Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Lý luận và phương pháp dạy học môn vật lí- tổ chức hoạt động ngoại khóa cho môn vật lý 10 tại trường thpt chuyên lương thế vinh- đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.07 MB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-----------------------------------------------

Nguyễn Thị Mỹ Hương

Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học môn vật lí
Mã số: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐỖ XUÂN HỘI

Thành phố Hồ Chí Minh, 2009


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu
trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào khác.

Tác giả
Nguyễn Thị Mỹ Hương


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành công trình nghiên cứu này không phải chỉ có công sức của riêng tôi mà tôi đã nhận
được rất nhiều sự giúp đỡ nhiệt thành từ thầy cô, bạn bè và người thân.
Tôi cảm ơn Ban chủ nhiệm và các thầy cô khoa Vật Lí, cùng các thầy cô phòng Khoa học công
nghệ và Sau đại học trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện để tôi được học


tập và nghiên cứu trong thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến TS. Đỗ Xuân Hội, thầy đã luôn tận tình hướng dẫn và
đóng góp những ý kiến quý báu trong suốt quá trình tôi thực hiện luận văn.
Tôi cũng chân thành cám ơn sự quan tâm của Ban giám hiệu, sự hỗ trợ tích cực của các thầy cô
trong tổ vật lí cùng các học sinh trường THPT chuyên Lương Thế Vinh - Đồng Nai, nơi tôi đang công tác
và tiến hành thực nghiệm sư phạm.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình và những người bạn thân thiết của tôi vì đã luôn là chỗ dựa tinh
thần vững chắc giúp tôi có thêm niềm say mê trong nghiên cứu khoa học.

Tác giả
Nguyễn Thị Mỹ Hương


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Theo Ủy ban quốc tế và giáo dục thế kỉ XXI của UNESCO [29], thế kỉ XXI mà ta đang sống là thế
kỉ của tài năng và nhân cách đa dạng, vì thế dạy học là phải dạy cả tri thức, kĩ năng và thái độ để khi ra
đời người học có thể học tập suốt đời, có thể thích nghi và tham gia một cách chủ động, sáng tạo, vào thế
giới phong phú, luôn biến đổi và phụ thuộc lẫn nhau.
Hiện nay, đã có nhiều dự án nghiên cứu, đầu tư cho việc nâng cao chất lượng và hiệu quả trong
giáo dục. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng có một số hoạt động giáo dục trong nhà trường chưa mang lại
hiệu quả thật sự trọn vẹn cho quá trình đào tạo – và tự đào tạo trong nhà trường. Đó là HĐNK trong nhà
trường phổ thông.
Nền giáo dục Việt Nam đã và đang luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục toàn diện cho HS, trong đó
HĐNK là một bộ phận không thể thiếu của quá trình giáo dục. HĐNK là một hoạt động giáo dục cơ bản
ngoài giờ học chính thức, được thực hiện một cách có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức, được tiến hành
xen kẽ với chương trình dạy học và diễn ra suốt năm học. HĐNK giúp HS biết coi tri thức vừa là mục
đích nâng cao nhận thức, vừa là phương tiện để vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn; biết điều chỉnh
hành vi đạo đức, lối sống cho phù hợp; biết nắm bắt những định hướng chính trị xã hội …Từ đó, rèn luyện

cho mình những kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng sống hợp tác, giao tiếp hiệu quả…
Thực trạng giáo dục Việt Nam trong những năm qua cho thấy: không thiếu các trường đã đầu tư
đúng mức, kịp thời cho các HĐNK, nhất là các hoạt động thể dục thể thao, các buổi ngoại khóa văn học,
hóa học, vật lí, ngoại ngữ, …Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà hiện nay HĐNK vẫn còn là
niềm mơ ước xa vời của nhiều trường, bao gồm một số các trường chuyên trong cả nước.
Mặt khác, theo một khảo sát về khoảng cách IQ-EQ dành cho HS trường chuyên do Viện nghiên
cứu giáo dục – Đại học sư phạm TP.HCM [38] thực hiện cho thấy: HS các trường chuyên có các điểm
mạnh về năng lực tư duy, trong đó óc suy diễn, sự tưởng tượng được đánh giá rất cao mà theo HS là do
thường vận dụng các năng lực này cho việc học. Hơn nữa, HS có thể làm việc dưới áp lực cao, có nhiều
cảm thông với người khác, có sự rõ ràng quả quyết trong việc làm của mình và có nhận thức cá nhân cao.
Nhưng chính điều này đã làm HS các trường chuyên có tính cách quyết đoán, ít chịu nhân nhượng. HS
chuyên có khả năng nhận thức được bản thân, đây là một kĩ năng không dễ có vì HS cần nhiều can đảm để
đối diện với sự thật về bản thân như vẻ ngoài hay những hạn chế của chính mình, từ đó các bạn tự nhận ra
được trạng thái căng thẳng hay tình trạng bị ức chế để ứng phó kịp thời. Tuy nhiên, kĩ năng xã hội của
những HS này chiếm vị trí thấp trong mười ba tiêu chí đánh giá EQ. HS chuyên có thể thông cảm với
người “không bằng mình” nhưng lại không thể chấp nhận có người “hơn mình” và chính tư duy này đã


cản trở những nỗ lực nhằm phát huy tiềm năng của họ, đặc biệt làm cho các kĩ năng hợp tác và làm việc
nhóm không được phát huy đúng mức.
Từ những phân tích nêu trên và trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu này, tác giả đã vận dụng các cơ
sở lí luận cơ bản của HĐNK vào việc tổ chức các HĐNK cho môn vật lí ở trường THPT. Vấn đề nghiên
cứu đặt ra là: Làm thế nào để những HĐNK môn vật lí thực sự trở thành những hoạt động đa dạng nhằm
giúp HS không chỉ củng cố kiến thức vật lí mà còn chiếm lĩnh các kĩ năng sống là những kĩ năng hết sức
cần thiết cho sự thành công của con người trong thời đại ngày nay?
Để trả lời cho câu hỏi này, đề tài đã nghiên cứu xây dựng những mô hình cụ thể cho HĐNK môn
vật lí ở trường THPT chuyên LTV (Đồng Nai), giúp cho GV có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của
hoạt động giáo dục ngoại khóa môn vật lí đối với HS và ngay cả bản thân GV; hỗ trợ cho GV các thông
tin cần thiết nhằm giúp họ có thêm niềm tin và cơ sở để vận dụng nó vào thực tiễn dạy học ở phổ thông.
2. Mục đích nghiên cứu

- Đánh giá sơ bộ chất lượng và hiệu quả của việc thực hiện các HĐNK môn vật lí ở trường THPT.
- Đề xuất mô hình HĐNK môn vật lí có chất lượng, phù hợp với MTGD và áp dụng cho trường THPT
chuyên LTV – Đồng Nai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Chương trình, nội dung vật lí lớp 10.
+ Các kiến thức vật lí (hiện tượng, trò chơi, …) quanh ta, có liên quan đến nội dung kiến thức mà
HS đã được học trên lớp.
+ Lí luận giáo dục trong việc nâng cao chất lượng các HĐNK nói chung và HĐNK môn vật lí nói
riêng.
- Phạm vi nghiên cứu: Tổ chức HĐNK cho môn vật lí trong phạm vi khối 10 của trường THPT chuyên
LTV – Đồng Nai.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu có sự tổ chức hợp lí và khéo léo các HĐNK môn vật lí thì HS sẽ không chỉ có thêm niềm tin
khi sử dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề hấp dẫn của thực tiễn, mà còn được trau dồi nhiều kĩ năng
cần thiết cho con người ở thời đại mới.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thiết kế các mô hình tổ chức HĐNK cho môn vật lí lớp 10.
- Tổ chức và tiến hành thử nghiệm một phần của thiết kế đó cho HS lớp 10 trường THPT chuyên LTV.
- Bước đầu đánh giá khả năng thích nghi của HS, cùng những ích lợi mà HS lĩnh hội được khi tham gia
các HĐNK này.


6. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí thuyết: nghiên cứu cơ sở lí luận trong các tài liệu tham khảo.
- Sử dụng bút vấn, điều tra trong việc thu thập dữ liệu về nhận thức của GV và HS cấp THPT về HĐNK
vật lí.
- Thực nghiệm sư phạm.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Trong bối cảnh hội nhập, giáo dục HS có đầy đủ các tố chất: đức, trí, thể, mỹ là một yêu cầu mà

các trường phổ thông phải chú trọng, vì thế mà nhu cầu về HĐNK là vô cùng cấp thiết.
Kiến thức vật lí phổ thông cổ điển ngày nay đã nằm trong nguyên tắc của nhiều ứng dụng kỹ thuật
phổ biến trong đời sống. Tuy nhiên, vì giờ học chính khóa có hạn nên GV không thể dẫn dắt HS tìm hiểu
hết được. Do đó, các HĐNK cho môn vật lí cần được nghiên cứu tổ chức.
GV vật lí với số giờ dạy chuyên môn nhiều nên không còn đủ thời gian và công sức để nghiên cứu
tổ chức nhiều HĐNK đa dạng, nên đề tài này được nghiên cứu cũng là để hỗ trợ phần nào cho các GV vật
lí trong việc chọn lựa các kiến thức vật lí phổ thông thích hợp cùng với cách thức tổ chức, tiến hành các
HĐNK môn vật lí sao cho đạt hiệu quả cao.


Chương 1

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA MÔN VẬT LÍ
Ở NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG

1.1. Mục tiêu giáo dục môn vật lí hiện nay
MTGD là một hệ thống các chuẩn mực của mẫu hình nhân cách cần hình thành ở một đối tượng
người được giáo dục nhất định. Đó chính là một hệ thống cụ thể các yêu cầu xã hội trong mỗi thời đại,
trong từng giai đoạn xác định đối với nhân cách một loại đối tượng giáo dục. Do đó MTGD phụ thuộc vào
mỗi thời kì nhất định của quá trình phát triển xã hội và mỗi giai đoạn của quá trình giáo dục con người.
 MTGD môn học vật lí ở PTTH của Việt Nam: [32]
* Mục tiêu kiến thức:
- Những khái niệm tương đối chính xác về sự vật, hiện tượng, quá trình vật lí thường gặp.
- Những định luật, nguyên lí vật lí quan trọng nhất.
- Những nét chính của các thuyết vật lí.
- Những hiểu biết cần thiết về phương pháp thực nghiệm, mô hình.
- Nguyên tắc cơ bản thuộc những ứng dụng quan trọng của vật lí trong đời sống và sản xuất.
* Mục tiêu kĩ năng:
- Thu thập thông tin từ quan sát, thí nghiệm, từ tài liệu …
- Xử lí thông tin về vật lí

- Truyền đạt thông tin về vật lí.
- Giải thích các hiện tượng vật lí.
- Các kĩ năng thực hành vật lí.
- Đề xuất các dự đoán khoa học, các phương án thí nghiệm…
* Mục tiêu thái độ:
- Là sự hứng thú học tập môn học vật lí, có lòng yêu thích khoa học, có tác phong làm việc khoa học,
có tính trung thực khoa học, có ý thức sẵn sàng áp dụng hiểu biết vật lí vào thực tế…
Ủy ban giáo dục thế kỉ XXI của UNESCO đã chỉ ra ở nhiều chiến lược dạy học hiện đại ngày nay
hướng tới các mục tiêu chung, cơ bản sau: [2], [4]
* Mục tiêu nhận thức:
- Phát triển hiểu biết khoa học.
- Khả năng tổ chức kiến thức.


* Mục tiêu kỹ năng:
- Rèn luyện các kĩ năng tiến trình khoa học là các kĩ năng cần thiết có thể áp dụng một cách khoa học
các vấn đề thuộc các lĩnh vực khác nhau.
- Cung cấp các kĩ năng sống.
* Mục tiêu thái độ:
- Phát huy thái độ tích cực đối với khoa học, đó là niềm tin, sự say mê, hứng thú đối với khoa học.
 MTGD thiên niên kỉ của UNESCO: [29]
* Mục tiêu nhận thức: Học để biết (Learning to know)
* Mục tiêu kỹ năng: Học để làm (Learning to do)
- Coi trọng kỹ năng làm việc (theo nhóm, sáng kiến, kỹ năng giải quyết vấn đề, óc độc lập, phê
phán…)
- Kỹ năng sống: giao tiếp, hợp tác, điều hành, quản lí…
- Sau đó mới tới các kỹ năng thuần tuý trí tuệ.
* Mục tiêu thái độ: Học để chung sống (Learning to live together) và học để tự khẳng định mình
(Learning to be)
So sánh những mục tiêu cơ bản của các chiến lược dạy học tích cực, MTGD của UNESCO với

MTGD môn học vật lí, chúng ta nhận thấy có những điểm khác biệt:
- Các chiến lược dạy học hiện đại coi trọng sự phát triển hiểu biết vượt ra khỏi khuôn khổ chương trình
học.
- Coi trọng việc rèn luyện những kĩ năng chung, cần thiết có thể áp dụng để giải quyết các vấn đề khác
nhau không chỉ riêng trong lĩnh vực vật lí.
- Coi trọng việc rèn luyện các kĩ năng sống cần thiết cho sự thành công của con người trong thời đại ngày
nay.
- Coi trọng sự phát triển đa dạng của nhân cách người học.
Những mục tiêu trên rất tích cực và cần thiết cho sự phát triển lâu dài của con người. “Vậy làm thế
nào để việc dạy học vật lí nói riêng và các môn học khác nói chung đạt được nhiều MTGD tích cực, giúp
ích cho sự phát triển của HS?” là câu hỏi mà việc đổi mới phương pháp dạy học phải cố gắng trả lời.
Tổ chức lại nội dung dạy học, thay đổi cách thức tổ chức của quá trình dạy học, áp dụng một cách
sáng tạo và linh hoạt các chiến lược dạy học tích cực vào thực tiễn có thể là cách làm phù hợp trong thực
tiễn hiện nay. Tuy nhiên, không thể hoàn thành tốt các MTGD chỉ bằng hoạt động lên lớp – là hoạt động
dạy học được tiến hành theo chương trình và kế hoạch dạy học các môn học – mà còn phải thông qua các


hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. “Tôi kiên trì nói rằng các vấn đề giáo dục, phương pháp giáo dục
không thể hạn chế trong các vấn đề giảng dạy, lại càng không thể để cho quá trình giáo dục chỉ thực hiện
trên lớp học mà đáng ra phải là trên mỗi mét vuông của đất nước ta…”- Makarenco – nhà sư phạm nổi
tiếng của nước Nga đầu thế kỷ XX cũng đã từng nói như thế, nghĩa là trong bất kì hoàn cảnh nào cũng
không được quan niệm rằng công tác giáo dục chỉ được tiến hành trong lớp.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp có hình thức đa dạng và nội dung phong phú với phương tiện,
điều kiện, hoàn cảnh gần gũi với HS, là môi trường lí tưởng trong việc giáo dục toàn diện con người mới.
1.2. Mục tiêu giáo dục của HĐNK môn vật lí
1.2.1. Khái niệm hoạt động ngoại khóa
HĐNK là một hình thức tổ chức dạy học ngoài giờ học các môn văn hóa ở trên lớp nhằm mục đích
bổ trợ cho hoạt động giáo dục trên lớp trong việc củng cố và mở rộng những kiến thức đã học, cung cấp
và rèn luyện các kĩ năng sống, cùng những phẩm chất tốt đẹp của con người thời đại mới cho cả GV và
HS [16].

HĐNK cho môn vật lí là các hình thức hoạt động được tổ chức ngoài giờ học chính khóa môn vật
lí, nhằm hỗ trợ các giờ học chính khóa trong việc làm cho nội dung kiến thức vật lí mà HS đã học trở nên
gần gũi và có ý nghĩa với cuộc sống thực, không chỉ rèn luyện cho HS kĩ năng tiến trình khoa học, mà còn
trang bị những kĩ năng chung (giao tiếp, hợp tác nhóm, giải quyết vấn đề, …) cần thiết có thể áp dụng để
giải quyết các vấn đề khác nhau không chỉ riêng trong lĩnh vực vật lí.
1.2.2. Mục tiêu giáo dục của HĐNK môn vật lí
Tất cả các hoạt động giáo dục bao gồm cả các HĐNK dành cho môn vật lí được tổ chức trong nhà
trường phổ thông đều nhằm thực hiện mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho HS; giúp
HS lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học về thế giới, rèn luyện được những kĩ năng, kĩ xảo cần thiết, phát
triển được tư duy sáng tạo và những phẩm chất tích cực của nhân cách. Mặt khác HĐNK còn đem đến cho
GV nhiều cơ hội củng cố, nâng cao trình độ chuyên môn [16].
Tuy nhiên, do đặc thù của bộ môn vật lí mà có thể tổ chức những HĐNK với những mục tiêu cụ
thể như sau:
1.2.2.1. Đối với học sinh
a. Về kiến thức
- Củng cố, bổ sung, mở rộng, nâng cao các kiến thức vật lí đã được học trên lớp. Đồng thời khơi gợi
sự tò mò, tìm hiểu, giải thích các hiện tượng vật lí; dựa trên những ứng dụng đã có của vật lí vào khoa học
kĩ thuật HS có thể chế tạo những mô hình đồ chơi tương tự, phù hợp với khả năng của bản thân... Qua đó,
giúp HS có thêm niềm tin khi sử dụng kiến thức vật lí vào giải quyết các vấn đề hấp dẫn của thực tiễn.
b. Về kĩ năng


- Rèn luyện các kĩ năng thực hành và kĩ năng tiến trình khoa học: Thu thập thông tin; xử lí thông tin;
suy luận bằng các thông tin đã xử lí; rút ra kết luận …
- Rèn luyện các kĩ năng sống: làm việc theo nhóm hợp tác, giao tiếp, ngôn ngữ (do trao đổi, truyền
đạt thông tin, tranh luận…), tổ chức, quản lí nhóm, giải quyết vấn đề, ra quyết định, ý thức đúng đắn về
bản thân, …
c. Về thái độ
- Hình thành thái độ tích cực học tập.
- Bao dung hơn với bạn bè, hỗ trợ nhau về mặt tâm lí và điều này quan trọng cho quá trình lấy quyết

định.
- Thầy và trò có mối quan hệ tốt, làm cho việc dạy và học thuận lợi hơn.
1.2.2.2. Đối với giáo viên
- Củng cố, nâng cao hiểu biết về chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm.
- Hướng tới việc gắn kết tình cảm, sự quan tâm lẫn nhau trong tập thể môi trường sư phạm giữa thầy
– thầy, trò – trò, thầy – trò.
- Rèn luyện, bồi dưỡng các kĩ năng tổ chức HĐNK. Để tổ chức các hoạt động giáo dục nói chung đạt
kết quả, GV cần phải có một hệ thống kĩ năng tổ chức. Đó là một hệ thống các kĩ năng từ xác định mục
tiêu của hoạt động đến việc thiết kế chương trình và kế hoạch tổ chức hoạt động, từ kĩ năng thực hiện triển
khai hoạt động, kĩ năng tiếp cận và huy động lực lượng quần chúng đến kĩ năng kiểm tra đánh giá và điều
chỉnh hoạt động [25].
1.3. Đặc điểm HĐNK môn vật lí ở trường phổ thông hiện nay
1.3.1. Thực trạng [31]
Trong những năm qua HĐNK ở các trường THPT thường gắn với ngoại khóa chuyên môn. Không
ít các trường đã xây dựng được kế hoạch HĐNK cụ thể cho nhiều phân môn Văn, Toán, Lí, Hóa, Sinh,
Sử, Địa, Giáo dục công dân và các hoạt động hướng nghiệp. Ví dụ như trường THPT Mạc Đĩnh Chi;
Nguyễn Thượng Hiền; Võ Trường Toản (TP. Hồ Chí Minh); LTV (Biên Hòa); Nguyễn Du (Đaklak)…
Tuy nhiên, phần lớn các trường còn chưa thực sự chú trọng đến lợi ích mà HĐNK đem lại, chưa có
kế hoạch tổ chức cụ thể và xuyên suốt. HĐNK cho môn vật lí cũng không nằm ngoài những hạn chế đó.
1.3.2. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của các HĐNK nói chung, cũng như đối
với HĐNK cho môn vật lí nói riêng:
- Một số cán bộ, GV, phụ huynh và HS chưa nhìn nhận đúng đắn vai trò của HĐNK nên trong quá trình
tổ chức, chỉ đạo và quản lí các HĐNK còn nhiều hạn chế như:


+ Ban giám hiệu các trường học phần lớn chỉ tập trung cho giờ học chính khóa và quan niệm ngoại
khóa chỉ là vui chơi, giải trí.
+ Hình thức hoạt động còn đơn điệu: thiết kế các thí nghiệm đơn giản (tên lửa nước, pin chanh …),
thực hiện các cuộc thi đố em truyền thống…

+ Công tác kiểm tra thi đua, khen thưởng đối với HS và GV còn chưa kịp thời làm ảnh hưởng không
nhỏ đến đến hiệu quả giáo dục.
+ Công tác đánh giá chất lượng học tập hiện nay vẫn chủ yếu là đánh giá dựa trên điểm số học tập
trên lớp và kĩ năng giải bài tập.
+ Trình độ và kĩ năng tổ chức HĐNK của GV còn chưa được đầu tư.
- Cơ sở vật chất của nhiều trường còn quá thiếu thốn, các phương tiện thiết yếu phục vụ cho việc dạy học
chính khóa còn chưa đủ.
- Nguồn kinh phí dành cho HĐNK lại quá ít ỏi nên dẫu muốn tổ chức nhiều HĐNK cũng không thể thực
hiện được.
- Số giờ dạy chuyên môn của GV phổ thông đã quá nhiều, cộng với khối lượng kiến thức trong chương
trình chính khóa quá lớn, GV không còn nhiều thời gian, công sức đầu tư cho việc lập kế hoạch, chuẩn bị
nội dung HĐNK.
- Trong thời đại công nghệ thông tin, internet tràn ngập phố phường, nhiều HS chưa tích cực trong học tập
luôn đắm mình trong những game, chat, nghe nhạc, … mà không còn hứng thú với HĐNK.
- Phần lớn thời gian được HS sử dụng cho việc học chính khóa và những lớp học thêm. Mặt khác, những
HS có năng lực sở trường về các môn xã hội lại thiếu tự tin hoặc không hứng thú với các HĐNK của môn
vật lí.
1.3.3. Các giải pháp chung đã được đề xuất [31]
Trong hội thảo về vấn đề: “Hiệu quả của HĐNK đối với việc nâng cao chất lượng dạy – học trong
nhà trường phổ thông” do Trung tâm đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục thuộc Viện nghiên cứu
giáo dục TP.HCM tổ chức năm 2007 đã có rất nhiều bài viết liên quan đến vấn đề này của các thầy cô
giáo trực tiếp giảng dạy, của các nhà quản lí, các nhà khoa học.
* Theo Th.S Trương Quang Dũng (Sở GD và ĐT tỉnh Quảng Ngãi):
- Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của HĐNK cho cán bộ, GV, HS và các lực lượng xã hội khác.
- Bồi dưỡng kĩ năng tổ chức HĐNK cho cán bộ, GV,…
- Bồi dưỡng năng lực hoạt động cho HS.
- Chỉ đạo nội dung, chương trình HĐNK.
- Chỉ đạo đổi mới hình thức các hoạt động giáo dục.



- Chăm lo đến việc xây dựng cơ sở vật chất, môi trường sư phạm và đổi mới công tác thi đua khen
thưởng.
* Theo Th.S Lê Tấn Huỳnh Cẩm Giang (Trung tâm Đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục,
Viện nghiên cứu giáo dục) thì HĐNK phải được nhìn nhận từ góc độ lợi ích của người học, đề cao mục
tiêu rèn luyện các kĩ năng cá nhân của người học. Mục tiêu mở rộng và khắc sâu kiến thức chỉ nên xem là
thứ yếu.
* GV Đào Thị Kim Như (trường THPT Võ Trường Toản) đã nêu một số kiến nghị như sau:
- Miễn vé cho HS vào tham quan các nhà Bảo tàng, khu di tích lịch sử, giảm vé khu vui chơi trên địa
bàn thành phố.
- Tổ chức các lớp bồi dưỡng công tác ngoại khoá trong nhà trường phổ thông.
- Tổ chức các chương trình gameshow mang tính trí tuệ nhằm tạo sân chơi lành mạnh và tạo điều
kiện cho HS có cơ hội phát huy khả năng cá nhân…
1.3.4. Giải pháp đề nghị đối với HĐNK môn vật lí
Dựa trên nội dung của các bản tham luận có trong kỉ yếu hội thảo đã nói ở trên, cùng với những tìm
hiểu thực tế về HĐNK môn vật lí ở một số trường THPT, để nâng cao hiệu quả và chất lượng của hoạt
động này, chúng tôi đề nghị các giải pháp sau:
1.3.4.1. Về phía nhà trường
- Đầu tư kinh phí hợp lí cho các HĐNK, nâng cấp phòng thí nghiệm và phòng bộ môn vật lí, thư viện
cần đa dạng các tài liệu bổ sung kiến thức vật lí phổ thông.
- Dành nhiều thời gian hơn cho GV, có kế hoạch kiểm tra, đánh giá HĐNK đối với GV chịu trách
nhiệm tổ chức HĐNK, tránh việc tổ chức tùy tiện.
- Xét cấp cho HS những chứng chỉ đã tham gia HĐNK do nhà trường và GV tổ chức, nhằm khuyến
khích HS tham gia các hoạt động đầy ý nghĩa này.
- Để thu hút HS, các tổ bộ môn cũng có thể phát tờ rơi quảng cáo về HĐNK của mình không chỉ cho
HS mà còn cho cả phụ huynh HS.
1.3.4.2. Về phía GV
- GV phải thật tâm huyết với nghề, với công việc ngoài giờ mà không có quy định nào bắt buộc.
- Nếu không có điều kiện tham gia các lớp bồi dưỡng kĩ năng tổ chức HĐNK thì cách hay nhất là tự
học trên sách báo, học hỏi kinh nghiệm từ những trường, những GV đã tổ chức thành công các HĐNK.
- Cần lập kế hoạch HĐNK chi tiết ngay từ đầu năm học.

- Tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ của đồng nghiệp. Đồng thời, kết hợp chặt chẽ với những HS nòng cốt
trong việc tổ chức, quản lí.


- Nội dung kiến thức vật lí trong các buổi ngoại khóa không được tách rời chính khóa. Mặt khác, tổ
chức các HĐNK cho môn vật lí theo hướng tích hợp Lí – Toán; Lí – Hóa; Lí – Sinh; Lí – Văn sẽ hấp dẫn
nhiều đối tượng HS.
- Chú ý việc tạo nguồn quỹ cho HĐNK bằng nhiều cách khác nhau.
1.3.4.3. Về phía HS
- HĐNK môn vật lí được tổ chức cho mọi đối tượng HS.
- HS tham gia các HĐNK cho môn vật lí phải trên cơ sở tự nguyện. Khi đã tham gia HS phải tuân
thủ các quy định do Ban tổ chức đề ra.
- Nhận thức đầy đủ về các lợi ích mà HĐNK môn vật lí đem lại.
1.3.4.4. Về phía phụ huynh HS và các tổ chức liên quan
- Phụ huynh HS phải luôn theo dõi, kiểm tra việc học tập của con em mình, có nhận thức đúng đắn
về tầm quan trọng của các HĐNK môn vật lí đối với sự phát triển nhân cách toàn diện của trẻ.
- Các tổ chức liên quan cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các HĐNK.


Chương 2

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA CHO MÔN VẬT LÍ 10
Ở TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH – ĐỒNG NAI

2.1. Giới thiệu đôi nét về trường THPT chuyên Lương Thế Vinh – Đồng Nai
(Theo báo cáo tổng kết năm học 2007 – 2008)
2.1.1. Tổ chức nhà trường
2.1.1.1. Lớp học
- Tổng số HS là 786, tỉ lệ duy trì sĩ số đạt 100%:
+ Khối 10: 217 HS, 10 lớp

+ Khối 11: 308 HS, 12 lớp
+ Khối 12: 257 HS, 10 lớp
- Tổng số lớp là 32, bình quân 25 HS/lớp
2.1.1.2. Tổ chuyên môn

Hình 2.1 Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh

Trường có chín tổ chuyên môn: Toán; Tin; Vật lí; Hóa;

- Đồng Nai -

Văn; Sử - Địa; Sinh; Anh văn; GDCD - Công nghệ - Thể dục.
2.1.1.3. Các tổ chức khác
- Hội cha mẹ HS; Hội đồng sư phạm; Hội khuyến học; Hội đồng thi đua …
- Chi bộ Đảng; Công đoàn nhà trường; Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
2.1.2. Cơ sở vật chất và thiết bị
- Khuôn viên nhà trường có diện tích 27.000 m2, tính bình quân 31,4m2/HS
- Cơ cấu các khối công trình trong trường gồm:
+ Khu phòng học, phòng thực hành bộ môn.
+ Khu phục vụ học tập:
 Thư viện theo đúng tiêu chuẩn quy định hiện hành.
 Một nhà truyền thống, sân bóng chuyền, bóng đá mini, bóng rổ, quần vợt...
+ Khu sân chơi.
+ Khu vệ sinh
2.1.3. Chất lượng giáo dục
2.1.3.1. Chất lượng giáo dục
- 97.83% HS toàn trường đạt hạnh kiểm tốt; 60,74% HS toàn trường đạt học lực giỏi; tỉ lệ đỗ tốt
nghiệp là 100%.



- Kết quả các kì thi HS giỏi khá ổn định.
2.1.3.2. Các hoạt động giáo dục
Thực hiện đúng quy chế chuyên môn, qui định của Bộ về thời gian tổ chức, nội dung các hoạt động
giáo dục ở trong và ngoài giờ lên lớp. Đặc biệt, trong những năm qua, trường THPT chuyên LTV rất quan
tâm đến các HĐNK:
- Mỗi năm học tổ chức từ hai đến ba lần hoạt động tập thể theo quy mô toàn trường, các hoạt động tập thể
tiêu biểu như:
+ Hội trại mùa xuân
+ Tham gia các hội thi văn nghệ, thể dục thể thao, hoạt động truyền thống nhân các ngày lễ lớn như:
ngày thành lập Quân Đội Nhân Dân Việt Nam; ngày 20/11; Ngày 26/3; Ngày sinh viên – HS toàn quốc
9/1
+ Đại hội thể dục thể thao
+ Nhiều hoạt động mang tính giáo dục đạo đức như: phụng dưỡng mẹ liệt sĩ; xây nhà tình thương;
chỉ đạo đoàn thanh niên tham gia chiến dịch phòng chống ma túy…
- Tổ chức HĐNK các môn học: Trường luôn khuyến khích các tổ chuyên môn thành lập các CLB học
thuật, tính đến thời điểm này đã có một số CLB được thành lập như: CLB Sinh học, CLB Tin học, CLB
Hóa học, CLB Văn học với các hoạt động vừa chơi vừa học thú vị.

2.1.4. Đặc điểm HĐNK môn vật lí của trường
Mặc dù nhiều tổ chuyên môn trong trường đã thành lập được các CLB nhưng riêng tổ vật lí vẫn
chưa hình thành được một CLB vững mạnh, hấp dẫn, mặc dù các GV bộ môn vẫn có ý thức tổ chức cho
HS thiết kế các thí nghiệm vui ngoài giờ học chính khóa, nhưng các hoạt động còn mang tính cá nhân nên
cũng chỉ sôi nổi được một thời gian ngắn.
 Thuận lợi:
- Ban giám hiệu nhà trường luôn khuyến khích, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện cho các HĐNK
- GV bộ môn có trình độ chuyên môn cao.
- GV trẻ chiếm ½ tổng số GV của tổ.
- HS ngoan, hiếu học, say mê tìm tòi kiến thức.
- Cơ sở vật chất và thiết bị khá đầy đủ gồm có ba phòng chuyên môn: một phòng chứa các thiết bị thí
nghiệm, một phòng thực hành thí nghiệm, một phòng học chuyên môn được trang bị máy tính, máy chiếu,

bàn ghế rời, thuận tiện cho việc sắp xếp theo nhiều hình thức hội họp: thảo luận nhóm, báo cáo chuyên đề.
 Khó khăn:
- Lực lượng GV vật lí có trình độ chuyên môn cao nhưng thiếu kĩ năng tổ chức các HĐNK.


- Nửa số GV của tổ vật lí có tuổi đời và tuổi nghề đã nhiều nên thời gian và sức khỏe hạn chế. Những năm
gần đây, đã có một số GV trẻ được phân công về tổ, nhưng do vừa phải hoàn thành công tác giảng dạy
vừa học tiếp chương trình đào tạo sau đại học nên cũng chưa có cơ hội, điều kiện để tổ chức các HĐNK
cho môn vật lí.
- Một số GV còn xem nhẹ những lợi ích do HĐNK đem lại, tập trung nhiều cho các giờ học chính khóa
hay bồi dưỡng HS giỏi.

2.2. Tham khảo ý kiến của HS về HĐNK môn vật lí
2.2.1. Mục đích điều tra
Thăm dò ý kiến của HS các khối lớp 10, 11 về các nội dung liên quan đến việc tổ chức các HĐNK
môn vật lí.
2.2.2. Đối tượng, nội dung và phương pháp điều tra
2.2.2.1. Khách thể điều tra
Số lượng HS là 300 em thuộc trường THPT chuyên LTV bao gồm 200 HS khối 10 và 100 HS khối
11.
2.2.2.2. Nội dung điều tra
Nội dung điều tra được thiết kế gồm ba phần (phụ lục 2-I):
Phần A: Thông tin cá nhân
- Tìm hiểu thông tin của khách thể điều tra.
Phần B: Tìm hiểu sự hứng thú của HS đối với HĐNK môn vật lí 10
- Từ câu 1 đến câu 6: khảo sát về HĐNK mà HS đã từng tham gia
- Từ câu 7 đến câu 16: khảo sát ý kiến của HS đối với hình thức hoạt động của CLB vật lí.
Phần C: Đăng kí thành viên CLB vật lí
- Phần này dành riêng cho những HS muốn đăng kí làm thành viên CLB vật lí. Qua đó, có thể nắm
bắt sơ bộ số lượng HS mong muốn được tham gia hoạt động cùng CLB vật lí.

2.2.2.3. Phương pháp điều tra
Sử dụng phương pháp bút vấn. Thiết kế phiếu câu hỏi mở và gửi tới một nhóm GV vật lí và một
nhóm HS để thu thập các ý kiến nhằm sửa đổi, bổ sung cho bản bút vấn. Nhờ đó, nội dung của bản bút
vấn sẽ được cải thiện và tính đáng tin cậy của nó sẽ tăng lên.

2.2.3. Kết quả điều tra


Khi được hỏi về việc có muốn tham gia các HĐNK dành cho môn vật lí 10, có đến 65.7% HS trả
lời có, đồng nghĩa với việc có gần 1/3 số HS được hỏi trả lời không muốn tham gia HĐNK môn học này.
Để tìm câu trả lời cho kết quả này, người nghiên cứu đã xây dựng câu hỏi số B4 (phụ lục 2-I). Kết
quả được thể hiện ở hình 2.2 cho thấy, lí do cơ bản làm gần 1/3 (53.8%) số HS được hỏi không muốn
tham gia HĐNK là vì không có thời gian.
B4

60
50
40
30
20
10
0

Không có thời gian

Không học tốt môn vật
lí ở trường

Không hứng thú


Số lượng

Không được phép của Không mang lại lợi ích
cha mẹ
cho bản thân

Tỉ lệ (%)

Hình 2.2 Biểu đồ thể hiện lí do không tham gia HĐNK của HS

Song song với những lí do mà một số HS không thích tham gia HĐNK môn vật lí thừa nhận trong
bản khảo sát, người nghiên cứu đã thiết kế câu hỏi đóng số B5 (phụ lục 2-I) với mong muốn tìm hiểu về
những lí do tham gia HĐNK của HS và thông qua câu hỏi này để nhận biết những động cơ thực sự của HS
khi tham gia các HĐNK. Kết quả thu nhận được thể hiện ở hình 2.3. Đa phần những lí do như muốn tìm
hiểu sâu kiến thức, mở rộng kiến thức, rèn luyện sự tự tin, rèn luyện các kỹ năng, phát triển tư duy được
HS lựa chọn chiếm tỉ lệ khá cao so với các lí do còn lại. Điển hình như tỉ lệ phần trăm của lí do muốn hiểu
sâu kiến thức là 67.1% gấp 48 lần lí do đến tham gia HĐNK vì nghe lời bố mẹ. Điều này thể hiện những
mong muốn tích cực của hầu hết HS khi tham gia HĐNK. Tuy nhiên, vẫn có một số HS đến tham gia
ngoại khóa với những động cơ chưa được tích cực như: do bạn bè rủ rê hay chỉ muốn có cơ hội giao lưu…
B5

160
140
120
100
80
60
40
20
0

Đi chung Nghe lời
với bạn bè bố mẹ

Có thời Muốn hiểu Muốn mở Rèn luyện Rèn luyện Hòa đồng Thể hiện Phát triển Có cơ hội Lí do khác
gian rảnh sâu kiến rộng hiểu sự tự tin
các kĩ
cùng bạn năng lực
tư duy
giao lưu
thức
biết
năng


Số lượng

Tỉ lệ (%)

Hình 2.3 Biểu đồ thể hiện lí do tham gia HĐNK của HS


Điều này cũng lí giải cho kết quả khảo sát ở câu B7 (phụ lục 2-I), số lượng HS mong muốn trở
thành thành viên CLB vật lí chiếm tỉ lệ xấp xỉ 61% (xem hình 2.4)
B7

5%
34%


Không

Không ý kiến
61%

Hình 2.4 Biểu đồ thể hiện mong muốn trở thành thành viên CLB vật lí của HS

Ở câu hỏi số B6 (phụ lục 2-I), người nghiên cứu muốn tìm hiểu các hình thức HĐNK môn vật lí
được HS ưa thích, kết quả được trình bày ở hình 2.5. Những hình thức hoạt động được HS lựa chọn chiếm
tỉ lệ cao như: thiết kế thí nghiệm, trò chơi truyền hình, tham quan thực tế, trò chơi giải trí cho thấy xu
hướng “vui để học” được HS quan tâm nhiều hơn những hình thức mang tính nghiên cứu khoa học hoặc
đòi hỏi nhiều thời gian như tự chọn chủ đề, diễn tiểu phẩm hay hoạt động bản tin. Đặc biệt, ở hình thức
diễn tiểu phẩm, số lượng HS lựa chọn chỉ là 25, chiếm 13.3% và tự chọn chủ đề, số lượng HS lựa chọn là
42, chiếm 22.3% . Mặc dù hai hình thức này được người nghiên cứu đánh giá là những hình thức có thể
phát huy tốt nhất tính chủ động, sáng tạo và khơi dậy sự tự tin cũng như khả năng làm việc nhóm của HS.
Do vậy, nếu người nghiên cứu muốn áp dụng hình thức này vào trong quá trình tiến hành các HĐNK ở
giai đoạn sau thì đòi hỏi phải tạo cho HS nhận thức được những giá trị, lợi ích và sự hứng thú của những
hoạt động này mang lại.
B6
140
120
100
80
60
40
20
0
Thiết kế thí
nghiệm

Diễn tiểu
phẩm


Thảo luận
chuyên đề

Biến thể của Tự chọn chủ
trò chơi
đề
truyền hình

Hội thi

Số lượng

Tham quan
thực tế

Giao lưu

Trò chơi giải
trí

Hoạt động
bản tin

Hình thức
khác

Tỉ lệ (%)

Hình 2.5 Biểu đồ phần trăm các hình thức HĐNK môn vật lí được HS lựa chọn


Ở câu B8 (phụ lục 2-I), người nghiên cứu đã đưa ra những nội dung kiến thức dự định tiến hành
trong CLB vật lí, những nội dung này đã được tìm hiểu và tham khảo ý kiến của nhiều GV bộ môn vật lí,


dự đoán sẽ nhận được nhiều sự ủng hộ của HS, và kết quả khảo sát thể hiện ở hình 2.6 đã chứng minh
nhận định này là đúng.
B8
160
140
120
100
80
60
40
20
0
Chế tạo tên Chế tạo tàu Chế tạo đèn Lịch sử & sự
lửa
thuyền
kéo quân
phát triển
các máy cơ
học

Ghi nhớ
được các
thuật ngữ
vật lý


Số lượng

Mối quan hệ Chế tạo các
giữa vật lý đồ chơi vật

với các khoa
học khác

Ứng dụng Kiến thức cơ
của vật lí bản về thiên
văn học
trong đời
sống

Nội dung
khác

Tỉ lệ (%)

Hình 2.6 Biểu đồ thể
hiện ý kiến của HS về nội dung dự định tiến hành trong CLB vật lí

Lí do HS lựa chọn các nội dung này đa phần là vì tính hấp dẫn của nó (chiếm 79.8%) (xem hình
2.7). Tuy nhiên, tới 70.2% HS được khảo sát cho biết chưa từng tham khảo GV về những nội dung này vì
nhiều lí do.
B9

Vì lí do khác, 5, 5%
Vì tò mò, 15.2, 15%


Vì nó thực sự hấp
dẫn, 79.8, 80%

Hình 2.7 Biểu đồ thể hiện lí do HS lựa chọn các nội dung dự định tiến hành trong CLB vật lí

Khi nghiên cứu về những điều HS mong muốn được GV chuẩn bị khi tham tham gia HĐNK, trong
những hoạt động được xếp theo thứ hạng từ tỉ lệ lựa chọn từ cao đến thấp thể hiện trong bảng tổng kết
sau:
Bảng 2.1 Các số liệu thống kê của câu hỏi B.14

Thông báo về buổi ngoại khóa trước một tháng

Số
lượng
110

Tỉ lệ
(%)
61.8

Thông báo chi tiết nội dung và hình thức

144

80.9

2

Phân chia nhiệm vụ cho nhóm


117

65.7

3

Giao nhiệm vụ cho các thành viên

68

38.2

5

B14: Trước mỗi HĐNK vật lí, HS mong muốn được GV:

Thứ
hạng
4


Kiểm tra công việc chuẩn bị

53

29.8

6

Hướng dẫn kiến thức và cách thức chuẩn bị


158

88.8

1

0

-

-

Sự chuẩn bị khác

Kết quả cho thấy hầu hết tất cả HS mong muốn được GV hướng dẫn kiến thức và cách thức chuẩn bị
(chiếm 88.8%). Ngược lại, HS không muốn được GV kiểm tra công việc chuẩn bị. Tuy nhiên, theo kinh
nghiệm giảng dạy của người nghiên cứu, sở dĩ HS không muốn GV kiểm tra công việc chuẩn bị của mình
vì hầu hết HS đồng hóa việc kiểm tra với khiển trách nếu họ không hoàn thành tốt công việc. Để HS có
nhận thức đúng đắn hơn, người nghiên cứu cần giải thích rõ mục đích kiểm tra ở đây là một hoạt động hỗ
trợ kịp thời của GV dành cho HS mỗi khi họ gặp khó khăn trong việc chuẩn bị, nhờ đó tiến độ hoàn thành
công việc của CLB được đảm bảo.
Đồng thời, HS mong muốn được GV tổ chức HĐNK 2 lần/tháng. Thông qua kết quả nghiên cứu
này, có thể khẳng định HS hoàn toàn rất hứng thú nếu được tham gia các HĐNK môn vật lí.
Tương tự như câu hỏi B14, kết quả khảo sát của câu hỏi B15 (phụ lục 2-I) cũng được tổng hợp
thành bảng 2.2.
Bảng 2.2 Các số liệu thống kê của câu hỏi B.15

B15: Trước mỗi HĐNK môn vật lí, bản thân HS cần chuẩn bị:
Tìm hiểu những kiến thức có liên quan


Số
lượng
147

Tỉ lệ
(%)
82.6

Thứ
hạng
1

Tổ chức hoặc tham gia các buổi họp nhóm

95

53.4

6

Phân công nhiệm vụ cho các thành viên (nếu là nhóm trưởng)

64

36.0

7

Sẵn sàng nhận nhiệm vụ phù hợp


139

78.1

3

Lên kế hoạch cho việc chuẩn bị

100

56.2

5

Thực hiện những việc được phân công

134

75.3

4

Hỏi GV khi gặp khó khăn

143

80.3

2


0

-

-

Sự chuẩn bị khác

Kết quả nghiên cứu về những điều HS sẽ chuẩn bị khi tham gia các HĐNK cho người nghiên cứu
một đánh giá rất khả quan về sự tích cực của HS khi tham gia các hoạt động này. Điều này được kết luận
dựa trên số liệu đa phần HS cho biết sẽ sẵn sàng nhận nhiệm vụ, sẽ chủ động gặp GV để hỏi,… Nhưng,
trong những điều mà HS trả lời, có một nhiệm vụ ít được HS lựa chọn là phân công nhiệm vụ (36%) và tổ
chức hoặc tham gia các buổi họp nhóm (53.4%), điều này cho thấy phần nào hạn chế của kĩ năng hợp tác
nhóm của HS - một kĩ năng không thể thiếu của con người thời đại ngày nay. Vì thế, trong quá trình


hướng dẫn các thành viên tham gia HĐNK, GV cần từng bước giáo dục các kĩ năng làm việc nhóm cho
HS thông qua các hoạt động, giúp HS dần nhận ra được ích lợi to lớn của việc hợp tác này.
2.3. Nội dung kiến thức trong HĐNK môn vật lí 10
Nội dung kiến thức của ngoại khóa vật lí có thể là những kiến thức nằm trong phạm vi chương
trình vật lí 10 hoặc có thể là những kiến thức cơ bản có tính chất tích hợp cơ - điện - nhiệt - quang mà HS
đã được học ở chương trình vật lí THCS. Có thể liệt kê một số nội dung chính sau đây:
- Tìm hiểu lịch sử phát triển các máy cơ học đơn giản và sự tiến bộ trong kĩ thuật chế tạo chúng ngày nay.
Trên cơ sở đó, HS sẽ thiết kế, chế tạo các mô hình từ đơn giản đến phức tạp các máy cơ học như: tên lửa,
máy bay, quạt bàn …
- Nghiên cứu các trò chơi, thí nghiệm vật lí vui gắn liền kiến thức vật lí 10 trên lớp với thực tiễn. Ví dụ
như phần kiến thức về cơ học: quán tính, lực đàn hồi, các chuyển động rơi tự do hay chuyển động ném
ngang, ném xiên, cân bằng vật rắn … ; nhiệt học: hiện tượng đối lưu, các định luật chất khí, áp suất, …
- Tiến hành đo đạc lại các thí nghiệm thuộc chương trình lớp 10 trong phòng thí nghiệm, xử lí số liệu, rút

ra nhận xét, đề xuất cải tiến ...
- Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của các nhà vật lí được đề cập trong sách giáo khoa.
- Mặt khác, trong chương trình vật lí THPT hiện nay, một số nội dung chưa có điều kiện đưa vào chương
trình chính khóa hoặc chưa có điều kiện tìm hiểu kĩ như: Thiên văn học cơ bản, các ứng dụng của vật lí
trong kĩ thuật và đời sống, vật lí trong các vấn đề giáo dục môi trường… Ngoại khóa vật lí là một biện
pháp hợp lí để đưa các nội dung này vào chương trình nhằm bổ sung giúp kiến thức vật lí của HS thêm
phong phú.

2.4. Các bước chính trong tổ chức HĐNK cho môn vật lí 10
2.4.1. Thành lập CLB vật lí
CLB là nơi tập trung những cá nhân có cùng sở thích, nhu cầu, nguyện vọng, cùng nhau hoạt động
để đạt được mục đích nào đó. Hoạt động CLB vật lí ở trường học là một loại hình hoạt động ngoài giờ lên
lớp, là môi trường tốt nhất để các cá nhân yêu thích vật lí có dịp học tập, sinh hoạt, rèn luyện, vui chơi,
giải trí …với các kiến thức vật lí, trên tinh thần tự nguyện, nhằm phát huy năng lực bản thân, trang bị cho
các em những kĩ năng cần thiết để vận dụng vào thực tiễn đời sống xã hội.
Để có thể tổ chức thành công và thường xuyên các HĐNK cho môn vật lí trong nhà trường phổ
thông, trước hết cần phải xây dựng được một câu lạc bộ vật lí bền vững, làm nền móng cho các mô hình
HĐNK khác triển nở.
2.4.2. Tổ chức CLB vật lí
2.4.2.1. Cơ cấu điều hành


BCN gồm mười thành viên bao gồm năm GV và năm HS.
2.4.2.2. Hình thức hoạt động
Như đã phân tích ở trên, CLB vật lí bao gồm những thành viên HS yêu thích vật lí, tuy nhiên sở
thích này của HS cũng rất đa dạng: có HS chỉ thích biểu diễn những thí nghiệm VLV, có HS lại thích chế
tạo những đồ dùng vật lí mang tính sáng tạo cao hơn, và cũng có HS lại chỉ thích nghiên cứu vật lí trong
phòng thí nghiệm … Vì thế, để phù hợp với mọi đối tượng thành viên có thế tổ chức các hoạt động trong
CLB theo các hình thức dưới đây:
a. HĐNK với tính chất cá nhân

Để mỗi cá nhân trong CLB có cơ hội thể hiện được năng lực của bản thân, trong mỗi buổi sinh hoạt
CLB đều có tiết mục biểu diễn thí nghiệm và đố vui, các cá nhân HS có thể tham gia giải đáp. Mặt khác,
HS có thể trực tiếp gửi những thắc mắc, đề xuất ý kiến cải tiến CLB đến BCN, hoặc tự đề cử vào vị trí
thành viên BCN, cùng cộng tác với GV trong việc tổ chức, thiết kế các nội dung hoạt động trong thời gian
tiếp theo.
b. HĐNK với tính chất nhóm
HĐNK với tính chất nhóm bao gồm những nhóm hoạt động theo chủ đề như: nhóm “Vật lí vui”;
nhóm “Vật lí ứng dụng”; nhóm “Vật lí thực nghiệm”. Mục tiêu chung mà HĐNK theo nhóm hướng đến là
để đáp ứng đa dạng sở thích tìm hiểu vật lí của nhiều đối tượng HS, làm chiếc cầu nối cho các kiến thức
vật lí trong chương trình chính khóa với các hiện tượng vật lí trong đời sống trở nên gần gũi nhau hơn,
nhờ thế HS có hứng thú tiếp nhận các kiến thức vật lí vốn được xem là khô khan. Bên cạnh đó, khi tham
gia hoạt động theo nhóm HS sẽ học được nhiều kĩ năng trong hợp tác nhóm, có cơ hội thể hiện năng lực
bản thân một cách hài hòa trong lợi ích nhóm, không phô trương hay độc tài kiến thức và khả năng… Để
việc tổ chức của CLB được khoa học, có hệ thống thì HS nào muốn trở thành thành viên của CLB phải
đăng kí tham gia một trong các nhóm chủ đề.
 Nhóm VẬT LÍ VUI
Nội dung hoạt động mà nhóm chủ đề này hướng đến đó là:
- Đáp ứng nhu cầu của một bộ phận HS yêu thích vật lí, có khiếu thẩm mĩ, thích thiết kế, chế tạo các đồ
chơi vật lí như: các đồ chơi cân bằng, lật đật trứng, lật bật, bumerang, … Những sản phẩm này khá đơn
giản, dễ làm, chủ yếu mang tính vui chơi, giải trí.
- Sưu tầm những thí nghiệm VLV trên sách báo, internet … và biểu diễn lại trong các buổi sinh hoạt CLB.
Việc quan sát và tiến hành lại những thí nghiệm vật lí, đồng thời suy nghĩ và vận dụng các kiến thức vật lí
đã học để giải thích thường là phần nội dung khá hấp dẫn đối với đa số HS.
- Tổ chức những cuộc thi ngắn cho các thành viên khác của CLB cùng được tham gia. Ví dụ như: đường
đua lật bật, xe lăn tự hành, ...


- Thông qua các hoạt động này không chỉ bản thân các thành viên của nhóm mà toàn thể CLB sẽ được tiếp
cận với các kiến thức trong chương trình chính khóa theo một cánh cửa khác, hấp dẫn và thiết thực hơn.
Qua cánh cửa đó, các lí thuyết vật lí trở nên sống động, dễ hiểu, dễ nhớ thông qua các sản phẩm vui chơi

mà nhóm đã chế tạo được hoặc qua các thí nghiệm vật lí đầy bất ngờ và lí thú. Để các kiến thức vật lí
trong nội dung hoạt động của nhóm “VLV” tránh phức tạp, khó hiểu đối với trình độ hiểu biết của đa số
HS lớp 10, GV cần phải theo dõi, góp ý, điều chỉnh các nội dung hoạt động sao cho sát với chương trình
chính khóa.
 Nhóm VẬT LÍ ỨNG DỤNG
Hình thức HĐNK này được tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu của một bộ phận HS yêu thích vật lí, có
khiếu thẩm mĩ, thích tìm tòi sáng tạo để chế tạo một số đồ dùng vật lí mang tính ứng dụng thiết thực như:
Tên lửa, đèn kéo quân, quạt bàn, kính vạn hoa, máy bay, tàu thủy, diều, … Nhóm ngoại khóa này mang
tính chất thực hành chuyên môn sâu hơn nhóm “VLV”, làm nòng cốt cho việc liên hệ bài học vật lí với
thực tế khoa học kĩ thuật.
Đây là môi trường tốt nhất để HS thỏa sức thể hiện ý tưởng sáng tạo và niềm đam mê vật lí của
mình qua việc thiết kế, chế tạo các sản phẩm. Bên cạnh việc được thể hiện năng lực bản thân, HS còn học
được cách hợp tác nhóm hiệu quả, biết chia sẻ kiến thức, chia sẻ các thiết bị đồ dùng và một số những
mẹo kĩ thuật trong chế tạo và lắp ráp sản phẩm. Có thái độ trân trọng các giá trị lao động do mình và
người khác làm ra…
Ban đầu các nội dung hoạt động của nhóm sẽ được GV hướng dẫn cặn kẽ từ lí thuyết đến thực
hành, nhưng càng về sau GV không còn giữ vai trò trung tâm nữa, thay vào đó HS cần phải chủ động tìm
kiếm và thực hiện đề tài mình yêu thích dưới sự hỗ trợ của GV.
 Nhóm VẬT LÍ THỰC NGHIỆM
Đây là một hình thức HĐNK dành cho các đối tượng HS thuộc các lớp chuyên lí, đòi hỏi người
tham gia phải được trang bị kiến thức vật lí liên quan không dừng ở mức độ vận dụng mà cao hơn là ở
mức độ phân tích, tổng hợp và đánh giá; người tham gia phải thực sự say mê nghiên cứu vật lí, phải hiểu
được tầm quan trọng của các kết quả hoạt động mà nhóm thu được sẽ giúp ích rất nhiều cho bản thân và
nhà trường, cụ thể cho phòng thí nghiệm vật lí. Vì thế nội dung hoạt động của nhóm ngoại khóa này
không để vui chơi hay giải trí mà là tiến hành nghiên cứu khoa học dưới dạng tiểu luận, tập trung chủ yếu
trong chương trình phân phối của bộ môn vật lí THPT dưới sự hướng dẫn của GV. Cụ thể ở đây là một
hướng nghiên cứu của HS lớp 10 chuyên lí:
- Tìm ra những hạn chế trong quá trình thực nghiệm làm ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu so với lí
thuyết. Từ đó đề ra phương hướng khắc phục trong quá trình thực nghiệm nhằm đi đến kết quả tương đối



hợp lí. Có những phương pháp mới, sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng dụng cụ thí nghiệm. Ví dụ như đề
tài “Kiểm chứng định luật Bôi-lơ – Ma-ri-ôt”
- Nghiên cứu cơ sở lí thuyết và mở rộng trong nghiên cứu thực nghiệm, ứng dụng trong thực tế. Ví dụ như
đề tài “Định luật Bec-nu-li và các ứng dụng”
- Nghiên cứu tài liệu về những phần mềm hỗ trợ cho việc dạy và học vật lí, tận dụng những tiện ích của
phần mềm để thiết kế những mô phỏng vật lí cần thiết trong chương trình chính khóa, làm cơ sở để việc
giảng dạy và học tập của GV và HS thêm trực quan, sinh động. Ví dụ như phần mềm Crocodile physics
Thông qua HĐNK này, HS có khả năng hình thành những bước đi cơ bản ban đầu trong tiến trình
nghiên cứu khoa học đối với VLTN; phát triển tư duy bậc cao, biết phân tích, tổng hợp và đánh giá kết
quả mà nhóm nghiên cứu được; rèn luyện khả năng đọc hiểu tiếng anh chuyên ngành.
c. HĐNK mang tính quần chúng rộng rãi [15]
Đây là HĐNK dành cho tất cả các thành viên của CLB bao gồm nhiều hình thức như hội thi, giao
lưu, thảo luận chuyên đề, tham quan … Các hình thức này nếu được chuẩn bị chu đáo và tổ chức một cách
hấp dẫn sẽ có tác dụng rất lớn nâng cao lòng ham thích vật lí. Đồng thời đến với hoạt động này HS không
những được thư giãn sau những giờ học chính khóa, có cơ hội giao lưu kết bạn mà còn giúp HS rèn luyện
các kĩ năng sống cần thiết khác.
 Hội thi [10], [16]
Hội thi là một trong những hình thức tổ chức ngoại khóa hấp dẫn, lôi cuốn HS, đạt hiệu quả cao
trong việc tập hợp, giáo dục, rèn luyện và định hướng phát triển giá trị cho tuổi trẻ. Chính vì vậy, tổ chức
hội thi cho HS trong trường học là một yêu cầu mang tính nghiệp vụ sư phạm quan trọng, cần thiết đối với
mỗi GV trong quá trình dạy học và tổ chức HĐNK. Hội thi là dịp để mỗi cá nhân hoặc tập thể thể hiện
khả năng của mình, khẳng định thành tích, kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu trong học
tập và trong các hoạt động tập thể. Hội thi còn là một hình thức kiểm tra đánh giá trình độ, nghiệp vụ tổ
chức hoạt động dạy và học của GV. Qui mô của hội thi, đối tượng tham gia, thời gian và cách thức tổ chức
hội thi như thế nào phụ thuộc vào mục đích, yêu cầu, ý nghĩa, tính chất và nội dung của hội thi.
Hội thi có rất nhiều hình thức tổ chức như:
- Thi đố em: Hình thức thi này đã có từ rất lâu: sau khi nêu câu hỏi, các đội suy nghĩ trả lời trong một
khoảng thời gian ngắn, đội nào nhấn chuông trước thì được quyền ưu tiên trả lời, nếu trả lời sai các đội
còn lại tiếp tục nhấn chuông giành quyền trả lời. Đặc điểm các câu hỏi trong cuộc thi này là phải ngắn

gọn, rõ ràng, có thể là trắc nghiệm xen kẽ tự luận.
- Thi giải ô chữ: Có nhiều cách thức để tạo một trò chơi ô chữ nhưng đơn giản nhất là tạo ô chữ gồm
nhiều hàng ngang và một cột dọc. Cột dọc được sắp xếp sao cho nó do các chữ ở các hàng ngang nối lại


tạo thành. Từ việc trả lời các câu hỏi tìm ra các từ hàng ngang và dự đoán từ ở cột dọc. Nên giới thiệu
trước cho HS biết từ ở cột dọc là từ khóa của một chủ đề nào đó.
- Thi thực hành làm thí nghiệm hoặc chế tạo dụng cụ thí nghiệm: Có nhiều hình thức khác nhau cho phần
này, có thể phát cho các đội thi một số dụng cụ, yêu cầu HS trình bày cách tiến hành một thí nghiệm.
Hoặc phát cho các đội những vật liệu cần thiết để chế tạo một sản phẩm đã biết, ví dụ như một chiếc xe đồ
chơi bốn bánh chạy bằng phản lực hoặc một chiếc đèn kéo quân, sau đó so sánh xem sản phẩm của đội
nào sáng tạo, tiện ích và thẩm mĩ hơn.
- Thi chơi một số trò chơi ngắn có sử dụng kiến thức vật lí: Ví dụ: đường đua lật bật, xe lăn tự hành, con
vụ đi trong mê cung …
 Thảo luận chuyên đề [10], [16]
Thảo luận là một hình thức tổ chức giáo dục mà trong đó HS cùng nhau trao đổi, tranh luận về các
vấn đề khác nhau xoay quanh một chủ đề đã được lựa chọn, nhằm giúp HS đạt được một sự hiểu biết
chung và có được những thái độ phù hợp với những vấn đề đó. Thông qua thảo luận, HS có dịp sử dụng
các kĩ năng nhận thức bậc cao như phân tích, đánh giá, có thể phát triển ý kiến, thái độ và các giá trị của
mình. Thảo luận có thể ở dạng mở, nhưng thường nên có bố cục sẵn, có thể bằng một số câu hỏi chuẩn bị
trước. Các câu hỏi này nên là câu hỏi gợi mở, cá nhân hay có thể gây tranh cãi nếu ta muốn có được phản
ứng mạnh mẽ từ phía người được hỏi, chú ý các câu hỏi cần rõ ràng và ngắn gọn. Nếu sử dụng phương
pháp này chứng tỏ người GV trân trọng ý kiến và kiến thức của HS. GV cần nói rõ cho HS là tất cả các ý
kiến của các em đều được trân trọng và muốn ai cũng tham gia phát biểu, nhằm tránh trường hợp lấn át
hay im lặng hoàn toàn. Nên khuyến khích mọi người quyết định và tóm tắt lại từng điểm chính sau khi
thảo luận hay được mọi người nhất trí, chuyển ngay sang phần khác một khi mọi người đã nhất trí hay khi
không còn gì có thể bàn thêm nữa. Chốt buổi nên có phần tóm tắt, có lẽ bằng tài liệu là tốt nhất. Ví dụ khi
thảo luận chuyên đề “Tiết kiệm năng lượng” cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi như sau:
- Năng lượng là gì? Kể tên một số nguồn năng lượng đã, đang và sẽ được con người sử dụng?
- Việc khai thác những nguồn năng lượng này đem lại lợi ích gì cho con người?

- Tại sao chúng ta cần phải tiết kiệm năng lượng? (Thảo luận các ảnh hưởng của việc khai thác các nguồn
năng lượng này đối với môi trường)
- Chúng ta cần phải làm thế nào để tiết kiệm năng lượng?
Thảo luận theo chuyên đề là một hình thức phổ biến trong tổ chức HĐNK ở nhà trường THPT, nó
được sử dụng hết sức linh hoạt cho các chủ đề ở mọi thời gian và không gian khác nhau. Nếu tổ chức tốt,
sẽ có khả năng đạt được các MTGD mong muốn mà không đòi hỏi sự tốn kém về công sức, kinh phí và
thời gian.
 Trò chơi


×