Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Phát huy lợi so sánh Quốc gia Việt Nam lĩnh vực Dệt may với mục đích phân tích thực trạng ngành dệt may Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.17 KB, 80 trang )

Lời mở đầu
Bớc sang thế kỷ 21, xu thế toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ, phân công
lao động ngày càng sâu sắc. Hầu hết các quốc gia đều mở cửa nền kinh tế để tận
dụng triệt để hiệu quả lợi thế so sánh của nớc mình
Việt Nam đang trong tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nớc. Việc phát triển các ngành công nghiệp càng đóng vai trò quan trọng hơn lúc
nào hết. Đặc biệt là khi đất nớc còn thiếu vốn, thiếu công nghệ thiết bị, thì
việc lựa trọn ngành công nghiệp nào làm chủ đạo để phát triển là rất quan trọng.
Một trong những ngành đó là ngành Dệt may, là một ngành đóng vai trò quan
trọng không thể thiếu trong công cuộc xây dựng đất nớc đi lên chủ nghĩa Xã hội.
Bên cạnh vai trò cung cấp hàng hóa cho thị trờng trong nớc, ngành dệt may hiện
nay đã vơn ra các thị trờng nớc ngoài, ngày càng giữ vị trí quan trọng trong nền
kinh tế Việt Nam. Sản phẩm của ngành hiện nay ngày càng đa dạng, phong phú,
khả năng cạnh tranh cao trên thị trờng, thu đợc nguồn ngoại tệ lớn cho đất nớc.
Tạo điều kiện có vốn nhập khẩu các trang thiết bị hiện đại, cho ngành nói riêng,
cho các ngành công nghiệp khác nói chung. Từ đó xây dựng ngành càng phát
triển bền vững và nâng cao đợc chất lợng cũng nh vị thế của ngành trên toàn cầu.
Với tốc độ tăng trởng và khả năng mở rộng xuất khẩu của ngành, Đảng và
Nhà nớc ta đã nhận thấy cần thúc đẩy hơn nữa việc phát triển ngành dệt may nói
riêng, các ngành khác nói chung; vì đó là giả pháp tốt nhất cho nền kinh tế của n ớc ta. Nhà nớc đã kịp thời có những quy định nhằm tạo thuận lợi cho sản xuất
hàng xuất khẩu, cụ thể là chiến lợc phát triển kinh tế theo hớng thị trờng mở,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nớc, hội
nhập sâu vào quá trình phân công lao động quốc tế. Chính nhờ những chính sách
và những quy định mới đó đã đa lại cho ngành dệt may những động lực và định hớng phát triển mới.
Trong thời gian qua, ngành dệt may Việt Nam đã chứng tỏ là một ngành
kinh tế mũi nhọn của đất nớc. Từ năm 1995 tới nay, sản lợng xuất khẩu cũng nh
sản lợng sản xuất của ngành không ngừng tăng, đến năm 2009 này ngành dệt may

1



đã đạt thành tựu khá đáng kể, kim ngạch xuất khẩu đã đạt đợc hơn 9 tỷ USD. Và
phấn đấu năm 2010 kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt 10,5 tỷ USD.
Với xu hớng phát triển không ngừng của ngành dệt may Việt Nam trong
môi trờng kinh tế thế giáo nhiều biến động, đây chính là một sự kiện đáng mừng
của ngành trong thời gian qua. Trớc thành quả to lớn đáng tự hào đó, em xin chọn
đề tài: Phát huy lợi thế so sánh Quốc gia của Việt Nam trong lĩnh vực Dệt
may với mục đích phân tích thực trạng của ngành dệt may Việt Nam, xu h ớng
của thị trờng dệt may thế giới đánh giá những thuận lơị khó khăn của ngành dệt
may trong tình hình hiện nay từ đó đa ra các biện pháp thích hợp để nâng cao lợi
thế so sánh của ngành trên thị trờng thế giới.
Khóa luận tốt nghiệp gồm ba chơng:
Chơng I Những vấn đề lý luận về lợi thế so sánh trong bối cảnh
toàn cầu hóa, khu vực hóa. Phân tích lợi thế so sánh quốc gia của David
Ricardo. Khái quát về xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa. Những thuận lợi và khó
khăn do toàn cầu hóa khu vực hóa đem lại. Từ đó các nớc sẽ nhận thấy việc phát
huy lợi thế so sánh đất nớc là quan trọng.
Chơng II Phân tích lợi thế so sánh của ngành dệt may Việt Nam.
Khái quát về quá trình hình thành của ngành, những lợi thế của ngành. Từ đó
đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành, thấy đợc điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội
mà ngành có đợc và những thách thức mà ngành đang và sẽ phải đơng đầu trong
hiện tại và trong thời gian tới.
Chơng III Một số giải pháp nâng cao lợi thế so sánh quốc gia của
Việt Nam trong lĩnh vực dệt may. qua việc đánh giá sơ bộ về xu hớng chuyển
dịch việc sản xuất hàng dệt may trong khu vực và trên thế giới, nhu cầu hội nhập
của ngành dệt may Việt Nam, những định hớng, mục tiêu phát triển của ngành
trong tơng lai sẽ đa ra những giải pháp cần thiết cho ngành dệt may Việt Nam để
tháo gỡ những khó khăn trớc mắt, tạo môi trờng thuận lợi cho sản xuất và xuất
khẩu hàng dệt may, khuyến khích và mở rộng thị trờng xuất khẩu, nâng cao năng
lực cạnh tranh cho ngành dệt may để ngành trở thành một ngành công nghiệp mũi
nhọn. Từ đó nâng cao đợc lợi thế so sánh của ngành trên thị trờng quốc tế.


2


Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trờng đại học Ngoại
Thơng, những ngời đã truyền đạt rất nhiều kiến thức bổ ích và tạo điều kiện thuận
lợi cho em suốt quá trình học tập tại Trờng; các cô, chú, anh, chị tại Trung tâm th
viện Quốc Gia. Đặc biệt xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô giáo ThS. Nguyễn
Lệ Hằng, ngời đã nhiệt tình hớng dẫn, động viên em hoàn thành khoá luận tốt
nghiệp này.
Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2010
Em xin chân thành cảm ơn!

3


Chơng i: những vấn đề lý luận về lợi thế so sánh
trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa
i.

Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo

David Ricardo (1772-1823)
David Ricardo là con thứ 3 trong số 17 ngời con, trong gia đình rất thành
đạt. Cha ông là ngời làm ngân hàng giàu có, lúc đầu ở Hà Lan, sau chuyển tới
London. David học không nhiều và đi làm cho cha khi 14 tuổi. Khi 21 tuổi, Ông
cuối vợ trái ý gia đình và bị tớc thừa kế, ông lập công ty môi giới chứng khoán.
Ricardo thành công nh một hiện tợng và ông về hu ở tuổi 42, tập trung vào các
bài viết và hoạt động chính trị; ông đóng góp nhiều cho lý thuyết kinh tế; là bạn
của nhiều nhà kinh tế học cổ điển Thomas Malthus và Jean-Baptiste Say. Cùng

với Malthus ông mang quan điểm bi quan về tơng lai lâu dài của xã hội. Tuy vậy,
phần lớn t tởng học thuyết Ricardo ngày nay vẫn còn giá trị lớn và đợc giảng dạy
rộng rãi. Các ấn phẩm của David đơng thời không bán chạy lắm, nhng qua thời
gian loài ngời đã nhận thức đúng giá trị to lớn của chúng. Phần lớn các lý thuyết
của ông tập trung vào thị trờng tiền tệ và thị trờng chứng khoán, bao gồm:
Giá vàng cao, một bằng chứng xuống giá của giấy nợ Ngân hàng (1980)
Trả lời các quan sát của Bosamquet về báo cáo của Bullion Committee (1981)
Đề xuất về đồng tiền an toàn và tiết kiệm (1916)
Tác phẩm quan trọng về kinh tế học thị trờng:
Luận văn về ảnh hởng của giá ngô thấp và lợi nhuận cổ phiếu (1815)
Các lý thuyết kinh tế chính trị và thuế khóa (1817)
1. Lý thuyết lợi thế so sánh
Năm 1817, nhà kinh tế học ngời Anh David Ricardo đã nghiên cứu và
chỉ ra rằng chuyên môn hóa quốc tế sẽ có lợi cho tất cả các quốc gia và gọi kết
4


quả này là quy luật lợi thế so sánh là lợi thế đạt đợc trong trao đổi thơng mại
quốc tế, khi các quốc gia tập chung chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi những
mặt hàng có bất lợi nhỏ nhất học những mặt hàng có lợi lớn nhất thì tất cả các
quốc gia đều cùng có lợi.
Để xây dựng quy luật lợi thế so sánh, David Ricardo đã đa ra một số giả
thiết làm đơn giản hóa mô hình trao đổi trong mậu dịch, các giả định đó là:
Thế giới chỉ có hai quốc gia và chỉ sản xuất 2 lợi sản phẩm
Mậu dịch tự do
Lao động có thể chuyển dịch tự do trong một quốc gia nhng không có khả
năng chuyển dịch giữa các quốc gia
Chi phí sản xuất là cố định
Không có chi phí vận chuyển
Chi phí sản xuất đợc đồng nhất với tiền lơng

Theo quy luật này, ngay cả một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối để sản
xuất cả hai sản phẩm vẫn có lợi khi giao thơng với một quốc gia khác đợc coi là
có lợi thế tuyệt đối để sản xuất cả hai mặt hàng. Trong trờng hợp đó, quốc gia thứ
hai lại càng có lợi hơn so với khi họ không giao thơng. Trong trờng hợp này nếu
một quốc gia hoàn toàn bất lợi trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng thì họ vẫn
có thể chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu sản phẩm có bất lợi là nhỏ nhất thì
họ vẫn có lợi, còn quốc gia có lợi hoàn toàn trong việc sản xuất các sản phẩm sẽ
tập trung chuyên môn hóa trong việc sản xuất và xuất khẩu sản phẩm có lợi là lớn
nhất thì họ vẫn luôn có lợi.
Ông đã phân tích nh sau:
Bảng 1 Chi phí lao động

5


Sản phẩm

Tại Anh (giờ công)

Tại Bồ Đào Nha (giờ công)

1 đơn vị lúa mỳ

15

10

1 đơn vị rợu vang

30


15

Nguồn: />Trong ví dụ này, Bồ Đào Nha có lợi thế tuyệt đối so với Anh trong sản xuất
cả lúa mỳ lẫn rợu vang: năng xuất lao động của Bồ Đào Nha gấp 2 lần Anh trong
sản xuất rợu vang và gấp 1.5 lần trong sản xuất lúa mỳ. Theo suy nghĩ thông thờng trong trờng hợp này Bồ Đào Nha sẽ không nên nhập khẩu mặt hàng nào từ
Anh. Thế nhng phân tích của David Ricado đã dẫn đến một kết quả hoàn toàn
khác:
Một đơn vị rợu vang tại Anh sản xuất phải tốn chi phí tơng đơng với chi
phí để sản xuất 2 đơn vị lúa mỳ (hay nói cách khác, chi phí cơ hội để sản xuất 1
đơn vị rợu vang là 2 đơn vị lúa mỳ); trong khi đó, tại Bồ Đào Nha, để sản xuất
một đơn vị rợu vang chỉ mất chi phí tơng đơng với chi phí để sản xuất 1.5 đơn vị
lúa mỳ (hay chi phí cơ hội để sản xuất 1 đơn vị rợu vang là 1.5 đơn vị lúa mỳ). Vì
thế, ở Bồ Đào Nha sản xuất rợu vang rẻ hơn tơng đối so với Anh.
Tơng tự nh vậy, ở Anh sản xuất lúa mỳ rẻ hơn tơng đối so với ở Bồ Đào
Nha vì chi phí vơ hội chỉ có 0.5 đơn vị rợu vang trong khi ở Bồ Đào Nha phải mất
2/3 đơn vị rợu vang. Hay nói cách khác, Bồ Đào Nha có lợi thế so sánh về sản
xuất rợu vang, còn ở Anh có lợi thế so sánh về sản xuất lúa mỳ. Để thấy đ ợc cả
hai nớc cùng có lợi nếu chỉ tập trung vào sản xuất hàng hóa mà mình có lợi thế so
sánh: Bồ Đào Nha chỉ sản xuất rợu vang, còn ở Anh chỉ sản xuất lúa mỳ rồi trao
đổi thơng mại với nhau, Ricardo đã làm nh sau:
Ông giả định nguồn lực lao động của Anh là 270 giờ công lao động, còn
của Bồ Đào Nha là 180 giờ công lao động.
Nếu không có thơng mại, cả hai nớc sẽ sản xuất cả hai hàng hóa và theo
chi phí tại Bảng 1 thì kết quả là số lợng sản xuất ra nh sau:

6


Bảng 2 Số lợng sản phẩm trớc khi có thơng mại

Quốc gia

Số đơn vị lúa mỳ

Số đơn vị rợu vang

Anh

8

5

Bồ Đào Nha

9

6

Tổng cộng

17

11

Nguồn: />Nếu Bồ Đào Nha chỉ sản xuất rợu vang còn Anh chỉ sản xuất lúa mỳ rồi
trao đổi thơng mại với nhau thì số lợng sản phẩm đợc sản xuất ra sẽ là:

7



Bảng 3 Số lợng sản phẩm sau khi có thơng mại
Quốc gia

Số đơn vị lúa mỳ

Số đơn vị rợu vang

Anh

18

0

Bồ Đào Nha

0

12

Tổng cộng

18

12

Nguồn: />Nh vậy, khi mỗi quốc gia tập trung chuyên môn hóa sản xuất mặt hàng mà
mình có lợi thế so sánh thì tổng sản phẩm xã hội sẽ tăng lên.
2. Toàn cầu hóa, khu vực hóa và tác động của toàn cầu hóa, khu vực hóa
tới các nớc đang phát triển.
2.1. Quan điểm về toàn cầu hóa, khu vực hóa

Xu thế hòa bình, hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc
của các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nớc đều dành u tiên cho phát triển
kinh tế, cần có môi trờng hòa bình ổng định và thực hiện chính sách mở cửa, các
nền kinh tề ngày càng gắn bó, tùy thuộc lẫn nhau, tạo động lực cho tăng trởng
kinh tế, các thể chế đa phơng thế giới và khu vực có vai trò ngày càng tăng cùng
với sự phát triển của ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cờng của các dân tộc.
Toàn cầu hóa đang là một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan
hệ quốc tế hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang thúc đẩy
mạnh mẽ quá trình chuyên môn hóa và hợp tác giữa các quốc gia làm cho lực lợng sản xuất đợc quốc tế hóa cao độ. Những tiến bộ của khoa học công nghệ,
đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin, đã đa các quốc gia gắn kết lại gần nhau.
Trớc những biến đổi to lớn về khoa học công nghệ này, tất cả các nớc trên thế
giới đều thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách theo hớng mở
cửa, giảm dần tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, làm cho việc
trao đổi hàng hóa, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật trên thế giới ngày càng

8


thông thoáng hơn, mở đờng cho kinh tế quốc tế phát triển. Đại diện cho xu thế
toàn cầu hóa này là sự ra đời của Hiệp định chung về Thuế quan và Th ơng mại
(GATT) năm 1948 với 23 nớc thành viên sáng lập với mục tiêu xác lập những
nguyên tắc điều chỉnh và thúc đẩy thơng mại quốc tế phục vụ cho phát triển kinh
tế mỗi nớc thành viên. Kể từ 1/1/1995, GATT đã đợc đổi thành Tổ chức Thơng
mại Thế giới (WTO) điều tiết không chỉ thơng mại hàng hóa mà mở rộng sang cả
thơng mại dịch vụ, đầu t, quyền sở hữu trí tuệ. Cho tới nay với 154 nớc thành viên
chiếm 90% tổng kim ngạch thơng mại thế giới, WTO trở thành một tổ chức có
quy mô toàn cầu và là nền tảng pháp lý cho quan hệ kinh tế quốc tế, là diễn đàn
thờng trực đàm phán thơng mại và là thể chế giải quyết các tranh chấp thơng mại
quốc tế.
Xu thế khu vực hóa cũng đã xuất hiện ở những năm 1950, đã và đang phát

triển mạnh mẽ cho tới ngày nay, với sự ra đời trên 40 tổ chức kinh tế, thơng mại
khu vực, trong đó đáng chú ý là sự ra đời của Liên minh Châu Âu năm 1993 với
15 nớc thành viên, Hiệp hội các nớc Đông Nam á năm 1967 với 9 nớc thành
viên, Diễn đà Hợp tác Kinh tế Châu á - Thái Bình Dơng năm 1989 với 21 nớc
thành viên chiếm trên 60% GDP và 50% kim ngạch thơng mại thế giới, Hợp tác
á - Âu năm 1996, Khu vực Thơng mại Tự do Bắc Mỹ năm 1994.
Các tổ chức kinh tế thơng mại khu vực đều dựa trên nền tảng của WTO,
tuân thủ các nguyên tắc của WTO, đợc WTO công nhận, đề nhằm mục tiêu đẩy
mạnh hợp tác, thực hiện tự do hóa, thuận lợi hóa thơng mại và đầu t, tạo lập lợi
thế cạnh tranh trên trờng quốc tế, nhng mỗi tổ chức đề chọn những lĩnh vực mà
mình có lợi thế hơn để tập trung nguồn lực, hợp tác chiều sâu, theo những phơng
thức đa dạng nhằm tạo lới thế riêng cho từng khu vực.
Có thể nói bản chất của các tổ chức quốc tế và khu vực nh đã nói trên là để
giải quyết vấn đề thị trờng. Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa là sản phẩm của
quá trình cạnh tranh giành giật thị trờng gay gắt giữa các quốc gia và giữa các
thực thể kinh tế quốc tế. Với sự phát triển mạnh mẽ của các cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật, sức sản xuất ngày càng phát triển kéo theo sự đòi hỏi cấp bách của
vấn đề thị trờng tiêu thụ. Với sự hợp tác quốc tế, những hàng rào cản trở giao lu

9


thơng mại và đầu t ngày càng giảm đi, kinh tế thế giới ngày càng trở thành một
thị trờng chung.
2.2.

Tác động tích cực của toàn cầu hóa, khu vực hóa tới các nớc đang
phát triển.
2.2.1. Phát huy lợi thế so sánh để phát triển
Toàn cầu hóa, khu vực hóa (TCH, KVH) tạo ra những thời cơ thuận lợi cho

sự phát triển của các nớc đang phát triển (ĐPT). Một trong những thời cơ thuận
lợi đó là các nớc ĐPT nếu chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong hội nhập thì sẽ phát
huy đợc lợi thế so sánh của mình trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trong quá trình
TCH, KVH sẽ có sự phân chia thành các nhóm nớc với những lợi thế so sánh tơng
ứng để bổ sung cho nhau trong sự hợp tác và phát triển. Lợi thế so sánh luôn biến
đổi phụ thuộc vào trình độ phát triển của các quốc gia. Nớc nào có nền kinh tế
càng kém phát triển thì có lợi thế so sánh càng suy giảm.
Đa số các nớc ĐPT chỉ có lợi thế so sánh bậc thấp nh lao động rẻ, tài
nguyên, thị trờng đó là một thách thức lớn đối với các nớc ĐPT. Nhng TCH,
KVH cũng mang lại cho các nớcĐPT những cơ hội lớn mới, nếu biết vận dụng
sáng tạo để thực hiện đợc mô hình phát triển rút ngắn. Chẳng hạn, bằng lợi thế
vốn có về tài nguyên, lao động, thị trờng, các ngành công nghiệp nhẹ, du lịch,
dịch vụ các nớc ĐPT có thể tham gia vào tầng thấp và trung bình của sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu với cơ cấu kinh tế có các ngành sử dụng nhiều lao
động, nhiều nguyên liệu, cần ít vốn đầu t, công nghệ trung bình tiên tiến tạo ra
những hàng hóa dịch vụ không thể thiếu trong cơ cấu hàng hóa dịch vụ trên
thế giới nh mặt hàng may mặc Để làm đợc việc đó, các nớc ĐPT có cơ hội tiếp
nhận đợc các dòng vốn quốc tế, các dòng kỹ thuật công nghệ mới và kỹ năng
quản lý hiện đại. Nhng cơ hội đạt ra nh nhau đối với các nớc ĐPT, song nớc nào
biết tận dụng nắm bắt đợc chúng thì phát triển. Điều đó phụ thuộc vào nhân tố
chủ quan, vào nội lực của mỗi nớc.
Việc phát huy tối đa lợi thế so sánh trong quá trình TCH, KVH của các nơc
ĐPT là nhằm tận dụng tự do hóa thơng mại, thu hút đầu t để thúc đả tăng trởng
kinh tế, phát triển xã hội. Tỷ trọng mậu dịch thế giới trong tổng kim ngạch mậu
dịch thế giới của các nớc ĐPT ngày một tăng. Các nớc ĐPT cũng ngày càng đa
10


dạng hóa, đa phơng hóa trong quan hệ kinh tế quốc tế, tỷ trọng hàng công nghiệp
trong cơ cấu hàng xuát khẩu ngày càng tăng và các nớc ĐPT nắm giữ 25% lợng

hàng công nghiệp xuất khẩu trên toàn thế giới.
2.2.2. Tăng nguồn vốn đầu t
Kinh tế TCH, KVH biểu hiện nổi bật ở dòng luân chuyển vốn toàn cầu.
Điều đó tạo cơ hội cho các nớc ĐPT có thể thu hút đợc nguồn vốn bên ngoài cho
phát triển trong nớc, nếu nớc đó có cơ chế thu hút thích hợp. Thiết lập một cơ cấu
kinh tế và cơ cấu đầu t nội địa hợp lý là cơ sở để định hớng thu hút đầu t nớc
ngoài. Các nhà đầu t nớc ngoài tìm kiếm các u đãi từ những điều kiện và môi trờng đầu t bên trong để thúc đẩy chơng trình đầu t của họ. Các nớc đang phát triển
đã thu hút và sử dụng một lợng khá lớn vốn nớc ngoài cùng với nguồn vốn đó,
vốn trong nớc cũng đợc huy động.
TCH, KVH đã tạo ra sự biến đổi và gia tăng cả về lợng và chất dòng luân
chuyển vốn vào các nớc đang phát triển, nhất là trong khi các nớc ĐPT đang gặp
rất nhiều khó khăn về vốn đầu t cho phát triển. Chẳng hạn, lợng vốn đầu t vào các
nớc ĐPT tăng khá nhanh: 1980: 30 tỷ USD; 1990: 60 tỷ USD; 1996: gần 200 tỷ
USD; năm 2008, tỷ trọng FDI vào các nớc đang phát triển đã chiếm tới 43% tổng
lợng FDI toàn cầu. Trong dòng vốn đầu t vào các nớc ĐPT thì dòng vốn t nhân
ngày càng lớn.
2.2.3. Nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ
Trớc xu thế TCH, KVH, các nớc ĐPT tuỳ theo vị thế, điều kiện lịch sử cụ
thể và trình độ phát triển của mình đều có cách thức riêng phát triển theo con đ ờng rút ngắn. Một trong số nhiều con đờng phát triển là: du nhập kỹ thuật - công
nghệ trung gian từ các nớc phát triển để xây dựng những ngành công nghiệp của
mình nh là một bộ phận hợp thành trong tầng công nghiệp hiện đại. TCH, KVH
cho phép các nớc ĐPT có điều kiện tiếp nhận các dòng kỹ thuật - công nghệ tiên
tiến, hiện đại từ các nớc phát triển để nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ của
mình. Nhng điều đó còn phụ thuộc vào khả năng của từng nớc biết tìm ra chiến lợc công nghiệp hoá rút ngắn thích hợp.

11


Trong quá trình TCH, KVH các nớc ĐPT có điều kiện tiếp cận và thu hút
những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới, qua đó mà nâng dần

trình độ công nghệ sản xuất của các nớc ĐPT. Do vậy, mà ngày càng nâng cao đợc trình độ quản lý và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế các nớc ĐPT. TCH,
KVH đợc đánh giá nh một công cụ đặc hiệu để nâng cao trình độ kỹ thuật - công
nghệ ở các nớc ĐPT. Bởi lẽ, trong quá trình tham gia vào liên doanh, liên kết sản
xuất quốc tế, hợp đồng hợp tác kinh doanh, các dự án FDI... các nớc ĐPT có điều
kiện tiếp cận những công nghệ, kiến thức và kỹ năng hết sức phong phú, đa dang
của các nớc đang phát triển.
2.2.4. Thay đổi đợc cơ cấu kinh tế theo hớng tích cực
TCH, KVH đòi hỏi nền kinh tế của các quốc gia, trong đó có các nớc ĐPT
phải tổ chức lại với cơ cấu hợp lý. Kinh tế thế giới đang chuyển mạnh từ nền kinh
tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Nhng ở các nớc phát triển những ngành
có hàm lợng chất xám, hàm lợng công nghệ cao, hàm lợng vốn lớn... đang chiếm
u thế, còn ở những nớc ĐPT chỉ có thể đảm nhận những ngành có hàm lợng cao
về lao động, nguyên liệu và hàm lợng thấp về công nghệ, vốn. Tuy nhiên, nếu nớc
ĐPT nào chủ động, biết tranh thủ cơ hội, tìm ra đợc con đờng phát triển rút ngắn
thích hợp, thì có thể vẫn sớm có đợc nền kinh tế tri thức. Điều đó đòi hỏi một sự
nỗ lực rất lớn. Quá trình TCH, KVH sẽ dẫn đến tốc độ biến đổi cao và nhanh
chóng của nền kinh tế toàn cầu, điều đó buộc nền kinh tế mỗi nớc, muốn phát
triển, không còn con đờng nào khác là phải hoà nhập vào quỹ đạo vận động
chung của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế nào bắt kịp dòng vận động chung thì
phát triển, không thì dễ bị tổn thơng và bất định. Mỗi nớc ĐPT cần phải tìm cho
mình một phơng thức để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thích hợp để có thể phát triển
rút ngắn. Hầu hết các nền kinh tế của các nớc ĐPT đều tiến tới mô hình kinh tế
thị trờng mở, hội nhập quốc tế dựa vào xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chế
biến. Đây là một mô hình kinh tế đợc chuyển dịch theo hớng tích cực. Nhng nền
kinh tế thị trờng mở, hội nhập quốc tế đòi hỏi chính phủ các nớc phải có quan
niệm đúng và xử lý khéo quan hệ giữa tự do hoá và bảo hộ ở mức cần thiết; đồng
thời phải nắm bắt đợc các thông lệ và thể chế kinh tế bên trong, giải quyết đúng
đắn việc kết hợp các nguồn lực bên ngoài thành nội lực bên trong để phát triển.
Nền kinh tế thị trờng mở, hội nhập quốc tế muốn phát triển ổn định, đòi hỏi cơ


12


cấu kinh tế bên trong phải đủ mạnh, cơ cấu xuất khẩu đa dạng, thể chế kinh tế
linh hoạt và có năng lực thích ứng để đơng đầu với những thay đổi của các điều
kiện phát triển toàn cầu. Điều đó buộc các nớc ĐPT phải tìm ra con đờng công
nghiệp hoá rút ngắn thích hợp. Nhiều nớc chọn mô hình công nghiệp hoá hớng về
xuất khẩu, dựa vào tăng trởng các sản phẩm công nghiệp chế tạo. Phát triển công
nghiệp chế tạo sẽ giúp nền kinh tế các nớc ĐPT nhanh chóng chuyển đợc nền
kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và từng bớc chuyển tới nền
kinh tế tri thức. Sự dịch chuyển này đến đâu phụ thuộc vào trình độ thích ứng về
tiếp nhận công nghệ, khả năng về vốn, khai thác thị trờng. Dù bớc chuyển dịch ở
trình độ nào, nền kinh tế ở các nớc ĐPT đều chú trọng tăng tỷ trọng các ngành
công nghiệp chế biến và dịch vụ; đồng thời tập trung nỗ lực phát triển các ngành
có khả năng cạnh tranh. Chính vì vậy, cơ cấu kinh tế của nhiều nớc ĐPT đã có
nhiều biến đổi theo hớng tích cực: giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp, tăng tỷ
trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng thay đổi,
chất lợng hàng hoá xuất khẩu đợc nâng lên theo hớng đạt các tiêu chuẩn quốc tế,
tỷ trọng sản phẩm qua chế biến cũng đã tăng lên.
TCH, KVH đang mở ra nhiều cơ hội và thách thức cho các quốc gia cơ cấu
lại nền kinh tế của mình. Nền kinh tế toàn cầu đang biến đổi nhanh chóng, thì
nền kinh tế của các nớc ĐPT, nếu muốn phát triển, không còn con đờng nào khác
là phải nhanh chóng hoà nhập vào quỹ đạo vận động chung của nền kinh tế thế
giới. Các nớc phải bắt kịp các động thái của dòng vận động tiền vốn, kỹ thuật công nghệ, hàng hoá - dịch vụ khổng lồ của thế giới. Tính bất định và mức độ dễ
bị tổn thơng với tính cách là hệ quả của những động thái này đang ngày càng gia
tăng, nhất là đối với nền kinh tế các nớc ĐPT.
2.2.5. Mở rộng kinh tế đối ngoại
TCH, KVH làm cho quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế trở thành xu hớng tất yếu và diễn ra hết sức mạnh mẽ do sự phát triển cao của lực lợng sản xuất
dới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ. TCH, KVH đang diễn ra
với tốc độ cao, càng đòi hỏi mạnh mẽ việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của

mỗi nền kinh tế, đặc biệt là đối với các nớc ĐPT. Và chỉ bằng cách đó mới có thể
khai thác có hiệu quả nguồn lực quốc tế. Đồng thời, TCH, KVH, quá trình quốc

13


tế hoá đời sống kinh tế càng đẩy mạnh thì càng tạo ra những cơ hội và thách thức
mới mà chỉ có sự phối hợp quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại thì mới có thể tranh
thủ đợc những cơ hội, vợt qua đợc những thách thức. Thực tế lịch sử cũng đã
khẳng định rằng: ngày nay không một quốc gia nào có thể phát triển đợc nếu
không thiết lập quan hệ kinh tế với các nớc khác, và do vậy không một quốc gia
nào, kể cả các nớc ĐPT, lại không thực hiện việc mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại.
Trong hoàn cảnh quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng, quá
trình TCH, KVH đợc thúc đẩy mạnh mẽ, các quan hệ kinh tế đối ngoại trở thành
một nhân tố không thể thiếu để thực hiện tái sản xuất mở rộng ở mỗi nớc, nhất là
những nớc ĐPT.

2.2.6. Cơ sở hạ tầng đợc tăng cờng
Quá trình TCH, KVH đã tạo ra cơ hội để nhiều nớc ĐPT phát triển hệ
thống cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải, về bu chính viễn thông, về điện, nớc...
ở các nớc ĐPT, mức thu nhập tính theo đầu ngời rất thấp, do đó tích luỹ cũng vô
cùng thấp vì phần lớn thu nhập dùng vào sinh hoạt. Trong khi đó các nớc ĐPT lại
rất cần những lợng vốn lớn để xây dựng kết cấu hạ tầng và xây dựng những công
trình thiết yếu nhằm phát triển kinh tế. Bởi vậy, xuất hiện khoảng cách lớn giữa
nhu cầu đầu t và tích luỹ vốn. Cho nên các nớc ĐPT muốn tăng cờng xây dựng cơ
sở hạ tầng thì phải biết tạo môi trờng thuận lợi để thu hút vốn đầu t nớc ngoài.
Chỉ có thông qua các quan hệ kinh tế đối ngoại mới có thể cải tạo, đổi mới và
nâng cao trình độ công nghệ của các cơ sở sản xuất hiện có; cải tiến, hiện đại hoá
công nghệ truyền thống; xây dựng những hớng công nghệ hiện đại... Nhờ đó mà

xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế.
2.2.7. Học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến
Các nớc có nền kinh tế phát triển thờng có phơng thức, cách thức quản lý
nền kinh tế tiên tiến với những công cụ quản lý hiện đại. Thông qua các quan hệ
hợp tác kinh tế quốc tế các nớc ĐPT học tập những kinh nghiệm quản lý tiên tiến

14


hiện đại của các nớc phát triển. Học tập trực tiếp qua các dự án đầu t, qua các Xí
nghiệp, Công ty liên doanh...., qua việc đàm phán ký kết các hợp đồng kinh tế...

2.3.

Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, khu vực hóa với các nớc đang
phát triển.

Nh chúng ta đã biết, một khía cạnh của toàn cầu hóa, khu vực hóa đợc sự
ủng hộ rất rộng rãi, ít nhất trong hàng ngũ lãnh đạo ở các nớc công nghiệp phát
triển, là tự do hóa thơng mại. Nhng nếu quan sát kỹ hơn những tác động của tự do
hóa đối với các nớc đang phát triển thì sẽ hiểu tại sao nó lại thờng bị phản đối
mạnh mẽ, nh chúng ta chứng kiến tại những cuộc biểu tình phản đối ở Seatle,
Rrague và Washington DC.
Tự do hóa thơng mại đợc kỳ vọng sẽ nâng cao thu nhập quốc dân bằng
cách đa các nguồn lực từ nơi sử dụng kém hiệu quả tới nơi sử dụng hiệu quả hơn,
nh các nhà kinh tế thờng nói, là tận dụng lợi thế so sánh. Nhng việc chuyển các
nguồn vốn từ nơi năng suất thấp tới nơi năng suất bằng không chẳng làm các nớc giàu thêm. Làm mất việc làm thì rất dễ và thờng là tác động tức thì của tự do
hóa thơng mại, khi những ngành công nghiệp kém hiệu quả bị đóng của dới áp
lực cạnh tranh quốc tế. Trên lý thuyết, những việc làm mới do tự do hóa thơng
mại đem lại, có năng suất cao hơn sẽ đợc tạo ra khi những việc làm cũ không hiệu

quả, sinh ra nhờ vào sự bảo hộ, bị xóa bỏ. Nhng thực tế lại không đơn giản nh thế
và rất ít các nhà kinh tế tin vào khả năng tạo việc làm mới tức thời. Cần phải có
vốn và óc kinh doanh để lập những doanh nghiệp mới, tạo việc làm mới, và ở
những nớc ĐPT, yếu tố thứ hai thì thiếu do giáo dục yếu kém, còn yếu tố thứ nhất
thì thiếu do không có tài trợ của các tổ chức tài chính.
Những nớc ĐPT thành công nhất những nớc Đông á cũng mở cửa ra
thế giới bên ngoài nhng đã làm từ từ theo một lịch trình phù hợp. Những nớc này
đã lợi dụng toàn cầu hóa để mở rộng xuất khẩu và kết quả là tăng tr ởng nhanh.
Nhng họ dỡ bỏ hàng rào bảo hộ một cách thận trọng và có hệ thống, chỉ xóa bỏ
chúng khi đã tạo thêm đợc những việc làm mới. Họ đảm bảo rằng có đủ vốn đầu
t để tạo thêm việc làm và lập thêm các doanh nghiệp mới. Thậm chí nhà nớc đảm

15


nhiệm cả vai trò hỗ trợ kinh doanh, thúc đẩy những doanh nghiệp mới. Chẳng
hạn, Trung Quốc chỉ dỡ bỏ hàng dào thơng mại hai mơi năm sau khi bắt đầu
chuyển sang nền kinh tế thị trờng, giai đoạn mà nớc này tăng trởng với tốc độ cực
nhanh.
Và thực tế, tự do hóa thơng mại thờng xuyên thất bại trong việc đem lại
những lợi ích hứa hẹn mà thay vào đó là tạo ra thêm thất nghiệp, giải thích tại sao
mà nó gây ra sự chống đối mạnh mẽ. Nhng thói đạo đức giả của những kẻ đòi
thúc đẩy thơng mại tự do và cái cách mà họ thúc đẩy nó không nghi ngờ gì đã gây
thêm sự thù địch với tự do hóa thơng mại. Một minh chứng cụ thể là: Các nớc phơng Tây thúc đẩy tự do hóa thơng mại để xuất khẩu sản phẩm của họ nhng cùng
lúc lại tiếp tục bảo hộ những lĩnh vực mà sự cạnh tranh từ các nớc đang phát triển
có thể đe dọa đến nền kinh tế của họ. Họ yêu cầu giảm rào cản thơng mại đối với
hàng hóa công nghiệp, từ ôtô đến máy móc do các nớc công nghiệp phát triển
xuất khẩu. Cùng lúc đó, họ lại duy trì trợ cấp quốc gia cho hàng nông sản, cả việc
đóng cửa thị trờng với những hàng hóa này và hàng dệt may, những mặt hàng mà
nhiều nớc đang phát triển có lợi thế so sánh.

Một mặt khác của vấn đề, các nớc đang phát triển đặc biệt khó chịu cái
tiêu chuẩn kép, đạo đức giả và bất bình đẳng. ở thế kỷ 20, các nớc phát triển
dùng sức mạnh quân sự để áp đặt thơng mại cho các quốc gia kém phát triển.
Ngày nay, các thị trờng mới nổi không bị ép buộc phải mở của bằng các đe dọa
bằng cách sử dụng vũ lực quân sự mà bằng sức ép kinh tế, bằng đe dọa trừng phạt
hay ngng trợ giúp khi khủng hoảng.
Và những mặt không tốt của toàn cầu hóa, khu vực hóa đợc thể hiện cụ thể
với các nớc đang phát triển nh sau:
2.3.1. Tăng trởng kinh tế không bền vững do phụ thuộc vào xuất khẩu
Nền kinh tế các nớc ĐPT đang cơ cấu lại theo chiến lợc kinh tế thị trờng
mở, hội nhập quốc tế. Nhng trong quá trình đó, tốc độ tăng trởng kinh tế của
nhiều nớc ĐPT phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu. Mà xuất khẩu lại phụ thuộc
vào sự ổn định của thị trờng thế giới, vào giá cả quốc tế, vào lợi ích của các nớc

16


nhập khẩu, vào độ mở cửa thị trờng của các nớc phát triển... do vậy, mà chứa
đựng nhiều yếu tố bất ổn, khó lờng trớc.
2.3.2. Lợi thế của các nớc đang phát triển đang bị yếu dần
Nền kinh tế thế giới đang chuyển mạnh từ nền kinh tế công nghiệp sang
nền kinh tế tri thức. Do vậy mà những yếu tố đợc coi là lợi thế của các nớc ĐPT
nh tài nguyên, lực lợng lao động dồi dào, chi phí lao động thấp... sẽ yếu dần đi,
còn u thế về kỹ thuật - công nghệ cao, về sản phẩm sở hữu trí tuệ, về vốn lớn... lại
đang là u thế mạnh của các nớc phát triển. Ba dòng luân chuyển toàn cầu là kỹ
thuật - công nghệ, thông tin và vốn đang trở thành động lực thúc đẩy TCH, KVH.
Trong quá trình đó, lợi thế so sánh của các nớc cũng biến đổi căn bản: trên phạm
vi toàn cầu lợi thế đang nghiêng về các nớc phát triển vì ở đó dang có u thế về trí
tuệ, hàm lợng công nghệ cao và vốn lớn. Các nớc ĐPT đang bị giảm dần u thế do
lợi thế về lao động rẻ, tài nguyên phong phú... đang bị suy yếu. Và các n ớc càng

kém phát triển thì càng phải chịu nhiều thua thiệt và rủi ro do sự suy giảm về lợi
thế so sánh gây ra. Đó là thách thức cho các nớc đi sau. TCH, KVH trong khi làm
tăng vai trò của các ngành công nghiệp, dịch vụ, nhất là những ngành có công
nghệ cao, lao động kỹ năng... thì sẽ giảm tầm quan trọng của các hàng hoá sơ chế
và lao động không kỹ năng. Cuộc cách mạng công nghệ sinh học, tin học, điện
tử... làm giảm tầm quan trọng của các mặt hàng công nghệ thô. Do đó, các nớc
ĐPT, trớc đây đợc coi là giàu có, đợc u đãi về tài nguyên thiên nhiên, thì ngày nay
đang trở thành những nớc nghèo. Sự tiến bộ về khoa học - công nghệ không chỉ
làm thay đổi cơ cấu, mà còn làm thay đổi về lợi thế so sánh giữa các nớc phát
triển và đang phát triển. Các ngành công nghiệp hiện đại sử dụng ngày càng ít tài
nguyên thiên nhiên, do đó, tài nguyên thiên nhiên không còn là lợi thế lớn, không
còn là yếu tố cạnh tranh quan trọng. Trong nền kinh tế hiện đại, chỉ có công nghệ
tri thức, kỹ năng tinh xảo đợc coi là các nguồn lực có lợi thế so sánh cao. nh vậy,
các nớc ĐPT, các nhà xuất khẩu hàng hoá sơ chế và lao động không kỹ năng ngày
càng bị rơi vào tình thế bất lợi. Hơn nữa, TCH buộc các nớc ĐPT hoạt động theo
nguyên tắc của thị trờng toàn cầu, làm hạn chế tính hiệu quả của chính sách phát
triển quốc gia của họ. Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, tầm quan trọng của
nguyên liệu thô và lao động kỹ năng thấp đang giảm dần, trong khi lao động kỹ

17


năng và tri thức ngày càng trở nên quan trọng. Lợi thế đang ngày càng nghiêng
dần về phía các nớc phát triển.
2.3.3. Sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu kém
TCH, KVH đã làm cho vấn đề cạnh tranh toàn cầu trở nên ngày càng quyết
liệt. Xuất phát điểm và sức mạnh của mỗi quốc gia khác nhau, nên cơ hội và rủi
ro của các nớc là không ngang nhau. Nền kinh tế của các nớc ĐPT dễ bị thua
thiệt nhiều hơn trong cuộc cạnh tranh không ngang sức này. Càng phải phá bỏ
hàng rào bảo hộ thì thách thức đối với các nớc ĐPT càng lớn. Chính sự yếu kém

về kỹ thuật, công nghệ, vốn, kỹ năng tổ chức nền kinh tế của các n ớc ĐPT sẽ làm
cho chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nớc ĐPT với các nớc phát triển sẽ
ngày càng cách xa hơn. Từ đó cho thấy rằng: việc áp dụng nguyên tắc cạnh tranh
bình đẳng cho các nớc có trình độ kinh tế khác xa nhau thực chất là một sự bất
bình đẳng. Trên một sân chơi ngang bằng, cạnh tranh bình đẳng những nền
kinh tế lớn mạnh, những công ty có sức mạnh nhất định sẽ chiến thắng những nền
kinh tế còn kém phát triển, những công ty còn nhỏ yếu. Tính chất bất bình đẳng
trong cạnh tranh quốc tế hiện nay đang đem lại những thua thiệt cho các n ớc
ĐPT.
2.3.4. Phân hoá giàu nghèo giữa hai nhóm nớc: phát triển và đang phát triển
tăng lên
Quá trình TCH, KVH là quá trình làm tăng thêm sự phân hoá giàu nghèo
giữa hai nhóm nớc: phát triển và đang phát triển. Hiện nay các nớc phát triển
đang nắm giữ 3/4 sức sản xuất của toàn thế giới, 3/4 phân ngạch mậu dịch quốc
tế, là nơi đầu t và thu hút chủ yếu các luồng vốn FDI. Các Công ty xuyên quốc
gia lớn nhất thế giới cũng chủ yếu nằm ở các nớc phát triển. Các nớc này cũng
nắm giữ hầu hết các công nghệ hiện đại nhất, các phát minh, sáng chế, bí quyết
và các sản phẩm chất xám khác. Đây cũng là nơi liên tục thu hút đợc "chất xám"
của toàn thế giới. Ngoài ra các thiết chế kinh tế, tài chính, tiền tệ, thơng mại quốc
tế nh WTO. IMF, WB... đều nằm dới sự chi phối của các nớc phát triển, đứng đầu
là Mỹ. Với những sức mạnh kinh tế to lớn nh vậy, các nớc phát triển đang chi
phối nền kinh tế toàn cầu. Còn các nớc ĐPT thì nền kinh tế cha đủ sức để chống
đỡ đợc vòng xoáy của cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới. Do vậy mà các nớc
18


ĐPT ngày càng bị nghèo đi so với tốc độ giàu nhanh của các nớc phát triển. Hiện
nay, 24 quốc gia phát triển chiếm khoảng 17% dân số thế giới thì chiếm tới 79%
giá trị tổng sản lợng kinh tế quốc dân toàn thế giới; còn các nớc ĐPT chiếm 83%
dân số thế giới thì chỉ chiếm 21% giá trị tổng sản lợng kinh tế quốc dân toàn thế

giới; 20% số dân thế giới sống ở những nớc thu nhập cao tiêu dùng 86% số hàng
hoá của toàn thế giới. 20% số dân nghèo nhất thế giới chỉ chiếm 1,1% thu nhập
toàn thế giới.
2.3.5. Môi trờng sinh thái ngày càng xấu đi
Việc chuyển dịch những ngành đòi hỏi nhiều hàm lợng lao động, tài
nguyên... nhiều những ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trờng sang các nớc
ĐPT; việc các nhà t bản nớc ngoài đầu t vào các nớc ĐPT ngày càng trở nên xấu
đi nhanh chóng. Hơn nữa, trong quá trình TCH sự phát triển của các nớc phát
triển không chỉ dựa vào tài nguyên giá rẻ, sức lao động rẻ, thị trờng giá rẻ, hàng
hoá và dịch vụ rẻ; mà còn dựa vào đầu độc môi trờng sinh thái ở các nớc ĐPT. 2/3
rừng của thế giới đang bị phá huỷ và đang mất đi với tốc độ mỗi năm 16 triệu ha.
Toàn thế giới mỗi năm có khoảng 10 triệu ngời chết vì không khí bị ô nhiễm, thì
90% số ngời đó là ở các nớc ĐPT. Ngoài ra, mỗi năm còn có khoảng 25 triệu ngời
bị trúng độc vì thuốc trừ sâu, 5 triệu ngời bị chết vì nhiễm bệnh do nớc bị nhiễm
bẩn...
3. Tính tất yếu phải phát huy lợi thế so sánh quốc gia trong bối cảnh
toàn cầu hóa, khu vực hóa.
TCH, KVH là xu thế khách quan do sự phát triển cao của lực lợng sản xuất
xã hội, trớc hết là những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ quy
định. TCH, KVH không chỉ là thách thức nghiêm trọng, mà còn là cơ hội cho các
nớc ĐPT. Do vậy, các nớc ĐPT tất yếu phải tham gia quá trình TCH, KVH. Nhng
vấn đề là biết chủ động hội nhập từng bớc vững chắc.
Quá trình TCH, KVH đòi hỏi nền kinh tế các nớc ĐPT phải theo mô hình
kinh tế thị trờng mở, hội nhập quốc tế. Nhng thực hiện mở cửa nền kinh tế, hội
nhập kinh tế quốc tế phải thực sự chủ động, thận trọng và từng bớc vững chắc.
Thực hiện tự do hoá nền kinh tế một cách quá nhanh sẽ dẫn đến hậu quả to lớn.

19



Các nớc ĐPT cần thấy rằng nội lực trong nớc là nhân tố tiên quyết quyết định,
còn ngoại lực là nhân tố hết sức quan trọng không thể thiếu. Một nền kinh tế,
nhất là ở các nớc ĐPT, không thể phát triển bền vững nếu chỉ dựa vào vốn bên
ngoài, phục vụ thị trờng nớc ngoài. Điều quan trọng nhất đối với các nớc ĐPT là
phải phát huy cao độ nội lực của mình, đồng thời thu hút đầu t nớc ngoài với cơ
cấu hợp lý, đúng mục đích. Mở rộng thị trờng xuất khẩu là vô cùng quan trọng,
nhng đồng thời phải chú ý đúng mức đến thị trờng trong nớc. Thị trờng trong nớc
là cơ sở để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế và thực hiện công bằng
xã hội.
Các quốc gia ĐPT nói chung, với Việt Nam nói riêng cần hiểu và nhận
thức một cách rõ ràng về việc phát huy lợi thế so sánh quốc gia là điều tất yếu.
Nó không chỉ giúp nền kinh tế phát triển, mà còn giúp mỗi nớc nâng cao tầm ảnh
hởng của mình trên trờng thế giới. Việc nâng cao lợi thế so sánh quốc gia phải đợc trú trọng từ ngành trở đi. Mỗi nớc cần phải có những chính sách, chủ chơng
phát triển cụ thể cho từng ngành mà nớc mình đang có lợi thế so sánh so với các
quốc gia khác trên thế giới.
Với Việt Nam, một trong những ngành công nghiệp mà chúng ta có lợi thế
so sánh quốc gia là ngành công nghiệp dệt may. Sau đây, luận văn sẽ đề cập tới
vấn đề phát huy lợi thế so sánh quốc gia của Việt Nam trong lĩnh vực dệt may.

CHƯƠNG II: PHÂN TíCH LợI THế SO SáNH
CủA NGàNH DệT MAY VIệT NAM
1. Giới thiệu về ngành Dệt may Việt Nam
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của ngành
Hiện nay ngành Dệt may trên thế giới đã đặt đợc những thành tựu vợt bậc
đó chính là thành quả đáng tự hào của quá trình hình thành và phát triển từ thời
xa xa của ngành này trên thế giới. Một mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển mạnh
mẽ của ngành dệt may là vào thế kỷ 18 khi máy Dệt ra đời ở nớc Anh, từ đó sức
lao động đã đợc thay thế bằng máy móc nên năng xuất dệt vải tăng cha từng thấy
trong lịch sử loài ngời. Và bắt đầu từ khi cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra thì
các thành tựu khoa học kỹ thuật đợc chuyển giao và có mặt ở nhiều nớc trên thế


20


giới. Kinh tế đời sống xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu ăn mặc không chỉ
dừng lại ở chỗ chỉ để phục vụ cho việc bảo vệ cơ thể, sức khỏe con ngời mà còn
để làm đẹp thêm cho cuộc sống.
ở Việt Nam, mặc dù vẫn là một nớc nghèo, đang phát triển nhng so với
ngành Dệt may trên thế giới thì ngành Dệt may trong nớc cũng có rất nhiều điểm
nổi bật. Trớc đây, vào thời phong kiến khi máy móc, khoa học kỹ thuật cha phát
triển ở nớc ta thì ngành dệt may Việt Nam đã hình thành từ ơm tơ, dệt vải với
hình thức đơn giản thô sơ nhng mang đầy kỹ thuật tinh sảo và có giá trị rất cao.
Sau đó ơm tơ dệt vải đã trở thành một nghề truyền thống của Việt Nam đợc
truyền từ đời này sang đời khác nhờ vào những đôi bàn tay khéo léo của ngời phụ
nữ Việt Nam. Dù những công việc đó rất đơn giản nhng chính những nghề truyền
thống này đã tạo ra một phong cách rất riêng cho ngành Dệt may Việt Nam mà
không một nớc nào có đợc.
Ngành Dệt may xuất khẩu Việt Nam bắt đầu phát triển từ những năm 1958
ở miền Bắc và đến năm 1970 ở miền Nam, nhng mãi tới năm 1975 khi đất nớc
thống nhất, ngành Dệt may mới đợc ổn định. Nhà máy đợc hình thành ở cả ba
miền: Bắc, Trung, Nam. Các nhà máy này đã thu hút và giải quyết công ăn, việc
làm cho hàng vạn lao động. Khi đất nớc vừa thoát khỏi ách thống trị, đang còn
trong tình trạng kinh tế trì trệ kém phát triển thì các nhà máy của ngành đóng một
vai trò rất to lớn đối với đất nớc.
Lúc đầu, các nhà máy chỉ sản xuất hàng hóa để phục vụ nhu cầu trong nớc.
Sản lợng sản xuất ra không nhiều vì lúc đó máy móc, thiết bị còn lạc hậu, toàn là
những máy cũ nhập từ các nớc xã hội chủ nghĩa; hơn nữa trình độ quản lý cũng
còn rất hạn chế. Ngay cả hàng hóa sản xuất để phục vụ cho nhu cầu trong n ớc
cũng không đáp ứng đủ yêu cầu về chất lợng, mẫu mã còn nghèo nàn ít ỏi.
Thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1985 nền kinh tế nớc ta đang hoạt động theo

có chế tập trung bao cấp, đầu vào và đầu ra của sản xuất đợc cung ứng theo chỉ
tiêu của Nhà nớc, việc sản xuất và quản lý theo ngành khép kín và hớng vào nhu
cầu tiêu dùng nội địa là chính, xuất khẩu trong giai đọng này chỉ thợc hiện trong
khuôn khổ Hiệp định và Nghị định th của nớc ta kí kết với khu vực Đông Âu
Liên Xô trớc đây. Do đó, ngành Dệt may Việt Nam xuất khẩu đi nớc ngoài chủ
yếu là sang thị trờng Liên Xô và thị trờng Đông Âu. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu
chủ yếu là gia công, hàng bảo hộ lao động cho hai thị trờng này với nguyên liệu
và thiết bị do họ cung cấp. Sản lợng dệt may cho tới năm 1980 đạt 50 triệu sản
phẩm các loại, 80% xuất sang Liên Xô còn lại là Đông Âu và khu vực II.

21


Đến cuối năm 1990, khi hệ thống các nớc xã hội chủ nghĩa bị tan rã nớc ta
rơi vào thế hoàn toàn cô lập so với nhiều nớc lớn mạnh khác, thị trờng xuất khẩu
bị ảnh hởng mạnh mẽ. Nền kinh tế nớc ta trở nên đình trệ, thất nghiệp tăng, nhiều
xí nghiệp bị đóng cửa, ngành dệt may cũng không thoát khỏi tình trạng này.
Cũng thời gian đó, Đảng và Nhà nớc ta bắt đầu chính sách đổi mới nền
kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang cơ chế quản lý tự hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Thời kì này, ngành Dệt may gặp nhiều khó
khăn phải đối mặt với việc: thiếu vốn, thiếu công nghệ, đặc biệt thiếu đối tác đầu
mối tiêu thụ hàng hóa. Trong những năm đó ngành đã phải đa ra nhiều chiến lợc,
biện pháp để duy trì sản xuất, đảm bảo cung cấp sản phẩm cho thị trờng nội địa
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đồng thời tự lo vốn đổi mới thiết bị, tăng cờng thiết bị
chuyên dùng, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý tổ
chức.
Giai đoạn 1990 1995, nhờ có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành Dệt may
Việt Nam. Mặc dù phát triển chậm hơn so với các nớc láng giềng Châu á, nhng
ngành đã tự đứng dậy vơn lên, phát triển một cách đầy ấn tợng. Bớc đầu năm

1993 kim ngạch xuất khẩu đạt 350 triệu USD và cuối năm 1997 xuất khẩu đạt
1,35 tỷ USD. Không dừng lại ở con số này, hàng dệt may xuất khẩu đã trở thành
một trong 10 mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam nằm trong chiến lợc
phát triển CNH, HĐH của đất nớc.
Giai đoạn 1995 tới nay, tốc độ phát triển của ngành Dệt may Việt Nam
tăng một cách nhanh chóng. Ngành dệt may Việt Nam đã có những bớc tiến đáng
kể trong những năm vừa qua. Xuất khẩu hàng dệt may cũng đạt đợc những kết
quả tăng trởng khá ấn tợng. Tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may đã tăng liên tục
từ mức 1,15 tỷ USD vào năm 1996 lên gần 2 tỷ USD vào năm 2001 và xấp xỉ 7,8
tỷ USD vào năm 2007 và khoảng 9,1 tỷ USD vào năm 2008. Trong năm 2009, dới
tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, ngành dệt
may đạt giá trị xuất khẩu gần 9,2 tỷ USD, vẫn tăng khoảng 1% so với năm 2008.
Đáng chú ý, giá trị xuất khẩu đã tăng khá nhanh kể từ năm 2002 đến nay, với mức
tăng trung bình trong giai đoạn 2002-2008 khoảng 22%/năm.
Việc mở rộng tiếp cận thị trờng xuất khẩu cũng góp phần tạo điều kiện cho
ngành dệt may không ngừng lớn mạnh. Trong giai đoạn 2000-2006, ngành đã tạo
thêm việc làm cho khoảng 600.000 lao động. Tính theo giá so sánh (năm 1994),

22


trong giai đoạn 2000-2008, giá trị sản xuất của ngành dệt đã tăng gần 2,7 lần, từ
gần 10.040 tỷ đồng lên hơn 26.950 tỷ đồng. Ngành may mặc thậm chí còn đạt đợc tốc độ tăng trởng nhanh hơn, từ mức 6.040 tỷ đồng lên gần 26.620 tỷ đồng.
1.2.

Vai trò của ngành Dệt may trong nền kinh tế

Công nghệ Dệt may thờng đợc gắn với giai đoạn phát triển ban đầu của
nền kinh tế và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình công nghiệp hoá ở nhiều nớc.
Ngành công nghệ Dệt may có khả năng tạo nhiều việc làm cho ngời lao động,

tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề phát triển cho các ngành công nghiệp
khác, góp phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình chính trị xã hội.
Công nghệ Dệt may có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của các ngành
công nghiệp khác. Khi Dệt may là ngành công nghiệp hàng đầu của nền kinh tế,
nó sẽ cần một khối lợng lớn nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực khác và vì
thế tạo điều kiện để đầu t và phát triển các ngành kinh tế này. Ngợc lại, công
nghiệp dệt lớn mạnh sẽ là động lực để công nghiệp may và các ngành khác sử
dụng sản phẩm dệt làm nguyên liệu phát triển theo.
Vai trò của ngành Dệt may đặc biệt to lớn đối với kinh tế của nhiều quốc
gia trong điều kiện buôn bán hàng hoá quốc tế. Xuất khẩu hàng Dệt may đem lại
nguồn thu ngoại tệ lớn để mua máy móc thiết bị, hiện đại hoá sản xuất, làm cơ sở
cho nền kinh tế cất cánh. Điều này đặc biệt thể hiện rõ trong lịch sử phát triển
kinh tế của các nớc nh: Anh, Nhật, NICs, Trung Quốc, Nam á và Đông Nam á.
ở các nớc đang phát triển hiện nay, công nghệ Dệt may đang góp phần
phát triển nông nghiệp và nông thôn thông qua tăng trởng sản xuất bông, đay, tơ
tằm và là phơng tiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang
kinh tế công nghiệp. ở các nớc công nghiệp phát triển, công nghệ Dệt may đã
phát triển đến trình độ cao hơn, sản xuất những sản phẩm cao cấp có giá trị gia
tăng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của ngời tiêu dùng.
2. Phân tích lợi thế so sánh của ngành Dệt may Việt Nam

23


Thực tế cho thấy trong vài năm gần đây quần áo, sản phẩm của ngành
dệt may do các cơ sở trong nớc sản xuất, chất lợng ngày càng đợc nâng cao,
mẫu mã phong phú đa dạng, tiêu thụ với khối lợng lớn trên thị trờng. Nhiều
ngời tiêu dùng đã nhận xét: trong khi chất lợng hàng hoá không kém hàng
ngoại thì kiểu dáng và mẫu mã lại phù hợp hơn, giá cả rẻ hơn. Những thành
tựu mà ngành dệt may xuất khẩu đã đạt đợc trong thời gian gần đây chủ yếu là

nhờ vào nhiều yếu tố thuận lợi sẵn có của Việt Nam.
2.1.

Điều kiện các yếu tố sản xuất của ngành dệt may

Với số dân trên 80 triệu ngời, tỷ lệ nữ giới lại rất lớn, đó là đội ngũ lao
động rất phù hợp cho ngành dệt may, một ngành đòi hỏi sự tỉ mỉ khéo léo, cần
mẫn. Ngời dân Việt Nam đặc biệt là phụ nữ Việt Nam nổi tiếng là những ngời
siêng năng chuyên cần, thông minh, nhanh nhẹn tháo vát, là điều kiện thuận
lợi cho ngành dệt may Việt Nam. ở Việt Nam giá nhân công thấp ở mức dới
2,5 USD/giờ (thuộc loại thấp nhất trong khu vực). Chi phí đầu t thấp nhờ có
sẵn nhà xởng cho thuê với giá rẻ của các tổ chức Nhà nớc và tiếp cận đợc
nhiều chủng loại thiết bị cơ bản không đắt tiền mới cũng nh đã qua sử dụng
của một số nớc thì chi phí sản xuất dệt may của Việt Nam là thấp 0,08 USD
(cfsx/phút) (CFSX: chi phí sản xuất) thấp hơn mức bình quân là 0,13 USD
bằng chi phí sản xuất ở Banglades, thấp hơn so với Trung Quốc (0,09 USD ).
Bảng giá thành sản xuất tính theo các nớc
Nớc

Chi phí sản xuất (USD)
(không gồm chi phí vận chuyển)

Xu hớng

Trung Quốc

0,09

ổn định


Hồng Kông

0,19

ổn định

Thái Lan

0,16

Tăng

Đài Loan

0,2

Tăng mạnh
24


Indonesi

0,10

ổn định

Việt Nam

0,08


ổn định

Trung Bình

0,13

Nguồn: Phân tích chi phí sản xuất SECO
Ngành dệt may là ngành không đòi hỏi phải có nhiều vốn đầu t lớn. Để
có thể xây dựng chỗ làm việc cho ngành dệt may thì vốn bỏ ra không nhiều và
thu hồi vốn cũng khá nhanh. Đối với Việt Nam một quốc gia còn nhiều khó
khăn về vốn đầu t thì đây là một ngành rất thích hợp để phát triển kinh tế.
Cũng chính vì thế mà các cơ sở sản xuất dệt may xuất khẩu ngày càng tăng và
phát triển mạnh.
Ngoài ra, các công ty trong khu vực đóng một vai trò quan trọng trong
việc cung cấp các mối liên kết marketing thiết yếu với thị trờng tiêu thụ và
cung cấp gần nh toàn bộ nguyên liệu cần thiết. Các đối tác thơng mại khu vực
Châu á và liên minh Châu Âu (EU) đã đem đến cho Việt Nam những cơ hội rất
lớn trong việc tiếp cận thị trờng nớc ngoài, điều này ý nghĩa rất quan trọng đối
với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2.

Vai trò của cơ hội

Ngành dệt may là một trong những ngành có tốc độ tăng trởng nhanh và ổn
định trong nhiều năm qua, đóng vai trò quan trong trong quá trình phát triển kinh
tế-xã hội của Việt Nam. Trong cạnh tranh quốc tế, đây cũng là ngành mà Việt
Nam có thế mạnh - Việt Nam là một trong số 10 quốc gia có kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới.
Tổng kim ngạch hàng dệt may năm 2008 đạt 9,12 tỷ USD, tăng 18% so với
năm 2007. Tính đến hết năm 2009, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 9,2 tỷ

USD, dẫn đầu về mặt giá trị xuất khẩu trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực,
tăng 1% so với năm 2008. Các thị trờng nhập khẩu dệt may chính của nớc ta: Hoa
Kỳ, EU, Nhật Bản, Đài Loan, Canada.

25


×