Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại viện kiểm sát huyện lệ thủy, tỉnh quảng bình từ năm 2011 đến năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.4 KB, 52 trang )

Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, khởi tố vụ án hình sự
là một giai đoạn quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự. Khởi tố là giai
đoạn tố tụng đầu tiên, là giai đoạn cung cấp toàn bộ các “nguyên liệu đầu vào”
cho quá trình tố tụng. Giai đoạn này nhằm xác định có dấu hiệu phạm tội hay
không để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố, nếu hoạt động này
không được tiến hành khẩn trương và đầy đủ thì sẽ không nhanh chóng phát
hiện dấu hiệu phạm tội dẫn đến việc ra quyết định không khởi tố vụ án và mặc
nhiên đã bỏ lọt tội phạm. Mặt khác, khởi tố vụ án là tiền đề ra quyết định khởi tố
bị can; nếu quá trình khởi tố vụ án hình sự sai thì dẫn đến quyết định khởi tố bị
can sai, làm cho tính pháp lí không được nghiêm minh và bảo đảm nữa. Ngược
lại, khi khởi tố vụ án đúng thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tố
tụng tiếp theo (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) đưa đến tính hiệu quả bảo
đảm xử lý tội phạm nhanh chóng, kịp thời và đúng thời điểm tuân theo quy định
của pháp luật.
Về mặt lý luận trong quá trình xây dựng văn bản luật nói chung và Bộ luật
tố tụng hình sự nói riêng thì không tránh khỏi những bất cập. Tình hình phạm tội
hiện nay hết sức rất phức tạp và đa dạng, để có đầy đủ cơ sở để khởi tố vụ án thì
đây là vấn đề mà xã hội đang quan tâm, liệu rằng đã hiệu quả khi ở khâu thực thi
không đảm bảo.
So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 đã có những thay đối đáng kể nhưng vẫn có những hạn chế nhất định.
Những quy định của BLTTHS và một số văn bản hướng dẫn thi hành thực hiện
trách nhiệm khởi tố vụ án vẫn chưa cụ thể, chưa phù hợp với điều kiện khách
quan như việc chưa bảo đảm được vai trò kiểm sát của Viện Kiểm sát, chưa có
đủ cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề của người bị hại, cơ chế đối với việc
thẩm quyền của CQTHTT tại Điều 103, Điều 112 của BLTTHS 2003 phân định


thẩm quyền khởi tố chưa hợp lý; sự hiểu biết về căn cứ khởi tố không rõ ràng...
Với công việc theo nguyên tắc khi phát hiện tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp để xác định tội phạm; việc đảm bảo
không bỏ lọt tội phạm và cho công bằng xã hội còn gặp nhiều khó khăn, khi
“trách nhiệm” khởi tố đang có nhiều bất cập như vậy. Khi nghiên cứu tại Điều
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

1

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

100 và Điều 107 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, thì thấy có sự chồng chéo
và trùng nhau. Giữa chủ thể, khách thể có sự lặp lại trong ý nghĩa ngôn từ, hành vi
nào có cấu thành, hành vi nào không, về sự tự giác hay ép buộc phải tố giác, căn cứ
khởi tố hay không khởi tố thực sự đã chính xác... cần nên có sự thay đổi trong điều
này nói riêng và một số vấn đề trong khởi tố vụ án hình sự nói chung.
Với tình hình thực tiễn tại địa phương huyện Lệ Thủy, với một huyện đang
trên đà phát triển, nhưng vẫn còn một số xã gặp khó khăn và tình hình hiểu biết về
pháp luật còn thiếu, đặc biệt về vấn đề khởi tố vụ án thì đây như là “khái niệm” lạ
lẫm đối với họ. Thế nên, trong quá trình thực hiện khởi tố vụ án vẫn còn một số
trường hợp khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự ở địa phương còn tương đối tùy
tiện và thiếu khách quan. Thực trạng này đã dẫn đến việc áp dụng pháp luật không
đảm bảo khi khởi tố là phần quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Trước những đòi hỏi từ cuộc sống và thực thi pháp luật hiện nay, tác giả
thấy vấn đề khởi tố hình sự nên được xem xét, nhìn nhận và tổng hợp một cách

đầy đủ và chính xác hơn. Thực hiện đúng chủ trương của Đảng, Nhà nước như
trong Nghị quyết 49-NQ/TW đề cập: “đấu tranh có hiệu quả các loại tội phạm
và vi phạm”, do đó càng nêu cao tinh thần đánh chặn các hành vi có nguy cơ
làm ảnh hưởng đến xã hội, cũng như bảo vệ tốt nền pháp luật và pháp chế xã hội
chủ nghĩa của Việt Nam trong việc khởi tố vụ án hình sự.
Hơn thế nữa nếu việc khởi tố không được tiến hành thì không thể khẩn trương
phát hiện tội phạm và tiến hành các hoạt động điều tra cũng như nhanh chóng bắt tội
phạm được thì sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động khác của hoạt động tố tụng.
Nhận thức được vấn đề bất cập là gì, để tìm hiểu rõ hơn những sai sót,
thiếu sót và hạn chế ở mặt nào từ đó đưa ra những biện pháp, phương pháp để
giải quyết vấn đề trên, cũng như hoàn thiện pháp luật về quy định khởi tố vụ án
hình sự trong Bộ luật tố tụng năm 2003. Đó là lí do giải thích cho việc tác giả đi
đến quyết định chọn đề tài: “Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp
luật tại Viện kiểm sát huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm
2013” để làm đề tài niên luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a)Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu để làm sáng tỏ các vấn đề về mặt lý luận của quy phạm pháp
luật tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng khởi tố vụ án hình sự theo Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 nhằm đưa ra những giải pháp để hoàn thiện chúng.
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

2

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013


b)Nhiệm vụ nghiên cứu:
Từng bước tìm hiểu, phân tích, tổng hợp các vấn đề, các quan điểm về
khởi tố vụ án hình sự xuất phát trong khoa học pháp lý, cũng như những lời bình
của tạp chí, thực tiễn áp dụng; qua đó đưa ra những bất cập hạn chế, những
vướng mắc tìm ra các biện pháp để giải quyết những vấn đề trên.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
a)Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu vấn đề khởi tố vụ án hình sự trong Bộ luật tố tụng hình sự
2003 và thực tiễn áp dụng khởi tố vụ án hình sự ở Viện kiểm sát huyện Lệ Thủy.
b)Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu nội dung xoay quanh khởi tố vụ án hình sự tại Điều 100 và
Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Điều 104 và Điều 112 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 và thực tiễn áp dụng chúng trong quá trình khởi tố tại
Viện kiểm sát ở huyện Lệ Thủy từ năm 2011 đến năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử, tác giả sử dụng phương pháp so sánh, phân tích
tổng hợp, lập luận để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc
áp dụng pháp luật về khởi tố vụ án hình sự.
5. Những điểm mới của đề tài
Với vấn đề nghiên cứu này không mới so với tổng thể chung của pháp
luật Việt Nam, nhưng mới ở đây là chúng tôi đi sâu tổng hợp, phân tích các quan
điểm, các quy định về khởi tố vụ án hình sự, qua đó tìm ra khái niệm đầy đủ về
nội dung của khởi tố vụ án hình sự; xác định các vấn đề bất cập, tồn tại trong Bộ
luật tố tụng hình sự về vấn đề trên; phát hiện chỉ rõ những vướng mắc trong quá
trình áp dụng pháp luật về khởi tố vụ án hình sự; mặt khác đưa ra những nguyên
nhân về vướng mắc khi thực thi pháp luật, đưa ra các biện pháp nhằm cải thiện
thực tế và các biện pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng.
6. Cơ cấu đề tài
Gồm có các phần sau: lời nói đầu; phần nội dung; phần kết luận và danh

mục tài liệu tham khảo.
Phần đầu tiên lời nói đầu trình bày về tính cấp thiết, các vần đề về mục
đích, nhiệm vụ, đối tượng áp dụng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu.
Phần thứ hai là phần nội dung với kết cấu ba chương:
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

3

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

Chương 1: Những vấn đề chung về khởi tố vụ án hình sự
1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
1.2. Nguyên tắc khởi tố vụ án hình sự
1.3. Lịch sử phát triển của khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự
Việt Nam
Chương 2: Thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về khởi tố
vụ án hình sự và thực tiễn khởi tố vụ án hình sự tại Viện kiểm sát huyện Lệ
Thủy từ năm 2011-2013
2.1. Khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật hiện hành
2.2. Thực tiễn áp dụng khởi tố vụ án hình sự tại Viện kiểm sát huyện Lệ
Thủy từ năm 2011-2013
Chương 3: Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về khởi tố và hệ thống
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật
3.2. Hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
Phần kết luận: Trình bày khái quát các vấn đề đã nghiên cứu trong đề tài.

Phần cuối là danh mục các tài liệu tham khảo được sắp xếp theo chữ cái
Tiếng Việt.

GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

4

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự và phân biệt khởi tố vụ án và khởi tố
bị can
1.1.1. Khái niệm
Với việc hiểu về “khởi tố vụ án” hiện nay, thì không một điều luật nào
quy định cụ thể thế nào là khởi tố vụ án, hay chưa một cuốn từ điển nào có thể
khái niệm được một cách tổng quát, trọn vẹn về “khởi tố vụ án hình sự”. Với
tính chất là một trong những hoạt động của tố tụng hình sự thì việc khởi tố mang
một vị trí đó là mở đầu cho tất cả những giai đoạn tiếp theo, không có “khởi tố”
thì không có những giai đoạn kế cận, nó mang tầm quan trọng cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng.
Hiện nay, có nhiều ý kiến về “khởi tố vụ án hình sự” như sau:
Thứ nhất, theo TS.Nguyễn Văn Huyên: “Khởi tố vụ án hình sự là giai
đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có
hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không

khởi tố vụ án”[5, 231].
Trong cách đưa ra khái niệm trên là chưa đầy đủ, nhìn từ khía cạnh pháp
lí thì chưa có cơ sở nào cho sự chắc chắn của cách nhìn nhận trên, mới chỉ ra
một phần là đây là giai đoạn đầu tiên cho công tác đưa ra quyết khởi tố của cơ
quan có chức năng chứ chưa đi vào phần mà Bộ luật tố tụng hướng tới, là xuất
phát từng chủ thể có thể phát hiện và giúp cơ quan điều tra trong việc đưa ra
quyết định theo hướng có đầy đủ căn cứ hơn. Mặt khác, khái niệm trên chưa bao
quát được “khởi tố vụ án hình sự” về mặt chủ thể, sự kiện pháp lí, cũng như
khách thể trong suốt quá trình để đưa ra quyết định về hành vi cần khởi tố.
Cho thấy, cần đưa ra khái niệm một cách có căn cứ và đảm bảo cho các
chủ thể khi tham gia vào công việc khởi tố không chỉ riêng cơ quan có thẩm
quyền mà còn có những chủ thể khá như: công dân Việt Nam, cơ quan tổ chức,
địa phương...
Thứ hai, trong cuốn từ điển giải thích thuật ngữ luật học, xác định “...chỉ
được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu của tội phạm” [11, 158]

GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

5

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

Với cách hiểu như trên thì chỉ thấy có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ khởi tố
mà không chỉ ra ai sẽ khởi tố, dẫu xác định đó là tội phạm thì ai sẽ khởi tố, ai
cũng có thể phát hiện để cơ quan chức năng có thẩm quyền khởi tố. Đây mới
xác định dấu hiệu phạm tội chứ chưa chỉ ra người có chức năng “khởi tố” và ai

sẽ xác minh.
Cách hiểu như thế còn thiếu sót hơn ở cách hiểu đầu tiên, cần có cái nhìn
xuyên suốt và phải có sự lồng ghép giữa các mặt “tội phạm” để đưa ra một khái
niệm đầy đủ và chính xác hơn.
Thứ ba, theo từ điển luật học xác định “Khởi tố vụ án hình sự khi được tin
báo về một vụ việc nào đó, cơ quan công an hoặc viện kiểm sát, trong phạm vi
trách nhiệm của mình, phải kiểm tra, xác minh nguồn tin, chỉ sau khi đã xác định
có dấu hiệu tội phạm thì mới được quyết định khởi tố vụ án hình sự” [12, 254]
Với cách nhìn nhận khái niệm này có tính khả quan hơn, khi chỉ ra được
hình thức, cách thức để hình thành nên nền tảng khởi tố như thế nào. Thấy được
sự chắc chắn trong quá trình ra quyết định khởi tố, thế nhưng vẫn không có căn
cứ nào để điều chỉnh vấn đề trên, và chưa thực sự đưa ra được tầm quan trọng
của giai đoạn này. Điểm mạnh là khi nhìn vào ai cũng thấy được là tiến trình nó
đi thế nào, vừa cụ thể vừa khái quát.
Thứ tư, theo nhìn nhận của GS.TSKH Lê Cảm: Khởi tố vụ án hình sự là
giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm
quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác
định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã
hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố (hoặc
không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó. [1]
Đây là khái niệm làm tác giả tâm đắc và đồng tình; khái niệm đi xuyên
suốt vấn đề và nhìn được tổng quát khởi tố một cách rõ ràng.
Thế nhưng với quan điểm riêng của mình tác giả nhận định như sau: Nhìn
chung các khái niệm mà từng tác giả đưa ra đều khẳng định KTVAHS là giai đoạn
đầu tiên của hoạt động tố tụng nhưng vẫn có vài chỗ còn thiếu sót, cần bổ sung.
Để đưa ra được một khái niệm chính xác đầy đủ và hoàn chỉnh thì ta phải
tìm hiểu được ý nghĩa, những phạm vi liên quan đến nó, những vấn đề xoay
quanh. Với việc chúng ta tách nghĩa ngôn từ thì cho ta thấy nó có cái nhìn sâu
sắc và cơ bản hơn:


GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

6

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

Một là, “khởi” là một động từ có nghĩa là “bắt đầu, mở đầu”; “khởi tố là
mở đầu...vụ án hình sự” [13, 301]. Cho ta biết khởi tố là giai đoạn đầu tiên của
hoạt động tố tụng.
Khởi tố được xem như là “cửa ngõ” cho mọi hoạt động tố tụng và cửa ngõ
này được đảm bảo và chặt chẽ hay không thì sẽ có ảnh hưởng đến tất cả các hoạt
động sau. Nếu cửa ngõ không được thực hiện, giám sát, thi hành tốt thì sẽ gây ra
hậu quả khó lường khi bỏ lọt tội phạm, không ngặn chặn và để cho tội phạm hoành
hành gây hậu quả cho xã hội...như thế cần chắc chắn rằng, muốn làm công việc
“xét người” thì việc đầu tiên là không cho anh ta “che giấu” một điều gì kể cả là
một chi tiết nhỏ, càng kỹ lưỡng thì càng giúp cho xã hội bớt đi một “tội đồ”.
Hai là, xác định một cách đầy đủ và như thế nào về dấu hiệu của tội phạm
thì cần căn cứ vào những gì mà Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nạm đã quy định.
Cần nắm bắt thông tin từ nhiều hướng, nhưng không phải chỉ nắm bắt mà đồng
thời vừa điều tra, xác minh làm rõ từng ngọn nguồn vừa nhanh chóng khoanh
vùng và tóm gọn được kẻ có hành vi phạm tội. Đây được coi là cái nguồn, cái
căn cứ cho những gì ta đang làm và phải làm và được nó điều chỉnh.
Ba là, những cơ quan có chức năng (CQTHTT) trong vấn đề này cần phải
hiểu rõ được tình hình để đưa ra quyết định khởi tố một cách có hiệu quả và
nhanh chóng, hợp lí, hợp tình, đúng vụ việc, hoàn cảnh, sự kiện.
Từ những ý kiến, quan điểm, phân tích, chúng ta có thể đưa ra khái niệm

khoa học về khởi tố vụ án hình sự: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu
của tố tụng hình sự, khi có căn cứ về dấu hiệu phạm tội được quy định cụ thể
trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, các cơ quan có thẩm quyền có nhiệm vụ
sử dụng các biện pháp của tố tụng hình sự để xác định có dấu hiệu tội phạm hay
là không, trên cơ sở đó các cơ quan đó sẽ ra một trong hai quyết định đó là
Quyết định khởi tố vụ án hình sự và Quyết định không khởi tố vụ án hình sự liên
quan đến hành vi đó.
1.1.2. Phân biệt khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can
Để đưa ra điểm khác biệt để nhận diện rõ ràng hai thuật ngữ trên thì ta
phải đi sâu xem xét vào khía cạnh riêng, đặc thù của nó.
Đối với khởi tố vụ án hình sự thì đây được hiểu là giai đoạn khi bắt đầu
“đã xác định có dấu hiệu của tội phạm” [10, 79]; giả sử nếu không có dấu hiệu
thì không thể nào đưa ra quyết định để khởi tố vụ án được, mặt khác có dấu hiệu
phạm tội rồi thì cơ quan có thẩm quyền nhất định phải nhanh chóng và đưa ra
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

7

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

quyết định khởi tố khi xác minh là đã có “dấu hiệu của tội phạm”; hay hiểu cách
khác đó là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng xác định có sự việc phạm tội
để tiến hành điều tra phát hiện tội phạm. Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn
tố tụng độc lập, mở đầu cho các hoạt động điều tra sau này. Trong giai đoạn này,
cơ quan có thẩm quyền khởi tố tiến hành các hoạt động để xác định dấu hiệu của
tội phạm. Khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát

phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Không chỉ có CQĐT, Viện kiểm sát mà
Thủ trưởng đơn vị bộ đội biên phòng, Cơ quan hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng
cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của công an nhân dân, quân đội
nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật đến mức
phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lí của mình. Các cơ quan
khác trong lực lượng cảnh sát nhân dân, lực lượng an ninh nhân dân, quân đội
nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong khi làm
nhiệm vụ, nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu phạm tội thì có quyền quyết định
khởi tố vụ án hình sự. Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự khi
Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của các cơ
quan có thẩm quyền và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu Viện kiểm sát
khởi tố. Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử
tại phiên toà mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều
tra. Mặt khác, tội phạm thì trước hết là một hành vi, vì chỉ có hành vi mới có thể
gây ra thiệt hại, hoặc gây ra các thiệt hại cho các quan hệ xã hội mà được pháp
luật hình sự bảo vệ. Để một hành vi bị coi là tội phạm và khác với hành vi
không phải là tội phạm thì phải có các dấu hiệu: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính
có lỗi, tính trái pháp luật hình sự, và tính phải chịu hình phạt.
Đối với khởi tố bị can, để nhận dạng việc khởi tố này thì ta căn cứ vào “
khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội...” [10,
103], đó là việc đã có một đối tượng cụ thể thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho
xã hội hay làm ảnh hưởng đến xã hội, lúc này các cơ quan có thẩm quyền khi
thấy đầy đủ về các mặt cấu thành tội phạm và những gì người đó đã làm để thực
hiện hành vi phạm tội của mình, ở đây việc xác định đã chỉ rõ là người đó “đã
thực hiện hành vi phạm tội” thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can;
còn nếu người đó “chưa thực hiện hành vi phạm tội” thì không cơ quan nào có
thể ra quyết định khởi tố với đối tượng đó được. Hay hiểu cách khác hơn đó là
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc


8

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

cơ quan có thẩm quyền xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội để
tiến hành các hoạt động điều tra đối với họ. Khi có đủ căn cứ xác định một
người đã thực hiện hành vi phạm tội, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết
định khởi tố bị can.
Từ những phân tích trên thì ta thấy, quyết định khởi tố bị can phải được
sự phê chuẩn của Viện kiểm sát mới có hiệu lực, và đây được xem là thủ tục bắt
buộc. Quyết định khởi tố vụ án khác với quyết định khởi tố bị can. Việc khởi tố
vụ án hình sự chỉ là việc cơ quan có thẩm xác định có hay không có dấu hiệu tội
phạm. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện việc điều tra. Nhưng khởi tố bị
can là việc cơ quan có thẩm quyền đã xác định một người đã thực hiện hành vi
phạm tội. Quyết định này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi, danh dự, nhân
phẩm của bị can nên việc đưa ra quyết định này phải được xem xét kỹ lưỡng và
phải chịu sự kiểm sát chặt chẽ của cơ quan thực hiện chức năng kiểm sát là Viện
kiểm sát để bảo vệ được quyền công dân của bị can.
1.2. Nguyên tắc khởi tố vụ án hình sự
1.2.1. Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự của chủ thể có trách
nhiệm khởi tố
Trách nhiệm “khởi tố” đặt ra ở đây là đối với CQTHTT khi tham gia vào
công tác phát hiện nhanh chóng và xử lí công minh trong mọi tình huống; kịp
thời trong mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và đặc biệt không làm
oan cho người vô tội là một trong những nguyên tắc hàng đầu để cho việc khởi
tố được thực hiện một cách có hiệu quả công tác khởi tố như đúng chức trách

của CQTHTT. “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án, trong phạm vi quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ
án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội
phạm và xử lý tội phạm” [10, 13]. Nguyên tắc được nhấn mạnh rằng mọi hành
vi phạm tội đều bị phát hiện, bị xử lý và khởi tố với nhiệm vụ không để lọt tội
phạm và tiến tới việc đảm bảo thực hiện công bằng xã hội. Bảo vệ cho cuộc
sống bình yên của mọi nhà. Đây là nguyên tắc không thể thiếu trong quá trình
thực hiện khởi tố.
Đây như là nguyên tắc “đầu tàu” cho mọi hoạt động của cả quá trình giải
quyết vụ án, đặc biệt ở giai đoạn khởi tố vụ án. Mặt khác, đây như là nguyên tắc
quan trọng trong các nguyên tắc cơ bản của tố tụng Việt Nam, bởi đây là việc
đặt ra trách nhiệm bảo đảm “có tính hiệu quả, chủ động” của CQTHTT trong
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

9

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

nguyên tắc này, xuyên suốt với CQTHTT là thực hiện phần lớn hầu hết các
nhiệm vụ mà trong Bộ luật tố tụng quy định.
Hơn thế nữa, việc thực hiện này đúng với tinh thần của Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số trọng tâm của công tác tư
pháp thời gian sắp tới chỉ rằng “thực hiện tốt công tác tiếp nhận, xử lý tố giác,
tin báo về tội phạm, tăng cường phối hợp giữa công tác điều tra chuyên trách với
cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra để phục
vụ tốt công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm" và "hoạt động công tố phải
được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm

bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội"
[7]. Càng cho thấy vai trò của nguyên tắc này được đề cao trong mọi hoàn cảnh
vì nó mang tính quyết định, triệt để cho quá trình đi đến chân lí của cái gọi là
“tội phạm ắt phải trả giá” trong xã hội được pháp luật Việt Nam bảo vệ. Càng
đòi hỏi CQTHTT phải có trách nhiệm hơn nữa trong công việc mà mình có
nhiệm vụ phải bảo vệ và thực thi đúng đắn, nếu sai sót hay có sơ hở là có thể bỏ
lọt tội phạm ngay và bất cứ lúc nào, càng đặt ra cho CQTHTT không thể xác
minh hay điều tra một vụ việc nào không chính xác để đánh mất, chôn vùi một
đối tượng tác động tới quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh, làm kỹ lưỡng và
rõ ràng lúc này mới chuyển cho cơ quan tiếp nhận.
Qua nguyên tắc này, việc đề cao vai trò, trách nhiệm của CQTHTT trong
việc tiến hành một hoạt động nào cũng phải đúng vụ, đứng người và đúng tội;
tạo cho việc xây dựng một cơ chế thực hiện pháp luật có hiệu quả như chủ
trương của Đảng và Nhà nước, cũng như tinh thần của pháp luật tố tụng Việt
Nam nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung.
1.2.2. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quá trình khởi tố
Nguyên tắc này phải nói đến trước tiên là sự xuất phát từ Hiến pháp được
xem là nguyên tắc Hiến định; nó được cụ thể hóa trong Bộ luật tố tụng hình sự
2003 như sau: “Mọi hoạt động TTHS phải được tiến hành theo quy định của Bộ
luật này”. [10, 9]
Có nghĩa rằng: Nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi mọi hoạt động của
TTHS phải được luật điều chỉnh chặt chẽ và pháp luật đó phải được tuân thủ
một cách nghiêm chỉnh. Nguyên tắc này có ý nghĩa đảm bảo cho việc tiến hành
giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác và có hiệu quả; đồng thời cũng đảm
bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Không phải tự nhiên mà có
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

10

SVTH: Đinh Thị Tuyên



Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

được, mà nó phải được quy định một cách đầy đủ và đúng trình tự, vừa đảm bảo
tính pháp luật và tính thực thi. Thể hiện như sau:
Một là: Các hoạt động tố tụng, trình tự thủ tục khởi tố không chỉ riêng
khởi tố vụ án mà tổng quát cả quá trình, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các CQTHTT,
quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng và của các cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội và công dân phải được quy định trong pháp luật TTHS một
cách cụ thể, rõ ràng, phù hợp với thực tế.
Hai là: Mục đích giải quyết vụ án theo hướng phát hiện nhanh chóng, xử
lý, công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và người
phạm tội, tránh làm oan người vô tội chỉ có thể đạt được khi có sự chấp hành
một các tự nguyện, triệt để để pháp luật TTHS là của các chủ thể.
Việc nguyên tắc này đề cập hai vấn đề trên là sự tự nguyện chấp hành và
sự tham gia của các chủ thể không chỉ riêng mỗi CQTHTT hay NTGTT mà có
sự phối hợp giữa các chủ thể, như thế pháp luật mới được đảm bảo và thực hiện
một cách tốt nhất, không chỉ phục vụ cho một chủ thể hay là cá thể mà đó là nơi
tất cả mọi chủ thể được bảo vệ. Nâng cao giá trị pháp lý mỗi một công dân khi
sống trong một xã hội có pháp chế vững vàng, và luôn hướng về xã hội. Với
mục tiêu và hướng đi như thế thì khởi tố không phải chỉ đi riêng con đường mà
khởi tố đi, mà được sự điều chỉnh của pháp luật và chủ thể trong khởi tố phải
thực hiện đúng như quy trình, trình tự, thủ tục mà pháp luật Việt Nam quy định,
luôn thực hiện đúng và đầy đủ không để đi lạc hướng mà “pháp chế xã hội chủ
nghĩa” vạch ra.
Đảm bảo cho việc pháp luật luôn đi sâu đi sát vào từng gốc rễ của cơ quan
tiến hành tố tụng, cũng như đi sâu vào nếp sống của nhân dân, ý nguyện của

nhân dân.
1.2.3. Bảo đảm quyền tự do, tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong
hoạt động khởi tố
“Quyền con người trong TTHS là những giá trị thiêng liêng chỉ dành cho
con người khi họ tham gia quan hệ pháp luật TTHS mà nhà nước có nghĩa vụ
phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện và bảo vệ khi bị
xâm hại.” [4]
Con người dù ở vị thế nào, dù ở hoàn cảnh nào cũng được pháp luật bảo
vệ và được tôn trọng. Do đó, trong quá trình hình thành nên BLTTHS 2003 thì
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

11

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

cơ quan soạn thảo cũng đã để ý và đưa vào từng nguyên tắc để “tính con người”
được hiện hữu trong pháp luật và được ghi nhận một cách có hệ thống những
quyền mà con người được phép hưởng và được bảo hộ. Cụ thể đối với các quyền
liên quan trong khởi tố thì BLTTHS 2003 có quy định: “các cơ quan THTT phải
áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ
xác định vô tội,...” [10, 12]
Một mặt nó quy định đối với CQTHTT phải gồng mình để tìm sự thật cho
vụ án, để xem xét đối tượng nào liên quan đến vụ án, cũng như các chứng cứ,
tình tiết để xem người nào đó có thực sự là tội phạm hay là không; mặt khác để
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của pháp luật TTHS quy định thì họ có

quyền đưa ra các chứng cứ và yêu cầu chứng minh mình không phạm tội. Hơn
nữa, để cho họ có được tính tự bảo vệ mình trước pháp luật mà họ được bảo hộ.
Không chỉ một phía bảo vệ thôi đâu, mà cần có sự kết hợp giữa các bên khi
tham gia để truy lùng tội phạm, đưa vụ án ra ánh sáng sớm nhất có thể, vừa tôn
trọng họ và vừa đảm bảo tính “bảo vệ” của pháp luật đối với họ.
Trong khi tiến hành áp dụng các biện pháp của TTHS để giải quyết vụ án,
chúng ta phải đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ của TTHS nhưng đồng thời
phải tôn trọng các quyền con người cũng như các quyền cơ bản của công dân.
Bởi vì sao, con người được tôn trọng thì pháp luật mới được tôn trọng, bởi lẽ
mọi nguồn mọi quy định đều xuất phát đầu tiên là ở “dân”; thực hiện hay không
là do dân, hướng đi mỗi người là khác nhau nhưng với tiêu chí là không đi
ngược lại với luân lý xã hội, mà “dân” đúng như Bác Hồ đã nói là: lấy dân làm
gốc. Mọi vấn đề đều xuất phát từ xã hội mà “dân” đang thực hiện và chủ yếu
cuối cùng là giúp cho nhu cầu, cho cuộc sống của “dân” luôn ổn định và phát
triển bền vững. Từ những điều như thế thì BLTTHS 2003 cũng ghi rõ: “phải tôn
trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm
tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy
bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc
không còn cần thiết nữa”. [10, 10]
Nội dung nguyên tắc này được thể hiện ở đây như sau:
Tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tiến hành tố
tụng dù ở giai đoạn nào. Các cơ quan THTT, NTHTT chỉ được áp dụng các biện

GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

12

SVTH: Đinh Thị Tuyên



Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra thu thập chứng cứ khi có những căn cứ và
trong giới hạn quy định của Bộ luật TTHS.
Thường xuyên kiểm tra, kiểm sát tính hợp pháp, hợp lý của việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra thu thập chứng cứ, nếu phát hiện
thấy có vi phạm pháp luật phải huỷ bỏ ngay các quyết định đó.
Khi những căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra
thu thập chứng cứ không có hoặc không cần thiết thì các cơ quan và người có
thẩm quyền phải kịp thời huỷ bỏ hoặc thay thế quyết định áp dụng các biện pháp
đó. Tôn trọng, tự do và bảo vệ quyền cơ bản của công dân là nguyên tắc có tính
chất bao trùm, trải dài trong mọi hoạt động tố tụng của CQTHTT, NTHTT nhằm
đảm bảo không một công dân nào bị xâm hại tới các quyền và lợi ích hợp pháp.
Chưa có gì chứng minh là họ phạm tội thì họ vẫn là công dân không được xem
là tội phạm.
Những công đoạn mà CQTHTT thực hiện thì không thể không để tâm đến
quyền mà công dân được phép hưởng, và phải “bật ở chế độ tối đa” dù trong
hoàn cảnh hay tình huống nào, vì pháp luật không cho phép bất kì ai xâm phạm
đến những quyền ấy. Mọi trường hợp làm trái đều là vi phạm pháp luật và không
tôn trọng pháp luật. Cho nên dù họ là ai cũng được tôn trọng và quyền tự do của
họ, nhưng họ phải thực hiện đúng những gì pháp luật quy định. Không cho phép
một ai đi ngược lại với Hiến pháp và pháp luật. Vì thế, chúng ta đối xử thế nào
với pháp luật thì pháp luật sẽ đối xử với ta như thế ấy. Cho nên có đủ căn cứ
mới khởi tố vụ án, khi không có căn cứ gì thì không ai có thể ra quyết định khởi
tố đối với họ. Do vậy, pháp luật của dân và dân là người thực hiện nó như thế
nào để pháp luật mới thực sự là của dân và xuất phát từ dân. Bởi dân chính là
“chủ nhân” bảo vệ và thực hiện các quyền của mình để được pháp luật tôn trọng,
được tự do và được bảo vệ chính nền pháp luật đó.
1.3. Lịch sử phát triển của khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam

Trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, pháp luật tố tụng cũng có
những thay đổi nhất định trong quá trình điều chỉnh các mối quan hệ hình thành
trong tố tụng hình sự.
Từ năm 1945 đến năm 1975, nước ta luôn sống trong cảnh thời chiến,
luôn phải đối phó với các lực lượng phản động. Theo một số tư liệu như trong
cuốn Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh của ông Vũ Đình Hòe (Bộ trưởng Tư
pháp thời kỳ đầu tiên) có nêu: “Một chế độ nào, cho dẫu là theo hướng dân chủ
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

13

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

mới, nhưng mới thành lập sau một cuộc cách mạng, cũng cần phải dùng những
phương sách bất thường để chống với những lực lượng phản động”, bởi vậy, lực
lượng công an có một quyền lực tương đối lớn và độc lập được Nhà nước trao
cho để đối phó mạnh mẽ với tình hình thời điểm đó, với mục tiêu trên hết là an
ninh quốc gia.
Sau năm 1975, các lực lượng thù địch vẫn luôn chống phá và trong nước
thì trải qua một giai đoạn bao cấp kéo dài, việc cải cách tư pháp chưa được chú
trọng. Do vậy, cách thức hoạt động phòng, chống tội phạm vẫn theo ý thức hệ
cũ: Nhấn mạnh mặt đấu tranh với tội phạm mà chưa chú trọng đến việc bảo đảm
quyền công dân (khi những người này bị vướng vào vòng tố tụng); tạo điều kiện
thuận lợi cho các cơ quan tố tụng giải quyết vụ án mà chưa chú trọng đến tính
công bằng khi không tạo điều kiện đầy đủ cho công dân được bảo vệ hoặc nhờ
người khác bảo vệ. Ngay cả khi sự ra đời của hệ thống Viện kiểm sát thì đóng

góp “nổi trội” của Viện kiểm sát với vai trò như một “móc xích” để móc nối sự
liền mạch của các giai đoạn tố tụng (khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử) bảo đảm
cho một quy trình tố tụng hoạt động “trơn tru” thống nhất. Còn việc kiểm sát
hoạt động tố tụng để bảo đảm quyền công dân, đặc biệt trong giai đoạn điều tra
là hạn chế bởi Viện kiểm sát không phải cơ quan “trực tiếp” đứng ra bảo vệ
quyền lợi cho công dân, mà chỉ thực hiện gián tiếp thông qua kiểm sát các hoạt
động tố tụng hình sự.
Những năm trở lại đây pháp luật đã không còn phù hợp vì nhiều nguyên
nhân khác nhau như: tính thiếu hiệu quả và lạc hậu, nhu cầu dân chủ và bảo đảm
quyền lợi chính đáng của công dân, sự phức tạp của các quan hệ xã hội ngày
càng tăng đòi hỏi một trình độ và nhận thức mới về tư pháp hình sự, yêu cầu hòa
nhập với tư pháp hình sự thế giới...đặt ra yêu cầu cấp thiết phải cải cách hệ
thống tố tụng hình sự.
Ngày 02-01-2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp và ngày 02-06-2005 ban hành Nghị
quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đã thể hiện được một tư tưởng
hoàn toàn “mới mẻ” đối với Việt Nam. Một trong những nội dung ưu tiên của
cải cách tư pháp ở Việt Nam là “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và
thủ tục tố tụng tư pháp” với các mục tiêu bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công
khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Nhưng trên thực tế, do cả
khách quan, chủ quan và yếu tố thời gian, việc triển khai còn nhiều hạn chế.
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

14

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013


Những thay đổi nhất định của xã hội thì vấn đề khởi tố cũng có thay đổi
riêng:
Trong mục căn cứ khởi tố vụ án hình sự của BLTTHS năm 1988 có quy
định: “Chỉ” được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm.
Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây (Điều 83BLTTHS 1988):
- Tố giác của công dân;
- Tin báo của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội;
- Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
- Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ
quan Hải quan và cơ quan Kiểm lâm trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;
- Người phạm tội tự thú.
Trải qua những năm kế cạnh, BLTTHS 2003 có điểm mới hơn đó là trong
căn cứ (Điều 100) có: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm. Đó là việc thêm
vào đó là lực lượng cảnh sát biển.
Tại yêu cầu của người bị hại về khởi tố thì BLTTHS 2003 có dẫn ra
trường hợp: Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại,
trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Về cơ bản các căn cứ không khởi tố vụ án BLTTHS 2003 không có gì
thay đổi so với BLTTHS năm 1988 vẫn là bảy căn cứ cơ bản:
- Không có sự việc phạm tội;
- Hành vi không cấu thành tội phạm;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách
nhiệm hình sự;
- Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình
chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;

- Tội phạm đã được đại xá;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp
cần tái thẩm đối với người khác.
Tiếp theo đó, những vấn đề khởi tố được quy định trong nhiều văn bản
quy phạm pháp luật, hiện diện trong Chỉ thị về việc tổ chức triển khai thi hành
BLTTHS năm 2003; Nghị quyết của HĐTP TANDTC số 03/2004/NQ-HĐTP
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

15

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

ngày 02/10/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “những
quy định chung” của BLTTHS năm 2003; Pháp lệnh sủa đổi bổ sung một số điều
của pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự của pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự của
UBTVQH số 09/2009/LPL-UBTVQH ngày 27 tháng 02 năm 2009; Thông tư liên
tịch của VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP số 01/2005/TTLT-VKSTC-TATCBCA-BQP ngày 01/07/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật
trong công tác thống kê hình sự, thống kê tội phạm; Thông tư liên tịch quan hệ
phối hợp trong một số hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự giữa các
CQTHTT trong Quân đội và ngoài Quân đội, có nội dung là: Phối hợp trong
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Thông tư liên
tịch số 03/2006/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn về việc thông
báo, gửi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến người phạm tội; Thông tư
liên tịch về quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc
thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 số
05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP Có nội dung: Về việc khởi tố và kiểm sát

khởi tố vụ án hình sự (các Điều 104, 105 và 109) Ví như tại điểm :
7.1. Việc thực hiện thẩm quyền khởi tố và kiểm sát khởi tố vụ án hình sự
quy định tại các Điều 104 và 105 của BLTTHS 2003.
7.2. Những vụ án về các tội phạm quy định tại Khoản 1 các Điều 104,
105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật Hình sự chỉ
được ra quyết định khởi tố vụ án khi đã có yêu cầu của người bị hại hoặc của
người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất...Trong trường hợp xét thấy việc rút yêu
khởi tố của người bị hại trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án
theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 105 của BLTTHS;...
Cho thấy lịch sử phát triển về vấn đề khởi tố trong tố tụng hình sự Việt Nam
trải dài theo quá trình phát triển của xã hội và các mối quan hệ trong xã hội.
Tóm lại, khởi tố là một giai đoạn quan trọng trong việc giải quyết một
hành vi, một đối tượng có dấu hiệu hay không để phục vụ cho công tác hoạt
động tố tụng về phán xét những “tội phạm” làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình
yên của mọi người. Nhũng văn bản hướng dẫn liên quan đến khởi tố mang tính
chỉ đạo, hướng dẫn để thực hiện đúng đắn công tác bảo đảm sự thống nhất pháp
luật trong việc áp dụng vào thực tiễn.
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

16

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn khai thông, mở đầu cho việc giải quyết

vụ án, do đó những nguyên tắc đi kèm luôn mang tính nhất quán, tạo tiền đề cho
công tác khởi tố một cách đúng đắn và hiệu quả, mang lại tính bền vững xuyên
suốt cho quá trình điều tra và các hoạt động tố tụng khác.

GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

17

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ KHỞI
TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
TẠI VIỆN KIỂM SÁT HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH
TỪ NĂM 2011 ĐẾN NĂM 2013
2.1. Khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật hiện hành
2.1.1. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại điều 100 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự tại điều
107 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
a) Căn cứ khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại điều 100 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có những thay đổi so với Bộ luật tố
tụng năm 1988 song trong quy định này có những “căn cứ” mà chỉ khi có những
dấu hiệu tội phạm này mới có thể làm cơ sở để khởi tố vụ án hình sự.
Một là: tố giác của công dân. Khi công dân phát hiện các hành vi mà mình
xem là tội phạm thì phải có nghĩa vụ và quyền phải báo ngay cho cơ quan gần

nhất hoặc cơ quan mà công dân thấy an toàn để báo cáo sự việc. Việc tố giác
này không chỉ mang tính chất là quyền của công dân (trong thủ tục hành chính)
mà mang nặng hơn tính nghĩa vụ, nó đề cao vai trò trách nhiệm của công dân lên
hàng đầu trong công cuộc phòng chống tội phạm. Công dân là chủ thể báo tin,
cũng từ đây xuất hiện hai hướng cho cơ quan điều tra khi xác minh tội phạm đó
phạm tội hay không. Đó là, hướng phục vụ cho công tác thu thập chính xác
thông tin cho CQĐT khi vụ việc họ đang tìm thêm chứng cứ, thông tin cho việc
khởi tố vụ án khi họ phát hiện, thêm vào đó là sự việc mới có tính chất quan
trọng, đảm bảo sự chính xác khi nguồn thông tin đó mà CQĐT thấy nó là quan
trọng; hướng khác là việc tố giác của công dân mang tính hời hợt, gấp gáp, khó
đoán thì càng làm cho công tác xác định phương hướng khó khăn, công cuộc tìm
kiếm “đáp án” mất nhiều thời gian hơn, đôi khi việc tố giác kia có sự sắp đặt bởi
những âm mưu chính trị khác hay một thế lực nào đó với thực trạng kinh tế và
nhu cầu bức thiết như hiện nay. Dù là hướng gì thì đòi hỏi người tiếp nhận tin tố
giác phải luôn đề cao tinh thần cẩn thận, hướng dẫn chi tiết cho người đến tố
giác để kiểm tra, xác minh nội dung tố cáo một cách đầy đủ về hình thức cũng

GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

18

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

như sự liên quan với người tố giác khi họ báo tin. Nguồn báo này thường là việc
liên quan tố giác cụ thể một cá nhân.
Hai là: tin báo của cơ quan, tổ chức. Cơ sở của tin báo là phía cơ quan, tổ

chức thường liên quan đến nhiều người và có sự liên kết, nếu có đủ chứng cứ thì
sẽ dễ dàng xác minh và dẫn đến giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời hơn. Nếu
không có đủ nguồn tin thì công tác để khởi tố là điều khá khó khăn. Mặt khác,
làm việc với cơ quan, tổ chức thường có thời gian kéo dài hơn, tính chất phức
tạp hơn. Ở phần tin báo này cơ quan tổ chức đó còn có nghĩa vụ tiếp nhận tố
giác của công dân và thông qua cơ quan, tổ chức này để trình lên CQĐT. Một
nơi vừa cung cấp vừa tiếp nhận tin báo tội phạm.
Ba là: tin báo trên các phương tiên thông tin đại chúng: các thông tin trên
các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay thường là những video, những
hình ảnh mà công dân ghi lại hay cơ quan phương tiện thông tin (như các kênh:
vtv, vov…) ghi nhận lại trong quá trình thực tế, công tác của cánh phóng viên;
dù có vô tình hay cố ý thì những hình ảnh hay đoạn video có dấu hiệu tội phạm
cũng nằm trong tầm mắt của các CQĐT. Mặt khác, cơ quan thông tin báo chí,
nếu có ý kiến để trả lời bạn đọc thì đề nghị cơ quan có thẩm quyền phải có văn
bản trả lời cơ quan thông tin, báo chí đã đưa tin.
Bốn là: CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quân,
Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực
tiếp phát hiện dấu vết của tội phạm.
BLTTHS năm 2003 có điểm mới là có thêm lực lượng Cảnh sát biển tham
gia vào hoạt động điều tra, cho thấy mọi lĩnh vực mọi cơ quan đều có mặt của
CQĐT dù là những nơi khó khăn như biển khơi. Hơn thế nữa, ngay chính trong
các bộ phận CAND, QĐND cũng có thể phát giác tội phạm. Với chức năng
nhiệm vụ là quản lý nhà nước, nhưng luôn là những bộ phận bảo vệ quê hương
nên lấn sâu vào công tác truy lùng tội phạm phần nhiều; đòi hỏi phải cung cấp
thông tin một cách chính xác và theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng mà luật định
để làm cơ sở tìm ra dấu hiệu phạm tội để khởi tố vụ án hình sự.
Năm là: người phạm tội tự thú. Tự thú ở đây, mang tính chất của một cá
thể. Tự mình ra nhận tội khi bị phát hiện; ví như có hành động cướp giật hay
trộm cắp…bị phát hiện ra danh tính nhưng đã bỏ chạy hay trốn thoát để không

bị bắt; nhưng sau đó một thời gian quay trở về tự thú. Thuật ngữ “tự thú” là việc
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

19

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

người ta đã thực hiện hành vi phạm tội tự nhận và khai rõ hành vi phạm tội của mình
trước cơ quan, tổ chức. Đây được xem là tình tiết giảm nhẹ để hưởng khoan hồng
được quy định trong Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Từ những phân tích của năm “căn cứ” trên để có dấu hiệu của khởi tố
nhưng thực chất năm yếu tố trên là nguồn là thông tin cơ bản để CQĐT, cơ quan
có thẩm quyền xem xét nhận diện để đưa ra các nhận định, sự thật có phải khởi
tố hay là không. Nếu dùng thuật ngữ “căn cứ” thì không chính xác; phải gọi đây
là nguồn tin là tin tức để làm nền tảng làm cơ sở chứ không phải là căn cứ.
Thứ nhất, đã là căn cứ thì một là nếu căn cứ thì có đó là căn cứ thì khởi tố
luôn nhưng đây phải xác minh tìm hiểu lại vụ việc vấn đề, mang tính chất điều
tra. Nên căn cứ là cơ sở, nhưng toàn bộ phần căn cứ là nguồn nó chưa gọi là căn
cứ là khởi tố luôn mà phải thông qua một quá trình nữa.
Thứ hai, đã là căn cứ thì nếu có một căn cứ hay có đầy đủ căn cứ thì phải
có điều kiện cụ thể, không chỉ nhận dạng theo tin báo như thế. Do vậy, đây là
nguồn không phải là căn cứ, gọi là căn cứ thì phải được hình thành như cấu
thành tội phạm, nếu không đủ mặt nào thì không phải là tội phạm thì căn cứ
cũng vậy, nếu thiếu thành phần nào thì không thể khởi tố. Đây là điều khoản làm
cho người khác khi đọc vào dễ làm hiểu nhầm, bởi thực chất đây như là nguồn
cho việc xác minh để khởi tố vụ án.

Tóm lại, Tại Điều 100 BLTTHS nêu ra năm cơ sở để từ đó xác định dấu
hiệu tội phạm làm căn cứ khởi tố VAHS. Năm nguồn thông tin đó chỉ mới là
những cơ sở ban đầu để cơ quan tiến hành tố tụng nghiên cứu nhằm xác định có
đủ hay không căn cứ để khởi tố VAHS. Điều đó có nghĩa là những nguồn tin đó
chưa phải là căn cứ khởi tố mà chúng mới chỉ là nguồn, là cơ sở chứa đựng
những thông tin cho phép đi đến kết luận có căn cứ để khởi tố hay không có căn
cứ để khởi tố VAHS. Hay nói cách khác, có thể có những dấu hiệu nêu tại Điều
100 BLTTHS nhưng vẫn không khởi tố VAHS khi cơ quan tiến hành tố tụng
không có căn cứ để khởi tố hoặc có những căn cứ không được khởi tố quy định
tại Điều 107 BLTTHS.
b) Căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự tại điều 107 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003
Cơ sở nào để CQĐT hay Viện kiểm sát ra quyết định không khởi tố vụ án
hình sự:
- Một là: Không có sự việc phạm tội;
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

20

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

- Hai là: Hành vi không cấu thành tội phạm;
- Ba là: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi
chịu trách nhiệm hình sự;
- Bốn là: Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết
định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;

- Năm là: Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Sáu là: Tội phạm đã được đại xá;
- Bảy là: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ
trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.
Những căn cứ trên ở Điều luật 107 không mấy khi có nhận ra được điểm
bất cập ở đây, điểm bất cập này đưa đến sự nhầm lẫn và thiếu sự chính xác của
người áp dụng luật. Điểm bất cập này thể hiện ở căn cứ một và căn cứ ba; dùng
thuật ngữ không chính xác, hơn nữa diễn giải quy định có sự giống nhau giữa
các căn cứ.
Thứ nhất, không có sự việc phạm tội là không xác định được hành vi nào
gây nguy hiểm cho xã hội. Không có quan hệ xã hội nào bị xâm phạm mà pháp
luật hình sự bảo vệ thì làm sao mà khởi tố được, mặt khác không có sự việc
phạm tội thì khởi tố vụ án hình sự không mấy ý nghĩa nào cả. Đây được xem là
khách thể của tội phạm về hành vi vi phạm của người phạm tội, nếu không có thì
sẽ mất đi phần quan trọng của cấu thành tội phạm.
Thứ hai, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu
trách nhiệm hình sự đây được xem là chủ thể của tội phạm. Có nghĩa người này
phải có năng lực trách nhiệm hình sự. Dù không có điều luật quy định về năng
lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại
Điều 12 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Cho thấy rằng, chủ thể
của tuổi chịu TNHS này là người ở một độ tuổi nhất định và là người nhận thức
được và điều khiển hành vi của mình; thể hiện được năng lực hành vi hình sự và
năng lực pháp luật hình sự. Vì thế, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội chưa đến tuổi chịu TNHS thì làm sao mà khởi tố vụ án được, không đảm bảo
được về dấu hiệu của cấu thành tội phạm thì lúc khởi tố đâu thể truy cứu TNHS
đối với chủ thể đó. Đây là một trong những các mặt của cấu thành tội phạm mà
thiếu nó thì không thể khởi tố vụ án hình sự.
Với hai vấn đề trên cho thấy nó nằm trong căn cứ “hành vi không cấu
thành tội phạm”, căn cứ một là khách thể của tội phạm, căn cứ ba là chủ thể của


GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

21

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

tội phạm, nó là các mặt được cấu thành trong dấu hiệu của cấu thành tội phạm
thể hiện ở căn cứ hai.
Thứ ba, trong căn cứ ba có xuất hiện thuật ngữ “chưa”; đây là thuật ngữ
không trong ở chỗ “chưa” thì đến lúc nào đó nó sẽ đạt được số tuổi mà nó vi
phạm, với thuật ngữ này tạo ra tính không hoàn thiện trong ngôn từ pháp luật.
Và điểm này cần sửa đổi, vì ở đây nên “chưa” hay là “không” thì sẽ hợp lý hơn.
“Chưa” là tạo ra khe hở lớn cho việc xác định độ tuổi và khi đọc vào người khác
sẽ có nhiều cách hiểu và làm phát sinh nhiều vấn đề trong luật về lập luận tới
“chủ thể” của tội phạm. Còn “không” mang tính dứt khoát và nhấn mạnh, rõ
ràng hơn, hướng đi cụ thể và nhanh chóng xác định được mức độ tuổi đạt để
chịu TNHS.
Việc sử dụng thuật ngữ cần chính xác để nâng cao sự uy nghiêm của pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Qua thực tiễn cho ta thấy có những vụ án liên quan đến những căn cứ này.
Ví dụ để thấy rõ hành vi không cấu thành tội phạm, với vụ án đang gây
tranh cãi như hiện nay để thấy khách thể của căn cứ một có liên kết như thế nào
với căn cứ hai, vụ thẩm mỹ viện Cát Tường: Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài
cốt đã được Bộ luật hình sự năm 1999 ghi nhận tại Điều 246, cụ thể:
“Người nào…có hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt thì bị
phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.”

Theo như quy định trên ta có thể nhận thấy khách thể của tội phạm này
được pháp luật hình sự bảo vệ bao gồm thi thể, mồ mả và phần hài cốt của người
đã chết. Do vậy, việc xác định khách thể bị tội phạm xâm phạm đến trong tội
này là yếu tố bắt buộc, bởi lẽ khách thể của tội phạm được coi là một trong bốn
yếu tố cấu thành tội phạm, là căn cứ để xác định hành vi của một người có cấu
thành tội phạm hay không. Vì vậy, nếu trong giai đoạn điều tra, truy tố hay xét
xử các cơ quan tiến hành tố tụng xác định được hành vi của một người thiếu một
trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm thì cơ quan tiến hành tố tụng không được
khởi tố vụ án hoặc nếu đã khởi tố vụ án thì phải ra quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án. Tại Điều 107 Bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định về các căn cứ không
được khởi tố vụ án hình sự, trong đó tại khoản 2 Điều này có quy định: “Hành
vi không cấu thành tội phạm”. Càng cho thấy căn cứ không cấu thành tội phạm
mang yếu tố quan trọng trong việc xác định một người một cá thể là phạm tội
hay là không.
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

22

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

Do vậy, ở trên thì trong bảy căn cứ thì có bốn căn cứ cơ bản trong bảy căn
cứ chứ không phải như luật đã quy định. Với quy định về căn cứ này cần được
sửa đổi, để việc thực hiện áp dụng pháp luật được hiệu quả và đảm bảo hơn đối
với cơ quan tiến hành tố tụng, cũng như xác định đúng người phạm tội.
2.1.2. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự quy định trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định rõ ràng, hoàn thiện hơn về
quy định thẩm quyền trong khởi tố vụ án hình sự, trong đó nêu rõ thẩm quyền
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Rà soát hệ thống về quy định thẩm quyền trong BLTTHS năm 2003 thì
thẩm quyền khởi tố VAHS chủ yếu quy định cho cơ quan điều tra, còn hai thẩm
quyền còn lại là Tòa án, Viện kiểm sát hạn chế rất nhiều. Tuy nhiên, trên thực
thế thì Viện kiểm sát là nơi tiếp nhận tin và khởi tố là phần lớn; với chức năng là
thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát và chức năng xét xử của Tòa án thì
trong thẩm quyền này còn có những bất cập, hạn chế.
Một là, trong giới hạn về thẩm quyền ra quyết định khởi tố của Viện kiểm
sát :
Tại khoản 1 và khoản 2 Điều 112 BLTTHS năm 2003 có quy định đến
quyền khởi tố VAHS có mâu thuẫn với quy định tại Điều 104 về quyền khởi tố
VAHS của Viện kiểm sát.
Hai quy định mâu thuẫn nhau gây trong một Bộ luật đã làm cho Bộ luật
thiếu sự thống nhất giữa các quy định trong việc phân định thẩm quyền trong cơ
quan VKSND.
Mâu thuẫn ở đây là gì, tại khoản 1 Điều 112 có quy định về quá trình
chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong khi thực hành quyền
công tố của mình trong giai đoạn điều tra: khởi tố vụ án hình sự; khởi tố bị can;
yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này. Với quy định như thế, có nghĩa
rằng Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra; nếu xét
thấy có hành vi vi phạm, có dấu hiệu về hành vi của tội phạm ở bất cứ khi nào,
bất kỳ là ai thì Viện kiểm sát có trách nhiệm và quyền hạn để ra quyết định khởi
tố VAHS.
Thế nhưng, tại Điều 104 BLTTHS năm 2003 thì Viện kiểm sát chỉ được
khởi tố VAHS trong hai trường hợp đó là:
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc


23

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

Thứ nhất, khi kiểm sát việc khởi tố nếu xác định quyết định không khởi tố
vụ án của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra là không có căn cứ, Viện kiểm sát sẽ ra quyết định hủy quyết định
không khởi tố VAHS và tự mình ra quyết định khởi tố vụ án;
Thứ hai, khi Hội đồng xét xử phát hiện tội phạm, người phạm tội còn bị
bỏ lọt cần phải điều tra, thì Viện kiểm sát phải tiến hành xác minh, điều tra để tự
mình ra quyết định KTVAHS.
Như vậy, giữa hai điều khoản này có sự mâu thuẫn về giới hạn thẩm
quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát.
Hai là, trong quy định về thẩm quyền khởi tố VAHS của Tòa án, về thẩm
quyền này phần lớn không được thực hiện trong thực tiễn.
Tại Điều 104 BLTTHS có quy định rằng: thẩm quyền KTVAHS của
HĐXX, cho phép có sự lựa chọn HĐXX ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu
Viện kiểm sát khởi tố VAHS nếu qua việc xét xử tại Tòa án mà đích danh phát
hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra.
Nhưng chức năng ra khởi tố VAHS hầu như HĐXX không dùng tới, và có
nhiều lí do đặt ra cho hành động không ra quyết định KTVAHS của Tòa án.
Thứ nhất, do muốn ra quyết định KTVAHS phải đi qua nhiều thủ tục,
trước tiên là cấn phải tiến hành hoạt động kiểm tra, xác minh các thông tin các
vấn đề liên quan đến tội phạm; đối với việc này cần đòi hỏi phải tiến hành nhiều
hoạt động và đòi hỏi có thời gian, có khi có nhiều hoạt động phức tạp hơn, cộng
thêm vào đó là việc xét xử với một khối lượng công việc lớn các vụ án và áp lực

phải làm công tác xét xử tốt và hiệu quả, nên làm một công việc chắc chắn hơn
là cùng làm một lúc nhiều việc, HĐXX ít quan tâm hơn đến việc ra quyết định
KTVAHS là điều dễ hiểu. Mặt khác, việc ra quyết định khởi tố cũng rất khó nếu
chỉ thông qua lời khai của NTGTT hoặc tài liệu đã có trong hồ sơ thì việc kiểm
tra, xác minh lại các thông tin đó bằng các hoạt động ngoài phiên tòa thì việc
đưa ra quyết định khó khăn hơn. Với chức năng chính của Tòa án là xét xử nên
sang một khía cạnh khác là ra quyết định KTVAHS ngay tại phiên tòa sẽ gây
khó khăn cho chính HĐXX khi chuyên môn nghiệp vụ không đúng chức năng
của mình.
Thứ hai, quyết định khởi tố VAHS không liên quan gì đến cái nội dung
mà HĐXX đang xét xử, nên xét về quyền hạn thì nếu HĐXX ra quyết định
KTVAHS ngay tại phiên tòa cũng đồng thời là đã vi phạm giới hạn xét xử và
GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

24

SVTH: Đinh Thị Tuyên


Khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Viện kiểm sát
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình từ năm 2011 đến năm 2013

vượt ra ngoài phạm vi quyết định đưa vụ án ra xét xử của thẩm phán chủ tọa
phiên tòa. Dù là ra đi nữa thì nó vẫn xem là bản án nhưng vi phạm công tác xét
xử của Tòa án.
Thứ ba, liên quan đến uy tín, danh dự của Tòa án, đây là vấn đề nhạy cảm.
nếu HĐXX có đưa ra quyết định khởi tố, trong trường hợp bị Viện kiểm sát kháng
nghị lên tòa án cấp cao, mà quyết định KTVAHS đó bị hủy bỏ thì sự uy tín của
HĐXX đã ra quyết định đó bị ảnh hưởng, nếu được chấp nhận thì việc xem xét đó
có ảnh hưởng lớn đối với Viện kiểm sát trong quá trình đi tìm và giải quyết vụ án.

Với những nguyên nhân cơ bản mà tác giả phân tích như trên, càng cho
thấy tòa án với chức năng xét xử của mình thì sẽ không quan tâm tới quyết định
khởi tố vụ án hình sự như thực tiễn hiện nay.
Cách nhìn nhận khác nữa là từ khía cạnh lý luận về thẩm quyền của Tòa
án trong KTVAHS là bất hợp lý ở chỗ:
Đầu tiên, xét về tính độc lập trong công việc là quyền hạn này không phù
hợp với thẩm quyền của Tòa án. Chức năng chính của Tòa án là chức năng xét
xử và đưa ra bản án cuối cùng về giải quyết vụ án. Nếu Tòa án tự mình khởi tố
một vụ án và rồi lại tự mình xét xử vụ án thì điều này sẽ dẫn đến một hệ quả như
sau: Nếu có dấu hiệu tội phạm, có người phạm tội thật thì việc Tòa án quyết
định khởi tố là đúng, hướng đi đúng với việc điều tra của Cơ quan điều tra hay
Viện kiểm sát; nhưng nếu đó là bản án trắng, tức là không có tội phạm hay
người phạm tội thì Tòa án sẽ phải tuyên án trắng chính vụ án mà mình đã khởi
tố. Điều này còn dễ dàng dẫn đến hiện tượng, Tòa án muốn bảo vệ quan điểm
khởi tố ban đầu của mình, và điều đương nhiên nó sẽ không còn vô tư, khách
quan trong quá trình xét xử nữa.
Hơn nữa, quy định này của pháp luật còn mang tính quá mập mờ về thẩm
quyền và nội dung. Đầu tiên, Điều 104 chỉ quy định Hội đồng xét xử có thẩm
quyền khởi tố vụ án hình sư, nhưng không quy định cụ thể là Hội đồng xét xử ở
cấp nào.
Thứ hai, không quy định cụ thể trong trường hợp nào Hội đồng xét xử sẽ
tự mình ra quyết định khởi tố vụ án và trường hợp nào sẽ yêu cầu Viện kiểm sát
khởi tố. Do vậy, Tòa án thường sẽ có xu hướng đẩy việc khởi tố về cho phía
Viện kiểm sát, bởi lẽ việc khởi tố sai một vụ án hình sự sẽ gây ảnh hưởng đến uy
tín và chất lượng làm việc của cơ quan đó.

GVHD: TS.Nguyễn Trọng Phúc

25


SVTH: Đinh Thị Tuyên


×