Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Các giải pháp xúc tiến tối đa chế độ tỷ giá Việt Nam hoạt động có hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.55 KB, 27 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

lời nói đầu
Xu hớng quốc tế hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra một cách sâu sắc, toàn
diện trên phạm vi toàn thế giới. Nó là qui luật khách quan mà Việt Nam cần sớm
nắm bắt vận dụng. Việc tham gia vào nền kinh tế khu vực và thế giới sẽ mở ra
cho chúng ta nhiều cơ hội đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đòi
hỏi phải có những chính sách phù hợp. Một hoạt động có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình hội nhập kinh tế là ngoại thơng. Quyết định tới sự thành công hay
thất bại của chính sách kinh tế đối ngoại phải kể đến vai trò quan trọng của chế
độ tỷ giá hối đoái mỗi quốc gia. Chúng ta cha quên sự can thiệp bất thành của 15
Ngân hàng Trung ơng trớc sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái Châu Âu
những năm 90; sự phá giá bất ngờ của đồng Bảng Anh tháng 9/1996 trớc sự tấn
công của những kẻ đầu cơ mặc dù đã có sự can thiệp tích cực của Ngân hàng
Trung ơng Đức và Anh với khối lợng 15 tỷ Bảng Anh; hay hai sự kiện làm rung
chuyển thế giới chỉ trong một thời gian ngắn, đó là: Sự khủng hoảng của đồng
Pê-sô (Mê hi cô) tháng 12/1998 và sự mất giá kỉ lục trong năm 1999, rồi lại lên
giá đột biến của đồng USD năm 1996.
Là một nớc đang đi những bớc đi đầu tiên cả về phơng diện lí luận và thực
tiễn, hơn bao giờ hết việc nghiên cứu tỉ giá hối đoái đang trở thành vấn đề cấp
bách đặt ra cho chúng ta. Xuất phát từ thực tế khách quan đó, bài viết sẽ đi sâu
nghiên cứu Tỷ giá hối đoái và vấn đề áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam.
Cấu trúc bài viết gồm các phần:
Phần I:

Tổng quan về tỷ giá.

Phần II:

Kinh nghiệm một số nớc và thực trạng áp dụng chế
độ tỷ giá ở Việt Nam.



Phần III: Các giải pháp xúc tiến và đa chế độ tỷ giá ở Việt
Nam hoạt động có hiệu quả.

Do tỷ giá hối đoái và thị trờng ngoại hối là những vấn đề rất phức tạp không
thể nghiên cứu triệt để nên chỉ xoay quanh phạm vi: những khái niệm cơ bản về
tỷ giá hối đoái, thị trờng ngoại hối và đi sâu phân tích việc áp dụng chế độ tỷ giá
ở Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, những khiếm khuyết hạn chế là khó
tránh khỏi, vì vậy em rất mong đợc sự phê bình góp ý của các thầy cô để những
bài viết sau đạt chất lợng cao hơn.

1


phần I
Tổng quan về tỷ giá
1-/ Khái niệm tỷ giá, thị trờng ngoại hối:
Tỷ giá hối đoái là giá trị tiền tệ nớc này biểu hiện bằng giá trị tiền tệ nớc
kia dùng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Ví dụ: 1 USD = 106 JPY.
Tuy nhiên, không phải đồng tiền nào cũng đợc nhận để thanh toán bên
ngoài quê hơng của nó. Để chuyển đổi ra nội tệ của nớc nào đó, nó phải đợc
ngân hàng nớc đó thu mua. Những đồng tiền có thể chuyển đổi thành nội tệ của
một nớc khác đợc gọi là ngoại tệ, nó đợc xem là phơng tiện thanh toán và đầu t
quốc tế. Trên thế giới hiện nay có một số ngoại tệ mạnh đợc sử dụng rộng rãi,
phổ biến nh: USD (Mỹ), JPY (Nhật), Bảng (Anh),...
Thị trờng ngoại hối là nơi diễn ra hoạt động mua bán ngoại tệ và vốn bằng
ngoại tệ. Đặc điểm của thị trờng ngoại hối ở mỗi quốc gia có thể khác nhau. ở
Mỹ thị trờng ngoại hối đợc tổ chức thành thị trờng qua tay, tại đó hàng trăm nhà
kinh doanh (đa số là ngân hàng) sẵn sàng mua và bán các khoản tiền gửi ghi
bằng ngoại tệ. Tính cạnh tranh trên thị trờng này là rất lớn. Mua bán trên thị trờng ngoại hối là những giao dịch trị giá trên một triệu USD.

2-/ Vai trò của tỷ giá:
Tỷ giá giữ vai trò quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Sự vận động của nó
có tác động sâu sắc, mạnh mẽ tới mục tiêu, chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi
quốc gia:
Thứ nhất, nó là phơng tiện để thực hiện trao đổi thơng mại quốc tế. Một
quốc gia muốn mua hàng hoá ở nớc khác phải đổi đồng tiền nớc mình ra tiền nớc
đó để thực hiện các giao dịch. Tỉ giá hối đoái sẽ qui định tỉ lệ qui đổi giữa hai
loại đồng tiền đó.
Thứ hai, nó tác động trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu. Khi đồng tiền
của một nớc tăng giá (tăng trị giá so với các đồng tiền khác) thì hàng hoá của nớc đó ở nớc ngoài trở thành đắt hơn và hàng hoá nớc ngoài tại nớc đó trở thành
rẻ hơn. Ngợc lại, khi đồng tiền của một nớc sụt giá, hàng hoá của nớc đó tại nớc
ngoài trở thành rẻ hơn trong khi hàng hoá nớc ngoài tại nớc đó trở thành đắt hơn
(các yếu tố khác không đổi).

2


Tỷ giá tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu vì vậy nó tác động tới cán cân
thanh toán quốc tế, gây ra thâm hụt hoặc thặng d cán cân.
Thứ ba, tỷ giá là công cụ điều tiết vĩ mô. Tác động vào tỷ giá sẽ làm ảnh hởng tới xuất nhập khẩu từ đó ảnh hởng tới tổng cầu, sản phẩm quốc dân, thất
nghiệp,... Việc điều hành tỷ giá không tốt có thể dẫn tới lạm phát, khủng hoảng.
Tỷ giá còn góp phần vào việc cải thiện cung cầu về ngoại tệ, giải quyết vấn đề nợ
nớc ngoài,...
3-/ Những nhân tố tác động tới tỷ giá:
Về dài hạn, có 4 nhân tố chính tác động tới tỷ giá: mức giá cả tơng đối;
thuế quan và cô-ta; u đãi đối với hàng nội hơn hàng ngoại; năng suất lao động.
Mức giá cả tơng đối. Theo thuyết ngang giá sức mua (PPP), khi giá cả hàng
nội tăng (giá hàng ngoại giữ nguyên) thì cầu về hàng nội có xu hớng giảm xuống
và đồng nội tệ có xu hớng giảm giá để hàng nội vẫn có thể bán đợc tốt. Mặt
khác, nếu giá hàng ngoại tăng lên, sao cho giá cả tơng đối của hàng nội giảm

xuống thì cung về hàng nội tăng lên và đồng nội tệ có xu hớng tăng giá bởi vì
hàng nội vẫn bán đợc tốt ngay cả với giá trị cao hơn của đồng nội tệ. Về lâu dài,
một sự tăng lên mức giá của một nớc (tơng đối so với mức giá nớc ngoài) làm
cho đồng tiền nớc đó giảm giá; ngợc lại, một sự giảm giá xuống của mức giá tơng đối của một nớc làm cho đồng tiền nớc đó tăng giá.
Thuế quan và cô-ta. Thuế quan và cô-ta là những hàng rào ngăn cản tự do
buôn bán giữa các quốc gia. Việc đánh thuế cao vào hàng nhập, miễn thuế cho
hàng xuất sẽ khuyến khích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu. Việc hạn chế cấp cô-ta
(những hạn chế về số lợng hàng ngoại nhập) sẽ kiềm chế hàng nhập khẩu. Giả sử
một quốc gia áp đặt một loại thuế cao hoặc một cô-ta đối với một mặt hàng của
nớc ngoài. Những hàng rào này sẽ làm tăng cầu về hàng nội và đồng nội tệ có xu
hớng tăng giá bởi vì hàng nội đó vẫn có thể bán tốt ngay cả với giá trị cao hơn
của đồng nội tệ. Thuế quan và cô-ta về lâu dài làm cho đồng tiền của một nớc
tăng giá.
Ưa thích hàng nội so với hàng ngoại. Nếu sự ham thích của ngời nớc
ngoài về mặt hàng trong nớc tăng lên thì cầu về hàng nội sẽ tăng lên làm đồng
nội tệ tăng giá, bởi vì hàng nội địa vẫn bán đợc nhiều ngay cả với giá cao hơn
của đồng nội tệ. Ngợc lại, nếu ngời dân một nớc lại a thích hàng ngoại hơn hàng
nội thì cầu về hàng ngoại tăng lên làm giảm giá đồng nội tệ. Cầu đối với hàng
xuất của một nớc tăng lên về lâu dài làm cho đồng tiền nớc đó tăng giá trong khi
cầu về hàng nhập tăng lên làm cho đồng tiền nớc đó giảm giá.
3


Năng suất lao động. Nếu năng suất lao động của Việt Nam cao hơn năng
suất lao động của Trung Quốc thì những nhà kinh doanh Việt Nam có thể hạ giá
hàng nội tơng đối so với hàng Trung Quốc mà vẫn thu đợc lãi. Kết quả cầu về
hàng Việt Nam tăng lên và đồng tiền của Việt Nam có xu hớng tăng giá bởi vì
hàng nội sẽ tiếp tục bán đợc nhiều với một giá trị cao hơn của VND. Trong trờng
hợp ngợc lại, nếu năng suất lao động của Việt Nam kém hơn Trung Quốc thì
hàng hoá Việt Nam trở nên tơng đối đắt hơn và VND có xu hớng giảm giá. Về

lâu dài, năng suất lao động của một nớc cao hơn tơng đối so với nớc khác sẽ
làm cho đồng tiền nớc đó tăng giá.
Nắm bắt đợc các nhân tố tác động tới tỷ giá Chính phủ có thể chủ động can
thiệp điều hành tỷ giá khi cần thiết.
4-/ Sự can thiệp điều hành tỷ giá:
Thông thờng, Ngân hàng Trung ơng là ngời thay mặt Chính phủ can thiệp
vào thị trờng ngoại hối. Nó đóng vai trò quan trọng, to lớn trong việc điều hành tỉ
giá song không phải là vô hạn. Trên thị trờng ngoại hối nó đóng vai trò kép:
Ngân hàng mua bán ngoại tệ và sử dụng các công cụ can thiệp khi cần thiết.
a-/ Các loại hình can thiệp của NHTƯ:
Can thiệp trách nhiệm: Khi tỷ giá của một đồng tiền trong hệ thống tỷ giá
cố định đạt tới cận điểm hoặc đỉnh điểm qui định can thiệp thì phải can thiệp.
Theo khuôn khổ hệ thống Bretton-woods, các nớc thành viên có trách nhiệm duy
trì sự dao động của đồng tiền nớc mình trong miền dao động tỷ giá so với USD
đã qui định trwcs. Khi cán cân thanh toán của một quốc gia bị mất cân đối hết
sức nghiêm trọng (mặc dù đã dùng mọi biện pháp mà không cải thiện đợc), thì
mới đợc phép tăng hoặc giảm tỷ giá hối đoái của nội tệ.
Can thiệp tự do (ngợc lại với can thiệp trách nhiệm):
Có thể xảy ra không chỉ trong hệ thống tỷ giá cố định mà ngay cả trong hệ
thống tỷ giá thả nổi.
Thông thờng, sự can thiệp của NHTƯ phải đợc tiến hành trớc khi sự dao
động của tỷ giá hối đoái đạt tới những điểm cần can thiệp, nhằm giảm bớt sự
căng thẳng của tình hình.
Sự can thiệp của NHTƯ vào thị trờng ngoại hối, ngoài các hiệu ứng phụ, có
2 hiệu ứng chính sau đây: thứ nhất, tác động trực tiếp vào khối lợng ngoại tệ; thứ
hai, trực tiếp gây biến động mức lãi suất trong nớc.

4



b-/ Hệ thống công cụ can thiệp:
Phơng án can thiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song nó phụ thuộc phần lớn
vào chế độ tỷ giá hiện hành. Mỗi chế độ ngoại hối đều có phơng án điều chỉnh
can thiệp thích hợp. Trên thực tế, đã và đang tồn tại nhiều phơng pháp khác
nhau: phơng pháp lãi suất chiết khấu, các nghiệp vụ thị trờng hối đoái, quĩ bình
ổn hối đoái, giảm giá hoặc tăng giá đồng nội tệ,...
Phơng pháp lãi suất chiết khấu: Đây là phơng pháp thờng đợc sử dụng để điều
chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trờng. Khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức báo động cần
phải can thiệp thì NHTƯ nâng cao lãi suất chiết khấu. Do lãi suất chiết khấu tăng,
lãi suất cho vay trên thị trờng cũng tăng lên. Kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trờng thế giới sẽ dồn vào để thu lãi cao hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu
ngoại tệ bớt đi, làm cho tỷ giá không có cơ hội tăng nữa.
Tuy nhiên, chính sách lãi suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định,
vì quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động một cách qua lại gián
tiếp, chứ không phải quan hệ trực tiếp nhân quả. Các yếu tố để hình thành lãi suất
và tỷ giá là không giống nhau, do đó những biến động của lãi suất không nhất
thiết kéo theo biến động của tỷ giá. Lãi suất cao có thể thu hút đợc vốn ngắn hạn
từ nớc ngoài, nhng nếu tình hình kinh tế - chính trị - xã hội không ổn định thì khó
có thể thực hiện đợc vì vấn đề an toàn vốn phải đặt lên trên hết. Khủng hoảng
1971-1973 ở Mỹ là một ví dụ. Mặc dù lãi suất trên thị trờng New-York cao gấp rỡi thị trờng London, gấp ba thị trờng Frankfurk nhng vốn ngắn hạn không đợc
chuyển vào Mỹ mà lại đợc đa đến Tây Đức và Nhật Bản.
Các nghiệp vụ thị trờng hối đoái. Thông qua các nghiệp vụ mua-bán ngoại
tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một trong những biện pháp rất quan trọng của
Nhà nớc để giữ vững sự ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Đây là biện
pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái.
Một sự can thiệp hữu hiệu trong đó đồng tiền trong nớc đợc bán để mua tài
sản nớc ngoài đa đến: (1) Thu thêm dự trữ quốc tế; (2) Một sự tăng trong cung
tiền tệ; (3) Một sự sụt giá của đồng nội tệ. Ngợc lại, khi đồng tiền trong nớc đợc
mua bằng cách bán tài sản nớc ngoài đa đến: (1) Dự trữ quốc tế giảm; (2) Cung
tiền tệ giảm; (3) Đồng tiền trong nớc tăng giá.
Tuỳ điều kiện mỗi quốc gia mà việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ này có sự

khác nhau về phạm vi, qui mô tác động. Với những nớc có nền kinh tế phát triển
cao, các nghiệp vụ thị trờng hối đoái đợc thực hiện trên qui mô rộng lớn, đôi khi
mở ra trên phạm vi cả một khu vực, thậm chí thế giới.

5


Việc lựa chọn các thời điểm cần mua, cần bán ngoại tệ trên thị trờng với tỉ
giá nào để đạt đợc mục tiêu điều chỉnh là những hoạt động có ý nghĩa quyết
định. Nếu chủ quan, thiếu cân nhắc đầy đủ kỹ càng việc lựa chọn này thì hậu quả
nhiều khi khó mà lờng hết đợc.
Điều chỉnh tỷ giá theo phơng pháp này, Chính phủ thờng gặp phải phản ứng
trái ngợc nhau của các doanh nghiệp cũng nh các tầng lớp dân c trong xã hội bắt
nguồn tự lợi ích kinh tế. Những mâu thuẫn này thờng xảy ra giữa những nhà xuất
khẩu và nhập khẩu giữa những ngời đang nắm giữ trong tay số lợng lớn ngoại tệ
và những ngời trong túi chỉ có nội tệ.
Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, một điều kiện không thể thiếu là
Chính phủ phải có một lợng dự trữ ngoại tệ đủ sức để can thiệp vào thị trờng khi
cần thiết.
Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái: Trong điều kiện tình hình giá cả thị trờng luôn
không ổn định, thậm chí hay xảy ra các biến động lớn, các nớc thờng sử dụng
quỹ dự trữ bình ổn hối đoái nh là một trong những công cụ để điều chỉnh tỷ giá
hối đoái.
Nguồn vốn để hình thành quỹ dự trữ bình ổn hối đoái thờng là:
- Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia (nh Anh, Hà Lan,...)
- Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái (nh Pháp, Mỹ, Thuỵ Sỹ,...)
Hạn chế của công cụ này là nó chỉ tác động lớn khi khủng hoảng ngoại tệ ít
nghiêm trọng. Hơn nữa, việc tạo lập đợc quĩ bình ổn hối đoái đòi hỏi các quốc
gia phải có một thực lực nhất định về kinh tế.
Vấn đề phá giá đồng tiền: Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hoặc giảm

thấp sức mua của đồng tiền so với các ngoại tệ. Kết quả của phá giá sẽ ảnh hởng
trực tiếp đến sự tăng hoặc giảm của tỷ giá hối đoái. Đây là điểm giống nhau giữa
phá giá đồng tiền và điều chỉnh tỷ giá hối đoái, nhng không phải không có sự
khác nhau.
Điều chỉnh tỷ giá hối đoái là việc làm thờng xuyên liên tục của Nhà nớc
nhằm duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm
chế đẩy lùi lạm phát. Tỷ giá hối đoái đợc điều chỉnh theo nguyên tắc duy trì biên
độ dao động cho phép tăng hoặc giảm một tỷ lệ nhất định so với tỷ giá hối đoái
đợc sử dụng làm chuẩn. Khác hẳn với phá giá đồng tiền, một biện pháp mạnh,
cực đoan, chỉ áp dụng trong những trờng hợp hết sức cần thiết.

6


Phá giá không phải là giải pháp đúng cho mọi trờng hợp. Nó phải đợc vận
dụng linh hoạt, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể thích hợp. Nếu không
hiệu ứng tiêu cực của hành động phá giá sẽ đẩy tình hình vào thế khủng hoảng
trầm trọng hơn.
Bên cạnh giảm giá sức mua đồng nội tệ là việc nâng giá sức mua đồng nội
tệ. Nó thờng đợc áp dụng trong các trờng hợp:
- Giá hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu đợc xác định thấp so với giá trên thị trờng quốc tế.
- Hạn chế xuất khẩu do sức ép của các nớc bạn hàng nhằm tạo thế cân bằng
trong thơng mại quốc tế.
- Tăng khả năng nhập khẩu, kiềm chế lạm phát.
- Ngăn ngừa các loại ngoại tệ đang bị mất giá tràn vào nớc mình.
Sự can thiệp điều hành tỷ giá trong lịch sử không phải luôn giống nhau.
Thực tế mỗi công cụ can thiệp điều chỉnh tỷ giá lại đợc vận dụng một cách linh
hoạt tơng ứng với mỗi điều kiện, chế độ tỷ giá cụ thể. Trong lịch sử đã xuất hiện
các chế độ bản vị vàng, bản vị đô la, chế độ tỷ giá thả nổi, chế độ tỷ giá linh
hoạt,... Các chế độ này sẽ đợc nghiên cứu ở phần tiếp theo.

5-/ Các chế độ tỷ giá trong lịch sử:
Chế độ bản vị vàng: Khi áp dụng chế độ tỷ giá cố định lấy vàng làm bản vị
(còn gọi là chế độ bản vị vàng) thì việc lựa chọn phơng án xử lý tỷ giá ít phải đặt
ra vì chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, đồng tiền ít bị mất giá, tỷ giá xác
định qua nội dung vàng của các đồng tiền ít khi bị biến động. Trong chế độ bản
vị vàng thì biên độ dao động của tỷ giá là ngang giá vàng cộng (hoặc trừ) chi phí
vận chuyển vàng (vận tải, bảo hiểm, đóng gói và thủ tục phí,...) giữa các nớc hữu
quan. Biên độ dao động này gọi là điểm vàng. Khi tỷ giá vợt qua điểm vàng thì
nớc mắc nợ sẽ không dùng đồng tiền quốc gia của mình để mua ngoại tệ dùng
vào việc trả nợ mà họ sẽ chuyển vàng ra nớc ngoài để trả nợ. Với đặc trng này,
chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, sức mua đồng tiền ít bị biến động. Để
biết chế độ bản vị vàng hoạt động nh thế nào ta hãy xem xét ví dụ sau: kho bạc
Mỹ chấp nhận đổi 1USD lấy 1/20 lạng vàng, ở Anh 1 Bảng đổi đợc 1/4 lạng
vàng. Do đó, tỷ giá hối đoái giữa đồng Bảng Anh và đồng USD Mỹ là 1 Bảng = 5
USD. Bây giờ đồng Bảng Anh bắt đầu tăng giá cao hơn 5 USD. Nếu một ngời
nhập khẩu Mỹ mua thực phẩm ở Anh trị giá 100 Bảng thì họ phải trả nhiều hơn
500 USD so với trớc. Song ngời nhập khẩu có cách lựa chọn khác, đó là mua

7


vàng bằng 500 USD ở Mỹ rồi trả số vàng đó sang Anh để thanh toán tiền hàng.
Việc chở vàng sang Anh rẻ hơn khi giá đồng Bảng Anh vẫn cao hơn giá 5 USD
(cộng thêm số tiền chi phí vận chuyển vàng từ Mỹ sang Anh).
Việc chuyển vàng từ Mỹ sang Anh làm cho cơ số tiền tệ của Anh tăng lên
và cơ sở tiền tệ của Mỹ giảm xuống. Kết quả tăng lên trong cung ứng tiền tệ làm
tăng mức giá cả của Anh trong khi việc cung ứng tiền tệ của Mỹ giảm xuống làm
mức giá cả của Mỹ giảm xuống. Kết quả mức giá tại Anh tăng lên so với mức
giá tại Mỹ làm cho đồng Bảng Anh giảm giá. Quá trình này tiếp tục cho đến khi
giá trị của đồng Bảng Anh giảm xuống trở lại bằng 5 USD.

Trong giai đoạn đầu của nền kinh tế t bản chủ nghĩa, chế độ này tỏ ra có
nhiều u điểm. Nó có khả năng điều tiết khối lợng tiền tệ trong lu thông một cách
tự phát, không cần đến sự can thiệp của Nhà nớc theo cơ chế: Sự tăng giảm khối
lợng tiền tệ trong lu thông luôn tỷ lệ nghịch với sự tăng giảm dự trữ vàng kim
loại trong nền kinh tế.
Chế độ tỷ giá cố định Bretton woods (1944). Theo chế độ này, tỷ giá chính
thức giữa đồng tiền của các nớc thành viên đợc hình thành trên cơ sở so sánh
hàm lợng vàng của USD Mỹ (1 USD = 0,888671 gam vàng) và chỉ đợc phép dao
động trong biên độ 1% của tỷ giá chính thức đã đợc đăng ký tại quĩ tiền tệ quốc
tế (IMF). Nếu vợt quá biên độ này thì Ngân hàng Trung ơng phải can thiệp bằng
cách mua vào hoặc bán ra một số lợng USD nhất định. Theo chế độ này, vàng
vẫn đóng vai trò trung tâm để so sánh sức mua giữa các đồng tiền với nhau qua
cái cầu nối là USD (lúc bấy giờ 1 ounce = 35 USD).
Từ cuối những năm 50 trở đi, vai trò của Mỹ ngày càng giảm sút trên thị trờng thế giới, cán cân thanh toán quốc tế thờng xuyên bị thâm hụt, dự trữ suy
giảm và nợ nớc ngoài tăng đã làm cho đồng USD ngày càng mất giá nghiêm
trọng.
Sự mất giá liên tục của đồng USD làm cho nạn đầu cơ trên các thị trờng hối
đoái quốc tế tăng lên. Hàng tỷ USD đợc tung ra trên thị trờng để mua cái đồng
tiền đợc giá. Các Ngân hàng Trung ơng của các thành viên IMF cũng không đủ
sức can thiệp để giữ giá đồng USD theo nguyên tắc tỷ giá cố định Brettonwoods. Trong bối cảnh đó, Mỹ buộc phải phá giá đồng USD. Đồng USD - đồng
tiền chủ chốt, chỗ dựa cho các đồng tiền khác, trở nên bất ổn định kéo theo sự
sụp đổ của chế độ tỷ giá Bretton-woods.
Chế độ tỷ giá thả nổi (Floating rate): Chế độ tỷ giá thả nổi ra đời sau khi
chế độ tỷ giá cố định Bretton - woods sụp đổ. Với chế độ tỷ giá thả nổi, tỷ giá đ -

8


ợc hình thành trên cơ sở diễn biến của cung và cầu ngoại hối trong nền kinh tế
mà không bị ràng buộc nh trớc đây. Tỷ giá thả nổi có vai trò rất quan trọng trong

điều tiết xuất - nhập khẩu và góp phần làm ổn định trở lại nền kinh tế đang có
nguy cơ suy thoái.
Thả nổi tỷ giá là xu hớng tất yếu của kinh tế thị trờng, song việc áp dụng nó
nh thế nào lại là vấn đề phải cân nhắc kỹ để lựa chọn. Do đặc điểm phát triển
kinh tế - xã hội của các nớc trên thế giới còn có những sự khác nhau nhất định
nên tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể mà các nớc tự lựa chọn cho mình một chế độ phù
hợp. Đến nay chế độ tỷ giá thả nổi đợc chia làm 2 loại:
- Chế độ tỷ giá thả nổi tự do.
- Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý.
Chế độ tỷ giá thả nổi tự do là chế độ mà tỷ giá hối đoái không có sự can
thiệp nào của Chính phủ hoàn toàn do quan hệ cung cầu trên thị trờng quyết
định, tuy nhiên trên thực tế thì hầu nh không có chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn.
Chế độ tỷ giá này đợc áp dụng ở những nớc có nền kinh tế phát triển cao, thị trờng tài chính phát triển và hoàn chỉnh.
Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý là chế độ mà trong đó cung - cầu ngoại hối
là cơ bản, nhng không phải hoàn toàn, trong những trờng hợp cần thiết Chính
phủ sẽ có những biện pháp can thiệp nhằm giữ vững sự ổn định sức mua đồng
tiền trong nớc.
Lựa chọn chế độ tỷ giá nào luôn là bài toán hóc búa đối với mọi quốc gia.
Thực tế đã chứng minh đó là cả một nghệ thuật. Trong lịch sử, nhiều quốc gia đã
thành công trong việc lựa chọn chế độ tỷ giá thích hợp. Bên cạnh đó, không ít
quốc gia đã phải trả giá đắt cho việc sai lầm khi lựa chọn chế độ tỷ giá. Qua đây,
chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích vận dụng vào thực tế ở Việt Nam.
Kinh nghiệm lựa chọn chế độ tỷ giá một số nớc và thực trạng lựa chọn chế độ tỷ
giá ở Việt Nam sẽ đợc phân tích sâu hơn ở Phần II.

9


phần II
kinh nghiệm một số nớc và thực trạng áp dụng

chế độ tỷ giá ở việt nam
I-/

Kinh nghiệm lựa chọn chế độ tỷ giá ở một số nớc

Chế độ tỷ giá cố định, thả nổi tự do hay thả nổi có quản lý đều có mặt tích
cực và mặt hạn chế nhất định. Việc lựa chọn chế độ tỷ giá nào phải căn cứ vào
điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Nó phụ thuộc vào mục tiêu, chính sách phát
triển kinh tế xã hội trong từng thời kì. Mỗi chế độ tỷ giá lại có một cơ chế hoạt
động riêng. Việc vận dụng sáng tạo, hợp lý chế độ tỷ giá vào nền kinh tế không
phải đơn giản, dễ dàng. Thực tế, việc lựa chọn chế độ tỷ giá không hợp lý sẽ dẫn
đến những hậu quả khôn lờng. Kinh nghiệm của một số nớc trên thế giới đã cho
thấy điều đó.
1-/ Đức:
Nớc Đức lựa chọn cho mình chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà n ớc. Chính phủ Đức đã can thiệp điều hành tỷ giá để chống lại khủng hoảng kinh
tế (sản xuất giảm tuyệt đối, lạm phát cao, thất nghiệp hàng loạt) đầu những năm
80.
Chính phủ Đức ma toan tìm lối thoát thông qua giải pháp mở rộng xuất
khẩu bằng lợi thế phá giá, thế nhng năm 1980 khi DM mất giá 12% lại là năm
Đức có mức xuất siêu thấp nhất (8,9 tỷ DM). Lúc đó ở Đức có hai cách nhìn
nhận vấn đề phá giá. Một là, sẽ cải thiện. Hai là, làm giá nhập khẩu tăng, khuyến
khích lạm phát lên cao.
Đến lợt mình lạm phát tất yếu tác động tiêu cực vào xuất khẩu, sản xuất.
Vậy là hiệu ứng phá giá tan mất, tình hình thêm phức tạp. Còn các chủ xuất khẩu
Đức thừa nhận phá giá DM hoàn toàn không thể khắc phục khó khăn.
Kề từ 1/1980 cha đầy hai năm, DM đã 5 lần mất giá so với USD với mức
đáng kể (14 đến 15%), song tỷ giá lại nhanh chóng quay trở lại mức xuất phát
điểm trớc khi phá giá.
Chiến lợc khôi phục kinh tế của Đức lúc bấy giờ thất bại, ngoài các nhân tố
nội địa, còn chịu tác động không thể cỡng nổi từ chính sách đồng tiền nặng của

Chính quyền Rigân (vốn từ Đức, Anh tháo chạy sang Mỹ, Canada,...).

10


Vấn đề kinh tế của Đức chỉ đợc giải quyết khi Chính phủ mới của ông
Hellmut Kol áp dụng phơng sách khác: giảm can thiệp Nhà nớc; sử dụng các cơ
chế, chính sách tài chính; giảm mạnh thuế; khuyến khích sản xuất nội địa; thực
thi chính sách thắt chặt.
2-/ Mêhicô:
Khủng hoảng ở Mêhicô là bài học có giá cho việc lựa chọn, điều chỉnh tỷ
giá hối đoái và quản lý ngoại hối. Sau khủng hoảng nợ 1982, với sự hỗ trợ của
IMF, Mêhicô đã cải cách và điều chỉnh kinh tế dựa trên các định hớng chính
sách tài chính thắt chặt, sử dụng tỷ giá hối đoái nh một chỗ dựa danh nghĩa, cải
cách cơ cấu (t nhân hoá, tự do hoá ngoại hối và ngoại thơng, cải cách lại các
khoản nợ,...) nhằm tạo khả năng thanh toán nợ nớc ngoài, tạo cơ sở phát triển
cho khu vực t nhân,...
Kết quả của cuộc cải cách (1988-1997) đợc thế giới đánh giá là rất thành
công trên nhiều mặt: chuyển từ thâm hụt ngân sách (12% GDP năm 1988) sang
bội thu trong các năm 1996-1997 (trong khi thuế thu nhập doanh nghiệp giảm từ
42% xuống 35% bằng Mỹ, thuế thu nhập cá nhân từ 50% xuống 35%). Lạm phát
từ 160% năm 1987 còn 8% năm 1997; dự trữ ngoại tệ tăng mạnh (80 tỷ USD
năm 1997), tăng trởng kinh tế từ 0% (1985-1988) lên 8% GDP trong các năm
(1993-1997), việc cơ cấu lại nợ đã khôi phục và mở rộng quan hệ của Mêhicô và
các tổ chức tài chính quốc tế.
Sau đó, kinh tế Mêhicô có nhiều biểu hiện xấu đi, mầm mống của khủng
hoảng xuất hiện, nhất là từ năm 1998:
- Thâm hụt cán cân thanh toán 6,5% GDP năm 1997 đã là lớn; năm 1998
lên tới 8% GDP và chủ yếu đợc tài trợ bởi các nguồn vốn vay ngắn hạn (việc
tăng giá nội tệ và giảm tích luỹ t nhân là một nguyên nhân của tình hình trên), dự

trữ ngoại tệ giảm còn 6 tỷ USD vào năm 1998 thiếu khả năng bảo vệ giá trị đồng
nội tệ.
- Mêhicô phải đơng đầu với việc lãi suất trên thị trờng quốc tế tăng nhanh.
Ngoài ra, còn phải chuộc lại 28 tỷ USD trái phiếu ngắn hạn bằng ngoại tệ. Hơn
nữa, Chính phủ phải bng bít tình hình ngày càng xấu đi của nền kinh tế trớc cuộc
bầu cử.
Trong bối cảnh đó Chính phủ lại quyết định phá giá đột ngột đồng nội tệ.
Vì vậy nó đã trở thành ngòi nổ cho cuộc đại khủng hoảng. Mặc dù IMF tài trợ 50
tỷ USD nhng Mêhicô vẫn không cải thiện đợc tình hình.

11


Bài học rút ra từ sự kiện này là:
Thứ nhất, sự mở cửa ra thị trờng quốc tế ngày nay đòi hỏi có trách nhiệm
thực hiện quyết định đúng đắn trong chính sách kinh tế. Sự thận trọng và tuân
thủ các nguyên tắc là phơng thức hiệu quả nhằm chống lại các biến động của thị
trờng quốc tế. Mêhicô đã phải trả giá đắt cho việc nới lỏng kiểm soát và để mặc
cho thị trờng tự do thực hiện các quy luật của mình.
Thứ hai, thâm hụt cán cân thanh toán lớn chứa đựng nhiều nguy hiểm, nhất
là khi chúng đợc sử dụng vào tiêu dùng nội địa và đợc tài trợ bằng các nguồn vốn
ngắn hạn.
Thứ ba, việc phá giá nội tệ vào tháng 10/1998 cho thấy điều chỉnh tỷ giá
hối đoái thích hợp là hết sức khó khăn ngay cả khi sự thay đổi đó là cần thiết.
Hơn nữa, các biện pháp vĩ mô đi kèm và hỗ trợ là hết sức quan trọng, đảm bảo
chắc chắn các đòi hỏi của thị trờng và đa ra một tỷ giá hối đoái hợp lý. Chính
phủ quyết định phá giá 20% (từ 3,4 Peso/USD xuống 4,5 Peso/USD) nhng thực
tế không giữ nổi mức này và đồng Peso giảm thêm 22% thành 5,5 Peso/USD.
Thứ t, cuộc khủng hoảng cho thấy sẽ phải trả giá đắt khi những thông tin thờng xuyên, kịp thời về các chỉ số kinh tế quan trọng không đợc công bố đúng
lúc.

3-/ Các nớc ASEAN và NICs
Các nớc ASEAN và NICs theo đuổi chính sách tỷ giá ổn định, hớng về xuất
khẩu. Theo đó, việc can thiệp vào tỷ giá của Chính phủ nhằm ổn định tỷ giá, ổn
định môi trờng kinh tế vĩ mô, thu hút đầu t nớc ngoài. Không một nớc nào chủ
trơng phá giá làm động lực cho xuất khẩu, vai trò của tỷ giá chỉ là hỗ trợ.
Việc điều chỉnh tỷ giá ở các nớc này có một số điểm chung:
Thứ nhất, do khó khăn về tài chính, thiếu ngoại tệ nghiêm trọng nên lúc đầu
họ áp dụng nhiều loại tỷ giá, nội tệ định giá cao trong cơ chế cố định. Sau thời kì
1971-1973 thực hiện phá giá, sau đó nhanh chóng thống nhất tỷ giá chính thức
và thị trờng.
Thứ hai, khi đạt đợc tỷ giá thị trờng cân đối, họ áp dụng cơ chế điều chỉnh
theo quan hệ cung - cầu là chính. Các nớc gắn nội tệ vào giỏ ngoại tệ mạnh.
Thứ ba, các nớc nỗ lực ổn định hoá các quan hệ tỷ giá, tỷ giá hối đoái thực
tế, có dự trữ ngoại tệ để khống chế biên độ dao động của tỷ giá ở mức thấp.

12


Thứ t, khi tỷ giá tăng họ điều chỉnh tỷ giá để không cản trở xuất khẩu, song
luôn gắn bó việc điều chỉnh này với nhiệm vụ khống chế lạm phát.
Thứ năm, nhìn chung đồng nội tệ của các nớc này có xu hớng tăng giá ổn
định so với USD.
Việc duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định, ổn định hoá các quan hệ tỷ giá
hớng vào xuất khẩu trong thời gian đầu đã phát huy tác dụng và đạt hiệu quả
cao. Tuy nhiên việc theo đuổi chế độ tỷ giá này trong một thời gian dài đã dẫn
đến những bất cập. Nó là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ Châu á vừa qua. Khi nợ nớc ngoài đến thời kì đáo hạn lại
là lúc cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt nghiêm trọng. Mặc dù nguồn ngoại tệ
lúc này khan hiếm nhng hoạt động xuất khẩu lại bị chững lại. Do đó nguồn thu
ngoại tệ không đủ bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai. Chính phủ các nớc vẫn

tiếp tục tung dự trữ ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá cố định. Lợi dụng tình hình đó,
nhà đầu cơ ngời Mỹ Soros đã đầu cơ vào đồng tiền các nớc ASEAN. Khi ngoại tệ
khan hiếm tới đỉnh điểm, đồng nội tệ có nguy cơ phải phá giá thì Soros bán
khống một lợng lớn nội tệ ra thị trờng làm cho đồng bản tệ hoàn toàn mất giá.
Chính phủ Thailand phải tuyên bố phá giá đồng Bath, mở đầu cho cuộc khủng
hoảng tài chính Châu á, chấm dứt chế độ tỷ giá cố định.
Qua các sự kiện Mêhicô, khủng hoảng ở Đức, bão táp tài chính ASEAN
chúng ta có thể rút ra nhiều bài học bổ ích. Việc theo đuổi, áp dụng chế độ tỷ giá
nào là cả một nghệ thuật. Nên chăng Việt Nam sẽ gắn chặt đồng nội tệ với đồng
tiền nớc khác, duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định (nh các nớc ASEAN) hay sẽ
chủ trơng thả nổi hoàn toàn tỷ giá và phá giá nội tệ để chống đỡ khủng hoảng, hớng về xuất khẩu. áp dụng máy móc một chế độ tỷ giá nào đều là sai lầm bởi vì
mỗi chế độ tỷ giá đều có mặt mạnh và mặt hạn chế. Việc lựa chọn, áp dụng chế
độ tỷ giá nh thế nào là hợp lý, phù hợp với đặc thù của Việt Nam sẽ đợc phân
tích kỹ ở phần tiếp theo.
II-/ Thực trạng áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam

1-/ Bối cảnh áp dụng chế độ tỷ giá thời gian qua ở Việt Nam
Từ ngày 25/11/1955 tỷ giá chính thức giữa đồng Việt Nam và Nhân dân tệ
(NDT) của Trung Quốc là: 1 NDT = 1.470 VNĐ, 1 Rúp (Liên Xô) = 0,5 NDT, tỷ
giá chéo là 735 VNĐ = 1 Rúp. Sau đổi tiền (1959) tỷ giá VNĐ với Rúp và NDT
thay đổi. Đến năm 1977 các nớc XHCN thoả thuận thanh toán với nhau bằng
đồng Rúp chuyển nhợng (RCN). Mỗi RCN có hàm lợng vàng là 0,98712 gam.

13


Bên cạnh tỷ giá trên, Nhà nớc còn dùng tỷ giá thanh toán nội bộ để thanh
toán giữa các tổ chức và đơn vị có thu - chi ngoại tệ với Ngân hàng ngoại thơng,
tính thu - chi ngân sách Nhà nớc khi nhận viện trợ bằng đồng Rúp và cấp phát
cho các tổ chức kinh tế để thanh toán với các đơn vị ngoại thơng.

Tỷ giá kết toán nội bộ đợc điều chỉnh nh sau:
Năm 1958

: 1 Rúp = 5,64 VNĐ

Năm 1986

: 1 Rúp = 18 VNĐ

Năm 1987

: 1 Rúp = 150 VNĐ

Năm 1988

: 1 Rúp = 700 VNĐ

Đến tháng 3/1989 huỷ bỏ chế độ kết toán nội bộ.
Trong thời gian này quan hệ kinh tế đối ngoại của ta chủ yếu với các nớc
XHCN, nhất là khối SEV, nên quan hệ của VNĐ chủ yếu là với đồng Rúp. Còn
với các đồng tiền chuyển đổi tự do thì không đợc xác lập chính thức.
Chế độ tỷ giá trên đây có một số đặc trng:
Một là, tỷ giá đợc xác lập nhằm phục vụ cho kế hoạch do Nhà nớc quyết
định, không xuất phát từ yêu cầu thực tại của nền kinh tế thị trờng trong và ngoài
nớc. Tỷ giá hối đoái giữ vai trò thụ động (chủ yếu làm chức năng thanh toán,
công cụ để lập kế hoạch), cha phải là công cụ điều chỉnh vĩ mô thực thụ.
Hai là, do việc xác lập tỷ giá hối đoái duy ý chí, không tuân thủ qui luật
kinh tế, các quy trình kinh tế ngay cả với kinh tế kế hoạch. Vì vậy, nó không chỉ
cản trở các quan hệ kinh tế của ta với khối SEV mà còn gây nhiều khó khăn
trong trao đổi, thanh toán nội bộ, trong công tác quản lý điều hành của Nhà nớc,

thủ tiêu động lực đối với hoạt động xuất khẩu.
Ba là, do sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ trong quản lý ngân sách Nhà nớc
nên việc tính toán và phản ánh thu - chi ngân sách Nhà nớc bị sai lệch nghiêm
trọng, làm giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân sách Nhà nớc, đặc biệt là
khâu quản lý và sử dụng vốn.
Sau khi có chủ trơng thu hút vốn nớc ngoài (1985) và thông qua luật đầu t nớc ngoài (1987) luồng ngoại tệ bằng USD lần lợt vào Việt Nam. Tuy nhiên, chúng
ta chỉ dùng tỷ giá chính thức do Ngân hàng Trung ơng áp đặt nên vẫn còn khoảng
cách khá xa so với sức mua thực tế của USD và thị trờng chợ đen.
Đơn vị tính: VNĐ/1 USD

14


Năm

Tỷ giá chính thức

Tỷ giá thị trờng

1985

15

115

1986

80

425


1987

368

1270

1988

3000

5000

1989

3900

4100

Tuy nhiên, mức chênh lệch giữa 2 loại tỷ giá tính theo tỉ lệ % cũng giảm
dần rõ rệt (năm 1985 là 666,67%, năm 1989 chỉ còn 5,12%).
Thời kỳ thả nổi tỷ giá hối đoái 1989-1996. Trong giai đoạn này tỉ giá hối
đoái VNĐ/USD tăng mạnh, giá trị đồng USD tăng liên tục kèm theo những cơn
sốt và đột biến lớn (xem bảng).
Tỷ giá hối đoái VNĐ/USD
từ năm 1989 đến 1996
Đơn vị tính: VNĐ/USD
Tháng 1

Tháng 3


Tháng 6

Tháng 9

Tháng 12

- Ngân hàng

3500

4200

4350

4100

4200

- T nhân

5200

5350

4400

4225

4575


- Ngân hàng

4300

4300

4800

5750

6650

- T nhân

4650

4450

5600

6300

7050

- Ngân hàng

7000

7400


8300

10700

12900

- T nhân

7400

7900

8830

11050

12550

- Ngân hàng

11880

11550

11285

10950

10720


- T nhân

12200

11550

11290

10980

10650

1989

1994

1995

1996

Số liệu trên cho thấy sự biến động mạnh của tỷ giá VNĐ/USD từ năm 1994
trở đi. Đỉnh cao của mức tăng giá USD là cuối năm 1995. Ngày 4/12/1995 giá
USD trên thị trờng t nhân tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 14.450
15


VNĐ/USD và 14.580 VNĐ/USD. Giá USD trong tháng 12/1994 đã tăng từ 60%
đến 80% so với mức giá đầu năm.
Mặc dù trong giai đoạn 1989-1996 chính sách quản lý của Nhà nớc đã có

nhiều thay đổi, nh chuyển từ hình thức quản lý theo tỷ giá kết toán nội bộ bình
quân cho tất cả các nhóm hàng sang tỷ giá theo nhóm hàng hoá và duy trì tơng
đối ổn định các tỷ giá này, hoặc nếu có thay đổi thì cũng ở mức độ nhỏ nhằm
duy trì ổn định hệ thống giá vật t và xuất khẩu, nhập khẩu nên tỷ giá công bố vẫn
cách xa mức tỷ giá hình thành trên thị trờng.
Hơn nữa, phần ngoại thơng ngoài kế hoạch ngày càng lớn khiến cho thị trờng ngoại tệ ngầm ngày càng phát triển và có xu hớng phản ánh tơng quan giá trị
thực giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ.
Tình trạng leo thang của giá đồng USD đã kích thích tâm lý dự trữ USD,
nhằm mục đích đầu cơ ăn chênh lệch giá. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không
đợc dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các
tổ chức trong nớc. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của Chính phủ ít đem lại kết
quả, thậm chí có những quyết định của Chính phủ về quản lý ngoại tệ đã bị mất
hiệu lực ngay khi vừa mới công bố. Giai đoạn này, ngân hàng không kiểm soát
đợc lu thông ngoại tệ. Qua kiểm tra 26 đơn vị sử dụng ngoại tệ ở Thừa Thiên
Huế thấy tất cả đều có sai phạm:
Bán USD ra thị trờng

: 996,682 USD.

Cho vay lẫy lãi

: 102,694 USD.

Chuyển nhợng cho nhau hơn 2 triệu USD lấy chênh lệch 3,5 tỷ VNĐ.
Trớc tình hình đó, Chính phủ đã thay đổi cách quản lý ngoại tệ, đổi mới cơ
chế quản lý ngoại hối. Nó đã giải toả đợc tâm lý đầu cơ ngoại tệ, ngăn ngừa xu
hớng tăng giá quá mức của USD trên thị trờng. Đến tháng 3/1996 tỷ giá chỉ còn
11.550 VNĐ/USD và tiếp tục giảm cho tới cuối năm 1996.
Quá trình tiến tới chính sách tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ chế thị trờng
(1996-1999). Vào cuối năm 1996 tỷ giá VNĐ/USD dần ổn định, giải toả đợc tâm

lý đầu cơ ngoại tệ, hớng mạnh vào kinh doanh xuất, nhập khẩu. Bên cạnh đó, ta
thu đợc một lợng lớn ngoại tệ từ bên ngoài vào (Trong dịp tết Nguyên đán Nhâm
Thân 1997, có khoảng 60 ngàn Việt kiều về ăn tết mang theo lợng ngoại tệ 300400 triệu USD) dẫn tới cung USD tăng, đồng USD giảm giá nhanh. Có ngày giá
USD giảm xuống còn 9.950 VNĐ/USD tại Hà Nội, 9.750 VNĐ/USD tại Hồ Chí
Minh (13/01/1997).

16


Việc đồng nội tệ tăng giá ảnh hởng xấu tới xuất khẩu và kích thích nhập
khẩu. Do đó, ngân hàng Nhà nớc phải can thiệp nhằm nâng giá USD. Từ tháng
3/1997 USD đã lên giá dần và duy trì xu hớng lên giá một cách ổn định.
Từ cuối năm 1998, USD liên tục mất giá so với các đồng tiền chủ chốt
khác, đặc biệt so với đồng Yên (Nhật Bản). Nhng trên thị trờng Việt Nam giá
USD vẫn tơng đối ổn định và tăng ở mức độ nhỏ (tăng 1,7% trong năm 1998 và
tăng 0,4% trong quí I năm 1999) đã tạo điều kiện cân đối giữa xuất khẩu và nhập
khẩu, phù hợp với chiến lợc kinh tế hớng ngoại.
Tóm lại, chế độ tỷ giá hối đoái đã có những thay đổi căn bản từ khi chuyển
từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo
cơ chế thị trờng. Từ chỗ đồng nội tệ chỉ gắn chặt với đồng Nhân dân tệ (Trung
Quốc) và đồng Rúp (Liên Xô) (do đặc thù Việt Nam trong thời gian đó quan hệ
chủ yếu với các nớc XHCN, đặc biệt là khối SEV) đến nay, VNĐ đã mở rộng
quan hệ trao đổi với các ngoại tệ mạnh khác. Trớc kia, chế độ tỷ giá ở Việt Nam
là chế độ cố định, đợc ấn định bởi ý muốn chủ quan của Nhà nớc, mang nặng
tính hành chính, hoạt động kém hiệu quả,... còn hiện nay, nó đã đợc hình thành
trên cơ sở diễn biến cung - cầu ngoại tệ trên thị trờng, đợc điều tiết bởi Chính
phủ. Nó tỏ ra có hiệu quả hơn và đã phát huy tác dụng. Tuy nhiên, việc hoàn
thiện chế độ tỷ giá và cơ chế điều hành không vì thế mà dừng lại Nó cần phải đ ợc tiếp tục nghiên cứu, áp dụng linh hoạt, có sự điều chỉnh cần thiết đúng lúc cho
phù hợp với hoàn cảnh. Trong điều kiện hiện nay, có hai quan điểm xung quanh
vấn đề lựa chọn, áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam. Một là, quan điểm chế độ tỷ

giá cố định. Hai là, phá giá đồng tiền.
2-/ Quan điểm chế độ tỷ giá cố định:
Mục đích của quan điểm này là: cần phải giữ tỷ giá hối đoái cố định để
kiềm chế lạm phát ở mức thấp và củng cố lòng tin của dân chúng vào đồng tiền
nội địa.
Do Việt Nam là một trong những nớc có nền kinh tế kém phát triển, công
nghiệp lạc hậu. Để kinh tế có thể phát triển nhanh mạnh, vững chắc thì cần phải
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, đổi mới khoa học công nghệ.
Do đó, việc nhập dây chuyền máy móc từ những nớc công nghiệp phát triển là
điều không tránh khỏi.
Chính vì vậy, vào cuối năm 1995 đầu năm 1996 Chính phủ đã can thiệp để
nâng giá đồng Việt Nam trên thị trờng ngoại tệ. Sự can thiệp này có mục đích
chống lạm phát bằng cách giữ cho giá hàng nhập khẩu đợc ổn định. Do từ năm
17


1994 trở lại đây Việt Nam đã nhập khẩu một số lợng lớn máy móc thiết bị
nguyên vật liệu để đáp ứng nhu cầu phát triển và mở rộng sản xuất trong nớc,
thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm của nông nghiệp. Cụ thể kim ngạch nhập khẩu của
Việt Nam trong những năm qua nh sau:
Mặt hàng

Đơn vị

Tổng giá trị nhập khẩu Tr. USD
Trong đó:

1995

1996


1997

1998

1999

2338,1

2540,7

3923,9

5825,8

7500,0

- Xăng dầu

1.000 tấn

2572,5

3142,0

4094,7

4531,0

5200,0


- Sắt thép

1.000 tấn

113,0

343,0

686,3

754,0

1100,0

- Phân bón

1.000 tấn

2663,6

2454,7

3027,8

4201,8

+

- Thuốc trừ sâu


1.000 USD

22462

24098

33403

58635

+

(Nguồn: Kinh tế xã hội Việt Nam, thực trạng xu thế và giải pháp - NXB
Tổng cụ thống kê)
Tình hình trên cho thấy, khi tỉ giá ngoại tệ cao làm cho giá thành của sản
phẩm sản xuất trong nớc tăng bởi chính xăng dầu, sắt thép, thuốc trừ sâu và máy
móc thiết bị đều là các yếu tố đầu vào của sản xuất tăng lên. Trong điều kiện nền
kinh tế hiện còn tồn tại nhiều nhân tố gây bất ổn định khác nhau thì việc giá
thành hàng hoá nhập khẩu tăng cao sẽ là nhân tố kích thích lạm phát (chi phí
đẩy). Do đó, một tỷ giá hối đoái cố định sẽ hỗ trợ tạo đắc lực cho sự bình ổn tỷ
giá.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đợc thì vẫn còn những mặt hạn chế của
quan điểm này.
Tỷ giá hối đoái quá mạnh đã gây sức ép đối với sản xuất nông nghiệp và
công nghiệp. Trung Quốc là một bạn hàng lớn của Việt Nam. Tỷ giá hối đoái do
thị trờng qui định của Trung Quốc đã bị phá giá mạnh kể từ giữa năm 1995, biến
động khoảng từ 6-9 NDT/USD và có thời gian ngắn lên tới 10 NDT/USD. Trong
cùng thời điểm (8/1995) khi đồng Việt Nam lần đầu tiên đạt mức tỷ giá danh
nghĩa nh năm 1995 thì đồng NDT bị phá giá 50%. Trong khi đó mức lạm phát

tại Việt Nam là 67% còn tại Trung Quốc là 25%. Do đó, mức tăng trong sức
cạnh tranh của hàng Trung Quốc là rất đáng kể và các nhà máy Việt Nam đã
phải vất vả vì tình trạng này (nguồn: Viện phát triển kinh tế Harvard).
Nhà nớc đã đối phó với tình trạng này bằng cách giữ vững tỷ giá hối đoái và
phát động chống buôn lậu đồng thời đề ra cơ chế quản lý nhập khẩu bằng hạn
ngạch cô-ta, cấm nhập khẩu, hạn chế cấp tín dụng cho nhập khẩu cùng với một
số chính sách u đãi đối với những sản phẩm mới xuất khẩu,... Tuy nhiên do biên
18


giới Việt - Trung trải dài, buôn lậu qua biên giới rất có lợi nên gần nh ta không
thể ngăn chặn hoạt động buôn lậu. Ta chỉ có thể làm cho hoạt động buôn lậu
kém lãi hơn. Tuy nhiên những biện pháp này không giúp gì đợc cho các nhà xuất
khẩu, vì các hàng rào mậu dịch làm cho chi phí sản xuất của họ còn tăng hơn
nữa, trong khi giá nội tệ của hàng xuất khẩu do họ sản xuất lại tụt xuống (nếu
mức giá bằng USD vẫn không đổi).
3-/ Quan điểm phá giá đồng tiền
Những tác động tích cực của việc phá giá đồng bản tệ. Phá giá sẽ làm giảm
giá tơng đối hàng xuất khẩu, do vậy về lâu dài sẽ thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập
khẩu, cải thiện cán cân thơng mại. Từ đó tăng khối lợng dự trữ ngoại tệ của quốc
gia.
Phá giá sẽ làm tăng giá đồng USD, do đó hạn chế việc đầu cơ đồng USD,
góp phần ổn định thị trờng tiền tệ.
Một số quốc gia đã thành công trong việc phá giá tiền tệ. Braxin là một ví
dụ. Năm 1979, Braxin thâm hụt cán cân thơng mại nặng nề. Chính phủ Braxin đã
tăng tỷ giá hối đoái lên 30% và cán cân thơng mại bắt đầu thặng d trong năm
1981-1982. Đến tháng 2 năm 1983, Chính phủ lại tăng tỷ giá tiếp 30%, kết quả
rất khả quan. Năm 1984, cán cân thơng mại d thừa 11 tỷ USD và cán cân thanh
toán quốc tế đạt mức cân bằng lần đầu tiên trong nhiều năm.
Bên cạnh đó, một số nớc đã phải trả giá đắt cho việc phá giá tiền tệ. Sự kiện

ở Đức (1980), Mêhicô (1998) là những minh chứng. Nguyên nhân ở chỗ họ cha
lờng hết đợc những tác động tiêu cực của phá giá nội tệ.
Những tác động tiêu cực của việc phá giá bản tệ.
Một là, phá giá sẽ làm tăng thêm lạm phát vì nó làm tăng giá vật t, nguyên
vật liệu (là những yếu tố đầu vào) nhập khẩu. Từ đó dẫn tới bội chi tài chính và
lạm phát sẽ khó kiểm soát hơn.
Hai là, phá giá dẫn đến tăng giá hàng nhập, hạn chế tốc độ tăng trởng kinh
tế, tăng tỷ lệ thất nghiệp. Phá giá làm cho giá hàng nhập trở lên đắt hơn. Trong
khi đó, ở những nớc kém phát triển, tỷ lệ nhập đầu vào của sản xuất là rất cao.
Khi phá giá sẽ dẫn tới giá thành sản xuất tăng, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá
trong nớc trên trờng quốc tế. Mặt khác, khi nội tệ giảm giá, các nhà đầu t sẽ
chuyển từ đồng nội tệ sang đồng ngoại tệ (USD). Để cân bằng lại và kiềm chế
lạm phát, Chính phủ phải tăng lãi suất tiền gửi nội tệ. Điều này dẫn đến đầu t
giảm, thất nghiệp tăng.

19


Ba là, phá giá làm giá trị tài sản trong nớc giảm (kể cả nội tệ và hàng hoá)
điều này làm tăng gánh nặng nợ nớc ngoài.
Bốn là, phá giá có thể dẫn tới tình hình kinh tế mất ổn định, nớc ngoài sẽ
không dám đầu t, quốc gia sẽ gặp khó khăn lớn trong việc vay nợ nớc ngoài.
Nh vậy có quan điểm cho rằng trong điều kiện đồng USD đang lên giá so
với các đồng tiền khác, nếu chúng ta giữ ổn định VNĐ thì sẽ làm cho hàng hoá,
dịch vụ sản xuất trong nớc có giá cao hơn so với các nớc trong khu vực, kéo theo
môi trờng đầu t kém hấp dẫn. Do vậy, cần thiết phải phá giá VNĐ.
Đối lập với nó là quan điểm cho rằng: phải bằng mọi biện pháp ổn định tỷ
giá, thậm chí đông cứng để tạo động lực cho sự ổn định kinh tế, giảm rủi ro
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo sức hấp dẫn đầu t nớc ngoài, khuyến
khích nhập khẩu công nghệ tiên tiến cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hóa đất nớc. Đồng nội tệ mạnh chính là một điều kiện cho nền kinh tế vững
mạnh, tăng trởng nhanh.
Thực tiễn cho thấy, việc ổn định tỷ giá chỉ tỏ ra phù hợp trong một khoảng
thời gian nhất định. Khi các yếu tố thị trờng thay đổi nếu tiếp tục cứng nhắc sẽ
dẫn tới lạc hậu, trì trệ. Ngợc lại, thả nổi hoàn toàn tỷ giá cũng có thể dẫn tới
khủng hoảng. Sự kiện thả nổi hoàn toàn tỷ giá ngày 2/7/1997 ở Thái Lan đã
châm ngòi cho sự bùng lên của cơn hoảng loạn tâm lý, làm lan rộng gay gắt
thêm cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực là một bài học sáng giá.
Việt Nam là nớc đang phát triển nên trong trờng hợp cần thiết có thể sử
dụng vũ khí lợi hại là phá giá. Tuy nhiên nó phải đợc vận dụng một cách linh
hoạt, hợp lý:
+ Mức độ phá giá phải đợc cân nhắc cẩn thận.
+ Tần số phá giá là vấn đề cần đợc quan tâm.
+ Việc phá giá phải đợc tiến hành đồng thời với các chính sách kinh tế vĩ
mô khác, phải có các điều kiện đi kèm nh: giá cả trong nớc phải ổn định,...
Phá giá là một công cụ mạnh, nó chỉ phát huy tác dụng trong những trờng
hợp khẩn thiết, việc lạm dụng chắc chắn sẽ không đem lại hiệu quả, thậm chí có
thể dẫn tới những hiệu ứng tiêu cực.
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, việc áp dụng chế độ tỷ giá linh hoạt có
sự điều tiết của Nhà nớc sẽ là sự lựa chọn đúng đắn, góp phần ổn định, phát triển
kinh tế.

20


4-/ Chế độ tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
Chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý điều tiết của Nhà nớc là thích hợp với
tiến trình đổi mới nền kinh tế nớc ta hiện nay. Vì nó cho phép chúng ta thực hiện
một chính sách tiền tệ độc lập vừa tuân theo quy luật cung - cầu thị trờng vừa
phát huy vai trò quản lý, điều tiết linh hoạt của Nhà nớc để đạt đợc mục tiêu, yêu

cầu phát triển kinh tế.
Với cơ chế điều hành tỷ giá mới, chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết ở nớc
ta hiện nay càng có cơ hội phát huy hiệu quả. Ngày 25/2/1999 NHNN Việt Nam
đã công bố hai quyết định mới về tỷ giá:
Quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN7 về việc công bố tỷ giá hối đoái của
đồng Việt Nam với các ngoại tệ.
Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 về việc quy định nguyên tắc xác định
giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức đợc phép kinh doanh ngoại tệ.
Từ ngày 26/2/1999, NHNN chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên cơ
sở tỷ giá thực tế bình quân trên thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng (TTNTLNH)
của ngày giao dịch gần nhất trớc đó. Căn cứ vào đó các ngân hàng thơng mại đợc
phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay không vợt
quá 0,1% so với tỷ giá này. Chúng ta dễ nhận thấy những u điểm của cơ chế tỷ
giá này:
Một là, tỷ giá ngân hàng Nhà nớc công bố hàng ngày là tỷ giá giao dịch
bình quân trên TTNTLNH, điều này phản ánh tỷ giá đợc hình thành một cách
khách quan hơn, phản ánh đúng hơn cung cầu ngoại tệ trên thị trờng.
Hai là, tỷ giá mà ngân hàng Nhà nớc công bố gần gũi với giá thị trờng tự
do. Nh vậy, khoảng cách giữa giá thị trờng tự do và giá của các ngân hàng Thơng
Mại là nhỏ.
Ba là, Bản thân tỷ giá tự nó đã đợc điều chỉnh theo quan hệ cung cầu, hay
chính nhu cầu của doanh nghiệp là cơ sở xác định tỷ giá và tại đó cung cầu ngoại
tệ đợc thoả mãn, không gây ra cơn sốt ngoại tệ.
Bốn là, cơ chế điều chỉnh tỷ giá mới xuất phát từ cung cầu ngoại tệ trên thị
trờng nên khi công bố tỷ giá không phải chịu sức ép tâm lý, gây hoang mang nh
việc áp đặt tỷ giá trớc kia.
Năm là, cơ chế điều chỉnh tỷ giá mới mềm dẻo và linh hoạt hơn, vì thế nó phù
hợp với thông lệ quốc tế, góp phần vào sự hoà nhập kinh tế khu vực và thế giới.

21



Tuy nhiên, về lâu dài nếu không tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh các giải pháp
bổ trợ cho cách điều hành tỷ giá hối đoái mới, có thể sẽ phát sinh một số vấn đề
khó khăn là:
Thứ nhất, tâm lý đón chờ phá giá VNĐ vẫn thờng trực, gắn liền với cách
tính toán và công bố tỷ giá giao dịch bình quân của NHNN, khiến tỷ giá thực tế
của TTNTLNH luôn ở xu hớng tăng thêm với mức đợc phép là 0,1% tạo thành
cấp số luỹ tiến liên tục mũ n của hệ số 1,001.
Thứ hai, để khắc phục tình trạng này NHNN phải sử dụng quỹ ngoại tệ để
can thiệp nhằm kiềm chế tỷ giá giao dịch thực tế của TTNTLNH, trong khi khả
năng dự trữ ngoại tệ rất mỏng.
Thứ ba, do TTNTLNH cha phát triển hoàn hảo, liều lợng dự trữ ngoại tệ bỏ
ra can thiệp còn ít do đó kiểm soát dao động tỷ giá chỉ dừng lại ở phạm vi hẹp,
cơ chế điều hành tỷ giá mới vẫn còn độ cứng nhắc cao.
Thứ t, việc bỏ hẳn ấn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa sẽ đa đến khó khăn
nhất định trong dự báo một số cân đối lớn của nền kinh tế nh: cán cân thanh toán
vãng lai, tổng cung, tổng cầu tiền tệ của nền kinh tế, thu chi ngân sách...
Thực tế trên đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ cấp bách quan trọng là phải tìm
ra những giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế của cơ chế điều hành tỷ
giá đồng thời phát huy những mặt tích cực của cơ chế này.

22


phần III
Các giải pháp xúc tiến và đa chế độ tỷ giá ở việt nam
hoạt động có hiệu quả.
1-/ Tăng lợng dự trữ ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nớc.
Đây là một trong những giải pháp quan trọng góp phần điều chỉnh thị trờng

hối đoái, can thiệp điều hành tỷ giá. Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn nó có những ý
nghĩa khác nhau nhất định. Trớc đây, tỷ giá hối đoái là do NHNN ấn định và
công bố, nó mang nặng tính kế hoạch, hành chính hơn là một công cụ điều tiết
vĩ mô. Tỷ giá đợc xác định theo ý muốn chủ quan của NHNN nên nó tác động
tới cung cầu nhiều hơn là cung cầu tác động đến nó. Cho dù cung cầu ngoại tệ
thay đổi nhng tỷ giá vẫn đợc giữ nguyên (nếu NHNN thấy việc đó là cần thiết).
Vì thế mà mặc dù có những lúc dự trữ ngoại tệ của ta rất mỏng nhng tỷ giá danh
nghĩa vẫn không hề bị biến động. Nói cách khác, quỹ dự trữ ngoại tệ hầu nh
không cần phải huy động tới.
Với chế độ tỷ giá linh hoạt có điều tiết ở nớc ta hiện nay thì mọi vấn đề
không phải nh vậy. Cơ chế tỷ giá mới đòi hỏi khi cung, cầu ngoại tệ trên thị trờng ngoại tệ thay đổi thì tỷ giá trên thị trờng cũng phải thay đổi theo. Nếu ngân
hàng Nhà nớc muốn giữ tỷ giá hối đoái ổn định thì buộc phải can thiệp. Tuy
nhiên, sự can thiệp ở đây không phải là mệnh lệnh hành chính, ấn định trực tiếp
vào tỷ giá mà nó đợc tiến hành trên cơ sở ngân hàng Nhà nớc bán hoặc mua
ngoại tệ, sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái. Nếu cung ngoại tệ lớn hơn cầu
ngoại tệ, NHNN chỉ việc tung VNĐ ra mua ngoại tệ, làm tăng nguồn dự trữ
ngoại tệ của NHNN. Khi cầu ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ thì NHNN phải tung
ngoại tệ ra bán để giữ tỷ giá. Yêu cầu đặt ra là NHNN phải có dự trữ đủ mạnh để
sẵn sàng đối phó với âm mu kích động, yếu tố đầu cơ. Nếu dự trữ ngoại tệ không
đủ mạnh để can thiệp trong những lúc cần thiết thì: Một là, quay lại điểm xuất
phát - dùng biện pháp hành chính ấn định tỷ giá - Hai là, thả nổi hoàn toàn tỷ giá
hối đoái.
2-/ Xử lý tốt mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá.
Giữa lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ khá chặt chẽ NHNN có thể can thiệp
điều hành tỷ giá thông qua chính sách lãi suất. Khi đồng tiền trong nớc bị mất
giá, NHNN có thể nâng lãi suất. Lãi suất tăng làm cho lợi tức dự tính về đồng

23



nội tệ cao hơn. Vốn, ngoại tệ nớc ngoài sẽ tràn vào nớc, giảm sự căng thẳng của
khan hiếm ngoại tệ, đồng nội tệ khó có khả năng giảm giá. Tuy nhiên không nên
cô lập chính sách tỷ giá và chính sách lãi suất mà chúng phải đợc kết hợp nhuần
nhuyễn với nhau. Để bảo vệ sự giảm giá của đồng nội tệ, NHNN tăng lãi suất lên
quá cao sẽ làm cho đầu t suy giảm, cái giá phải trả sẽ là tăng trởng chậm và thất
nghiệp cao. Thực tế đã chứng minh những nớc chủ trơng tăng quá cao lãi suất
trong lúc đồng tiền mất giá mạnh (nh Thái Lan, Hàn Quốc) đã gặp khó khăn
nhiều hơn so với những nớc chủ trơng phối hợp chính sách tỷ giá với chính sách
lãi suất (nh Trung Quốc, Malaysia). Việc Trung Quốc liên tục hạ lãi suất đã giúp
nớc này duy trì tốc độ tăng trởng cao trong điều kiện không phá giá đồng NDT.
3-/ Các cơ chế quản lý ngoại hối cần đợc hoàn chỉnh hơn.
Hiện nay chúng ta cha làm cho các đơn vị hoàn toàn yên tâm bán hết số
ngoại tệ thu về cho ngân hàng. Nên bên cạnh quy định tự do, cần có biện pháp
hành chính quy định số ngoại tệ mà các đơn vị phải bán cho ngân hàng. Chỉ nên
quy định một lợng nhỏ ngoại tệ đợc phép để lại trên tài khoản của các doanh
nghiệp để họ có thể chủ động chi tiêu những món nhỏ mà không phải trình báo,
mặt khác đó cũng là giải pháp tạo tâm lý yên tâm.
Cần quan tâm hơn nữa tới nguồn ngoại tệ đang trôi nổi ngoài thị trờng,
ngăn chặn hiện tợng chảy máu ngoại tệ, đô la hoá... Có biện pháp xử lý nghiêm
khắc những trờng hợp vi phạm chế độ quản lý ngoại hối, tạo tâm lý yên tâm cho
những đơn vị nghiêm túc thực hiện chế độ quản lý ngoại hối.
Tìm mọi biện pháp đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngoại tệ hợp lý, trong mọi trờng
hợp.
Chú ý tìm tòi các giải pháp tạo sự tiện ích để khuyến khích và khơi tăng
nguồn kiều hối.

24


Kết luận

Qua nghiên cứu và phân tích, bài viết đã nêu bật đợc những khái niệm cơ
bản về tỷ giá hối đoái và thị trờng ngoại hối. Từ cái nhìn tổng quan về tỷ giá dới
góc độ lý luận, bài viết đã liên hệ với thực tế lựa chọn và áp dụng chế độ tỷ giá ở
một số nớc trên thế giới và rút ra bài học đối với Việt Nam. Việc áp dụng chế độ
tỷ giá hối đoái thả nổi có sự điều tiết và quản lý của Nhà nớc trong giai đoạn
hiện nay ở nớc ta là hợp lý, nó phù hợp với tiến trình đổi mới mà Đảng và Nhà nớc đã lựa chọn. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, chế độ tỷ giá hiện nay
không phải không còn những bất cập. Việc thực hiện một số giải pháp kiến nghị
mà bài viết đề cập là cần thiết, góp phần hoàn thiện chính sách tỷ giá hiện nay,
giúp nó hoạt động một cách linh hoạt, nhịp nhàng và hiệu quả. Xung quanh tỷ
giá hối đoái còn nhiều vấn đề gợi mở nh: Chính sách tỷ giá với mục tiêu ổn
định kinh tế, kiềm chế lạm phát; Chính sách tỷ giá với mục tiêu hớng ngoại
hoặc Điều chỉnh chính sách tỷ giá cải thiện cán cân thơng mại... Hy vọng rằng
những vấn đề đó sẽ đợc đi sâu nghiên cứu ở những bài viết sau.

25


×