Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylla làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 72 trang )

21

ĐẶT
VẤN1ĐÈ
Chương
TÒNG QUAN VẤN ĐÈ NGHIÊN cứu
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quí giá đối với cuộc sống. Đất đai
là tư liệu sản xuất đặc biệt, là đổi tượng của lao động đồng thời là sản phẩm
1.1. Trên thế giới
của lao động.
* Đánh giá đất đai của FAO
Việc trồng rùng không đúng quy trình kỹ thuật đã thay đổi cơ bản các
đặc tính hoá học đất, làm cho mực nước ngầm trong đất có xu hướng tụt
Đây là phương pháp được sử dụng khá phố biến. Các khái niệm trình
xuống sâu.
bày trên được sử dụng rộng rãi ở các nước Tây Ầu và phương pháp đã được
tố chức FAO thừa nhận, hoàn chỉnh thành cẩm nang hướng dẫn đánh giá đất
đai để áp dụng rộng rãi. Ví dụ năm 1979, FAO xuất bản cẩm nang hướng dẫn
trường
đất, lâm
nướcnghiệp".
thay đốiTrên
không
phùmột
hợpsốvới
đặchoặc
tính khái
sinh
"Đánh Môi
giá đất
đai cho


cơ còn
sở đó
nộicác
dung
lý,
sinh
thái
của
một
số
loài
cây
rừng

cản
trở
lớn
cho
công
tác
trồng
rừng.
niệm được xác định cụ thể như sau:
Cho
đến giá
naytiềm
không
ai sử
còndụng
nghiđất

ngờđaivề(land
giá trị
kinh tế cao
cây phân
bạch
• Đánh
năng
capability):
Đó của
là việc
đàn
trong
công
nghiệp
giấy

gỗ,
củi.

một
loài
cây
mọc
nhanh
đã
đem
lại
chia hay phân hạng đất đai thành các nhóm dựa trên các yếu tố thuận lợi hay
nhiều
lợi

nhuận
to
lớn
cho
nhiều
quốc
gia.
Chính

vậy,
bạch
đàn
đã
được
hạn chế trong sử dụng như độ dốc, độ dày tầng đất, đá lẫn, tình trạng xói mòn,
trồng
hầu như
trênhoá...
thế giới
đặc cơ
biệtsở
là các
triển.
úng ngập,
khôkhắp
hạn,nơimặn
Trên
đó nước
có thểđang
lựaphát

chọn
những kiếu sử
dụng đất phù hợp. Việc đánh giá tiềm năng sử dụng đất thường áp dụng trên
qui mô lớn như trong phạm vi một nước, một tỉnh hay một huyện. Đánh giá
tiềm năng
áp dụng
thành ởcông
và một
Yeu nơi
tố
Bạchđất
đànđược
đã đưa
vào trồng
nướcở taMỹ
khoảng
hơnsố10nước
loài khác.
và nhiều
hạn trồng
chế làthành
những
yếu song
tố hầu
đượcít như
dày
đã
công,
mộtnhư
số không

nơi đãthay
gặp đối
không
thất độ
bại.dốc,
Mộtđộtrong
tầng đất,
khí hậu.
Mỹ bại
đất trong
đai toqnà
nhómchọn
với yếu
những
nguyên
nhânỚ thất
việc quốc
gieo được
trồng phân
bạch thành
đàn là8 việc
đất
tố hạnđúng,
chế tăng
từ nhóm
tới thuật
nhómtrồng
VIII. và
Nhóm
là nhóm

chưa
chưa dần
có biện
phápI kỹ
kinhI doanh
họpthuận
lý đếlợitạonhất
ra
trong sử
dụng,
rấttrung
ít yếu
tố định
hạn chế.
Nhóm
những
vùng
trồngcótập
và ốn
về năng
suất.VIII là nhóm có nhiều hạn chế
nhất trong sử dụng.
Qua thực tiễn sản xuất bạch đàn có vai trò đặc biệt quan trọng trong
Đánh
độ gồ
thích
nhất
(land
suitability):
việc cung

cấpgiá
gỗ mức
giấy và
củi hợp
vì nếu
trồng
đúng
đất nó sẽ Là
choquá
năngtrình
suất xác
rất
địnhvàmức
họp kinh
cao tế
hay
cao
đemđộ
lại thích
lợi nhuận
to thấp
lớn của các kiểu sử dụng đất cho một đơn vị
đất đai và tổng hợp cho toàn khu vực dựa trên so sánh yêu cầu kiểu sử dụng
đất với đặc điểm các đơn vị đất đai.
Đế góp phần nhỏ vào việc nghiên cứu mối quan hệ của đất đến sinh
trưởng và phát triến của loài cây trồng, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng Bạch đàn
Urophylla làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh Phủ Thọ”.



3

Hệ thống đánh giá được thế hiện theo 4 cấp:

• Phân thành 2 cấp lớn: Kiếu sử dụng đất hay loài cây trồng thích hoịưp
(Viết tắt là

s-

Suitable) hay không thích hoịup (Viết tắt là N - Not suitable)

với điều kiện đất đai.

• Mức độ thích hợp (S) phân chia thành 3 mức:

- Thích hợp cao (Sl): Đất hầu như không có hạn chế đáng kể khi thực
hiện canh tác.

- Thích hợp trung bình (S2): Đất có hạn chế nhất định làm giảm năng
suất cây trồng hoặc nâng cao chi phí canh tác nhưng vẫn thích hợp cho cây
trồng hoặc kiếu sử dụng đất.

- Thích hiợp kém (S3): Đất có hạn chế đáng kế làm giảm mạnh năng
suất và tăng cao chi phí canh tác rõ rệt. Hiệu quả kinh tế bị suy giảm đáng kế.

Việc phân hạng và đánh giá đất đai đã được thực hiện từ khá lâu ở
nhiều nước trên thế giới. Tuỳ theo mục đích cụ thể, mỗi quốc gia đã đề ra nội
dung, phương pháp đánh giá đất của mình [27].

Khoa học đất ra đời sớm nhất ở nước Nga, các nhà khoa học Nga đã có

cơ sở khoa học về đất và những phương pháp cơ bản về nghiên cứu đất. Nhờ
các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học v.v Docuchaev, P.A.
Kostưsev và N.M Sibirsev mà thố nhưỡng học đã trở thành bộ môn khoa học.
[10].


4

do tác động của 5 yếu tố tụ’ nhiên là: khoáng vật, thực vật, động vật, không
gian và thời gian. [10]

Ớ Mỹ, ý đồ xây dựng một chương trình nghiên cứu phân loại đất đã
có từ năm 1832 do E. Ruffin khởi xướng, đến năm 1860 w. Hilgard xây dựng
bảng phân loại đất và bản đồ đất đầu tiên cho nước Mỹ, trên cơ sở nhận thức:
đất là một vật thể tự nhiên, tính chất đất có quan hệ đến thực vật và khí
hậu.[50].

Đại hội Khoa học đất Quốc tế lần thứ 4 được tổ chức vào năm 1950 ở
Amsterdam Hà Lan và lần thứ 5 vào năm 1954 ở Conggo đã thúc đấy sự ra
đời của 2 trung tâm nghiên cứu phân loai đất có tính chất Quốc tế là: Trung
tâm phân loại Soil Taxonomy và Trung tâm phân loại FAO-UNESCO. Hai
Trung tâm này cùng có một quan điếm nghiên cún giống nhau, đó là quan
điểm định lượng, và đã tiến hành xây dựng hệ thống chỉ tiêu định lượng trong
các cấp phân loại. Với quan điếm phân loại mới là dựa vào định lượng hoá
tính chất, thì chỉ có những tính chất mà có thế xác định định lượng mới được
sử dụng trong phân loại đất. [10]

Hiện nay ở Hoa kỳ việc nghiên cứu phân loại và xây dựng bản đồ đất
sử dụng hệ thống phân loại Soil Taxonomy với hệ thống thuật ngữ riêng.
FAO- UNESCO đã vận dụng phương pháp định lượng trong phân loại đất

của Soil Taxonomy xây dựng hệ thống phân vị mang tính chú dẫn bản đồ, hệ
thống phân loại và thuật ngữ mang tính hoà họp, có mối quan hệ lãnh thố
nhằm sử dụng cho ngôi nhà chung toàn cầu. Năm 1961, Bản đồ đất thế giới,
tỷ lệ 1/5.000.000 được Trung tâm FAO- UNESCO xuất bản. Việc phân loại
đất và xây dựng bản đồ này dựa trên cơ sở vận dụng phuơng pháp định lượng
trong phân loại đất của của Soil Taxonomy. [52]

Từ những năm 1950, việc đánh giá khả năng sử dụng đất đã được nhiều
nhà khoa học và các tố chức Quốc tế quan tâm. Đây được xem như là bước


5

nghiên cứu kế tiếp của công tác nghiên cứu đặc điếm đất. Ngày nay công việc
này đã trở thành một lĩnh vục nghiên cứu quan trọng của các nhà quy hoạch,
hoạch định chính sách và nguời sử dụng.[10]

Năm 1976 FAO đã đề xuất định nghĩa về đánh giá đất đai nhu sau:
Đánh giá đất đai là quá trình so sánh, đối chiếu những tính chất của vạt đất
cần đánh giá với những tính chất đất đai mà loại hình sử dụng đất yêu cầu
phải có. Đánh giá đất đai là quá trình thu thập thông tin, xem xét một cách
toàn diện các yếu tố đất đai với cây trồng để phân định ra mức độ thích hợp
cao hay thấp. [52]

Ở Mỹ, 2 phuơng pháp đánh giá đất đai đuợc ứng dụng khá rộng rãi là:
Phuơng pháp tống hợp: lấy năng suất cây trồng nhiều năm làm tiêu chuẩn và
phân hạng đất đai cho từng cây trồng cụ thế, trong đó lấy cây lúa mì là đối
tuợng chính và Phuơng pháp yếu tố: bằng cách thống kê các yếu tố tự nhiên,
kinh tế đế so sánh, lấy lợi nhuận tối đa là 100 điếm (hoặc 100%) đế làm mốc
so sánh với các đất khác. [10][53]


Nhiều nuớc Châu Ầu việc phân hạng và đánh giá đất đai đuợc thực
hiện theo 2 huớng là:

1- Phân hạng định tính: dựa trên các kết quả nghiên cứu các yếu tố tự
nhiên đế xác định tiềm năng sản xuất của đất đai.

2- Phân hạng định luợng: dựa vào kết quả nghiên cứu các yếu tố kinh
tế, đế xác định sức sản xuất thục tế của đất đai.[10]

Ớ Ãn Độ và các nuớc vùng nhiệt đới ẩm châu Phi thuờng áp dụng
phuong pháp tham biến đế xác định mối quan hệ giữa các yếu tổ đất đai và
cây trồng. Các mối quan hệ này đuợc biếu thị dưới dạng phuong trình toán
học. Ket quả phân hạng được the hiện dưới dạng % hoặc điếm. [20]

Bản dự thảo đầu tiên về tiêu chuẩn hoá việc đánh giá đất đai đã được


6

năm 1972 và phương pháp đánh giá đất đai đầu tiên của FAO được công bố
vào năm 1976 và được chỉnh lý vào năm 1983. [20]

Học thuyết về loại sử dụng đất đã được Duddlry (thế kỷ 19) xây dựng,
sau này được Kostrowiky và các đồng sự của ông phát triển. Gần đây Beek và
Bennerma đã hoàn chỉnh và được Brickman và Smyth sử dụng trong đề
cương đánh giá đất đai năm 1976. [51]

Trên thế giới cũng có nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa
đặc tính của đất đai với sinh trưởng của cây trồng. Từ các kết quả nghiên cứu

này nhiều nhà khoa học đã cho rằng: Đối với các vùng ôn đới, phản ứng của
đất, hàm lượng CaCƠ3 và các chất Bazơ khác, thành phần cấp hạt và điện thế
ôxy hoá khử (Eh) của đất là những yếu tố quan trọng nhất, quan điểm này đã
xem các yếu tố hoá học đất quan trọng hơn yếu tố vật lý. Còn ở vùng nhiệt
đới thì các tác giả cho rằng: các yếu tố khả năng giữ nước, độ sâu của đất và
độ thoáng khí là những yếu tố giữ vai trò chủ đạo, điều này có nghĩa là: yếu tố
vật lý đất quan trọng hơn yếu tố hoá học đất [20]. Tuy nhiên các kết quả này
là dựa trên các nghiên cứu về đất đồi núi, đất nông nghiệp.

Trong những năm gần đây Trung tâm lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR) đã
tiến hành nghiên cứu về quản lý lập địa và sản lượng rừng cho rừng trồng ở
các nước nhiệt đới như: Ân Độ, Trung Quốc, Indonesia, Nam Phi, Conggo,
Brazil. Ket quả nghiên cứu cho thấy: các biện pháp xử lý lập địa khác nhau và
các loài cây trồng khác nhau đã có ảnh hưởng khác nhau đến độ phì đất, cân
bằng nước sự phân huỷ thảm mục và chu trình dưỡng khoáng. [40], [41].

Đánh giá đất đai đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xác định độ
phì nhiêu của đất và là cơ sở cho việc đề xuất cây trồng cũng như các giải
pháp duy trì và bảo vệ độ phì đất.

Ngay từ đầu những năm 50, việc đánh giá khả năng sử dụng đất được
xem như là bước nghiên cứu kế tiếp của công tác nghiên cún đặc điếm đất.


7

tuỳ từng trình độ phát triển của tòng quốc gia riêng lẻ, phương pháp đánh giá
đất đai được nhiều nhà khoa học hàng đầu trên thế giới và các tổ chức Quốc tế
quan tâm. Do vậy nó trở thành một trong những lĩnh vực nghiên cứu quan
trọng và đặc biệt gần gũi với những nhà quy hoạch, người hoạch định chính

sách đất đai và người sử dụng. Những nghiên cứu và các hệ thống đánh giá
đất đai sau đây được sử dụng tương đối phố biến;

* Phân loại khả năng thích nghi đất có tưới (Irrigation Land Suitability
Classiíìcation) của Cục cải tạo đất đai - Bộ nông nghiệp Mỹ (ƯSBR) xuất bản
năm 1951. Phân loại này dựa vào độ phì của đất đế đánh giá. Phân loại này
gồm 6 lớp (classes), từ lớp có thế canh tác được (arabĩe) đến lớp có thể trồng
trọt một cách giới hạn (limited arable) và lớp không thế trồng trọt được (non
arable). trong phân loại này, nhiều đặc điếm đất đai, một số chỉ tiêu kinh tế
định lượng cũng được đề cập nhưng giới hạn ở phạm vi thuỷ lợi.

* Bên cạnh đó, năm 1964, Clingebiel và Naontgomery thuộc Vụ Bảo tồn
đất đai - Bộ nông nghiệp cũng đưa ra khái niệm " Khả năng đất đai" (Land
Capability) trong công tác đánh giá đất đai ở hoa Kỳ. trong việc đánh giá này,
các đơn vị bản đồ đất đai (Land Mapping Units) được nhóm lại dựa vào khả
năng sản xuất một loại cây thực vật tự nhiên nào đó, chỉ tiêu chung là các hạn
chế của lớp phủ thổ nhưỡng đối với mục tiêu canh tác được đề nghị. Hệ thống
đánh giá đất đai này mang tính chất sơ lược, gắn đất với hiện trạng sử dụng
đất hay còn gọi là " Loại hình sử dụng đất".

* Vào những thập niên 60, ở Liên Xô và các nước Đông Âu, việc phân
hạng và đánh giá đất đai cũng được thực hiện, bao gồm ba bước sau; so sánh
các hệ thổ nhưỡng theo tính chất tự nhiên (đánh giá lớp phủ thổ nhưỡng);
đánh giá khả năng sản xuất của đất đai và đánh giá kinh tế đất (chủ yếu đánh
giá khả năng sản xuất hiện tại của đất). Phương pháp này chỉ mới thuần tuý


8

quan tâm đến khía cạnh tụ’ nhiên của đối tượng đất đai mà chưa xem xét đầy

đủ đến khía cạnh kinh tế - xã hội của việc sử dụng đất đai.

- Nhiều quốc gia ở Châu Âu vào những năm 70 đã cố gắng phát triển
các hệ thống đánh giá đất đai của họ, cuối cùng các nhà nghiên cứu nhận thấy
rằng cần phải có một nỗ lực quốc tế đế đạt được sự thống nhất và tiêu chuẩn
hoá vào việc đánh giá đất đai. Vì vậy, có 2 uỷ ban nghiên cứu được thành lập
ở Hà Lan và FAO (Rome, Ý), kết quả là một dự thảo đầu tiên ra đời vào năm
1972, sau đó được hai nhà khoa học Brinkman và Smith soạn thảo lại và xuất
bản 1973. Năm 1975 tại hội nghị ở Rome, những ý kiến đóng góp cho bản dự
thảo năm 1973 đã được các chuyên gia hàng đầu về đánh giá đất đai của FAO
(K.J. Beek, J. Bennema, p. J. Mabier, G. A. Smith...) biên soạn lại đế hình
thành nọi dung phương pháp đầu tiên của FAO về đánh giá đất đai (A írame
work for land evaluation) và công bố vào năm 1976, sau đó đã được chỉnh lý
vào năm 1983 [44].

- Ngoài những tài liệu cơ bản của FAO về đánh giá đất đai, FAO cũng
đưa ra những hướng dẫn khác nhau về đánh giá đất đai cho các đối tượng
chuyên biệt như:

- Đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp nhờ mưa (Giueline for land
Evaluation for Rainfed Agriculture - FAO, 1983) [45].

- Đánh giá về đất đai cho trồng trọt cỏ quảng canh (Land Evaluation for
extensive grazing, FAO, 1990) [47].

- Đánh giá về đất đai và phân tích hệ thống canh tác cho quy hoạch sử
dụng đất (Land Evaĩuation and farming System analysis for land use planning,
FAO, 1992) [49].

Nhìn chung quá trình đánh giá đất đai của FAO được tiến hành thông

qua một số bước sau:


9

- Thu thập thông tin liên quan.

- Đánh giá mức độ thích hợp của các loại hình sử dụng đất.

- Xem xét môi trường tác động của tự nhiên, kinh tế xã hội.

- Xác định các loại hình sử dụng đất thích hợp.

Việc xác định loại thực bì nào có mặt trước khi trồng rừng, mật độ
trồng và điều kiện của lớp đất mặt là rất quan trọng. Mathur (1983) [58] đã
đưa ra nghiên cứu so sánh thực bì dưới tán Bạch đàn camal
(Eu.camaldulensis), Eu. grandis và Shorea robusta tại 3 địa phương khác nhau
ở thung lũng Doon tại Ân Độ. Các tác giả này cho thấy ràng trồng Bạch đàn
dung nhận một lớp thực bì dưới tán tốt hơn và một sự đa dạng hơn về loài cây
so với ròng Shorea robusta, những sự khác nhau nếu có chủ yếu do độ dày
đặc trưng tán cây của hai chi thực vật. Jha và Pande (1984) [56] cũng báo cáo
kết quả cho thấy thực bì dưới tán rừng trồng độc canh Bạch đàn ưu việt hơn
trồng độc canh Shorea robusta về các loài cỏ mọc ở dưới tán.

Tại Bangladesh, Rajvanshi (1984) [58] nhận thấy do tán lá Bạch đàn
nhỏ và hẹp nên lượng ánh sáng chiếu xuống đất nhiều, tạo điều kiện cho
nhiều lớp cở và cây bụi ưa sáng phát triến. Giải thích về những lô Bạch đàn có
lớp thực bì kém phát triển, tác giả cho rằng những lý do như chăn thả quá
mức, cháy hoặc đốt lướt đế phòng cháy hàng năm, quét lá đế thu nhiên liệu,
xói mòn đất đã ngăn cản thực bì phát triến hơn là do bản thân cây Bạch đàn

tác động đối với lập địa đó. Gần đây áp dụng một số giống mới, tác giả còn
ghi nhận một số loài cỏ mọc dưới tán Bạch đàn thậm chí ở cả những lô trồng
dày với mật độ 0,3 X 0, 3 m (trên 10.000 cây/ha).

Nhiều tác giả cũng ghi nhận sự có mặt của nhiều loài cây họ đậu và lóp
tái sinh cây bản địa gồ lớn đã bắt đầu xuất hiện sau khi có sự che bóng của
rừng Bạch đàn khép tán. Có thể coi như rừng Bạch đàn đã bước đầu tạo ra
hoàn cảnh ròng, đặc biệt đổi với những cây bản địa gỗ lớn sống thành quần


10

thụ thì cây giai đoạn non thường ưa bóng. Neu cứ đế đất trống phoi nắng trực
tiếp sẽ không có khả năng tái sinh.

Trong những năm gần đây có một số công trình nghiên cứu cụ thể về vấn
đề này và mới chỉ nghiên cứu cho từng đối tượng cây trồng cụ thể. Ớ vùng ôn
đới nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của rừng tự nhiên, rừng trồng đến độ phì
đất đã được đề cập. Khi nghiên cứu về ròng mưa nhiệt đới ở Australia, Week
(1970) [61] đã khảng định sinh trưởng của thực vật phụ thuộc vào các yếu tố:
đá mẹ, độ ẩm cảu đất, thành phần cơ giới, CaCƠ3, hàm lượng mùn và đạm.

Tại Ân Độ việc trồng Bạch đàn trên nhũng vùng rộng lớn đã gây ra
nhiều cuộc tranh luận kéo đài về tác dụng xấu của Bạch đàn đến đất. Ghosh
(1978) [54] đã đánh giá sinh trưởng của Bạch đàn đến chế độ nước và chất
dinh dưỡng trong đất tại Ấn Độ và nhiều vùng trên thế giới nhưng chưa có kết
luận khảng định. Tuy nhiên Ghosh đã nhấn mạnh là các lời ca thán về tác hại
của Bạch đàn đến đất tại Ấn Độ là quá đáng. Các nguồn lợi về kinh tế do
Bạch đàn mang lại còn lớn hơn nhiều so với mặt hại nếu có.
1.2. Trong nước


Từ những năm 80 trở lại đây một số công trình nghiên cứu dưới đây đã
đặt nền móng cho việc nghiên cứu và đánh giá đất đai:

- Nghiên cứu đánh giá và quy hoạch đất khai hoang ở Việt Nam của Bùi
Quang Toản và nhóm nghiên cứu (1991) [50] đã ứng dụng phân loại khả năng
(Capability classiíìcation) của FAO. Tuy nhiên nghiên cứu chỉ đánh giá các
điều kiện tự nhiên (thổ nhưỡng, thuỷ văn và tưới tiêu, khí hậu nông nghiệp)
và nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở lớp (class) thích nghi cho từng loại hình sử
dụng.

- Trần An Phong (1995) [19] đã đưa ra kết quả đánhd giá hiện trạng sử
dụng đất nước ta theo quan điếm sinh thái và lâu bền. Phương pháp đánh giá


11

này đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố: tính chất của đất, hiện
trạng sử dụng đât, tính thích nghi đất đai, vùng sinh thái.

- Đánh giá tiềm năng sử dụng đất Lâm nghiệp của từng vùng sinh thái và
trong toàn quốc của Đỗ Đình Sâm và cộng sự (1995) là phương pháp ứng
dụng phần mềm GIS trên máy tính đế xây dựng các bản đồ đánh giá tiềm
năng sử dụng đất lâm nghiệp. Phuơng pháp này cho phép lợi dụng đuợc các
thông tin sẵn có và có ý nghĩa là mang tính chiến lược và dự báo.

Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về đất ở Việt Nam có khá
nhiều tập trung chủ yếu vào các nội dung chính sau:

-


Nghiên cứu cơ bản về hình thành và tính chất lý hoá học của đất.

-

Điều tra, phân loại, xây dựng bản đồ đất với các tỷ lệ khác nhau.

-

Đánh giá tiềm năng sản xuất đất.

-

Biện pháp cải tạo một số loại đất có vấn đề.

-

Bảo vệ và chống suy thoái tài nguyên đất.

Theo các kết quả nghiên cứu của VM. Fridland (1964), Nguyễn Viết
Phổ (1978), trên các bãi bồi vùng đồng bằng Sông Cửu Long và sông Hồng
thì: hàng năm Sông Cửu Long và sông Hồng đưa ra biến khoảng 200 triệu tấn
phù sa. Do đó mỗi năm các bãi bồi ở vùng cửa sông của 2 con sông này có xu
hướng lấn dần ra phía biển Đông tù' 40-100m.

Ớ Việt Nam, Thái Văn Trùng (1979) [31] cũng đã nghiên cứu về ảnh
hưởng của Bạch đàn đến đất và thực bì. Ông cho rằng đối với Bạch đàn vấn


12


Đỗ Đình Sâm (1991) [25] khi nghiên cứu về đất tế guột và vấn đề trồng
ròng Bạch đàn liễu cũng cho rằng Bạch đàn cũng nhu các loài cây khác đều
có quá trình tự bón và quá trình tiếu tuần hoàn vật chất để trả lại cho đất các
chất dinh dưỡng như N, p, K, Ca, Mg,...qua cành lá rơi rụng. Tác giả cũng
cho rằng Bạch đàn không làm cho đất xấu đi. Tuy nhiên do tán lá Bạch đàn
thưa, hàm lượng các chất dinh dưỡng trong lá không cao, lại chứa nhiều dầu
nên so làm tăng độ phì của đất lên ít và chậm hơn. Tác giả cũng lưu ý trong
thực tế rất nhiều diện tích Bạch đàn trồng do bị quét lá để làm chất đất nên
quá trình tuần hoàn vật chất chỉ xảy ra có một chiều. Điều này đã phá vỡ quy
luật tự bón của rừng Bạch đàn, làm cho đất bị bóc lột một chiều. Do vậy đất
bị xấu đi là điều không tránh khỏi. Tác giả cũng kết luận sau khi trồng rừng
Bạch đàn khép tán, các loài cỏ chịu hạn, hoàn toàn ưa sáng như cở lông lợn,
cỏ lông trước đây vẫn sống ở vùng đồi trọc, nay bị đào thải ra khỏi tố thành
của rùng Bạch đàn là điều đương nhiên. Không phải do Bạch đàn phát sinh
độc tố.

Năm 1960, F.R. Moormann đã xuất bản bản đồ thố nhưỡng ở miền
Nam Việt Nam với tỷ lệ 1/1.000.000 và kèm theo bảng phân loại đất dùng cho
bản đồ này. Năm 1969 V. M. Fridland cùng một số nhà khoa học Việt Nam
cũng đã xuất bản Bản đồ thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam tỷ lệ 1/1.000.000 và
bản chú giải phân loại. Đặc điếm của 2 bảnh phân loại này là theo 2 phương
pháp khác nhau. Bảng phân loại đất dùng cho sơ đồ thổ nhưỡng miền Bắc là
theo hướng phân loại phát sinh của Liên Xô. Bảng phân loại đất của
Moorman theo hướng phân loại của Mỹ trước kia, một phần theo hướng phân
loại phát sinh và một phần theo tính chất thực dụng. [10]

Tôn Thất Chiểu và Hoàng Ngọc Toàn (1980 - 1985) đã tiến hành
nghiên cứu phân hạng đất đai tổng quan trên toàn quốc, với nhiều đối tượng
cây trồng, nhiều vùng chuyên canh khác nhau trên cơ sở phân hạng định



13

lượng của FAO. Đối tượng chính của đề tài này là đất nông nghiệp và đất đồi
núi. [10]

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành tiêu chuẩn
nghành 10 TCN 343-98 về Quy trình đánh giá đất đai phục vụ Nông nghiệp,
trên cơ sở vận dụng nội dung, phương pháp đánh giá đất của FAO theo điều
kiện và tiêu chuẩn cụ thể của Việt Nam. [10]

Ket quả điều tra tông họp của Viện quy hoạch thiết kế Nông nghiệp
năm 1995 đã xác định 9 vùng sinh thái nông nghiệp trên toàn quốc. Phương
pháp tổng hợp là căn cứ vào 7 yếu tố và các chỉ tiêu phân cấp là : Loại đất, Độ
dốc, Độ dày tầng đất, Thuỷ văn mặt nước, Tưới tiêu, lượng mưa, Nhiệt độ.
Mặc dù đâ có sự cố gắng gộp nhóm và đơn giản hoá các yếu tố, chỉ tiêu tham
gia xây dựng đơn vị đất đai, nhưng kết quả tố hợp vẫn cho ra số lượng đơn vị
đất đai toàn quốc khá lớn. Trên bản đồ tỷ lệ 1/1.000.000 toàn quốc có tới 373
đơn vị đất đai. [10]

Vũ Cao Thái và các cộng sự năm 1989 đã nghiên cứu đánh giá phân
hạng đất Tây Nguyên với cây Cao su, Cà phê, Chè và Dâu tằm. Đe tài đã vận
dụng phương pháp phân hạng đất đai của FAO theo kiếu định tính và hiện tại
đế đánh giá khái quát tiềm năng đất đai của vùng và đã phân chia đất theo 4
hạng riêng cho từng cây trồng.[10]

Ket quả nghiên cứu của đề tài KT 02-09 do Viện quy hoạch thiết kế
Nông nghiệp thực hiện (1993-1995) đã đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội và tác
động ảnh hưởng tới môi trường đối với các loại hình sử dụng đất đai chính ở

Việt Nam và đã xác định 4 loại hình sử dụng đất chính là: Các loại hình sử
dụng đất đai bền vũng về kinh tế xã hội và môi trường. Loại hình sử dụng đất
không bền vũng về kinh tế. Loại hình sử dụng đất không bền vũng về môi
trường. Loại hình sử dụng đất không bền vững về kinh tế và môi trường [10].


14

Tác giả Đỗ Đình Sâm (1995) và các cộng sự đã tiến hành đánh giá tiềm
năng sản xuất đất lâm nghiệp ở Việt nam theo 8 vùng kinh tế lâm nghiệp: Tây
Bắc, Đông Bắc, Trung tâm, Bắc Trung bộ, Duyên hải miền trung, Đông Nam
bộ, Tây nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, trừ đồng bằng sông Hồng vì chủ
yếu là đất nông nghiệp.

Trong quy trình Điều tra xây dựng bản đồ lập địa phục vụ công tác
trồng rùng cho các dự án như : KFW1, KFW3, ADB, Lâm nghiệp xã hội
Sông Đà... của tác giả Ngô Đình Quế, đã dựa vào các yếu tố: loại đất, độ dày
tầng đất, độ dốc và thực bì đế và được đế xác định đơn vị đất đai. [22]

Năm 1962, VM. Fridìand đã tiến hành nghiên cứu về các nguyên tổ vi
lượng trong đất ở miền Bắc Việt nam, tác giả đã phân tích 35 nguyên tố vi
lượng trong đất bằng phương pháp quang phố với độ nhậy 1/10000 kết quả là:
một số nguyên tố không phát hiện thấy hoặc chỉ có ở mức vệt. [26]

Việc nghiên cứu ảnh hưởng của rùng trồng và đặc biệt là cây mọc nhanh,
luân kỳ ngắn đến đất nhiệt đới chỉ mới bắt đầu. Điều đáng quan tâm là các kết
quả nghiên cứu ở các vùng khác nhau và các loài cây khác nhau thường
không thống nhất. Thậm chí đã có nhiều kết luận trái ngược nhau. Vì vậy đây
cũng là vấn đề đang được nhiều nước ở vùng nhiệt đới quan tâm nghiên cứu.
Đỗ Đình Sâm (1984) [24] nghiên cứu về độ phì đất rừng và vấn đề thâm canh

ròng trồng và cho rằng đất có độ phì hoá học không cao. Nơi đất có ròng độ
phì đất được duy trì chủ yếu qua con đường sinh học. Các trạng thái rừng
khác nhau, các biện pháp kỹ thuật tác động khác nhau cho thấy sự biến đối về
hoá tính đất không rõ nét (trừ yếu tố mùn, đạm) tuy nhiên các tính chất về lý
tính của đất đặc biệt là cấu trúc và nhiệt là nhân tố dễ biến đỗi và bị ảnh
hưởng của viêc trồng Bạch đàn đến độ phì đất. Tác giả đã chứng minh rằng
việc trồng rừng Bạch đàn không làm chua đất, lượng nước do Bạch đàn tiêu


16
15

thụ là
rất chất
ít vàđặc
biệt lai
là ròng
Bạch đànvới
luônmột
thường
làm cho

thực
là cây
giữa trồng
E. urophylla
loài xuyên
Bạch đàn
khácđất


tốt lên, nhất
là ở những
trạng
tháiloài
lập địa
nghèo.
Braxin.
Những
năm gần
đây,
Bạch
đàn này đâ được gây trồng nhiều nơi
đặcbiệt
điếm
thái của
đànhậu
urônhiệt
(E.urophylla)
trên 1.3.
thế Một
giới số
đặc
là sinh
ở những
vùngBạch
có khí
đới ẩm và bán ẩm, đổi
mùa (mưa sang khô) như ở một số vùng của Indonexia, Braxin và nam Trung
Quốc. Riêng đối với loài cây này chọn vùng để gây trồng cần rất thận trọng vì
đôi khiBạch

nhìnđàn
bề Ưrô
ngoài,
các điều kiện
khígỗhậu
như cao,
rất phù
hợp,
(E.urophylla)
là cây
lớn,tưởng
thân chừng
thẳng tròn
tán thưa,
song
cây
lại
sinh
trưởng
không
đạt
yêu
cầu.

dụ
như

vùng
phân cành cao đến 20 - 25m, đường kính có thể tới 100 cm. Là cây ưa sáng bắc


Queensland,
đã có
thấtkhảbạinăng
sau thích
năm đầu
nghiệm
màđất,
nguyên
biên độ sinh loài
thái này
rộng,
hợp khảo
với nhiều
dạng
Bạch nhân
đàn

là do sâu đục phân
thân vàbốcácở côn
khác.- 2200mm với 2-8 tháng khô, nơi
Urôthế(E.urophylla)
độ trùng
cao 300
nguyên sản Bạch đàn Urô (E.urophylla) có thể cao 25 - 45m, cá biệt có thể
cao 55 m, đường kính có thế đạt 1 - 2 m, Bạch đàn urô (E.urophylla) là loài
cây thích
cácnay
lập có
địarấtcó nhiều
đất sâu

ẩm trình
ở cácnghiên
tỉnh miền
các xuất
Từ hợp
trướcvớiđến
công
cứu bắc,
về Bạch
đàn xứ

có triến
vọngcủa
nhấtchúng
cho vùng
là Lewotobi
ảnh
hưởng
đến trung
môi tâm
trường
đất. Do và
có Egon
nhiềuFlores.
quan điếm khác nhau
nên các kết luận còn thiên về định tính. Các kết quả nghiên cứu có thế tống
hợp vào một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến môi trường đất.
Bạch đàn urô (E.urophylla) (có nơi gọi là Bạch đàn nâu) có phân bố tự
nhiên ở một số vùng nhỏ hẹp tại một số đảo của Indonexia kéo dài 5 kinh độ
tù’ 122° đến 127° kinh đông với chiều dài khoảng 500 tìm và giữa các vĩ độ

7,3° và 10° Vĩ Bắc. Bạch đàn urô (E. urophylla) có phân bố theo độ cao lớn
nhất trong số các loài Bạch đàn, đó là từ độ cao 70 - 2960m (ở Timor) so với
mực
thaytiêu
đốithụ
về cho
độ mỗi
cao đơn
nên vị
biến
động
nhiệt
cũngcây
vì thế
Bảngnước
1.1: biến.
LưọngDo
nước
sinh
khốivềcủa
mộtđộ
số loài
mà khá lớn. Trên cùng một đảo với khoảng cách không mấy xa nhau mà các
quần thụ phải thích nghi với các điều kiện nhiệt độ rất khác nhau kéo dài từ
27° đến 30°c (nhiệt độ tối cao bình quân tháng) trên độ cao 400 mét xuống 17°
- 21°c trên ở độ cao 1900 mét. Trên đảo Timor từ độ cao 1000 mét trở lên,
ngoài lượng mưa cao (1300 - 2200 mm) còn thấy cả sương mù thường xuyên.
Mặc dù phạm vi phân bổ hẹp song loài Bạch đàn urô (E. urophylla) vẫn có
lượng biến dị di truyền lớn theo độ cao được thế hiện qua các khảo nghiệm
với các xuất xứ của loài ở nhiều nước. (Lê Đình Khả, 1991 [13])

Nguồn: Tixvari và Matthur và các cộng sự (1983) [50]

Người Hà Lan thu hạt Bạch đàn này để trồng đầu tiên vào năm 1890
đấtđã tùng trồng tới 500.000 ha loài cây Bạch đàn E. alba
trên 1.4.
đảoPhân
Giava.hạng
Braxin

Phân hạng đất đai là một dạng của việc đánh giá đất đai. Phương pháp
áp dụng phố biến ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ, chủ yếu với cây
trồng nông nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tìm mối quan hệ giữa


17

cấp khác nhau ứng với loài cây trồng khác nhau. Trên cơ sở phân hạng đất có
thế dự đoán đuợc năng suất cây trồng.

Trong lâm nghiệp các yếu tố dùng để phân hạng thuờng là loại đất, độ
pH, thành phần cơ giới, độ dầy tầng đất, thực bì chỉ thị cho độ phì đất hoặc
mức độ thoái hoá đất.

Điều quan trọng đối với phân hạng đất đai là cần phải có tư liệu về
năng suất cây trồng và tìm mối quan hệ của chúng với các tính chất đất đai.

Các nghiên cứu phân hạng đất lâm nghiệp thực hiện chủ yếu đối với
một số cây trồng quan trọng và có ý nghĩa đối với thực tiễn sản xuất. Đó là
các rừng trồng Bồ đề cung cấp nguyên liệu giấy được gây trồng mạnh ở vùng
trung tâm vào những năm 1960 - 1970, rừng trồng thông nhựa gây trồng phổ

biến trên đất trống đồi trọc trong toàn quốc, rùng trồng Thông ba lá và một số
rừng cây đặc sản như: Hồi, Quế...
1.4.1. Tiêu chuẩn về đất trồng

Dựa trên kết qủa nghiên cứu, tác giả đã đề xuất 3 tiêu chuẩn quan trọng
đế xác định trồng ròng bạch đàn phù hợp, đó là loại đất, độ dày tầng đất và độ
thoái hoá đất và thực bì chỉ thị.

- Loại đất

- Độ dày

- Độ thoái hoá và thực bì chỉ thị
1.4.2. Phăn hạng đất trồng

Phân hạng đất là giai đoạn tiếp theo của phân loại phát sinh và nhằm áp
dụng cho từng nhóm cây cụ thể. Nó không những thừa kế được các ưu điểm


18

- Phản ánh được biện pháp kỹ thuật và giá thành

- Đơn giản dễ áp dụng trong điều kiện rùng núi của lâm nghiệp.

Muốn đạt 4 yêu cầu trên trước hết phải chọn đúng các yếu tố chủ đạo để

làm tiêu chuẩn. Đối với đất nông nghiệp thì pH, độ no kiềm, lượng lân dễ tiêu,
.... thường có ý nghĩa rất lớn. Ngược lại đối với nhiều cây rừng khác yếu tố chủ
đạo thường thuộc về lý tính đất, chế độ nước và hàm lượng chất hữu cơ.


Trên cơ sở yêu cầu của bạch đàn và tình hình đất đồi núi vùng Trung tâm
miền Bắc, bảng phân hạng đất dựa vào hai nhóm nhân tố tổng hợp là "độ dày
tầng đất" và "độ thoái hoá của đất" lấy "thực vật làm chỉ thị" được xây dựng.


19

Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
2.1. Mục tiêu, đối tượng và giói hạn của đề tài.
2.1.1.
2.1.1.1.

Mục tiêu.
về lí luận

Góp phần tìm hiếu cơ sở khoa học của việc xác định tiêu chuấn và phân
hạng đất trồng rừng.
2.1.1.2.
về thực tiễn

Xác định các tiêu chuẩn và phân hạng đất cho rừng trồng Bạch đàn làm
nguyên liệu giấy và ván dăm nhằm sử dụng bền vững tài nguyên đất và hiệu
quả kinh doanh rùng tại tỉnh Phú Thọ.
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu

Do điều kiện và thời gian có giới hạn của đề tài nên chỉ tập trung nghiên
cứu đối tựơng là rừng trồng Bạch đàn Urophylla tù' tuổi 3 trở nên.
2.1.3.


Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu: Rừng trồng Bạch đàn Urophylla từ tuối 3 trở nên tại
tỉnh Phú Thọ.
2.2. Nội dung nghiên cứu

Đe đạt được mục tiêu đề tài cần có những nội dung sau:
2.2.1.
Thu thập, tong hợp các tài liệu, kết quả nghiên cứu ở trong và
ngoài
nước có liên quan đến để tài.


20

2.2.2.

Điều tra thu thập các thông tin ngoài hiện trường.

- Thu thập các thông tin cần thiết ở các địa phương: số liệu chung, năng
suất rừng...

- Xác định năng suất rừng trồng và một số chỉ tiêu sinh trưởng như
chiều cao, đường kính cây.

- Đào phẫu diện, mô tả và lấy mấu đất đế phân tích.
2.2.3.
Nội nghiệp phân tích mẩu đất và xử lý số liệu


- Phân chia mức độ thích hợp về điều kiện khí hậu, đất đai cho việc trồng
rùng Bạch đàn Urophylla và xây dựng bản đồ phân cấp mức độ thích hợp cấp
vĩ mô cho việc trồng rừng Bạch đàn Urophylla tại tỉnh Phú Thọ.

- Phân tích các mẫu đất với các chỉ tiêu chủ yếu: Hữu cơ, đạm tống số,
các dạng độ chua đất, các chất dễ tiêu p, K, thành phần cơ giới...

- Xác định cấp năng suất rừng trồng và mối tương quan với các yếu tố
lập địa.

- Đe xuất phân hạng đất cấp vi mô.
2.2.3.
Đánh giá hiệu quả kinh tế của trồng rừng Bạch đàn urophylla
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1.
Phương pháp luận:

- Dùng không gian thay cho thời gian đế bố trí và thu thập các số liệu
thí nghiệm ngoài hiện trường.

- Khí hậu và đất đai là hai yếu tố chính để phân hạng đất.


21

b. Điều tra ngoại nghiệp

- Chọn địa điểm nghiên cứu, lập tuyến điều tra, khảo sát hiện trạng khu
vực rừng trồng hiện có. Căn cứ vào bản đồ đã thu thập, mở các tuyến khảo sát
theo nguyên tắc đi qua các kiểu địa hình, loại đất, cây trồng có năng suất khác

nhau. Thông qua hệ thống tuyến khảo sát, tiến hành thu thập các thông tin
theo nội dung đã định.

- Điều tra các chỉ tiêu sinh trưởng Di 3 và Hvn của cây rùng, mô tả thực
vật dưới rừng:

♦ Diện tích ô tiêu chuẩn là 20m X 20m = 400m2

♦ Đo đường kính ngang ngực (D13) bằng thước kẹp và đo chiều
cao bằng thước Blumeleiss

- Ngoài ra trong các ô tiêu chuấn điến hình đào phẫu diện mô tả đặc
điểm đất và lấy mẫu phân tích các tính chất lý, hoá học của đất trong phòng
thí nghiệm.

Số lượng mẫu các ô tiêu chuẩn, các chỉ tiêu theo dõi phải đủ lớn và đại
diện cho các điểm nghiên cứu khác nhau.
c. Phương pháp nội nghiệp.

- Xây dựng bản đồ phân cấp mức độ thích hợp cấp vĩ mô cho việc trồng
ròng Bạch đàn Urophylla tại tỉnh Phú Thọ: áp dụng GIS xây dựng bản đồ tỷ
lệ 1:250.000.

- Các mẫu đất lấy về được phân tích các chỉ tiêu lý, hoá tính theo các
phương pháp đang được áp dụng phổ biến trong phòng thí nghiệm hiện nay:

♦ Dung trọng: Dùng ống đóng có thể tích v=100cm3


22


♦ P2O5 dễ tiêu: Trắc quang (Bray II)

♦ K20 dễ tiêu: Theo Maslova (đo trên quang kế ngọn lửa)

♦ Độ ẩm: Sấy ở nhiệt độ 105°c trong 3 giờ

- Các sổ liệu thu thập đuợc xử lý bằng chương trình Excel và phần mền

SPSS.

- ứng dụng xử lý thống kê trên máy tính bằng phần mềm SPSS cho
phép loại bỏ được những trị số đặc thù (về Di 3 và Hvn) có thế sai sót khi đo
đếm, quan sát. Việc loại bở các trị số này chủ yếu là căn cứ mức độ chênh
lệch giữa chúng với trị số trung vị của dãy quan sát.

- Xây dựng mối tương quan tuyến tính giữa sinh trưởng Bạch đàn
urophylla và tính chất đất bằng chương trình SPSS.
d. Phương pháp đánh giá hiệu quả kỉnh tế của trồng rìmg Bạch đàn
urophyỉỉa.

Đánh giá hiệu quả kinh tế của trồng rừng Bạch đàn urophylla dựa trên
các chỉ tiêu sau:

Trong đó:


23




r - tỉ lệ chiết khấu



ct - Dòng chi phí tại thời gian t



Bt- Dòng doanh thu tại thời gian t

- Chỉ tiêu tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR: Chỉ tiêu này cho biết khả năng
thu hồi vốn đầu tư, phản ánh mức độ quay vòng của vốn và xác định thời
điểm hoàn trả vốn đầu tư, nó cho phép so sánh và lựa chọn các phương án,
quy mô và kết cấu đầu tư khác nhau, phương án nào có IRR lớn hơn thì được
lựa chọn.Công thức tính của IRR như sau:

Ỷ _______ _______= ỹ ________£±_____
fr„ (l + /RR )' ÍTÓ (l + /RR )'

Trong đó:



IRR: Tỷ suất hoàn vốn nội bộ

(2.2)


24


X *,
BCR =

í

=0
n

Trong đó:

(2.3)


25

Chương 3
ĐIỀU KIỆN TỤ NHIÊN DÂN SINH KINH TẾ TỈNH PHÚ THỌ
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Phú Thọ.
3.1.1.
Đặc điêm tự nhiên
a. Vị trí địa lý

Phú Thọ là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điếm của Bắc Bộ, có tọa
độ địa lý nằm trong khoảng:

- Từ 20° 55 ’ đến 210 43' vĩ độ Bắc;

- Từ 104° 47' đến 105° 47’ kinh độ Đông.


Ranh giới hành chính:

- Phía Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang

- Phía Nam giáp tỉnh Hoà Bình

- Phía Đông giáp tỉnh Vĩnh Phúc

- Phía Tây giáp tỉnh Sơn La

Với vị trí địa lý như vậy nên khu vực nghiên cứu rất gần Hà Nội (80
km) là khoảng cách rất thuận lợi đế phát triến kinh tế, là cầu nối giao lun kinh
tế giữa các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, thủ đô Hà Nội với các tỉnh miền núi Tây
Bắc: Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La... có thị trường lớn
đế tiêu thụ nông sản và các sản phấm thế mạnh của tỉnh. Có thế đánh giá tỉnh
Phú Thọ có vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông lâm nghiệp
nói riêng và kinh tế của tỉnh nói chung.


26

thế chia thành 3 dạng địa hình chính như sau: miền núi, trung du và đồng
bằng.

- Kiểu địa hình vùng núi chiếm khoảng 22 - 25% tống diện tích tự
nhiên, có độ dốc bình quân từ 30°- 35°, tầng đất dày và tơi xốp.

- Kiểu địa hình vùng đồi trung du chiếm 25 - 30% tổng diện tích tự
nhiên, độ dốc trung bình < 30°.Tầng đất dày thích hợp cho việc phát triển sản
xuất lâm nghiệp.


- Kiểu địa hình vùng đồng bằng và thung lũng ven sông suối chiếm 45 50% tổng diện tích tự’ nhiên, vùng này tầng đất dày nằm trong vùng châu thổ
sông Hồng thích hợp với phát triển sản xuất nông nghiệp.
c. Khí hậu, thủy văn
* Khí hậu

Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa một năm có hai mùa rõ rệt, mùa
mưa nóng ẩm và mùa khô lạnh. Mùa mưa nắng nóng, mưa nhiều từ tháng 5
đến tháng 10 chiếm trên 80% tống lượng mưa trong năm, tập trung vào các
tháng 6, 7, 8, 9, mùa khô tù' tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa bình
quân năm của tỉnh là 1.700 - 1.900mm/năm.

- Độ ẩm không khí bình quân năm là 84 - 87%.

- Nhiệt độ bình quân hàng năm 23°c.

- Nhiệt độ tối cao: 39°c.

- Nhiệt độ tối thấp: 5°c.
* Thủy văn


27

thường gây ra lũ lụt, ngập úng gây nhiều khó khăn cho đời sống nhân dân
cũng như các hoạt động sản xuất nông - lâm nghiệp.
d. Địa chát, tho nhưỡng
* Địa chất

Đất đai được hình thành từ sản phẩm phong hóa của một số nhóm đá

mẹ sau:

- Nhóm đá hỗn hợp (h);

- Nhóm đá trầm tích và biến chất có kết cấu mịn (s);

- Nhóm đá vôi và biến chất của đá vôi (v);

- Nhóm đá trầm tích và biến chất có kết cấu hạt thô (q);

- Nhóm đá Mácma axít (a).
* Thổ nhưỡng

Theo tài liệu thô nhưỡng và kết quả điều tra bô sung những năm gần
đây, vùng nghiên cứu có 13 loại đất nằm trong 7 nhóm đất.
Nhỏm I; Đất phủ sa

- Đất phù sa được bồi hàng năm (Pb): đất có màu nâu tươi, phẫu diện
đất khá đồng nhất, thành phần cơ giới nhẹ. Đất bị ngập nước trong mùa mưa
lũ và có biến động. Độ phì tự nhiên cao (hàm lượng chất dinh dưỡng trong
chất phù sa bồi của sông Hồng, sông Đà cao hơn sông Lô, sông Chảy vì
nguồn gốc đá mẹ và vì có vùng mỏ Apatít Lào cai).


×