân viên y tế tại BV được hướng dẫn về Quy
chế quản lý chất thải của Bộ y tế
Chỉ số nghiên cứu
Kết quả
n %
Đã dược hướng dẫn
Chưa được hướng dẫn
Mẫu biểu 02.Điều kiện nhân lực và vật chất của bệnh viện về thực
hiện quản lý chất thải rắn y tế
Chỉ số nghiên cứu
Kết quả
n %
Nhân lực phục vụ, quản lý rác thải
Đủ
Thiếu
Trang thiết bị phục vụ công tác quản lý, xử lý rác thải
Đủ
Thiếu
Các văn bản hướng dẫn
Đủ
Thiếu
Với người dân xung quanh bệnh viện: bảng hỏi gồm có 10 câu, phỏng
vấn 40 người và thực hiện vào một ngày (ngày 22/3/2011).
Phiếu câu hỏi được bố trí các câu hỏi đều dễ trả lời, tránh các câu hỏi
có tính khái quát cao. Các câu hỏi tập trung vào các vấn đề liên quan đến
mục tiêu, nội dung nghiên cứu của đề tài, đảm bảo thu thập đủ các thông tin
cần thiết từ ý kiến của người dân. Để tăng độ chính xác của các câu trả lời,
các đối tượng được phỏng vấn đã được giải thích rõ và hướng dẫn cách thức
trả lời câu hỏi. Các câu hỏi được thu thập lại trong ngày sau đó. Kết quả
phỏng vấn được khai thác để xây dựng các mẫu biểu, từ đó rút ra kết luận về
ảnh hưởng của rác thải với môi trường bệnh viện và sức khỏe cộng đồng.
2.4.3. Phương pháp xử lý nội nghiệp
Phương pháp này được sử dụng để xử lý các thông tin sau khi đã thu
thập được từ các phương pháp khác nhau. Phương pháp này bao gồm:
+ Xử lý toán học đối với các thông tin định lượng, biểu diễn bằng tập rời rạc,
bằng số liệu, đồ thị, biểu đồ để tìm mối liên quan giữa các thông số, chỉ số
22
khảo sát để xây dựng các luận cứ, khái quát hoá vấn đề để rút ra được các kết
luận chính từ các nguồn dữ liệu của các phương pháp thu thập khác nhau.
+ Sử dụng phần mềm Word, Excel để xây dựng biểu đồ, đồ thị, miêu tả các
mối liên quan xuất hiện trong vấn đề nghiên cứu.
CHƯƠNG III
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN,
KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý
23
Quận Hà Đông có diện tích là 32,9 km
2
, nắm ở phía Tây nam so với Hồ
Gươm của thủ đô Hà Nội, cách Hồ Gươm 12 km, có quốc lộ 6 chạy qua.
- Phía Đông giáp huyện Thanh Trì
- Phía Tây giáp huyện Quốc Oai, Hoài Đức
- Phía Nam giáp huyện Thanh Oai
- Phía Bắc giáp huyện Từ Liêm, Hoài Đức
Hình 3.1. Bản đồ khu vực nghiên cứu
3.1.2. Đặc điểm địa hình
Hà Đông là một quận thuộc thủ đô Hà Nội, nằm bên bờ sông Nhuệ,
cách trung tâm Hà Nội 10 km về phía Tây. Hà Đông là nơi đặt trụ sở một số
cơ quan hành chính cấp thành phố của thủ đô Hà Nội. Hà Đông vốn là một
24
vùng đất giàu truyền thống văn hóa và hiện nay là một trong những địa
phương có tốc độ phát triển nhanh nhất của Hà Nội.
Nằm hoàn toàn trong khu vực châu thổ Sông Hồng, Hà Đông có địa
hình tương đối bằng phẳng và không có đồi núi. Địa hình Hà Đông thấp dần
theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông với độ cao trung bình là
4 – 7km.
3.1.3. Đặc điểm đất đai
- Diện tích đất tự nhiên của Quận Hà Đông là : 3336ha Trong đó :
+ Đất nội thành : 873 ha
+ Đất ngoại thành : 2463 ha
- Về địa chất: Hà Đông có lịch sử hình thành do quá trình trấm tích, chủ yéu
là đất pha cát, điều kiện địa chất thuận lợi cho công tác xây dựng.
3.1.4. Điều kiện khí hậu
Nằm trong vùng khí hậu đồng bằng Bắc Bộ mang đặc thù của miền khí
hậu nhiệt đới gió mùa, nên khu vực nghiên cứu có 2 mùa rõ rệt: mùa đông
khô lạnh và hè nóng ẩm mưa nhiều.
+ Nhiệt độ trung bình năm là 23
0
C. Nhiệt độ không khí trung bình mùa hè
là 27,5
0
C và nhiệt độ không khí trung bình mùa đông là 18,5
0
C.
+ Lượng mưa trung bình + từ tháng 5 – 9: 235.2 mm.
+ từ tháng 10 – 4 (năm sau): 72,34 mm.
+ Gió : chịu ảnh hưởng của 2 hướng gió chính: Mùa hè gió Đông Nam, mùa
đông gió Đông Bắc.
3.1.5. Đặc điểm thủy văn
Khu vực nghiên cứu nằm trong vùng có mạng lưới thủy văn khá dày
đặc. Trong khu vực có tổng số sông, ao, hồ ở Hà Đông : 52,6 ha gồm các
sông: Sông Nhuệ, Sông La Khê, Sông La Khê và có nhiều hồ như hồ Văn
Quán, hồ Bệnh Viện Đa khoa Hà Đông sông Nhuệ. Điều đó đã tạo điều kiện
cho khu vực có nguồn nước khá phong phú. Mạch nước ngầm khu vực Hà
Đông có độ sâu 50- 70m mạch nước ngầm bề mặt có chiều sâu 0,8 – 2,8 m.
25