Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Áp dụng thuế chổng bủn phủ giá trung thương mại quốc tế kinh nghiệm các nước và bài học đoi với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.69 KB, 65 trang )

2. Mục đích nghiên cứu

LỜI MỒ ĐẦU
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về thuế chống bán phá
1. Tính tất yếu của đề tài
giá, Hiệp định chống bán phá giá của WTO cũng nhu thực trạng áp dụng thuế
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có những bước
chống bán phá giá trên thế giới và Việt Nam trong thời gian qua trong bối cảnh hội
phát triên đáng kê, đạt được nhiêu thành tựu quan trọng trong phát triên kinh tê - xã
hội.
cáctế,hoạt
động hội
tế quốc
trò làm
và vịcơthế
nhập Thông
kinh tếqua
quốc
bài nghiên
cứunhập
rút rakinh
những
đánh tế,
giá vai
cụ thể
sở của
cho Việt
việc
Nam ngày càng được nâng cao. Trong thế giới ngày càng phụ thuộc, gắn bó chặt
đua ra nhũng giải pháp nhàm nâng cao hiệu quả áp dụng thuế chống bán phá giá tại
chẽ và tác động lẫn nhau thì nhu cầu giao lưu văn hóa, họp tác kinh tế nhằm tăng


cường
sự trong
hiểu biết
để cùng
phát
triển
vì lợi
ích dân tộc càng trở nên cấp
Việt Nam
điều lẫn
kiệnnhau
hội nhập
kinh tế
quốc
tế hiện
nay.
thiết.3.Với
một
môi
trường
quốc
tế
thuận
lợi
như
vậy,
Việt
Nam đang từng bước đẩy
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
nhanh và tiến sâu hơn vào quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu đề tạo điều kiện thuận

Đốitrình
tuợngphát
của triên
đề tàiđât
là việc
ápTuy
dụngnhiên
thuế chống
bán hội
phánhập
giá. bên cạnh việc tạo
lợi cho- quá
nước.
quá trình
ra những
cơ hội
phát triên
- Phạm
vi nghiên
cứu: cũng đạt ra cho các quôc gia những thách thức không
nhỏ, đặc biệt là trong vấn đề cạnh tranh và một loạt các biện pháp phòng vệ đã được
về mặt
không
gian,
đề pháp
tài tập
triểngiá.
khai
áp dụng
thuế

hình thành
trong
đó có
biện
phitrung
cạnh nghiên
tranh đócứu
là việc
bán phá
Trong
thời gian
gần
đây,
bán
đang
xuEU,
hướng
trên thế giới, gây thiệt
chống
báncác
phávụ
giákiện
ở một
số phá
nuớcgiá
nhu:
HoacóKỳ,
và ởgia
Việttăng
Nam.

hại đáng kể cho ngành thương mại toàn cầu. Trước tình hình đó, hầu hết các nước
về mặt
trạng luật
đuợcquy
phânđịnh
tíchvề
vớivấn
cácđềsố này
liệu nhằm
từ nămbảo
2004
đều xây
dựngthời
hệ gian,
thốngphần
văn thực
bản pháp
vệ
ngành
sản
xuất
nội
địa

bảo
đảm
hoạt
động
kinh
doanh

lành
mạnh.
đến nay và định huớng cũng nhu giải pháp đến năm 2020.
năm 2004,
Việt Nam
4. Từ
Phương
pháp nghiên
cứuđã có Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập
khẩu vào Việt Nam do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành cũng như những Nghị
Phươngtưpháp
nghiên
trongmột
bài sốnghiên
cứuPháp
là phương
pháp dẫn
của
định, Thông
quy định
chicứu
tiết sử
việcdụng
thi hành
điều của
lệnh, hướng
cụ
việcduy
thực
cácchứng

vấn đề
liên nghĩa
quan duy
và cho
nay,Các
hệ phương
thống văn
bản
chủthể
nghĩa
vậtthi
biện
và chủ
vật đến
lịch sử.
pháp
cụ quy
thề
phạm pháp luật về chống bán phá giá của Việt Nam đã tương đối hoàn thiện. Nhờ
được
sửnước
dụngđang
bao tùng
gồm:bước
phương
phươngsản
pháp
phương
đó
Nhà

quảnpháp
lý cóphân
hiệu tích,
quả ngành
xuấttổng
kinhhợp,
doanh,
phát
triển
kinh
tế
đất
nước,
tạo
cho
cộng
đồng
doanh
nghiệp
một
môi
trường
kinh
doanh
pháp quy nạp và phương pháp thống kê.
an toàn,
lành mạnh,
thiêu
thiệt hại do các hoạt động bán phá giá hay trợ câp
5. Những

đóng giảm
góp của
đề tài
gây nên. Điều này đặt ra yêu cầu thực tế và cấp bách là Việt Nam cần thiết phải có
- Hệpháp
thốngtong
hóa thê
những
luận cơ
bảncao
về thuế
bándụng
phá giá
những biện
và vấn
hợpđềlýlýnhằm
nâng
hiệuchống
quả áp
thuế chống
bán phá -giáTổng
cho Việt
Nam
trong
hộihoạt
nhậpđộng
kinh thực
tế quốc
hiệnviệc
nay.áp dụng thuế

kết và
đánh
giáđiều
thựckiện
trạng
tiễntếcủa
Tù những lý do trên, đề tài: “Áp dụng thuế chổng bủn phủ giá trung thương
chốngquốc
bán phá
tại nghiệm
một số nước
mại
tế - giá
Kinh
các trên
nướcthếvàgiới
bàicũng
họcnhư
đoi của
với Việt
ViệtNam.
Nam” được chọn đê
nghiên cứu.
- Đe xuất phương hướng và giải pháp nhàm nâng cao hiệu quả áp dụng thuế
chống bán phá giá cho Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Kết cấu đề tài:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc áp dụng thuế chống bán phá giá.
Chương 2: Thực trạng áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới và ớ Việt
Nam.
Chương 3: Các giải pháp liên quan tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại

Việt Nam.


CHƯƠNG 1: Cơ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN
PHÁ GIÁ
1.1. Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của thuế chống bán phá giá
1.1.1.

Khái niệm bán phá giá và thuế chống bán phá giá

Bán phá giá: Trong ngôn ngừ tiếng Việt, “bán phá giá” thường được hiểu là
hành động bán một mặt hàng với giá thấp hơn giá hiện hành của mặt hàng đó trên
thị trường, làm cho nhũng người bán hàng khác phải hạ giá bán.
Như vậy ở đây có sự so sánh về giá trên cùng một thị trường. Tuy nhiên,
khái niệm bán phá giá trong thưong mại quốc tế hàm ý so sánh về giá ở hai thị
trường khác nhau: thị trường nước nhập khẩu và thị trường nước xuất khẩu, mặc dù
giá bán ớ thị trường tiêu thụ (nước nhập khâu) có thê không khác nhau, thậm chí có
thể xảy ra trường hợp giá bán cao hơn giá hiện hành.
Nhìn chung, các tài liệu quốc tế đều thống nhất hiện tượng “bán phá giá” xảy
ra khi hàng hoá xuất khấu được bán sang một nước khác với giá thấp hơn giá bán
tại thị trường nội địa (của nước xuất khẩu).
Thuế chống bán phá giá: là một sắc thuế mà nước nhập khấu đánh vào một
mặt hàng nhập khấu được bán phá giá với mục đích ngăn cản sự tiếp diễn của việc
bán phá giá đó để tránh gây thiệt hại cho ngành sản xuất mặt hàng tương tự ở trong
nước.
1.1.2.

Ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá

Tác động của việc bán phá giá được đánh giá một cách đơn giản theo hình

dưới đây.
Trước khi có việc hàng của nước khác được bán vào thị trường một nước với
giá thấp hơn giá hiện hành, cung và cầu mặt hàng đó cân bằng ở điểm E, với giá P1
và lượng tiêu thụ Ql, hoàn toàn là hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, khi có
nguồn hàng nước ngoài bán với giá thấp hơn là P2, lượng tiêu thụ tăng lên Q2,
trong đó lượng hàng sản xuất trong nước giảm xuống chỉ còn Q'2, lượng hàng nhập
khẩu là Q2-Q'2.


p

SF

Q'2

Q1

Q2

Đồ thị 1.1. Tác động của bán phá giá
(Nguôn: Tác giả tự tông hợp)
Từ hình này cho thấy thặng dư của người tiêu dùng tăng thêm một lượng
bàng diện tích hình thang ABDE, trong khi đó thặng dư của nhà sản xuất trong
nước giảm một lượng bằng diên tích hình thang ABCE. Như vậy có thề thấy tác
động của việc bán phá giá là: gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nhưng lại
mang lại lợi ích cho người tiêu dùng, về tổng thể, toàn xã hội được lợi bằng diện
tích tam giác CDE.
Xuất phát từ thành kiến cổ hữu, việc "bán phá giá" thường được coi là có tác
động tiêu cực, thường vì lý do làm giảm lợi nhuận của những người bán hàng khác
hoặc gây thiệt hại cho các nhà sản xuất cùng một mặt hàng của nước nhập khẩu, cho

nên người ta thường tìm biện pháp để chống lại hành động này. Tuy nhiên, cần phải
có sự phân tích thấu đáo bản chất của mọi trường hợp bán phá giá đe xem có phải
tất cả mọi hành động bán phá giá đều có hại hay không đê từ đó có biện pháp đối
phó thích ứng.
Có các trường hợp bán phá giá sau đây:
Thứ nhất, giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nước xuất khẩu
nhưng vẫn cao hon chi phí sản xuất;
Thứ hai, giá xuất khấu thấp hơn chi phí sản xuất và tất nhiên là thấp hơn giá
thị trường trong nước. Trong trường hợp này còn có thể xảy ra một số tình huống
khác nhau, tuỳ thuộc vào định nghĩa chi phí sản xuất: chi phí bình quân hay chi phí
"chi phí lề".


* Trường hợp thứ nhất: giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nhưng
cao hơn chi phí sản xuất.
Trường hợp này có thê xảy ra khi một hãng chiếm vị thế độc quyền hoặc gần
như độc quyền ớ thị trường nội địa xuất phát từ điều kiện tự nhiên hoặc do được
hưởng lợi thế từ hàng rào thương mại, nhưng phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất
khẩu. Trong trường hợp này, vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận, hãng đó sẽ lợi dụng
vị thế độc quyền của mình đê ấn định giá bán trong nước cao hơn, chừng nào thị
trường đó còn chấp nhận được. Trong khi đó, do phải cạnh tranh ở thị trường nước
xuất khẩu, hãng đó chỉ có thể bán với giá đang tồn tại ở thị trường đó. Như vậy đã
xảy ra việc bán phá giá như định nghĩa ớ trên.
Neu việc bán phá giá này không làm giá ớ thị trường nước nhập khấu thay
đổi (do cạnh tranh ở đây hoàn hảo), sẽ không làm ảnh hưởng đến lợi ích của nước
nhập khẩu, và vì thế sẽ không cần thiết phải có biện pháp chống lại.
Tuy nhiên, nếu việc bán phá giá này xảy ra với một lượng lớn và trong thời
gian dài, làm giảm giá ở thị trường nước nhập khẩu, sẽ gây tác động đến lợi ích của
nước nhập khẩu. Người tiêu dùng sẽ được lợi tù’ giá thấp, nhung ngược lại các nhà
sản xuất và công nhân trong ngành công nghiệp đó sẽ bị thiệt hại vì lợi nhuận và

lương bị giảm. Lợi ích cuối cùng của nước nhập khẩu phụ thuộc vào việc lợi ích của
người tiêu dùng có lớn hơn thiệt hại của người sản xuất và công nhân hay không.
Ngay cả trong trường hợp về tổng thể nước nhập khẩu bị thiệt hại cùng khó
có lý do để áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa của hãng đó
nhằm khắc phục thiệt hại bởi vì hãng đó có thể lập luận rằng do điều kiện thị trường
của nước nhập khẩu là cạnh tranh, bất kỳ hãng nào cũng có thể tham gia thị trường
đó và làm cho giá giảm xuống. Tuy nhiên, để khắc phục thiệt hại, nước nhập khẩu
có thế áp dụng các biện pháp được phép khác như tự vệ.
* Trường hợp thứ hai: Giá xuất khâu thấp hơn chi phí sản xuất.
Trước hết, đổ hiểu được ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá thấp hon chi
phí, cần phân biệt các loại chi phí. Thông thường, chi phí sản xuất được phân biệt
theo 2 loại: chỉ phỉ bình quân (average cost) và chi phí lề (margỉnal cost).


- Chi phí hình quân được tính bàng tổng tất cả các chi phí một hãng phải
chịu chia cho lượng sản phẩm sản xuất ra.
- Chi phỉ lề là chi phí phải bỏ ra đê sản xuất thêm một đon vị sản phấm.
Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại chi phí
sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng sản xuất, chỉ có một phần nhỏ
chi phí sản xuất là thay đổi khi lưọng sản xuất thay đồi. Chính chi phí lề là yếu tố
quyết định trong việc định giá của một hãng trong thời gian ngắn hạn khi phải chịu
chi phí nhất định để thâm nhập một thị trường.
Khi nhu cầu của thị trường bị giảm, kéo theo giá thị trường giảm, và các
hãng theo đó cũng phải giảm giá bán. Neu giá bán thấp hơn chi phí bình quăn,
hãng đó sè bị lỗ. Tuy nhiên, khi một phần chi phí là cố định không phụ thuộc vào
lượng sản xuất, mức độ lồ sẽ phụ thuộc vào lượng hàng bán ra và vào mức chi phí
lề. Ncu giá bán vẫn cao hơn chi phí lề, hãng vẫn tiếp tục bán với hy vọng sau một
thời gian ngắn thị trường sẽ phục hồi, hoặc chỉ đê giảm thiệt hại trước khi rút lui
khỏi thị trường đó. Đây là sự phản ứng rất bình thường của các hãng đối với sự thay
đồi của thị trường, kể cả các hãng nước ngoài và hãng nội địa.

Trong trường họp này, việc áp dụng một biện pháp chống hàng nhập khấu là
bất hợp lý vì như vậy sê đối xử không công bằng giữa hãng nội địa và hãng nước
ngoài. Tuy nhiên, một nước vẫn có thể áp dụng các chính sách hỗ trợ cho các hãng
nội địa giảm nhẹ thiệt hại dưới hình thức các biện pháp tự vệ.
* Cũng có những trường hợp các hãng bán với giá thấp hơn chi phí lề.
Trong các trường họp này không thể xem xét hành động của các hãng với mục tiêu
là nhàm tối đa hoá lợi nhuận mà vì các mục tiêu khác như:
- Chiếm lĩnh thị trường. Một hãng nước ngoài, với mục tiêu thiết lập vị thế
độc quyền ớ thị trường nội địa, thực hiện chính sách bán sản phấm của mình với giá
thấp hơn chi phí lề cho đến khi đây hết các đối thủ cạnh tranh khác ra khỏi thị
trường mặt hàng đó. Sau khi chiếm được thị trường, hãng đó lại nâng giá đổ khai
thác lợi thế độc quyền của mình. Ngoài tác động làm cho các nhà sản xuất trong
nước bị phá sản, hành động này còn làm giảm lợi ích của toàn xã hội như trong
trường họp độc quyền khác, và do vậy cần có biện pháp ngăn cản.


- Cạnh tranh giành thị phần. Một trong những biện pháp marketing các hãng
có thể sử dụng để cạnh tranh nhằm tăng thị phần trên một thị trường là bán với giá
thấp hơn chi phí lề trong một thời gian ngắn với hy vọng lượng hàng bán tăng trong
tương lai với giá bình thường sẽ bù đắp phần lồ.
Tóm lại, có rất nhiều trường hợp các hãng nước ngoài có thể xuất khẩu hàng
của mình sang thị trường nước khác với giá thấp hơn giá nội địa và thậm chí thấp
hơn cả chi phí sản xuất, nhưng không phải tất cả mọi trường hợp đều có thê gọi là
"bán phá giá" đổ áp dụng các biện pháp ngăn cản. Trong nhiều trường hợp làm như
vậy chỉ tạo ra một sự bảo hộ không cần thiết cho ngành sản xuất trong nước, làm
giảm lợi ích của người tiêu dùng cũng như của toàn xã hội.
1.1.3.

Vai trò của thuế chống bán phá giá đối vói bảo hộ sản xuất


Biện pháp được phép sử dụng trong chống bán phá là thuế theo tỷ lệ phần trăm.
Tác động về mặt lợi ích đối với xã hội của biện pháp này được phân tích như sau:
Khi một sắc thuế T được áp dụng, làm cho giá trong nước của sản phấm tăng
lên một lượng bàng T. Do vậy, với các yếu tổ về cầu của thị trường nội địa đối với
sản phẩm đó không đổi, lượng tiêu thụ giảm từ Qi xuống Ọ'i, trong đó lượng hàng
sản xuất trong nước tăng từ Q2 lên Q'2, lượng hàng nhập khấu giảm xuống chỉ còn
bằng Q'rQ'2- Như vậy có thể thấy rõ tác động bảo hộ của thuế chổng bán phái giá đối
với sản xuất trong nước. Các nhà sản xuất trong nước được hưỏng lợi rõ ràng khi giá trị
thặng dư của họ được gia tăng thêm một lượng bàng diện tích tú' giác ACJG.

(Nguồn: Tác giả tự tông hợp)


Tuy nhiên, cùng với việc các nhà sản xuất được hưởng lợi thì người tiêu
dùng lại bị thiệt hại: giá trị thặng dư của họ bị giảm một lượng bằng diện tích tứ
giác ABHG.
Nhà nước cũng được hướng lợi khi ngân sách thu vào từ thuế nhập khâu tăng
một lượng bằng diện tích hình chừ nhật MNHJ.
Thế nhưng, xét về tổng thể, toàn xã hội sẽ bị thiệt khi lợi ích mang lại cho
các nhà sản xuất trong nước và Nhà nước không thê bù đắp cho thiệt hại về lợi ích
của người tiêu dùng. Lượng thiệt hại của xã hội bằng diện tích tam giác CMJ cộng
diện tích tam giác NBH.
1.2. Giới thiệu hiệp định chống bán phá giá của WTO
Năm 1948 hệ thống thương mại đa biên được thiết lập với sự ra đời của Hiệp
định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Trải qua gần một nửa thế kỷ,
những qui định của GATT về thương mại đa biên, trong đó có qui định về chống
bán phá giá (Điều VI) tỏ ra chưa chặt chè. Cùng với sự ra đời của WTO, Hiệp định
Chống bán phá giá đã có những qui định chặt chẽ và chi tiết hơn nhiều so với Điều
VI của GATT. Theo Hiệp định này, nước nhập khẩu chỉ được áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá khi:

Hàng nhập khẩu bị bán phá giá;
Gây thiệt hại về vật chất cho ngành sản xuất trong nước; và
Cuộc điều tra phá giá được tiến hành theo đúng thủ tục.
Hiệp định Chổng bán phá giá của WTO qui định rất chi tiết nguyên tắc xác
định phá giá, cách tính biên độ phá giá và thủ tục điều tra phá giá như sau:
1.2.1.

Xác định việc bán phá giá

a. Định

nghĩa

phá

giá

Một sản phâm được coi là bị bán phá giá khi:
-

giá xuất khấu sản phấm đó thấp hơn giá có thê so sánh được trong điều kiện
thương mại thông thường (giá trị thông thường).

-

giá của sản phâm tương tự khi tiêu thụ ở thị trường nước xuât khâu:

WTO không đề cập đến trường hợp bán phá giá sản phẩm tương tự trong thị trường
nội địa của một nước.



Sản phẩm tưcmg tự (SPTT): là sản phẩm giống hệt hoặc có các đặc tính gần
giống với sản phẩm là đổi tượng điều tra.
Điều kiện thưong mại thông thường: không có định nghĩa. Ví dụ: khi giá
bán tại thị trường nội địa nước xuất khấu thấp hơn giá thành sản xuất thì có thê coi
như là không nằm trong điều kiện thương mại thông thường.
b. Nguyên tắc xác định phá giá:
Biên độ phá giá (BĐPG) = giá trị thông thường (GTTT) - giá xuất khẩu (GXK)


BĐPG > 0 có phá giá



BĐPG < 0 -ỳ không phá giá

Biên độ phá giá có thê tính bằng trị giá tuyệt đối hoặc theo phần trăm theo công
thức:
BĐPG = (GTTT-GXK) / GXK
c. Tính biên độ phá giá
• Cách tính GTTT:
Trường họp không có giá nội địa của SPTT ở nước xuất khẩu do:
-

SPTT không được bán nước xuất khẩu trong điều kiện thương mại thông
thường;
hoặc

-


có bán ở nước xuất khẩu nhưng trong điều kiện đặc biệt; hoặc

số lượng bán ra không đáng kế (< 5% số lượng SPTT bán ớ nước nhập khấu) thì”
GTTT = giá xuất khẩu SPTT sang nước thứ ba ; hoặc
GTTT = giá thành sản xuất + chi phí (hành chính, bán hàng,...) + lợi nhuận
Trường họp SPTT được xuất khâu tù’ một nước có nền kinh tế phi thị trường
(giá bán hàng và giá nguyên liệu đầu vào do chính phủ ấn định) thì các qui tắc trên
không được áp dụng đế xác định GTTT.
• Cách tính GXK:
GXK = giá mà nhà sản xuất nước ngoài bán SPTT cho nhà nhập khẩu đầu tiên.
Trường họp giá bán SPTT không tin cậy được do:
-

giao dịch xuất khau được thực hiện trong nội bộ công ty; hoặc

-

theo một thỏa thuận đền bù nào đó thì:


GXK = giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lần đầu tiên cho một người
mua độc lập ở nước nhập khẩu.
• So sánh GTTT và GXK:
Đe so sánh một cách công bàng GTTT và GXK, Hiệp định qui định nguyên
tắc so sánh như sau:
-

So sánh hai giá này trong cùng điều kiện thương mại (cùng xuất xưởng/bán
buôn^án lẻ), thường lấy giá ở khâu xuất xưởng;


-Tại cùng một thời điểm hoặc thời điểm càng gần nhau càng tốt.
Việc so sánh GTTT và GXK là cả một quá trình tính toán rất phức tạp, vì
không phải bao giờ cũng có sẵn mức giá xuất xưởng của GTTT và GXK mà chỉ có
mức giá bán buôn hoặc bán lẻ của SPTT ở thị trường nước xuất khẩu (GTTT+) và
giá tính thuế hải quan, giá họp đồng hoặc giá bán buôn/bán lẻ SPTT của nhà nhập
khẩu (GXK+) nên thường phải có một số điều chỉnh để có thể so sánh GTTT và
GXK một cách công bằng.
Điểu chính các chênh ỉêch trong:
-

Điều kiện bán hàng

-

Các loại thuế

-

Sô lượng sản phâm

-

Đặc tính vật lý của sản phâm

-

Những yếu tố khác ảnh hưởng đến việc so sánh hai giá
Ví dụ\ khi lấy giá bán SPTT cho một người mua độc lập ở nước nhập khẩu

làm GXK+ thì GXK sẽ được xác định bằng cách điều chỉnh như sau:

GXK = (GXK+) - (lợi nhuận) - (các loại thuế + chi phí phát sinh từ khâu
nhập khấu đến khâu bán hàng)
Cách so sánh:
-

Trung bình GTTT so với trung bình GXK; hoặc

-

GTTT (từng giao dịch) so với GXK (từng giao dịch); hoặc

-

Trung bình GTTT so với GXK (từng giao dịch)


1.2.2.

Xác định thiệt hại

a. Định nghĩa thiệt hại:
- Thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước (thiệt hại hiện
tại); hoặc
- Nguy cơ gây thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước
(thiệt hại tương lai); hoặc
- Làm trì trệ sự phát triển một ngành sản xuất trong nước (không có qui định
cụ thể)
Như vậy, để xác định thiệt hại cần xem xét các nhân tố sau:
*


Khối lượng hàng nhập khấu bị bán phá giá: có tăng một cách đáng kể không?

*

Tác động của hàng nhập khấu đó lên giá SPTT: Giá của hàng nhập khấu đó:
- Có rẻ hơn giá SPTT sản xuất ở nước nhập khẩu nhiều không?
- Có làm sụt giá hoặc kìm giá SPTT ở thị trường nước nhập khẩu không?
Việc khảo sát tác động của hàng nhập khấu bị bán phá giá đối với một ngành

sản xuất trong nước phải xem xét tất cả các yếu tố kinh tế có thể ảnh hưởng đến
ngành sản xuất đó, gồm những yếu tố sau:
- Năng suất
- Thị phần
- Biên độ phá giá
- Giá nội địa ở nước nhập khẩu
- Suy giảm thực tế và nguy cơ suy giảm doanh sổ bán hàng
- Số lượng hàng tồn kho
- Sản lượng
- Tình trạng thất nghiệp
- Lương
- Tác động tiêu cực đến luồng tiền
- Huy động năng lực
- Lợi nhuận
- Tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư
- Đầu tư


- Khả năng huy động vốn
- Tốc độ tăng trưởng
Khi xác định mối liên hệ giữa việc bán phá giá hàng nhập khâu và thiệt hại

cho một ngành sản xuất trong nước: cần tính đến những yếu tố khác (ngoài việc bán
phá giá), nếu các yếu tố này gây thiệt hại cho ngành sản xuất đó thì không được quy
thiệt hại của ngành sản xuất đó do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra.
• Nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước
Đê xác định nguy CO' gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước cần xem
xét:
- Tốc độ tăng nhập khẩu và khả năng tăng nhập khẩu trong tương lai.
- Khả năng tăng năng lực xuất khẩu của nhà xuất khẩu dẫn đến khả năng
tăng nhập khâu.
- Tình hình hàng nhập khẩu làm sụt giá SPTT ở nước nhập khẩu;
- Số lượng tồn kho SPTT ở nước nhập khẩu
1.2.3.

Ngành sản xuất trong nưóc

Ngành sản xuất trong nước là toàn bộ các nhà sản xuất trong nước sản xuất
ra SPTT hoặc một số nhà sản xuất có sản lượng chiếm đa số tổng sản lượng trong
nước Có thể xuất hiện một số trường hợp đặc thù dẫn tới việc xác định cụ thề ngành
sản xuất trong nước sau:
-

Nhà sản xuất và nhà xuất khẩu/nhập khẩu có liên quan với nhau: ngành sản xuất
trong nước là các nhà sản xuất còn lại.

-

Lãnh thổ nước nhập khẩu bị chia thành nhiều thị trường riêng: các nhà sản xuất

mỗi thị trường có thê coi là một ngành sản xuất riêng nếu:


+

Bán

toàn

bộ

hoặc

phần

lớn

sản

phấm

liên

quan

ra

thị

trường

đó;




+ Nhu cầu của thị trường đó đối với SPTT nhập khẩu tù' nước khác là không đáng kể.
1.2.4.

Nộp đơn yêu cầu tiến hành điều tra chống phá giá

Việc điều tra nhằm xác định sự tồn tại, mức độ và tác động của một sản
phấm bị bán phá giá sẽ được tiến hành khi:
Có đơn bàng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành
sản xuất trong nước đề nghị điều tra phá giá.


Không có đơn bàng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện
cho ngành sản xuất trong nước nhưng cơ quan điều tra có đầy đủ bàng chứng
về việc bán phá giá, thiệt hại và mối liên hệ giữa hai yếu tố này.
Đơn đề nghị điều tra phá giá phải bao gồm những thông tin sau:
Tên người nộp đơn, số lượng và giá trị của sản phẩm tương tự do người nộp
đơn sản xuất trong nước. Neu đơn được nộp đại diện cho ngành sản xuất trong nước
thì đơn phải nêu danh sách tất cả các nhà sản xuất sản phấm tương tự trong nước và
số lượng, giá trị của các sản phẩm tương tự' do các nhà sản xuất này sản xuất.
Mô tả sản phẩm đang nghi ngờ bị bán phá giá, xuất xứ hàng hóa, tên nhà
xuất khâu hoặc nhà sản xuất nước ngoài.
Giá sản phâm liên quan khi tiêu thụ ở thị trường trong nước sản xuât hoặc
nước xuất khẩu, hoặc giá mà sản phẩm liên quan được bán cho người mua độc lập
đầu tiên ở nước nhập khẩu.
Sô lượng nhập khâu của sản phâm đang bị nghi ngờ phá giá, ảnh hưởng của
việc nhập khẩu này lên giá sản phẩm tương tự ở thị trường nước nhập khẩu và ảnh
hưởng đối với ngành sản xuất trong nước.
Cơ quan điều tra sẽ xác minh tính chính xác và đầy đủ của các bằng chứng

nêu trong đơn để xác định xem đã có đủ lý do hợp lệ để tiến hành điều tra chưa. Cơ
quan điều tra sẽ không tiến hành điều tra phá giá trừ khi xác định được ràng đơn xin
điều tra được nộp bởi ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất
trong nước của sản phẩm tương tự, nghĩa là:
(i)

sản lượng sản xuất sản phẩm tương tụ’ của các nhà sản xuất trong nước ủng
hộ việc nộp đơn phải lớn hơn sản lượng của các nhà sản xuất trong nước
phản đối đơn; và

(ii)

sản lượng của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc nộp đơn phải chiếm ít
nhất 25% tông sản lượng sản phấm tương tự của ngành sản xuất trong nước.
Cuộc điều tra phá giá sẽ bị chấm dứt ngay lập tức nếu cơ quan điều tra xác

định được rằng:
i)

biên độ phá giá nhỏ hơn 2% giá xuất khấu; hoặc


ii)

số lượng nhập khẩu hàng bị nghi ngờ bán phá giá từ một nước nhỏ hơn 3%
tổng nhập khẩu sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu, trừ trường hợp từng
nước xuât khâu có lượng hàng nhập khâu dưới 3%, nhưng lượng hàng nhập
khâu của tât cả các nước xuât khâu chiêm trên 7% tông nhập khâu sản phâm
tương tự ở nước nhập khẩu.
Thủ tục hải quan vẫn được tiến hành trong khi điều tra phá giá. Trừ trường


hợp đặc biệt, một cuộc điều tra phá giá sè được tiến hành trong vòng 1 năm, và
trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được quá 18 tháng.
1.2.5. Thu thập thông tin
Cơ quan điều tra sẽ gửi thông báo cho tất cả các bên có quan tâm đến cuộc
điều tra phá giá đề nghị cung cấp bằng văn bản mọi bằng chứng liên quan đến cuộc
điều tra. Thời hạn trả lời câu hỏi điều tra là 30 ngày và có thể được gia hạn thêm 30
ngày hoặc lâu hơn nếu cần thiết.
Ngay khi bắt đầu điều tra, cơ quan điều tra sẽ gửi nguyên văn đơn đề nghị
điều tra cho các nhà xuất khẩu và cơ quan liên quan ở nước xuất khẩu và các bên
quan tâm khi có yêu cầu.
Trong suốt quá trình điều tra, cơ quan điều tra sẽ tạo đầy đủ điều kiện cho
các bên quan tâm bảo vệ quyền lợi của mình, gặp các bên có quyền lợi đối nghịch
đế trao đôi quan điểm và đưa ra thỏa thuận. Các bên quan tâm có quyền trình bày
các thông tin khác bàng miệng, nhưng sẽ chỉ được cơ quan điều tra lưu ý tới khi
được soạn lại bằng văn bản và gửi cho các bên quan tâm khác.
Bất kỳ thông tin nào có tính bí mật (chẳng hạn, bị đối thủ cạnh tranh lợi dụng
hoặc gây tác hại cho người cung cấp thông tin) hoặc được các bên cung cấp một
cách bí mật sẽ không được tiết lộ nếu không được bên cung cấp cho phép.
Cơ quan điều tra có thê tiến hành điều tra ớ nước ngoài nếu cần thiết đê
thâm định các thông tin cung cấp hoặc đê tìm hiếu thêm chi tiết với điều kiện được
sự đồng ý của các công ty liên quan và thông báo cho đại diện chính phủ nước này
và nước này không phản đối.
Cơ quan điều tra sẽ tính biên độ phá giá riêng cho từng nhà xuất khấu hoặc
nhà sản xuất sản phẩm đang bị điều tra. Truông hợp không tính được biên độ phá


giá riêng do số nhà xuất khẩu, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hoặc loại sản phẩm liên
quan quá lớn thì cơ quan điều tra có thể giới hạn diện điều tra tới một số nhà sản
xuất, xuất khấu hay nhập khấu hoặc giới hạn ớ một số loại sản phấm nhất định bằng

cách sử dụng mẫu thống kê, hoặc giới hạn ớ tỷ lệ phần trăm lớn nhất của khối lượng
hàng xuất khẩu từ nước liên quan.
Việc chọn các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu hoặc loại sản
phấm đê điều tra giới hạn sẽ được tiến hành trên cơ sở tham khảo ý kiến và có sự
đồng ý của các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu có liên quan.
Trong trường họp cơ quan điều tra giới hạn diện điều tra như nêu trên, họ
vẫn có thế tính biên độ phá giá riêng cho các nhà xuất khâu hoặc nhà sản xuất mà
ban đầu không được đưa vào diện điều tra nhưng đã cung cấp thông tin đúng thời
hạn.
Cơ quan điều tra sẽ tạo điều kiện cho người tiêu dùng sản phẩm đang điều tra
hoặc tô chức đại diện người tiêu dùng cung cấp thông tin liên quan đến cuộc điều
tra nếu sản phẩm được bán lẻ rộng rãi.
1.2.6.

Áp dụng biện pháp tạm thời

Biện pháp tạm thời có thê được áp dụng dưới các hình thức:
-

Thuế; hoặc

-

Đặt cọc khoản tiền tương đương với khoản thuế chống bán phá giá dự kiến; hoặc

-

Cho thông quan nhưng bảo lưu quyền đánh thuế và nêu rõ mức thuế nhập khấu
thông thường và mức thuế chống bán phá giá dự kiến sê áp dụng.
Trên thực tế, biện pháp tạm thời hay được áp dụng nhất là đặt cọc.


Điều kiện áp dụng biện pháp tạm thời:
i) CƠ quan điều tra tiến hành điều tra theo đúng thủ tục, gửi thông báo và tạo điều
kiện cho các bên quan tâm cung cấp thông tin và trình bày ý kiến;
ii) có kết luận sơ bộ về việc xảy ra bán phá giá và dẫn đến thiệt hại cho ngành sản
xuất trong nước; và
iii) cơ quan điều tra kết luận rằng biện pháp tạm thời là cần thiết đe ngăn chặn thiệt
hại trong quá trình điều tra.


Biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng sớm nhất là 60 ngày sau khi bắt đầu
điều tra và sẽ được duy trì càng ngắn càng tốt, không được quá 4 tháng hoặc trong
trường họp cần thiết thì cũng không được quá 6 tháng. Trường họp cơ quan điều tra
xác định được rằng khoản thuế thấp hơn biên độ phá giá đã đủ đê khắc phục thiệt
hại thì thời hạn áp dụng biện pháp tạm thời có thể là 6 tháng hoặc 9 tháng.
1.2.7.

Cam kết giá

Việc điều tra có thê ngừng hoặc kết thúc mà không cần áp dụng biện pháp
tạm thời hoặc thuế chống bán phá giá nếu một nhà xuất khẩu tự nguyện cam kết
tăng giá lên hoặc ngừng xuất khẩu phá giá vào khu vực thị trường đang điều tra và
được cơ quan điều tra nhất trí rằng biện pháp này sẽ khắc phục được thiệt hại. Mức
giá tăng không nhất thiết phải lớn hơn mà thường là nhỏ hơn biên độ phá giá nếu
như đã đủ đề khắc phục thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước.
Cơ quan điều tra sẽ không chấp nhận cho các nhà xuất khẩu cam kết giá nếu
thấy việc cam kết không khả thi, chăng hạn như khi số lượng nhà xuất khâu thực tế
quá lớn. Trong trường hợp này, cơ quan điều tra sẽ giải thích rõ lý do không chấp
nhận cam kết giá với các nhà xuất khẩu.
Neu cơ quan điều tra chấp nhận việc cam kết giá thì cuộc điều tra phá giá và

thiệt hại vẫn có thể được hoàn tất nếu nhà xuất khẩu muốn như vậy và cơ quan điều
tra đồng ý. Trong trường họp này, nếu điều tra đi đến kết luận là không có phá giá
hoặc không gây thiệt hại thì việc cam kết giá sẽ đương nhiên chấm dứt, trừ khi kết
luận trên được rút ra trong bối cảnh đã cam kết giá rồi. Trường hợp này, cam kết giá
sẽ được duy trì trong thời hạn họp lý.
Cơ quan điều tra có thể đề nghị nhà xuất khẩu cam kết giá nhưng nhà xuất
khẩu không bắt buộc phải cam kết.
Các cơ quan hữu quan của nước nhập khấu có thê yêu cầu bất kỳ nhà xuất
khấu nào đã chấp nhận cam kết giá cung cấp thông tin định kỳ về việc thực hiện
cam kết giá. Trường họp nhà xuất khẩu vi phạm cam kết giá, cơ quan điều tra có thể
lập tức áp dụng biện pháp tạm thời trên cơ sở các thông tin mà họ có (best
iníormation).


1.2.8.

Ap dụng thuê và thu thuê chông bán phá giá

Việc quyết định có đánh thuế chống bán phá giá hay không và đánh thuế
tương đương hay nhở hơn biên độ phá giá sè do cơ quan điều tra của nước nhập
khẩu quyết định.
Đối với một sản phẩm bị bán phá giá, cơ quan chức năng sẽ xác định biên
độ phá giá riêng cho từng nhà xuất khẩu/sản xuất. Thuế chống bán phá giá sè được
áp dụng cho từng trường họp, trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa hàng nhập
khẩu từ tất cả các nguồn được coi là gây thiệt hại, trừ trường họp đã cam kết giá.
Trị giá thuế chổng bán phá giá áp dụng sẽ không được vượt quá biên độ phá
giá.
Có 2 hình thức thu thuế chống bán phá giá:
- Kiểu tính thuế hồi tố (kiểu của Hoa Kỳ): việc tính mức thuế được căn cứ
vào sổ liệu của thời điểm trước khi điều tra (6 tháng - 1 năm). Sau khi điều tra, cơ

quan chức năng bắt đầu áp dụng một mức thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng
được một thời gian, nếu nhà nhập khẩu yêu cầu đánh giá lại mức thuế (do giá xuất
khẩu tăng lên) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xác định lại số tiền thuế phải nộp
trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được yêu cầu. Sau đó
mức thuế mới sê được áp dụng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng 90
ngày sau khi xác định lại mức thuế cuối cùng phải nộp.
- Kiểu tính thuế ấn định (kiểu của EU): cơ quan điều tra lấy số liệu của thời
điểm trước khi điều tra để tính biên độ phá giá và ấn định biên độ này cho cả quá
trình áp dụng thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng được một thời gian, nếu nhà
nhập khẩu đề nghị hoàn thuế với phần trị giá cao hơn biên độ phá giá (do giá xuất
khẩu tăng) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xem xét việc hoàn thuế trong vòng 12
tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được đề nghị hoàn thuế kèm theo
đầy đủ bàng chứng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng 90 ngày kể từ khi
ra quyết định hoàn thuế.
Thu thuế với hàng nhập khâu từ các nhà xuất khấu không điều tra:
Trường hợp số nhà xuất khẩu/sản xuất sản phẩm bán phá giá quá lớn, không
tính riêng biên độ phá giá được thì cơ quan chức năng sẽ giới hạn việc điều tra ở


một số nhà xuất khẩu/sản xuất nhất định trên cơ sở trao đổi với các nhà xuất
khẩu/sản xuất liên quan.
Mức thuế đối với hàng nhập khâu tù’ các nhà xuất khâu không điều tra không
được vượt quá bình quân gia quyền BĐPG của các nhà xuất khấu có điều tra.
Sau mỗi đợt rà soát, hàng nhập khẩu thuộc diện không điều tra sẽ được hoàn
lại khoản thuế bàng:
Bình quân gia quyền BĐPG (cũ) - bình quân gia quyền BĐPG (mới)
Khi có yêu cầu từ các nhà xuất khẩu không điều tra, cơ quan chức năng sẽ
tính lại mức thuế bàng:
Bình quân gia quyền GTTT (nhà XK có điều tra) - giá xuất khâu (nhà XK
không điều tra)

Phải loại trừ các biên độ bằng không và biên độ toi thiêu (2%) khỉ tính bình
quân gia quyền BĐPG.
Hàng nhập khâu mới, nghĩa là:
chưa được xuất khẩu sang nước nhập khẩu trong giai đoạn điều tra
nhập khẩu tù- nguồn không liên quan đến các nhà xuất khấu đang bị đánh
thuế chống bán phá giá sê được cơ quan chức năng rà soát đê xác định
BĐPG riêng và không bị đánh thuế chống bán phá giá trong thời gian tiến
hành rà soát.
Tuy nhiên, hàng nhập khẩu này có thể bị truy thu thuế kể từ ngày bắt đầu rà
soát nếu CƠ quan chức năng xác định được là có bán phá giá.
1.2.9.

Truy thu thuế

Các biện pháp tạm thời và thuế chổng bán phá giá chỉ được áp dụng với sản
phẩm được đưa ra bán sau thời điểm quyết định áp dụng biện pháp tạm thời (60
ngày sau khi điều tra) hoặc quyết định đánh thuế chống bán phá giá (1 năm - 18
tháng sau khi điều tra) có hiệu lực.
Có thể truy thu thuế trong các trường hợp sau:
(1)

quyết định đánh thuế chống bán phá giá được căn cứ vào thiệt hại vật chất;
hoặc


(2)

quyết định đánh thuế chống bán phá giá được căn cứ vào nguy cơ gây thiệt
hại và thiệt hại thực tế đã có thể xảy ra nếu không áp dụng biện pháp tạm
thời

Trong các trường hợp này có thế truy thu thuế kê từ ngày bắt đầu áp dụng biện
pháp tạm thời.
(3) có thể truy thu thuế đến tận 90 ngày trước khi áp dụng biện pháp tạm thời
nếu cơ quan chức năng xác định được:
(i)

có cả một quá trình bán phá giá gây ra thiệt hại hoặc nhà nhập khẩu đã
hoặc lẽ ra phải nhận thức được ràng nhà xuất khẩu đang bán phá giá
và việc bán phá giá đó có thê gây thiệt hại; và

(ii)

thiệt hại bị gây ra bởi khối lượng rất lớn hàng nhập khấu trong thời
gian ngắn trước khi áp dụng biện pháp tạm thời (trường hợp này nhà
nhập khẩu được phép trình bày ý kiến).

Tuy nhiên, không được truy thu thuế với sản phẩm được nhập khẩu trước
ngày bắt đầu điều tra.
Phải hoàn thuế trong nhũng trường họp sau:
1) Neu mức thuế cuối cùng xác định được thấp hơn mức thuế tạm thời đã thu thì
phải hoàn lại khoản chênh lệch cho nhà nhập khẩu, nếu cao hơn thì không được
thu
thêm.
2) Neu kết luận điều tra cuối cùng khẳng định việc bán phá giá sẽ có thể dẫn đến
thiệt hại hoặc làm chậm sự phát triển của ngành sản xuất trong nước thì thuế
chống
bán phá giá chỉ được đánh từ ngày ra kết luận điều tra cuối cùng và phải hoàn lại
số
tiền đặt cọc đã thu khi áp dụng biện pháp tạm thời.
3) Neu kết luận cuối cùng là không đánh thuế chống bán phá giá thì khoản tiền đặt

cọc khi áp dụng biện pháp tạm thời sẽ được hoàn trả.
1.2.10.

Rà soát

Sau khi áp dụng thuế chống bán phá giá một thời gian, cơ quan chức năng sẽ
tự tiến hành rà soát việc tiếp tục đánh thuế hoặc theo đề nghị của bất kỳ bên liến


-

nếu ngừng đánh thuế hoặc thay đổi mức thuế thì có dẫn đến thiệt hại không.
Cơ quan chức năng sẽ quyết định ngừng đánh thuế nếu, sau khi rà soát, xác

định được rằng không cần thiết tiếp tục đánh thuế nữa.
về nguyên tắc, thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng tối đa trong 5 năm.
Trước khi hết thời hạn trên, cơ quan chức năng sẽ tự tiến hành rà soát hoặc theo đề
nghị của đại diện ngành sản xuất trong nước. Neu như sau khi rà soát (thường trong
vòng 12 tháng), cơ quan chức năng xác định được là việc ngừng đánh thuê có thê
dẫn đến thiệt hại thì có thể tiếp tục đánh thuế.
1.2.11.

Thông báo công khai và giải thích các kết luận

Khi cơ quan điều tra thấy rằng đã có đầy đủ bằng chứng đê tiến hành điều tra
phá giá thì họ sẽ gửi thông báo cho nước hoặc các nước có sản phấm bị điều tra và
các bên có quan tâm khác. Thông báo này gồm những thông tin sau:
-

tên (các) nước xuất khẩu sản phẩm liên quan;


-

ngày bắt đầu điều tra;

-

căn cứ về hành vi phá giá ở trong đơn xin điều tra;

-

tóm tắt các yếu tố được coi là cơ sở xác định thiệt hại;

-

địa chỉ liên hệ đê liên lạc với đại diện của các bên;

-

thời hạn đưa ra quan điểm cho các bên.
Cơ quan điều tra phải gửi thông báo trong các trường hợp sau:

-

kết luận sơ bộ hay kết luận cuối cùng về việc có xảy ra phá giá hay không;

-

nhà xuất khẩu chấp nhận cam kết giá và khi chấm dứt cam kết giá;


-

áp dụng biện pháp tạm thời;

-

kết luận về cuộc điều tra và áp dụng, chấm dứt áp dụng thuế chổng bán phá giá.
Mỗi một thông báo như nêu trên phải được soạn dưới dạng một báo cáo

riêng, trong đó nêu đầy đủ các thông tin và kết luận về mọi khía cạnh cả về mặt
pháp lý và mặt thực tế.
Thông báo về việc áp dụng biện pháp tạm thời và biện pháp cuối cùng (thuế
chống bán phá giá) phải giải thích rõ kết luận sơ bộ hay kết luận cuối cùng về phá
giá và thiệt hại và phải bao gồm những thông tin như sau:


- tên (các) nhà cung cấp sản phẩm hoặc trường họp không có thông tin thì phải nêu
tên nước cưng cấp sản phẩm đó;
-

mô tả sản phâm;

- biên độ phá giá, giải thích phương pháp so sánh giá xuất khau với giá trị thông
thường;
-

chứng minh thiệt hại;

- lý do chính dẫn đến kết luận sơ bộ, lý do chấp nhận hoặc phản đối các kiến nghị
của các nhà xuất khẩu và nhập khấu.

1.2.12.

Co’ chế khiếu kiện độc lập

Tất cả những thành viên WTO mà luật pháp quốc gia có qui định về biện
pháp chống bán phá giá phải đảm bảo một cơ chế hành chính, trọng tài hoặc tòa án
độc lập với cơ quan điều tra nhàm rà soát lại các quyết định hành chính liên quan
đến việc ra kết luận cuối cùng về việc có áp dụng thuế chống bán phá giá hay không
và việc điều chỉnh thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá.
1.2.13.

Chống bán phá giá thay mặt nước thứ ba

Một nước thứ ba có thể nộp đơn đề nghị điều tra chống bán phá giá ở nước
khác. Đơn này phải nêu các thông tin về giá đê chứng minh rằng hàng nhập khâu bị
bán phá giá và gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước liên quan ở nước thứ ba.
Chính phủ nước thứ ba phải tạo mọi điều kiện cho cơ quan điều tra của nước nhập
khẩu điều tra các thông tin cần thiết.
Khi xử lý đơn của nước thứ ba, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu sẽ xem
xét tác động của việc bán phá giá nêu trong đơn tới toàn bộ ngành sản xuất liên
quan của nước thứ ba, nghĩa là không chỉ đánh giá thiệt hại do tác động của việc
bán phá giá đối với xuất khẩu của ngành đó sang nước nhập khẩu hay thậm chí đối
với toàn bộ xuất khấu của ngành đó.
Việc quyết định có tiến hành điều tra hay không sẽ do nước nhập khấu quyết

1.2.14.

Thành viên đang phát triển

Các thành viên phát triên của WTO sẽ lưu ý đến tình hình riêng của thành

viên đang phát triển khi xem xét áp dụng thuế chống bán phá giá.


1.2.15.

ủy ban chống bán phá giá

ủy ban chổng bán phá giá bao gồm đại diện các thành viên WTO được thành
lập nhằm thực hiện các nghĩa vụ qui định trong Hiệp định này và tạo điều kiện cho
các thành viên trao đổi với nhau về các vấn đề liên quan đến việc thực hiện Hiệp
định Chổng bán phá giá. ủy ban này họp ít nhất 2 lần mồi năm, Ban Thư ký WTO
sẽ thực hiện chức năng thư ký cho ủy ban này.
Các thành viên WTO phải thông báo cho ủy ban chống bán phá giá:
Ngay lập tức khi họ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời hay
lâu dài;
Nửa năm một lần (theo mẫu qui định) về các biện pháp chống bán phá giá
mà họ áp dụng trong vòng 6 tháng trước đấy. Các thành viên có thế tham
khảo thông báo này tại Ban Thư ký WTO;
Cơ quan nào ở nước mình có thấm quyền điều tra phá giá, luật qui định thủ
tục điều tra phá giá của nước mình.
1.2.16.

Trao đối và giải quyết tranh chấp

Các qui định trong Biên bản về Giải quyết Tranh chấp (DSƯ) của WTO sẽ
được áp dụng cho việc trao đôi và giải quyết tranh chấp liên quan đến Hiệp định
chống bán phá giá của WTO, trừ khi có qui định khác đi.
1.2.17.

Điều khoăn cuối cùng


Các thành viên WTO chỉ được áp dụng biện pháp đổi phó với hàng xuất
khẩu bị bán phá giá từ các nước thành viên khác theo qui định của GATT 1994 và
được diễn giải bởi Hiệp định này. Các Thành viên cũng phải đảm bảo luật, các qui
định và các thủ tục hành chính về chống bán phá giá của mình phù họp với Hiệp
định này.
1.3. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Ngày nay, cùng với quá trình phát triển kinh tế là việc gia tăng sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tự do hoá thương mại
và liên kết kinh tế đang là trào lưu noi bật thì hội nhập kinh tế quốc tế không những
ngày càng trở thành một xu thế khách quan mà còn đóng vai trò là một công cụ hũu
hiệu đế phát triên nhanh và bền vừng nếu được nắm bắt và vận dụng một cách tích


cực. Xu hướng chung hiện nay của các quôc gia và các tô chức kinh tê-tài chínhthương mại quốc tế là tăng cường mở cửa, bang giao kinh tế thông qua đàm phán
cắt giảm thuế quan, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cản trở thương mại, các hình
thức cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại, mở cửa các lĩnh vực thương
mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh để tạo
thuận lợi cho thương mại, v.v...
Phù họp với tiến trình đôi mới và đứng trước những đòi hỏi cấp bách của
tình hình quốc tế và kinh tế trong nước, Đại hội Đảng lần thứ VII đã chủ trương đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội
nhập quốc tế trong giai đoạn mới của nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII
(1996) đã quyết định “đấy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII (29/12/1997) đã nêu nguyên tắc hội nhập quốc
tế của ta là “tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế” và
nhấn mạnh nhiệm vụ “chủ động chuân bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật
pháp, và nhất là các sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh đề hội nhập thị
trường khu vực và quốc tế”. Tháng 4/2001, Đại hội Đảng IX đã tiếp tục khẳng định
đường lối hội nhập và phát triên kinh tế phù họp xu thế toàn cầu hoá với mục tiêu:

“Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quả họp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tụ’ chủ và định hướng
XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giừ gìn bản sắc văn hoá dân tộc,
bảo vệ môi trường”. Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị tháng 11/2001 về hội nhập
kinh tế quốc tế cũng đưa ra mục tiêu: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở
rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa...”
Với chủ trương, đường lối hội nhập của Đảng và Nhà nước nói trên, sau khi
khai thông quan hệ với các tô chức tài chính tiền tệ quốc tế như IMF, WB năm
1992, ngày 25/7/1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và ký Nghị định thư tham gia Hiệp định
CEPT/AFTA, từ 1/1/1996 đã bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên AFTA. Việt Nam
cũng là một trong số 25 thành viên sáng lập Diễn đàn Hợp tác Á - Ầu (ASEM) vào


tháng 3/1996, và tham gia Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình dương
(APEC) từ tháng 11/1998. Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa kỳ được ký kết
vào ngàyl 3/7/2000, tiếp đó từ ngày 11/12/2001 có hiệu lực đã đánh dấu mốc quan
trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Hiện nay, Việt Nam đang tích cực chuẩn bị đàm phán gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Ke từ khi chính thức nộp đơn xin gia nhập WTO
ngày 4/1/1995, ta đã chủ động và khấn trương tiến hành những bước đi cần thiết đê
triển khai quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức này. Cho tới nay, Ban Công tác về
việc Việt Nam gia nhập WTO đã tổ chức thành công 5 phiên họp với nội dung
chính là làm rõ cơ chế, chính sách kinh tế-thương mại, cơ bản kết thúc giai đoạn
minh bạch hóa đê bắt đầu bước sang giai đoạn mới quan trọng - đàm phán thực chất
về mở cửa thị trường.
Cắt giảm thuế quan là một trong những nội dung quan trọng nhất của mở cửa
thị trường hàng hóa. Tuy nhiên, việc mớ cửa thị trường thông qua các cam kết giảm
thuế sẽ không có ý nghĩa nếu như các hàng rào phi thuế quan vẫn được áp dụng.

Một mặt hàng được cam kết giảm thuế từ 100% xuống thậm chí 0% vẫn không thể
kinh doanh được nếu áp đặt một lệnh cấm nhập khâu. Chính vì thế, loại bỏ hàng rào
phi thuế quan luôn là yêu cầu đồng hành với cắt giảm thuế quan trong mọi hình
thức đàm phán mở cửa thị trường hàng hoá một cách thực chất.
1.3.1.

Cam kết trong ASEAN

Hiệp định CEPT quy định rằng các biện pháp hạn chế định lượng (cấm, hạn
ngạch, giấy phcp nhập khẩu) phải được dờ bó ngay khi thuế suất của một mặt hàng
thuộc diện CEPT được giảm xuống thấp hơn hoặc bàng 20%. Các hàng rào phi thuế
khác sẽ phải loại bỏ dần trong vòng 5 năm tiếp theo, nhưng không muộn hơn
1/1/2006.
1.3.2.

Cam kết trong APEC

APEC yêu cầu các thành viên phải tuân thủ nghiêm túc những quy định của
WTO, giảm dần các biện pháp phi thuế quan và đảm bảo rằng các biện pháp phi
thuế quan phải luôn được công bố rõ ràng.


1.3.3.

Cam kết với IMF/World Bank

Việt nam đã cam kết xoá bỏ hàng rào phi thuế đối với 17 mặt hàng. Các hàng
rào phi thuế phải xóa bó gồm: hạn chế định lượng nhập khâu và đầu mối nhập khau.
Từ đầu năm 2000, ta đã chủ động thuế hóa và bãi bó hạn chế định lượng nhập khẩu
đối với 7 nhóm hàng trong danh mục trên (ban hành kèm theo Quyết định

242/1999/ỌĐ-TTg ngày 30/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ), bao gồm xút lỏng,
hàng tiêu dùng hăng sành sứ và thủy tỉnh, bao bì nhụa thành phâm, chất hóa dỏo
DOP, đồ sứ vệ sinh, quạt điện, xe đạp. Đen năm 2001, ta tiếp tục công bố thời hạn
xóa bỏ hạn chế định lượng và thuế hoá đối với danh sách 6 nhóm hàng (Công văn
số 0992/TM-KH ngày 20/3/2001), bao gồm: dầu thực vật tinh chế dạng lỏng, xi
măng - clinker, giấy các loại, gạch ốp lát ceramic và granit, kính xây dựng, và một
số chủng loại thép.
1.3.4.

Đàm phán gia nhập WTO

WTO có những quy định hết sức chi tiết về nhiều biện pháp phi thuế quan.
WTO quy định rằng các nước thành viên không được áp dụng các biện pháp hạn
chế định lượng nhập khẩu. WTO yêu cầu các thành viên mặc dù được tiếp tục duy
trì doanh nghiệp thương mại nhà nước (tức là các doanh nghiệp được Nhà nước
giành cho những đặc quyền thương mại, không phân biệt hình thức sở hữu) song
phải cam kết các hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp này phù hợp với
các nguyên tắc chung về đối xử không phân biệt với các doanh nghiệp khác và phải
hoạt động hoàn toàn dựa trên tiêu chí thương mại. Theo Hiệp định về Xác định trị
giá hải quan của WTO, các nước phải sử dụng trị giá giao dịch làm cơ sở đề xác
định trị giá hải quan và không được phép áp đặt trị giá một cách tuỳ tiện như sử
dụng biện pháp áp giá nhập khẩu tối thiểu để tính thuế. Ngoài ra, WTO không cho
phép thu các khoản phí và phụ thu vì các mục đích bảo hộ hay thu ngân sách. Các
biện pháp đầu tu- liên quan đến thương mại (TRIMs) vi phạm nguyên tắc đãi ngộ
quốc gia hoặc gây hạn chế hay bóp méo thương mại như “quy định về tỉ lệ nội địa
hoá”, “hạn chế tiếp cận ngoại hối”, “yêu cầu tự đảm bảo cân đối ngoại tệ” bị WTO
cấm áp dụng và yêu cầu các nước đang sử dụng phải nhanh chóng xoá bỏ, v.v...


Như vậy, Việt nam sẽ không được phép duy trì các biện pháp phi thuế mà

không có lý do chính đáng theo các quy định của WTO, APEC, ASEAN/AFTA,
IMF/WB. Điều này đồng nghĩa với việc các biện pháp “cấm nhập khấu” không phù
hợp với WTO hoặc tương tự như “tạm ngừng nhập khâu” hay “chưa cho phép nhập
khẩu, kể cả các biện pháp mang tính chất hạn ngạch kiểu “chỉ tiêu định hướng” dần
dần phải loại bỏ. Các ngành hàng xi măng, thuốc lá, ô tô, xe máy, xăng dầu, v.v...
lâu nay được bảo hộ, trực tiếp hoặc gián tiếp, thông qua những hạn chế số lượng
nhập khẩu này sẽ phải đối diện với những khó khăn gay gắt do phải cạnh tranh trên
thương trường bàng chính nội lực của mình. Tuy nhiên, các ngành sử dụng đầu vào
nhập khấu sẽ có điều kiện giảm chi phí kinh doanh và tăng cường khả năng cạnh
tranh, đồng thời các nhà xuất khấu của Việt Nam cũng được đảm bảo chắc chắn hơn
về thị trường xuất khẩu.


×