Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Phân tích kỹ thuật chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.83 KB, 34 trang )

Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan
Newton một nhà vật lý, toán học thiên tài cũng là một Nhà đầu tư Chứng khoán. Kết quả kinh doanh
của ông: phá sản với câu nói nổi tiếng của mình “Tôi có thể cân được khối lượng của linh hồn nhưng
không thể đo được sự điên rồ của con người”. Câu chuyện trên là một ví dụ về phân tích kỹ thuật
bằng phép cân linh hồn của Newton. Vậy bản chất phân tích kỹ thuật là gì và tại sao một thiên tài về
cân đo đong đếm như Newton vẫn có thể thất bại trên thị trường? Bài viết này sẽ giới thiệu tổng quan
về phân tích kỹ thuật: khái niệm, các yếu tố liên quan và cách thức sử dụng chung.
1. Phân tích kỹ thuật là gì
Phân tích kỹ thuật sử dụng các mô hình toán học (đồ thị, biến đổi miền, xác suất thống kê,…) dựa
trên dữ liệu thu thập về thị trường trong quá khứ và hiện tại để chỉ ra trạng thái của thị trường tại thời
điểm xác định, thông thường là nhận định xu hướng thị trường đang lên, xuống hay “dập dềnh” hoặc
nhận định tương quan lực lượng giữa sự tăng và sự giảm giá. Phân tích kỹ thuật không để ý đến các
chỉ số tài chính, tình hình phát triển hay các thông tin về thị trường về doanh nghiệp mà chỉ chú trọng
vào tập các dữ liệu về giá cả, khối lượng, … của cổ phiếu thu thập được tại các phiên giao dịch trong
quá khứ.
Chính vì chỉ dựa vào tập dữ liệu đã tồn tại trên thị trường – tức là các thông tin trong quá khứ - phân
tích kỹ thuật không phải là công cụ để dự đoán tương lai giá cả của cổ phiếu. Những kết luận thu
được từ các biện pháp phân tích kỹ thuật chỉ thị trạng thái của thị trường đã xảy ra trong quá khứ; thời
điểm rút ra kết luận về trạng thái của thị trường luôn luôn đi sau so với sự kiện đã xảy ra. Khoảng
thời gian chênh lệch đó gọi là độ trễ. Xét ví dụ về một phương pháp phân tích kỹ thuật sử dụng trung
bình động.
Giá Chứng khoán trong 5 phiên đến ngày 18/05/2007 của Công ty cổ phần nhựa Đồng Nai – Mã
Chứng khoán Doanh nghiệp
Ngày
Giá
Thay đổi
%thay đổi
Khối lượng
18/05

76.000



2.000

2,70%

56.350

17/05

74.000

2.000

2,78%

36.190

16/05

72.000

-3.500

-4,64%

43.350

15/05

75.500


3.500

4,86%

30.550

14/05

72.000

3.000

4,35%

52.750

(Nguồn SSI)
Vậy giá trị trung bình động trong 5 phiên của Doanh nghiệp vào ngày 18/05/2007 là (76.000 + 74.000
+ 72.000 + 75.500 + 72.000) / 5 = 73.900 đ Tập hợp các giá trung bình động của Doanh nghiệp trong
các ngày khác nhau sẽ được đường trung bình động giá trong 5 phiên của Doanh nghiệp
Bằng mắt thường quan sát đường trung bình động có thể nhận định rằng xu thế của Doanh nghiệp đến
thời điểm ngày 18/05/2007 là tăng giá, liệu sau ngày 18/05/2007 giá Cổ phiếu của Doanh nghiệp có
tiếp tục tăng không? Trở lại với câu chuyện về Newton, với khả năng toán học của mình, việc am
hiểu và áp dụng các biện pháp toán học trong phân tích kỹ thuật đối với ông không phải là điều khó
khăn. Nhưng phân tích thị trường không phải là khoa học chính xác, không thể dùng toán học để dự
đoán một mong đợi 100%; do đó sự thất bại của Newton là một điều hợp lý bởi ông không thể dự
đoán được tương lai chỉ bằng phép cân khối lượng của linh hồn.
2. Các thuộc tính và tính chất
Một phép phân tích kỹ thuật thông thường có các thuộc tính và tính chất sau.



- Số phiên tính toán: số phiên lấy dữ liệu tính toán cho một giá trị của phân tích. Trong ví dụ về trung
bình động của Doanh nghiệp ở phần đầu, số phiên lấy dữ liệu là 5 phiên. Nhà đầu tư càng ngắn hạn
bao nhiêu thì càng chọn số phiên tính toán càng nhỏ bấy nhiêu.
- Độ trễ: Khoảng thời gian từ lúc trạng thái thị trường đã xảy ra cho đến khi phép phân tích chỉ ra
được trạng thái đó. Trong cùng 1 phương pháp phân tích, số phiên tính toán càng lớn thì độ trễ càng
lớn. Nhà đầu tư càng ngắn hạn bao nhiêu thì càng mong muốn độ trễ nhỏ bấy nhiêu.
- Độ nhạy: Sự kịp thời trong phản ánh các biến động của thị trường của thị trường.. Tính chất này
ngược lại với độ trễ.
- Độ chính xác: Tính ít sai xót trong phản ánh các biến động của thị trường. Tuy nhiên độ chính xác
và độ nhạy lại đối nghịch với nhau.
3. Vai trò của phân tích kỹ thuật
Phân tích kỹ thuật đóng vai trò là công cụ trợ giúp Nhà đầu tư với ba chức năng chính: báo động, xác
thực và dự đoán.
Với vai trò là công cụ báo động, phân tích kỹ thuật cảnh báo sự xuyên phá các ngưỡng an toàn
(resistance và support: chúng ta sẽ tìm hiểu về hai khái niệm này trong các bài viết khác) và thiết lập
nên các ngưỡng an toàn mới hay nói cách khác là thiết lập mức giá mới thực sự thay vì dao động
quanh một mức giá cũ. Đối với Nhà đầu tư việc nhận biết các dấu hiệu về sự thay đổi mức giá càng
sớm càng tốt giúp cho họ sớm có hành động mua vào hoặc bán ra kịp thời.
Với vai trò là công cụ xác nhận, mỗi phương pháp phân tích kỹ thuật được sử dụng kết hợp với các
phương pháp kỹ thuật khác hoặc các phương pháp phi kỹ thuật để xác nhận về xu thế của giá. Việc
kết hợp và bổ trợ lẫn nhau giữa các phương pháp kỹ thuật khác nhau giúp Nhà đầu tư có được kết
luận chính xác và tối ưu hơn.
Với vai trò là công cụ dự đoán, Nhà đầu tư sử dụng các kết luận của phân tích kỹ thuật để dự đoán giá
cả của tương lai với kỳ vọng về khả năng đoán tốt hơn. Tuy nhiên như trên đã nói, bản chất của phân
tích kỹ thuật không phải là dự báo tương lai mà là chỉ thị trạng thái thị trường trong quá khứ với một
độ trễ; do đó nếu sử dụng như một công cụ dự đoán Nhà đầu tư cần phải tính đến một xác suất an
toàn và chấp nhận rủi ro khi dự đoán là không phù hợp. Không ai có thể nói trước tương lai chỉ bằng
thông tin trong quá khứ. Tuy nhiên nhờ có phân tích kỹ thuật, khả năng đoán sai do đoán mò hoặc a

dua đám đông được hạn chế rất nhiều.
Mỗi phương pháp kỹ thuật được áp dụng sẽ thể hiện các vai trò trên với các ưu nhược điểm khác
nhau. Chi tiết về các vai trò sẽ được nêu trong các bài viết trình bày cụ thể về từng phương pháp.
4. Biến động giá, Resistance và Support
Giá một Cổ phiếu biến động liên tục trên thị trường theo thời gian trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Trên quan điểm phân tích kỹ thuật, sự biến động giá trong một giai đoạn nhất định được chia làm 2
loại: “dập dềnh” (trading market) và có xu thế (trending market). Biến động có xu thế được chia ra
làm hai loại là biến động tăng và biến động giảm (trending up và trending down). Các loại biến động
này đều có thể nhận ra bằng mắt thường hoặc thực hiện thống kê.
Biến động “dập dềnh” là giai đoạn giá Cổ phiếu thực sự tăng và không thực sự giảm. Trong giai đoạn
này, giá của Cổ phiếu liên tục dao động lúc lên lúc xuống nhưng xoay quanh một mức giá cố định.
Trong một vài phiên ngắn hạn giá cả có thể đi lên hoặc đi xuống nhưng nhìn chung trong cả thời kỳ
giá không lên và cũng không xuống.
Biến động có xu thế là giai đoạn giá Cổ phiếu đi lên hoặc đi xuống rõ ràng. Mặc dù có sự tăng và
giảm giá xen kẽ trong ngắn hạn một vài phiên nhưng nhìn chung trong cả giai đoạn giá theo xu hướng
đi lên hoặc đi xuống. Nếu giá đi lên ta gọi là giai đoạn biến động tăng, nếu giá đi xuống ta gọi là biến
động giảm
Hình trên là ví dụ về các giai đoạn biến động giá các nhau. Các dải nằm giữa hai đường màu xanh và
màu đỏ là là các biến động dập dềnh không có xu hướng tăng hay giảm. Mỗi giai đoạn biến động dập
dềnh đều có hai giá trị ngưỡng là Resistance và Support (Tạm dịch là kháng cự và hỗ trợ). Hai giá trị
ngưỡng này là phạm vi dao động giá của biến động dập dềnh. Theo đó sự xuyên phá hai ngưỡng này


đồng nghĩa với việc thị trường không còn ở giai đoạn biến động dập dềnh nữa mà đã chuyển sang
biến động có xu thế. Nếu giá vượt lên trên ngưỡng Resistance thì thị trường đã chuyển sang xu thế
biến động tăng, phe bò tót thắng thế. Nếu giá trị vượt xuống dưới ngưỡng Support thì thị trường đã
chuyển sang xu thế biến động giảm, phe gấu đã thắng.
5. Biến động giá và nhiệm vụ của phân tích
Trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, giá của Cổ phiếu trải qua nhiều loại biến động. Đối với mỗi giai
đoạn biến động dập dềnh hoặc có xu thế, các câu sau hỏi được đặt ra đối với phân tích kỹ thuật:

- Nếu Cổ phiếu đang ở giai đoạn biến động dập dềnh thì giai đoạn tiếp theo là biến động tăng hay
biến động giảm?
- Nếu Cổ phiếu đang ở giai đoạn biến động có xu thế thì thời điểm hiện tại đã là lúc kết thúc chưa hay
biến động có xu thế này vẫn còn tiếp tục và kéo dài trong bao lâu?
- Nếu Cổ phiếu đang ở giai đoạn biến động có xu thế thì sau khi kết thúc biến động này thì giai đoạn
tiếp theo liệu có phải là giai đoạn biến động theo xu thế ngược lại không hay sẽ biến động dập dềnh?
Nếu giải đáp được các câu hỏi trên Nhà đầu tư sẽ nhanh chóng có được quyết định mua vào hoặc bán
ra đúng đắn, đặc biệt đối với các chuyên gia lướt sóng kiếm lợi nhuận bằng giá chênh lệch khi bán và
khi mua:
Nếu Cổ phiếu đang ở giai đoạn biến động dập dềnh mà giai đoạn tiếp theo là biến động tăng thì nên
mua vào. Khi giá đã lên cao hơn có thể bán ra để kiếm lời. Ngược lại nếu giai đoạn tiếp theo là biến
động giảm thì nên bán ra để tránh lỗ.
Nếu xu thế hiện tại là xu thế tăng và đang ở giai đoạn đầu của xu thế này thì nên mua vào thuận theo
xu thế để bán ra khi giá đã lên cao hơn.
Ngược lại nếu xu thế hiện tại là xu thế giảm và đang ở giai đoạn đầu của xu thế này thì nên bán ra
thuận theo xu thế để giảm lỗ. Khi giá đã xuống thấp hơn có thể mua vào lại để bán ra khi thị trường
phục hồi.
Việc áp dụng một phép phân tích kỹ thuật cần phải giải đáp được một vài trong số các câu hỏi trên,
cũng có khi phải phối hợp các phép phân tích kỹ thuật và phi kỹ thuật khác để trả lời được nhiều hơn
một câu hỏi và tăng độ chính xác cho mỗi câu trả lời.
6. Phân loại các biện pháp phân tích kỹ thuật
a. Phân tích tương quan (Leading Indicators)
Các phương pháp phân tích tương quan chỉ ra tương quan lực lượng giữa sự tăng giá và sự giảm giá,
tương quan lực lượng giữa phe mua và phe bán trong một thời kỳ xác định. Sự tương quan đó ánh xạ
thành một giá trị đại diện xác định. Nếu sự tăng giá là lớn hơn sự giảm giá thì giá trị này lớn, nếu sự
tăng giá là nhỏ hơn sự giảm giá thì giá trị này nhỏ. Sự tăng giá càng áp đảo bao nhiêu thì giá trị này
càng lớn bấy nhiêu, sự giảm giá càng áp đảo bao nhiêu thì giá trị này càng nhỏ bao nhiêu. Tên tiếng
anh của nhóm phương pháp này là Leading Indicators – leading có nghĩa là dẫn dắt hàm ý chỉ ra sự
tăng giá hay sự giảm giá đang giữ thế chủ đạo trên thị trường, dẫn dắt diễn biến của thị trường.
Ví dụ điển hình của nhóm phương pháp này là phương pháp RSI. Để tính RSI trên dữ liệu giá cổ

phiếu Doanh nghiệp trong 5 phiên như ví dụ ở phần đầu:
Trung bình sự thay đổi giá các phiên tăng trong 5 phiên
AG = (2.000 + 2.000 + 3.500 + 3.000) / 5 = 2.100
Trung bình sự thay đổi giá các phiên giảm trong 5 phiên
AL = (3.500) / 5 = 700
Hệ số tương quan phản ánh giữa sức tăng và sức giảm giá là tỷ số AG/AL, quy chuẩn về thang 100 sẽ
tính được RSI là:
RSI = 100 – 100/ (1 + AG/AL) = 75
Căn cứ vào tiêu chuẩn của RSI khi giá trị lớn hơn 70, có thể kết luận sự tăng giá đang dẫn dắt thị
trường với sức mạnh nghiêng về sự tăng giá. Xét ví dụ về một phương pháp phân tích tương quan là
đồ thị RSI của Công ty Cổ phần Nhựa Đồng Nai - Doanh nghiệp


(1) Sớm phản ánh sức tăng giá mạnh của thị trường, tại nơi mà RSI vượt qua 70 sức mua vào rất lớn,
giá cả tăng vọt. Trạng thái này gọi là oversold.
(2) RSI vượt qua giá trị 50 phản ánh sức mua đang thắng thế trên thị trường, giá cả đang tăng lên
nhưng chưa mạnh.Phân tích tương quan là căn cứ để Nhà đầu tư nhận biết các tín hiệu mua và bán.
Sử dụng phân tích tương quan khi thị trường đang ở trạng thái biến động dập dềnh là một ý kiến tốt.
Đối với thị trường biến động có xu thế, các tín hiệu mua và bán của phân tích tương quan sẽ chính
xác hơn nếu tuân theo xu thế chung của thị trường: mua khi giá đang lên và bán khi giá đang xuống.
Chi tiến hơn về sử dụng phân tích tương quan sẽ được nêu trong các phần sau.
b. Phân tích xu thế (Lagging Indicators)
Các phương pháp thuộc nhóm này chỉ ra xu thế chung của thị trường trong một thời kỳ xác định. Xu
thế đó có thể là tăng giá, có thể là giảm giá hoặc trạng thái “dập dềnh”. Theo cách đó nếu chỉ dựa vào
1 giá trị tính toán được của phương pháp này thì không đủ để nhận định xu thế của thị trường mà phải
dựa vào một dãy các giá trị của các thời kỳ khác nhau để vẽ nên đường xu thế của thị trường (Xem lại
ví dụ ở phần đầu về công ty cổ phần nhựa Đồng Nai).
Các phương pháp phân tích xu thế có tính chất trễ nghĩa là khi phát hiện ra dấu hiệu thị trường đang
theo xu thế tăng hay giảm giá thì thực chất xu thế này đã xảy ra – vì vậy tên tiếng Anh của phương
pháp này là Lagging Indicators với lagging có nghĩa là trễ.

Phân tích xu thế không trực tiếp phát sinh các tín hiệu mua và bán cho các Nhà đầu tư nhưng phân
tích xu thế xác nhận và bổ sung tính chất đúng đắn trong các quyết định mua và bán của Nhà đầu tư.
Tuy nhiên Khi sử dụng phân tích xu thế cần chú ý khi thị trường biến động dập dềnh sẽ làm mất tác
dụng của phân tích xu thế. Chi tiết hơn về sử dụng phân tích xu thế sẽ được nên trong các phần sau.
c. Phối hợp sử dụng phân tích tương quan và phân tích xu thế
Phân tích tương quan cung cấp những tín hiệu cảnh báo sớm về tiềm năng của thị trường. Những
cảnh báo sớm này tỏ giúp cho các Nhà đầu tư nhanh chóng đưa ra quyết định mua và bán phù hợp.
Phân tích xu thế tuy không đưa ra được các tín hiệu nhanh chóng như phân tích tương quan nhưng
phân tích xu thế là một công cụ xác thực tính đúng đắn của phân tích tương quan. Phân tích tương
quan chỉ có thể cảnh báo chính xác nhất nếu được kết hợp với phân tích xu thế, giảm thiểu các tín
hiệu không chính xác, giảm rủi ro cho Nhà đầu tư. Chi tiết hơn về việc sử dụng phối hợp phân tích
tương quan và phân tích xu thế sẽ được nêu trong các phần sau.
7. Nghịch lý
Mong đợi của Nhà đầu tư là có một phân tích nhạy cảm ánh xạ kịp thời các biến động của thị trường,
đồng thời phải mô tả chính xác ý nghĩa của các biến động đó. Tuy nhiên hai yếu tố nhạy cảm và chính
xác không bao giờ song hành. Nếu một phương pháp càng nhạy bén với các biến động của thị trường
thì nó càng phản ánh thiếu chính xác trạng thái của thị trường. Sử dụng phân tích kỹ thuật quá nhạy
và thiếu chính xác, nhà đầu tư sẽ nhận được các kết luận sai lầm dẫn đến các quyết định sai lầm.
Ngược lại một phương pháp nếu muốn mô tả thị trường càng ít sai sót bao nhiêu thì nó càng phải ít
nhạy với các biến động thị trường nghĩa là luôn đi sau sự biến động của thị trường. Nếu sử dụng phân
tích quá chính xác lại không nhạy cảm, Nhà đầu tư sẽ chậm chân để mất cơ hội làm ăn vì kết luận
chính xác được rút ra là quá muộn.
Xét ví dụ về đường trung bình động Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre


Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn
Hình trên mô tả hai phân tích sử dụng trung bình động:
đường màu tím (SMA – 5) là trung bình động trong 5 kỳ nhạy cảm với thị trường,
đường màu đỏ (SMA – 20) là trung bình động trong 20 kỳ ít nhạy cảm hơn với thị trường.
(1) Cho thấy SMA – 5 quá nhạy với xu thế của thị trường khi mô tả xu thế tăng của thị trường trong

ngắn hạn, tuy nhiên xu thế đúng của thị trường lúc này là “dập dềnh” tăng nhẹ và SMA – 20 đã phản
ánh chính xác.
(2) Cho thấy SMA – 20 tuy đúng nhưng không kịp phản ánh xu thế tăng của thị trưởng: phải sau 12
phiên tăng giá liên tiếp SMA – 20 mới cho thấy xu thế tăng, trong khi SMA – 5 đã chỉ ra điều này từ
phiên thứ tăng thứ 3. Lúc này Nhà đầu tư đã để vượt mất quá nhiều cơ hội.
8. Máy hiển thị giao động và phân tích tương quan
Do phân tích tương quan đóng vai trò phát sinh các tín hiệu mua và bán chủ đạo, vì vậy cần nghiên
cứu chi tiết hơn về phân tích tương quan với công cụ phổ biến của nó là máy hiển thị dao động. Máy
hiển thị dao động là đồ thị các giá trị của một phân tích tương quan theo thời gian. Mục này sẽ nêu
các yếu tố phân tích sử dụng trong máy hiển thị dao động để phát hiện và củng cố các quyết định mua
và bán của Nhà đầu tư. Các yếu tố phân tích sử dụng trong máy dao động
Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn
a. Phân kỳ
Phân kỳ đóng vai trò phát sinh các tín hiệu mua và bán hoặc giữ vai trò là một cảnh báo về sự thay
đổi xu thế. Có 2 loại phân kỳ là phân kỳ dương và phân kỳ âm. Phân kỳ dương là phân kỳ mà giá trị
của phân tích tăng nhưng giá của Chứng khoán đang có xu hướng giảm; phân kỳ dương báo hiệu về
sự thay đổi xu hướng sắp tới của giá là tăng giá.
Phân kỳ âm là phân kỳ mà giá trị của phân tích giảm nhưng giá của Chứng khoán tăng; phân kỳ âm
báo hiệu về sự thay đổi xu thế sắp tới sẽ là giảm giá. Điều này không có nghĩa là tại thời điểm mà
Nhà đầu tư nhìn thấy chu kỳ dương hoặc chu kỳ âm thì xu thế giá sẽ thay đổi trong tương lai gần, rất
khó xác định khi nào sự thay đổi xu thế sẽ xảy ra.
Vì vậy không thể ra quyết định mua hoặc bán chỉ dựa vào phân kỳ mà phải sử dụng với vai trò củng
cố bổ trợ với các tín hiệu khác.


b. Siêu mua /Siêu bán
Siêu mua và siêu bán là hai ngưỡng giá trị của phân tích. Mọi giá trị nằm trên ngưỡng siêu mua thì tại
đó nó thể hiện phe bò tót đang thắng thế áp đảo trên thị trường, giá Cổ phiếu tăng. Mọi giá trị nằm
dưới ngưỡng siêu bán là giá trị mà tại đó nó thể hiện phe gấu đang thắng thế áp đảo khiến giá Cổ
phiếu giảm. Phân tích việc xuyên phá các ngưỡng giá trị này nhằm chỉ ra khi giá Cổ phiếu đang biến

động dập dềnh nhằm chỉ ra xu thế sắp tới của giá Cổ phiếu sẽ là tăng giá hay giảm giá.
Trong trường hợp giá Cổ phiếu biến động có xu thế, sử dụng các ngưỡng siêu mua hoặc siêu bán
thường hay cho tín hiệu không phù hợp nếu việc mua và bán đi ngược lại xu thế của thị trường.
Tuy nhiên vẫn có thể sử dụng các tín hiệu mua hoặc bán khi giá trị siêu mua hoặc siêu bán bị xuyên
phá nhưng phải thuận theo xu thế chung thị trường mà không được đi ngược lại. Cụ thể nếu có tín
hiệu mua và biến động là tăng thì có thể mua, nếu có tín hiệu bán và biến động là giảm thì có thể bán;
xu thế càng mạnh mẽ thì tín hiệu càng đáng tin cậy.
Nếu đi ngược lại xu thế: mua khi đang biến động giảm hoặc bán khi biến động tăng thì nhiều khả
năng các tín hiệu mua hoặc bán được sinh ra do sự xuyên phá các ngưỡng siêu mua hoặc siêu bán này
không đáng tin cậy.
c. Đường trung bình
Đường trung bình là ngưỡng trung bình giá trị của phân tích. Sự xuyên phá ngưỡng này báo hiệu sự
đổi chiều phần thắng thuộc về phe bò tót hay gấu. Nếu sự xuyên phá là vượt ngưỡng trung bình, thế
trận đổi chiều nghiêng phần thắng về phe bò tót. Ngược lại nếu sự xuyên phá là xuống dưới ngưỡng
trung bình điều đó có nghĩa thế trận đổi chiều nghiêng phần thắng về phe gấu.
9. Nhận biết các tín hiệu mua và bán
Để đưa ra các quyết định mua và bán hợp lý, cần có một số tín hiệu khác nhau bổ trợ lẫn nhau nhằm
tăng cường độ chính xác của các tín hiệu và giảm thiểu rủi ro đối mới mỗi quyết định. Các dấu hiệu
sau được sử dụng để báo hiện việc mua hoặc bán:
- Nếu giá trị của máy dao động từ dưới vượt qua ngưỡng siêu mua rồi quay trở lại xuống dưới
ngưỡng này, đồng thời xu thế giá là đi xuống hoặc biến động dập dềnh. Điều đó cảnh báo thị trường
sẽ chuyển sang xu thế giảm giá hoặc đang ở giai đoạn đầu của xu thế giảm giá. Đây là tín hiệu bán ra.
- Nếu giá trị của máy dao động từ dưới vượt qua ngưỡng siêu bán rồi quay trở lại lên trên ngưỡng
này, đồng thời xu thế giá là đi lên hoặc biến động dập dềnh. Điều đó cảnh báo thị trường sẽ chuyển
sang xu thế tăng giá hoặc đang ở giai đoạn đầu của xu thế tăng giá. Đây là tín hiệu mua vào.
- Nếu xu thế giá đang tăng mạnh, khi giá trị của máy dao động vượt qua ngưỡng siêu mua có nghĩa là
đang ở giai đoạn đầu của xu thế tăng giá và sẽ tiếp tục tăng. Đây là tín hiệu mua vào.
- Nếu xu thế giá đang giảm mạnh, khi giá trị của máy dao động vượt qua ngưỡng siêu bán có nghĩa là
đang ở giai đoạn đầu của xu thế giảm giá và sẽ tiếp tục giảm, Đây là tín hiệu bán ra.
- Nếu giá trị máy dao động đang ở dưới ngưỡng siêu bán nhưng có sự xuất hiện của phân kỳ dương

thì đó là tín hiệu mua vào.
Chú ý tính thuận theo xu thế: nếu thị trường ở trạng thái dập dềnh hoặc xu thế là tăng hoặc giảm nhẹ
thì có thể mua, nếu thị trường ở trạng thai giảm mạnh thì tín hiệu này không đáng tin.
- Nếu giá trị máy dao động đang ở trên ngưỡng siêu mua nhưng có sự xuất hiện của phân kỳ âm thì
đó là tín hiệu bán ra. Chú ý tính thuận theo xu thế: nếu thị trường ở trạng thái dập dềnh hoặc xu thế là
giảm hoặc tăng nhẹ thì có thể bán, nếu thị trường ở trạng thái tăng mạnh thì tín hiệu này không đáng
tin.
- Nếu giá trị máy dao động tăng vượt qua giá trị trung bình và có sự xuất hiện của phân kỳ dương và
xu thế giá đi lên thì đó là tín hiệu mua vào.
- Nếu giá trị máy dao động giảm xuống xuyên qua giá trị trung bình và có sự xuất hiện của phân kỳ
âm và xu thế giá đi xuống thì đó là tín hiệu bán ra. Xét ví dụ về sử dụng ngưỡng siêu mua và siêu bán
của phân tích RSI đối với cổ phiếu Công ty Cổ phần Hàng Hải Hà Nội - MHC
Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn


- Thời điểm số (1), (5) là thời điểm giai đoạn đầu của xu thế tăng giá mạnh, ngưỡng siêu mua bị
xuyên phá, thuận theo xu thế của thị trường, đây là lúc nên mua vào.
- Thời điểm số (2), (3), (4) là thời điểm mà giá Cổ phiếu đã vượt từ dưới ngưỡng siêu bán lên trên.
Tại các thời điểm này còn có sự xuất hiện của phân kỳ dương, đây là tín hiệu mua vào. Để tăng cường
chính xác cần theo dõi thêm xu thế lúc đó của thị trường. Tại thời điểm số (2), về dài hạn giá Cổ
phiếu đang theo xu thế giảm, nhưng trong ngắn hạn 5 ngày thì tại thời điểm đó giá đang tăng, nếu
tuân theo xu thế ngắn hạn thì có thể mua vào nhưng phải bán ngay ra khi có thể vì sự tăng giá chỉ là
ngắn hạn. Tại thời điểm số (3) và số (4) cho thấy những dấu hiệu chắc chắn hơn vì biến động lúc đó
là dập dềnh, các tín hiệu khẳng định nên mua vào vì tin tưởng ở sự lên giá trong tương lai.
- Thời điểm số (6) là thời điểm nên bán ra vì ngưỡng siêu bán đã bị xuyên phá trong xu thế biến động
giảm giá mạnh của thị trường. Việc bán ra ở thời điểm này nhằm mục đích giảm lỗ, chờ đợi sự hồi
phục lại của thị trường để tiếp tục mua vào.
Xét ví dụ về sử dụng ngưỡng trung bình của phân tích MACD đối với chứng chỉ quỹ VF1
Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn
- Tại thời điểm số (2) có sự xuyên phá vượt lên trên ngưỡng trung bình, đồng thời có sự xuất hiện của

phân kỳ dương, đây là tín hiệu mua vào.
- Tại thời điểm (1) và (3) có sự xuyên phá xuống dưới ngưỡng trung bình, đồng thời có sự xuất hiện
của phân kỳ âm, đây là các tín hiệu bán ra. Đặc biệt điểm số (4) có xu thế biến động giá đi xuống,
việc bán ra là cần thiết để giảm lỗ.
10. Kết luận
Phân tích Chứng khoán là một nghệ thuật hơn là một ngành khoa học chính xác. Vì vậy cần phải sử
dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để đạt đến kết quả tốt nhất. Thậm chí ngay trong cùng
một phương pháp cũng có nhiều cách sử dụng khác nhau tùy thuộc vào ngữ cảnh cụ thể. Vì vậy cần
phải trải qua rèn luyện kiến thức và thực hành để tự đào tạo bản thân đạt được sự nhạy bén và chính
xác mà không một phương pháp nào có thể đạt được

Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế
Trung bình động tại một thời điểm là giá trị trung bình của giá trong một giai đoạn tính đến thời điểm
đó. Trung bình động là kim chỉ nam xác định xu thế đi lên hay đi xuống của giá.
Trong phân tích khoa học kỹ thuật và quản lý, trung bình động đã được ứng dụng rất rộng rãi. Vì vậy
tất yếu trong phân tích thị trường Chứng khoán với tư cách là một khoa học, trung bình động đã được
ứng dụng phổ biến và rộng khắp.
Về phân loại các phương pháp phân tích kỹ thuật, trung bình động thuộc nhóm phương pháp phân
tích xu thế, vì vậy trung bình động có các thuộc tính và tính chất của các phuơng pháp phân tích xu
thế
1. Các phương pháp trung bình động
Trung bình bình động được tính bằng nhiều phương pháp khác nhau. Khuôn khổ bài viết này chỉ giới
thiệu hai phương pháp tính trung bình động được sử dụng phổ biến.
1.1. Trung bình đơn SMA
Trung bình đơn tại một phiên là lấy giá trị trung bình của phiên đó và các phiên trước. Gọi
• SMAt là giá trị trung bình động tại phiên t.
• Pt là giá của Cổ phiếu tại phiên t.
• n là số phiên tính trung bình động
Giá trị của trung bình đơn tại phiên t là SMAt = (Pt + Pt – 1 + Pt – 2 + … + Pt – n + 1) / n



1.2. Trung bình hàm mũ EMA
Gọi
• EMAt là giá trị trung bình động hàm mũ tại phiên t
• Gọi Pt là giá Cổ phiếu tại phiên t
• n là số phiên tính trung bình động
Giá trị của trung bình hàm mũ tại phiên t là EMAt = ((Pt – EMAt – 1) * M) + EMAt – 1
(Với hệ số M thường được lấy với giá trị = 2 / (1 + n))

Đường trung bình động giá Cổ phiếu của Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội - MHC
Nguồn ảnh đồ thị - www.vietstock.com.vn
2. Trung bình động và độ trễ
Cũng như phần lớn các mô hình kỹ thuật khác, trung bình động dựa vào thông tin trong quá khứ mà
không tính toán đến các giá trị tương lai, vì vậy trung bình động chỉ thị xu thế tăng hoặc giảm trễ hơn
sau khi sự kiện đã xảy ra. Như vậy trung bình động không dự đoán trước tương lai mà chỉ là công cụ
xác định xu thế hiện thời của thị trường. Để điều chỉnh độ trễ của trung bình động, cần phải điều
chỉnh số phiên tính trung bình độ hoặc lựa chọn phương pháp tính trung bình động có độ trễ ít hơn.
Nếu số phiên lấy trung bình động càng lớn thì độ trễ càng cao và ngược lại số phiên lấy trung bình
động càng nhỏ thì đỗ trễ càng thấp.
Trong hai loại trung bình động nêu ở trên thì với cùng số phiên lấy trung bình động thì EMA cho độ
trễ thấp hơn so với SMA. Việc điều chỉnh độ trễ sẽ ảnh hưởng đến tính chính xác và tính nhạy đối với
các biến động của thị trường. Nếu độ trễ nhỏ, trung bình động rất nhạy với các biến động thị trường,
phản ánh kịp thời các biến động này nhưng khả năng trung bình động phản ánh sai càng lớn.
Ngược lại đỗ trễ càng lớn, trung bình động càng ít nhạy và phản ánh muộn các biến động của thị
trường nhưng sự phản ánh của trung bình động chính xác hơn so với độ trễ nhỏ. Nếu sử dụng đỗ trễ
nhỏ, Nhà đầu tư có thể nhanh chóng nhận biết biến động của thị trường để kịp thời nắm bắt cơ hội
nhưng có thể phải trả giá cho các dấu hiện sai lầm do khả năng sai là rất lớn. Nếu sử dụng độ trễ lớn,
Nhà đầu tư có thể hạn chế khả năng sai xót nhưng lại chậm nắm bắt cơ hội đầu tư.
3. Chọn số các phiên tính trung bình động
Số phiên tính trung bình động càng lớn thì các phân tích rút ra từ trung bình động càng thể hiện trong

dài hạn, vì vậy lựa chọn số phiên tính trung bình động phụ thuộc vào chiến lược của các Nhà đầu tư.


Các chuyên gia khuyên rằng số phiên tính trung bình động nên bằng ½ số phiên trong một chu kỳ
“lướt sóng” mà Nhà đầu tư dự định:
Số phiên tính trung bình động = Số phiên trong 1 chu kỳ lướt sóng / 2 + 1
Bảng sau số phiên tính trung bình động tùy thuộc theo mục tiêu của Nhà đầu tư
Mục
tiêu
Rất
ngắn
hạn
5

10
ngày
Ngắn
hạn
11

25
ngày
Trung
bình
25

100
ngày
Dài
hạn

100

200
ngày
Thông thường Nhà đầu tư nên sử dụng cùng lúc 2 trung bình động trong phân tích, một trung bình
động với số phiên tính toán ngắn và một trung bình động có số phiên tính toán dài. Hai trung bình
động này sẽ bổ trợ lẫn nhau trong phân tích của Nhà đầu tư và làm giảm các yếu điểm về tính nhạy và
tính chính xác của cả hai do độ trễ của cả hai mang lại.
4. Sử dụng trung bình động để xác định và xác nhận xu thế
Mục này sẽ giới thiệu cụ thể về cách thức xác định và xác nhận biến động có xu thế của thị trường
bằng phương pháp phân tích trung bình động.
- Nếu đường trung bình động đi lên, xu thế hiện tại của thị trường là đi lên. Nếu đường trung bình
động đi xuống, xu thế hiện tại của thị trường là đi xuống. Chú ý đến tính ngắn hạn và dài hạn của
trung bình động do việc lựa chọn số phiên tính toán.
- Nếu giá ở trên đường trung bình động, xu thế hiện tại của thị trường là đi lên, nếu giá ở dưới đường
trung bình động, xu thế hiện tại là đi xuống. Hãy cảnh giác với thị trường khi đang ở trạng thái dập
dềnh. Khoảng cách giữa giá và trung bình động càng lớn thì biểu hiện của xu thế càng mạnh.
- Nếu trung bình động ngắn hạn vượt lên trên trung bình động dài hạn hơn, xu thế của thị trường là đi
lên. Nếu trung bình động ngắn hạn nằm dưới trung bình động dài hạn, xu thế của thị trường là đi
xuống. Nếu khoảng cách này càng lớn thì biểu hiện của xu thế càng mạnh.
- Nếu giá vượt qua ngưỡng Resistance trước báo hiện xu thế tăng giá, việc đường trung bình động
xuyên phá ngưỡng này khẳng định chắc chắn xu thế tăng của giá. Nếu giá vượt xuống dưới ngưỡng
Support trước báo hiệu xu thế giảm giá, việc đường trung bình động xuyên phá ngưỡng này khẳng
định chắc chắn xu thế giảm của giá.
Xét ví dụ về đường trung bình động của Công ty Cổ phần Đầu tư và phát triển công nghệ – FPT
Ví dụ này sử dụng 2 đường trung bình động tính toán trong 5 phiên SMA - 5 (màu tím) và trung bình
động tính toán trong 20 phiên SMA – 20 (màu đỏ), đường màu xanh nước biển thể hiện biểu đồ giá.
Ví dụ này minh hoạ về sử dụng trung bình động xác nhận xu thế biến động giá.



Nguồn ảnh đồ thị - www.vietstock.com.vn
- Giai đoạn từ giữa tháng 2 đến giữa tháng 3, thị trường ở trạng thái biến động dập dềnh với hai
ngưỡng resistance và support thể hiện bằng hai đường kẻ ngang xanh và đỏ.
- Tại các thời điểm số (1) và (2) giá Cổ phiếu xuyên phá các ngưỡng resistance và support, tuy nhiên
việc xuyên phá này chỉ là tạm thời và giá sớm trở lại dao động trong các ngưỡng resistance và
support. Việc khẳng định thị chuyển hướng sang biến động có xu thế chỉ dựa vào việc giá xuyên phá
các ngưỡng resistance và support không đủ chắc chắn với xác suất sai xót lớn.
- Đến thời điểm số (3), giá Cổ phiếu xuyên phá ngưỡng support, đến thời điểm số (4) sau đó đến lượt
trung bình động SMA – 5 xuyên phá ngưỡng này, lúc này có thể khẳng định giá Cổ phiếu đã chuyển
hướng sang biến động có xu thế với một xác suất chắc chắn hơn.
Xét ví dụ về đường trung bình động của Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh – REE
Ví dụ này sử dụng 2 đường trung bình động tính toán trong 5 phiên SMA - 5 (màu tím) và trung bình
động tính toán trong 20 phiên SMA – 20 (màu đỏ), đường màu xanh nước biển thể hiện biểu đồ giá.


Nguồn ảnh đồ thị - www.vietstock.com.vn
- Trong giai đoạn trước tháng 11 năm 2006, biến động thị trường luôn ở trạng thái dập dềnh, việc sử
dụng phân tích xu thế trong giai đoạn này tiềm ẩn nhiều khả năng sai xót. Xét về tính chính xác trong
giai đoạn này SMA – 20 tỏ ra chính xác hơn, đường trung bình động không đi lên không đi xuống,
SMA – 5 trong ngắn hạn vẫn có lúc lên hoặc xuống nhưng chỉ thể hiện xu thế trong giai đoạn rất
ngắn.
- Tại thời điểm số (1) các dấu hiện sau thể hiện xu thế tăng của giá:

Các đường trung bình động của SMA – 5 và SMA – 20 đi lên.

Ngưỡng Resistance bị xuyên phá bởi giá, tiếp đó các đường trung bình động SMA – 5 và SMA
– 20 lần lượt xuyên phá ngưỡng này khẳng định xu thế tăng của giá.

Giá cao hơn giá trị trung bình động.


Giá trị trung bình động SMA – 5 vượt giá trị trung bình động SMA – 20
- Tại thời điểm số (2) các dấu hiện sau thể hiện xu thế giảm của giá:

Các đường trung bình động SMA – 5 và SMA – 20 đi lên.

Ngưỡng Support bị xuyên phá bởi giá, tiếp đó các đường trung bình động SMA – 5 và SMA –
20 lần lượt xuyên phá ngưỡng này khẳng định chắc chắn xu thế giảm của giá.

Giá đã xuống thấp hơn giá trị trung bình động.

Giá trị trung bình động SMA – 5 đã xuống thấp hơn giá trị trung bình động SMA – 20.
- Tại cả 2 thời điểm số (1) và số (2): SMA – 5 thể hiện tính nhạy bén, nhanh chóng thể hiện và xác
nhận xu thế tăng hoặc giảm của giá trước SMA – 20

Phân tích kỹ thuật (3): Chỉ số sức mua/bán tương đối RSI
Năm 1978 J. Welles Wilder giới thiệu chỉ số RSI, từ đó đến nay RSI và trở thành một trong các chỉ số


phổ biến và hiệu quả được sử dụng trong phân tích kỹ thuật. Đây là một chỉ số thuộc nhóm các
phương pháp tương quan phản ánh tương quan sức mạnh sự tăng giá và giảm giá trong một thời kỳ.
1. Tính toán RSI
RSI phản ánh mối quan hệ giữa sức tăng giá và sức giảm giá của một Cổ phiếu trong một thời kỳ xác
định bằng cách lấy tỷ số giá trung bình của các phiên tăng và giá trung bình các phiên giảm trong thời
kỳ đó. Gọi n là số các phiên trong thời kỳ xác định cần tính RSI.
Gọi giá trung bình các phiên tăng trong n phiên là AIn = Tổng giá các phiên tăng / n
Gọi giá trung bình các phiên giảm trong n phiên là ADoanh nghiệp = Tổng giá các phiên giảm / n
Chỉ số sức bền tương đối được tính bằng công thức
RSI = 100 – 100 / (1 + RS) (1)
Trong đó RS = AIn / A Doanh nghiệp là tỷ số giá trung bình các phiên tăng và giá trung bình các
phiên giảm

Xét ví dụ về một phương pháp phân tích kỹ thuật sử dụng trung bình động.
Giá Chứng khoán trong 5 phiên đến ngày 18/05/2007 của Công ty cổ phần nhựa Đồng Nai – Mã
Chứng khoán Doanh nghiệp
Ngày Giá
Thay đổi %thay đổi Khối lượng
18/05 76.000 2.000
2,70%
56.350
17/05 74.000 2.000
2,78%
36.190
16/05 72.000 -3.500 -4,64%
43.350
15/05 75.500 3.500
4,86%
30.550
14/05 72.000 3.000
4,35%
52.750
(Nguồn SSI)
Trung bình sự thay đổi giá các phiên tăng trong 5 phiên
AG = (2.000 + 2.000 + 3.500 + 3.000) / 5 = 2.100
Trung bình sự thay đổi giá các phiên giảm trong 5 phiên
AL = (3.500) / 5 = 700
Hệ số tương quan phản ánh giữa sức tăng và sức giảm giá là tỷ số AG/AL, quy chuẩn về thang 100 sẽ
tính được RSI là:
RSI = 100 – 100/ (1 + AG/AL) = 75
2. Ý nghĩa
RSI xác định tương quan sức mạnh giữa phe mua và phe bán bằng cách phản ánh tỷ số tăng giá và tỷ
số tăng giá vào giá trị của RSI. Giá trị này nằm trong khoảng 0 đến 100. Giá trị 50 của RSI gọi là giá

tị trung bình tại đây sức mua và bán có tương quan ngang bằng nhau. RSI lớn hơn 50 và càng lớn thì
phản ánh sức mua càng lớn hơn sức bán, giá cả đang tăng. RSI nhỏ hơn 50 và càng nhỏ thì phản hánh
sức bán càng lớn hơn sức mua, giá cả đang xuống.
RSI có hai ngưỡng siêu mua và siêu bán là 70 và 30, nếu giá trị của RSI lớn hơn 70 thị trường đang ở
trạng thái siêu mua với sự áp đảo của phe mua, nếu RSI nhỏ hơn 30 thị trường đang ở ngưỡng siêu
bán và phe bán đang áp đảo Số phiên (giá trị của n) sử dụng để tính trung bình giá các phiên tăng và
giá các phiên giảm càng lớn thì RSI càng chính xác theo ý nghĩa của công thức là phản ánh tương
quan sức tăng và sức giảm của giá. Tác giả J. Welles Wilder cho rằng nên lấy 14 phiên để tính RSI.


(nguồn ảnh đồ thị: )
3. Sử dụng RSI
Đồ thị của RSI là một máy dao động, chi tiết về sử dụng máy dao động trong phân tích Chứng khoán
đã được nên trong bài Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan Như mọi loại máy hiển thị dao động kác,
phân tích RSI dựa vào 3 ngưỡng:
- Siêu mua: mọi giá trị RSI ≥ 70 được gọi là siêu mua.
- Siêu bán: mọi giá trị RSI ≤ 30 được gọi là siêu bán.
- Trung bình: Ngưỡng 50 được gọi là trung bình, RSI > 50 báo hiệu về sự thắng thế của phe mua, RSI
< 50 báo hiệu sự thắng thế của phe bán
Chi tiết về các thông số của RSI và cách thức sử dụng RSI giống như mọi máy hiển thị dao động khác
đã được nêu trong Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan

Phân tích kỹ thuật (4): Aroon thể hiện xu thế
Năm 1995, Tushar Chande giới thiệu Aroon với tư cách là phương pháp phân tích kỹ thuật xác định
xu thế giá cả của thị trường và cho biết xu thế đó mạnh đến đâu? Ý tưởng tính toán Aroon dựa trên
việc xác định phiên có giá cao nhất (hoặc nhỏ nhất) cách phiên hiện tại bao xa trong số các phiên lấy
dữ liệu tính. Nếu phiên có giá cao nhất nằm cách xa phiên hiện tại thì xu thế thị trường có sự chuyển
mình sang giảm giá, nếu phiên có giá thấp nhất nằm cách xa phiên hiện tại thì xu thế thị trường có sự
chuyển mình sang xu thế tăng giá.



Với vai trò nhận định xu thế giả trên thị trường, đồ thị giá trị của Aroon có hai loại: Loại thứ nhất bao
gồm 2 đồ thị biểu thị hai giá trị là Aroon up và Aroon down thể hiện sức mạnh tăng và giảm giá trên
thị trường. Loại thứ 2 biểu thị sự tương quan giữa sức tăng và sức giảm giá trên thị trường bằng cách
lấy hiệu của Aroon up và Aroon down, đồ thị loại này có dạng một máy dao động.
1.

Cách tính Aroon

Giả sử cần tính giá trị Aroon up và Aroon down cho phiên hiện tại:
gọi n là số phiên lấy dữ liệu để tính Aroon,
tup là số phiên trước phiên hiện tại có giá cao nhất trong n phiên,
tdown là số phiên trước phiên hiện tại có giá thấp nhất trong n phiên.
Aroon up = 100 (n – t up) / nAroon down = 100 (n – t down) / nAroon tương quan = Aroon up – Aroon
down
Ví dụ tính Aroon cho phiên hiện tại với dữ liệu lấy trong 14 phiên trước đó. Trong 14 phiên này,
phiên có giá cao nhất xảy ra cách hiện tại 5 phiên, phiên có giá thấp nhất xảy ra cách phiên hiện tại 8
phiên.
Aroon
up
=
100
(14
Aroon
down
=
100
(14
Aroon tương quan = Aroon up – Aroon down
2.





5)
8)

/
/

14
14

=
=

64,29
42,86

Sử dụng Aroon

Bằng cách dựa vào khoảng cách từ phiên hiện đến phiên có giá cao nhất hoặc thấp nhất.
Nếu giá cao nhất vừa được thiết lập trong các phiên gần phiên hiện tại, Aroon up có giá trị lớn hơn
50, theo thời gian nếu giá cao nhất này không được phá bỏ thì giá trị Aroon up sẽ giảm dần.
Nếu giá thấp nhất vừa được thiết lập trong các phiên gần phiên hiện tại thì Aroon down có giá trị lớn
hơn 50, theo thời gian nếu giá thấp nhất này không được phá bỏ thì giá trị Aroon down sẽ giảm dần
Nếu Aroon up có giá trị nhỏ hơn 50 nghĩa là phiên có giá cao nhất nằm cách xa phiên hiện tại, xu thế
tăng giá đã mất nếu đang là xu thế tăng giá.
Nếu Aroon down có giá trị nhỏ hơn 50 nghĩa là phiên có giá thấp nhất nằm cách xa phiên hiện tại, xu
thế giảm giá đã không còn nếu đang là xu thế giảm giá.

Nếu Aroon up và Aroon down xấp xỉ nhau, tức là phiên có giá thấp nhất và phiên có giá cao nhất ở
gần nhau, thị trường không đi theo xu hướng rõ rệt, xu thế nếu có cũng rất yếu.
Để rõ ràng hơn, Aroon tương quan được sử dụng để xác định tương quan giữa Aroon up và Aroon
down đại diện cho tương quan giữa xu thế tăng và xu thế giảm. Aroon tương quan càng gần 0 thì biến
động càng không có xu thế tăng hoặc giảm rõ ràng mà có dạng dập dềnh, Aroon tương quan lớn hơn
0 và càng lớn hơn bao hiêu thì xu thế tăng giá của thị trường càng lớn bấy nhiêu, Aroon tương quan
nhỏ hơn 0 và càng nhỏ hơn bao nhiêu thì xu thế giảm giá của thị trường càng lớn bấy nhiêu. Xét ví dụ
về Công ty Cổ phần Lương thực Thực phẩm Safoco (SAF)


Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn
- Tại vòng tròn số (1): Aroon tương quan rât lớn, xu thế giá là tăng và xu thế này rất mạnh.
- Tại vòng tròn số (2): Aroon tương quan rât nhỏ, xu thế giá là giảm và xu thế này rất mạnh.
- Tại vòng tròn số (3): Xu thế giá xấp xỉ 0, xu thế tăng và giảm không rõ ràng

Phân tích kỹ thuật (5): MACD -Trung bình động hội tụ/ phân kỳ
Kể từ khi được Gerald Appel giới thiệu, MACD đã trở thành một trong những công cụ phân tích kỹ
thuật đơn giản và tin cậy nhất. MACD được tính toán dựa trên hiệu số của hai đường trung bình động
dài hạn và ngắn hạn, giá trị trả về thuộc nhóm phân tích tương quan: tương quan giữa trung bình động
dài hạn và trung bình động ngắn hạn.
1. Tính toán
Về mặt tính toán MACD lấy một giá trị trung bình động của giá trong ngắn hạn trừ cho giá trị trung
bình động trong dài hạn.
Thông thường MACD sử dụng EMA – 12 làm trung bình động ngắn hạn và EMA – 26 làm trung bình
động dài hạn và cho hiệu số trên.
Như vậy nếu MACD > 0 thì trung bình động ngắn hạn lớn hơn trung bình động dài hạn.
Nếu MACD < 0 thì trung bình động ngăn hạn nhỏ hơn trung bình động dài hạn.
Đồ thị các giá trị của MACD là một máy hiển thị dao động phản ánh tương quan giữa trung bình
động ngắn hạn và trung bình động dài hạn.
Thông thường đồ thị này được vẽ kèm với đồ thị trung bình động EMA – 9 của chính MACD và đồ

thị MACD – Histogram là hiệu số của MACD và trung bình động EMA – 9 của chính MACD.


Về MACD - Histogram sẽ được nêu trong một bài khác.
2. Ý nghĩa
So với các phương pháp phân tích khác, MACD thuộc về cả hai nhóm phân tích xu thế và phân tích
tương quan, MACD vừa chỉ ra xu thế của thị trường vừa xác định các tín hiệu mua và bán trên cùng
một đồ thị.
Như đã biết trong bài viết về trung bình động, khoảng cách giữa trung bình động ngắn hạn và trung
bình động dài hạn thể hiện xu thế tăng hoặc giảm của thị trường.
Nếu trung bình động ngắn hạn lớn hơn trung bình động dài hạn thì xu thế là tăng giá và MACD có
giá trị dương.
Nếu giá trị MACD dương và ngày càng lớn thì xu thế thị trường tăng ngày càng mạnh, phe bò tót
ngày càng thắng áp đảo.
Nếu trung bình động ngắn hạn nhỏ hơn trung bình động dài hạn thì xu thế là giảm giá và MACD có
giá trị âm.
Nếu giá trị MACD âm và ngày càng nhỏ thì xu thế thị trường giảm ngày càng mạnh, phe gấu ngày
càng thắng áp đảo.
Đường trung bình của MCAD là 0 nơi mà trung bình động giá ngắn hạn gặp trung bình động giá dài
hạn, tại đây bắt đầu có sự đổi chiều về xu thế của thị trường. Ví dụ về MCAD giá cổ phiếu Công ty
cổ phần Nhựa Đồng Nai - Doanh nghiệp

(Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn )
- Đồ thị trên tại các thời điểm số 1 và 2, đường MACD (Màu xanh) giao cắt đường zero, tại đây các
đường đồ thj trung bình động EMA - 12 và EMA - 26 giao cắt nhau trên đồ thị giá.
- Trên đồ thị MACD, đường EMA - 9 của chính MACD được vẽ trên cùng đồ thị với màu tím và
MACD - Histogram được vẽ trên cùng đồ thị với các cột màu xanh dương.
3. Sử dụng
Khi sử dụng MACD cần chú ý các tín hiệu sau để phát lênh mua hoặc bán:



- Sự giao cắt giữa MCAD và đường trung bình động EMA của chính MACD: Nếu đường MACD ở
cắt đường trung bình động EMA của chính nó và đi xuống dưới đường này thì đó là tín hiệu bán ra để
cắt lỗ. Nếu đường MACD cắt đường EMA của chính nó và đi lên trên đường này thì đó là tín hiệu
mua vào. Sự giao cắt này được gọi là cò súng khai hỏa các tín hiệu mua và bán khác chính xác. Tuy
nhiên cũng chú ý rằng khi các tín hiệu này xảy ra thì thường sự việc đã xảy ra rồi. Tuy không thể mua
đáy bán đỉnh được nhưng việc bạn sớm mua vào hay bán ra ở đầu một xu thế lên giá hoặc giảm giá
cũng là một món hời.
- Sự giao cắt giữa MCAD và đường zero. Sự giao cắt này chỉ là sự khẳng định lại tăng phần chắc
chắn về xu thế mà các phép phân tích khác chỉ ra. Thông thường sự giao cắt này xảy ra khá muộn với
độ trễ lớn nhất là khi sử dụng MCAD với hai đường trung bình động trong 9 ngày và 26 ngày. Do đó
không thể dùng sự giao cắt này làm tín hiệu để phát lệnh mua/bán.
Các tín hiệu trên cần kết hợp với nhiều tín hiệu trên các phân tích khác để có kết quả chính xác hơn.
- Xác định xu thế tăng hoặc giảm hoặc dập dềnh.
- Các dấu hiện về phân kỳ âm, phân kỳ dương.
- Ngưỡng siêu mua/siêu bán
Về các tín hiệu này đã trình bày trong 3 bài
- Phân tích kỹ thuật (3): RSI - Chỉ số sức mua/bán tương đối.
- Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế.
- Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
Khi phối hợp các tín hiệu trên với nhau cần nhớ đến nghịch lý của việc áp dụng phân tích kỹ thuật:
Việc áp dụng và chờ đợi càng nhiều tín hiệu để tăng phần khẳng định chính xác hơn của một quyết
định mua bán có thể làm tăng phần chậm trễ cho quyết định mua bán đó và ngược lại việc áp dụng
quá ít tín hiệu để ra quyết định mua bán cho kịp thời cơ có thể lại kém phần chính xác. Quyết định
chính xác nhất là không quyết định.
Xét ví dụ sau về giá của chứng chỉ quỹ VF1:


(Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn )
- Trong giai đoạn cuối tháng 2 năm 2007, RSI đạt trên ngưỡng 50 và tiến dần đến ngưỡng siêu mua,

phân kỳ dương xuất hiện và có sự giao cắt giữa MACD và đường trung bình động của chính nó tại
thời điểm số (1) là tín hiệu mua vào. Từ lúc đó cho đến thời điểm số (2) (giao đoạn ngay trước và
ngay sau tết), thị trường có dạng dập dềnh nhưng MACD luôn ở trên đường trung bình động EMA
của chính nó vì vậy Nhà đầu tư vẫn ôm chặt chứng chỉ quỹ của VF1 chờ thời.
- Sang đầu tháng 3 giá của VF1 vẫn tăng tốt, ngưỡg siêu mua đã bị xuyên phá tại thời điểm số (2).
Sang đến giữa tháng 3 tại thời điểm số (3), MACD đã giao cắt đường trung bình động EMA của
chính nó và đi xuống dưới đường này, các tín hiệu trên đồ thị RSI đã phá vỡ và đi xuống dưới ngưỡng
siêu mua cùng với sự xuất hiện của phân kỳ dương khẳng định đã đến lúc cần phải rút lui khỏi thị
truờng.
- Vào giữa tháng 4, tại thời điểm số (4), lúc này RSI đã phá vỡ ngưỡng siêu bán và đi lên trên giá trị
này, phân kỳ dương xuất hiện cho thấy sự khởi sắc của thị trường. sự giao cắt giữa MACD và EMA
của chính nó báo hiệu tín hiệu mua vào. Tuy nhiên sự giao cắt này không đảm bảo một sự chắc chắn
cho những sự kiện bất ngờ xảy ra sau đó đối việc phát hành của chứng chỉ quỹ VF1 đã đẩy giá của
VF1 tụt dốc.
Hãy chú ý đến các thời điểm RSI xuyên phá các ngưỡng siêu mua, siêu bán và sự giao cắt của MACD
và các đường trung bình động EMA của chính nó xảy ra sau đó trên đồ thị giá của cổ phiếu của công
ty Cổ phần Hàng Hải Hà Nôi (MHC).


(Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn )

Phân tích kỹ thuật (6): MACD - Histogram dự đoán MACD
Thomas Aspray giới thiệu MACD – Histogram vào năm 1968 như một giải pháp làm giảm thiểu độ
trễ của MACD. Như đã biết sự giao cắt giữa MACD và đường trung bình động EMA của chính nó là
phát pháo lệnh cho các hành vi mua và bán của Nhà đầu tư.
Tuy nhiên nếu ngồi chờ phát pháo lệnh này thì sự việc có thể đã trễ. Vì vậy MACD – Histogram được
ra nhằm mục đích dự đoán sự xuất hiện của phát pháo lệnh trước khi nó xảy ra, nhờ đó Nhà đầu tư có
thể ra quyết định mua/bán kịp thời hơn so với việc chờ đợi sự giao cắt giữa MACD và đường trung
bình động của chính nó.
1. Tính toán

Giá trị của MACD – Histogram được tính bằng hiệu của MACD và giá trị trung bình động EMA của
chính MACD. Thông thường nếu chọn MACD được tính bằng hiệu hai đường trunhg bình động của
giá là EMA – 12 và EMA – 26 thì giá trị trung bình động EMA của chính MACD được chọn là 9
phiên.
Đồ thị MACD – Histogram được vẽ trên cùng đồ thị với MACD dưới dạng biểu đồ hình cột.


Nếu MACD vượt đường trung bình động EMA của chính nó thì MACD – Histogram dương và biểu
đồ cột quay lên trên.
Nếu MACD nằm dưới đường trung bình động EMA của chính nó thì MACD – Histogram âm và biểu
đồ cột quay xuống dưới.
Hình dưới là đồ thị MACD – histogram của Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá (DXP) minh hoạ về đồ
thị MACD – Histogram dưới dạng các cột màu xanh. Khi MACD – Histogram bằng 0 là lúc có sự
giao cắt giữa MACD và trung bình động của chính nó.

(Nguồn ảnh đồ thị: www.vietstock.com.vn )
2. Ý nghĩa
MACD phản ánh sự chênh lệch giữa giá trị của MACD và giá trị trung bình động EMA – 9 của chính
MACD. Nếu giá trị của MACD – histogram dương và càng lớn thể hiện phe bò tót càng thắng thế
trên thị trường. Nếu giá trị MACD – histogram âm và càng nhỏ thì phe gấu càng thắng thế trên thị
trường.
Việc giao cắt giữa MACD và đường trung bình động của chính nó là một hiệu lệnh cho hành vi mua
vào hoặc bán ra. Tại điểm giao cắt này MACD – Histogram có giá trị 0. Bằng việc dựa vào sự tăng
giảm của MACD – Histogram để dự đoán việc MACD – Histogram bằng 0 sẽ xảy ra, nhờ đó MACD
– Histogram đưa ra khuyến cáo về một hành vi mua bán của Nhà đầu tư nên đến sớm hơn. Kỹ thuật
sử dụng để dự đoán như vậy chính là phân kỳ dương và phân kỳ âm.
Hình dưới là đồ thị MACD – histogram của Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá (DXP) minh hoạ về sự
xuất hiện của phân kỳ dương và âm trên MACD – Histogram sớm dự báo sự giao cắt cắt của MACD
và trung bình động của chính nó.



(Nguồn ảnh đồ thị: www.vietstock.com.vn )
3. Sử dụng
Nếu đường MACD đang ở trên đường trung bình, giá cả đang lên nhưng MACD – Histogram có sự
xuất hiện của phân kỳ âm thì dấu hiệu này cảnh báo về sự giao cắt của MACD với trung bình động
của chính nó và sẽ thấp hơn trung bình động. Lúc này Nhà đầu tư có thể ra quyết định bán ra sớm hơn
việc chờ đợi sự giao cắt mới ra quyết định bán.
Nếu đường MACD đang ở dưới đường trung bình, giá cả đang xuống nhưng MACD – Histogram có
sự xuất hiện của phân kỳ dương thì dấu hiệu này cảnh báo sự giao cắt của MACD và đường trung
bình động EMA của chính nó và cao hơn trung bình động. Lúc này Nhà đầu tư có thể ra quyết định
mua vào sớm hơn là việc chờ đợi sự giao cắt mới ra quyết định mua.
Chú ý rằng việc sử dụng MACD – Histogram để phán đoán cũng như sử dụng MACD giao cắt trung
bình động EMA của chính nó được sử dụng dựa trên sự phối hợp bổ trợ với các phép phân tích khác.
Ngoài ra vì MACD – Histogram dự đoán sự giao cắt của MACD nên dù có độ trễ ít hơn so với
MACD nhưng tính chính xác lại kém hơn. Sử dụng một biện pháp phỏng đoán gián tiếp qua một dấu
hiện dự đoán khác thì sẽ kém an toàn hơn là sử dụng phép dự đoán trực tiếp.
Xét ví dụ về giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần bao bì Bình Dương – HBD


(Nguồn ảnh đồ thị: www.vietstock.com.vn )
- Tại khoảng thời gian số 1, có rất nhiều tín hiệu xuất hiện lần lượt tại các thời điểm khác nhau: sự
giao cắt của giá và đường trung bình động SMA – 5, giá rót rất mạnh sau khi giao cắt đường này, RSI
cắt ngưỡng siêu mua và đi xuống dưới, sự xuất hiện của phân kỳ âm trên MACD – Histogram và sự
giao cắt của MACD với đường trung bình động của nó. Tín hiệu cuối cùng về sự giao cắt của MACD
với đường trung bình động của nó là phát pháo lệnh chắc chắn nhất đòi hỏi Nhà đầu tư phải rút lui
gấp nếu không muốn bị thua lỗ thêm mặc dù lúc đó giá có tăng trong ngắn hạn một vài phiên. Ví dụ
này cho thấy việc sớm dự báo giảm giá giúp Nhà đầu tư sớm thoát khỏi thị trường hơn là chờ đợi phát
pháo lệnh cuối cùng.
- Tại khoảng thời gian số (2), có nhiều tín hiệu báo hiệu về sự tăng giá mạnh: Giá giao cắt trung bình
động SMA – 5 và vượt lên rất mạnh so với trung bình động, sự xuất hiện của phân kỳ dương trên

MACD - Histogram, RSI vượt lên ngưỡng siêu bán. Tuy nhiên phát pháo lệnh cuối cùng và chắc chắn
nhất là sự giao cắt của MACD và trung bình động của nó đã không xảy ra và giá đã không thực sự
tăng mạnh và nhanh chóng giảm. Ví dụ này điểm hình cho tính chất sớm nắm bắt thời cơ mang lại
nhiều lợi nhuận hơn nhưng khả năng chính xác kém hơn.
- Tại khoảng thời gian số (3), nhiều dấu hiệu về sự tăng giá xuất hiện: phân kỳ dương xuất hiện đồng
thời trên RSI và MACD – histogram, RSI vượt lên trên ngưỡng siêu bán. Những tín hiệu này xảy ra
trước phát pháo lệnh cuối cùng là sự giao cắt giữa MACD và trung bình động của chính nó. Tuy
nhiên cũng cần cảnh giác với biến động dập dềnh của giá trong giai đoạn này.


- Tại khoảng thời gian số (4): sự xuất hiện của phân kỳ âm, ngưỡng siêu mua trên RSI không còn và
sự giao cắt và rớt mạnh của giá so trung bình động thúc giục sự rút lui của Nhà đầu tư. Lúc này chưa
có phát pháo lệnh cuối cùng là sự giao cắt MACD và trung bình động của chính nó, giá đã có sự tăng
trở lại. Giá sắp tới sẽ như thế nào? Cần phải chờ đợi những tín hiệu chắc chắn hơn hay phải rút lui
cho kịp thời?

Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề khối lượng
Các bài viết trước đã đề cập đến một số phương pháp phân tích phổ biến dựa trên giá cả của cổ phiếu
qua các phiên. Tuy nhiên sự phỏng đoán và xác nhận về giá cả trong tương lai không chỉ phụ thuộc
vào giá của cổ phiếu tại mỗi phiên mà còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác trong đó có khối lượng
giao dịch trong ngày.
Do đó kỳ này sẽ đề cập đến các vấn đề về khối lượng giao dịch trên thị trường và nguyên tắc chung
của các phương pháp phân tích dựa trên khối lượng giao dịch trước khi đề cập cụ thể đến một số
phương pháp phân tích thuộc loại này trong các bài viết tiếp theo.
1. Giới thiệu chung
Như đã biết, giá cả trên thị trường được quyết định bằng cuộc đấu giữa cung và cầu theo nguyên tắc
thuận mua và bán. Sự thuận mua vừa bán này được phản ánh không chỉ qua mức giá cân đối cung cầu
mà qua cả khối lượng khớp thành công giữa hai bên. Nói cách khác, bán phải có người mua. Mua mà
không có người bán hoặc bán không có người mua là những trạng thái cần phải chú ý trên thị trường,
phản ánh mức cung cầu mất cân đối nghiêm trọng.

Hãy xem xét các tình huống sau đây:
- Không ai mua mà cũng chẳng ai bán: đây là trường hợp thị trường đóng băng, hai phe mua bán lừng
chừng thăm dò, hàng hóa không được giao dịch hoặc giao dịch với số lượng rất ít trên thị trường.
- Mua mà không ai bán: số lượng mua vào rất lớn nhưng số lượng bán ra nhỏ, khối lượng giao dịch
thành công rất ít hoặc không có giao dịch thành công. Tình huống này xảy ra khi hàng hoá khan hiếm,
rất nhiều người muốn mua, nhưng không có hàng bán trên thị trường, những người có hàng thì ôm
chặt không bán ra để chờ giá lên cao hơn. Lúc này cầu lấn át cung.
- Bán mà không ai mua: số lượng bán ra rất lớn nhưng số lượng mua vào nhỏ. Khối lượng giao dịch
thành công là không có hoặc rất nhỏ. Tình huống này xảy ra khi hàng hóa bị coi rẻ, người có hàng thì
bán tống bán tháo tìm cách rút lui khỏi thị trường, người chưa có hàng thì chẳng muốn mua vào. Lúc
này cung lấn át cầu.
- Mua và bán đều thỏa mãn: khối lượng giao dịch trao đổi trên thị trường lớn, bên mua và bán gặp
nhau và đều thỏa mãn. Cung cầu lúc này ở trạng thái cân bằng.
2. Dòng chảy tiền tệ
Một số phương pháp dựa trên khối lượng thường được đặt tên gọi là dòng chảy tiền tệ (cash flow)
hàm ý chỉ lượng tiền được rút ra hoặc đưa vào thị trường đối với một loại cổ phiếu. Lượng tiền này
thực chất là kết quả của khối lượng giao dịch thành công trên thị trường và giá cả của cổ phiếu trên
thị trường. Nếu giá cả tăng thì tương ứng với khối lượng là một lượng tiền được đổ vào thị trường:
giá càng tăng cao, khối lượng giao dịch càng lớn thì lượng tiền đổ vào càng lớn. Nếu giá giảm thì


tương ứng với khối lượng là một lượng tiền được rút ra khỏi thị trường: giá càng giảm mạnh, khối
lượng giao dịch càng lớn thì tiền rút ra càng lớn.
3. Ý nghĩa chung
- Khi giá cả đang tăng, khối lượng giao dịch ít phản ánh tình trạng hàng hóa trên thị trường khan
hiếm. Khi đến một mức giá nào đó hoặc đến một giai đoạn mùa vụ nào đó, khi những người nắm giữ
cổ phiếu cảm thấy được giá thì họ sẽ tìm cách bán ra, sự bán ra của họ gặp đúng nhu cầu hàng của
phe mua khiến cho khối lượng giao dịch thành công tăng cao, tốc độ tăng giá sẽ hãm lãi hoặc giảm
giá. Một trường hợp khác là phe mua vào cảm thấy nếu tiếp tục mua vào với giá cao sẽ nguy hiểm
nên họ chấm dứt việc mua vào, lượng cầu giảm khiến cho khối lượng khớp thành công không có sự

biến đổi tăng đột biến.
- Khi giá cả đang giảm, khối lượng giao dịch ít phản ánh tình trạng hàng hóa trên thị trường bị coi rẻ.
Khi đến một mức giá nào đó hoặc đến một giai đoạn mùa vụ nào đó, một số Nhà đầu tư cảm thấy
được giá hời và muốn mua vào. Nhu cầu của họ gặp lượng cung bán ra lớn trên thị trường khiến cho
khối lượng khớp thành công tăng cao, tốc độ giảm giá chậm lại hoặc tăng giá. Một trường hợp khác là
phe bán ra cảm thấy nếu tiếp tục bán ra sẽ bị hớ nên họ chấm dứt bán ra, lượng cung giảm khiến cho
khối lượng khớp thành công không có sự biến đổi tăng đột biến.
- Khi giá cả “dập dềnh” với khối lượng giao dịch nhỏ, thị trường ở trạng thái đóng băng. Lúc này
không dễ đoán trước được điều gì.
- Khi giá cả “dập dềnh” với khối lượng giao dịch lớn tiềm ẩn một khả năng về sự thay đổi xu thế
trong tương lai gần nhưng khó dự đoán. Trong trạng thái này cần theo dõi liên tục và thường xuyên
các biến động trạng thái của thị trường dựa trên sự kết hợp với các phương pháp phân tích khác.
Dưới đây là hai ví dụ minh họa vềý nghĩa của khối lượng. Chú ý rằng ví dụ này chỉ minh họa về ý
nghĩa chứ không minh họa về cách sử dụng.
Xét ví dụ về Công ty Cổ phần Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh - HAX


- Suốt giai đoạn số 1, giá cả biến động dập dềnh, khối lượng giao dịch quá nhỏ, Nhà đầu tư không hào
hứng nhiều với cổ phiếu này, đường MACD luôn sát với đường trung bình động EMA của chính nó,
giai đoạn này khó có thể dự đoán trước được điều gì.
- Trong suốt giai đoạn từ thời điểm số (2) đến thời điểm số (5) là thời điểm giá Cổ phiếu tăng vọt.
Xuất phát từ thời điểm số (2) với sự không hào hứng của Nhà đầu tư nên khối lượng giao dịch nhỏ.
Tiếp theo đó với sự tăng giá liên tiếp, nhiều Nhà đầu tư găm hàng lại không bán ra nên khối lượng
giao dịch vẫn thấp. Đến thời điểm số (3) một số Nhà đầu tư cảm thấy được giá liền bán ra gặp đúng
cơn khát của các Nhà đầu tư khác nên khối lượng giao dịch lớn, giá vẫn tiếp tục tăng vì cầu vẫn lấn
át. Những người có hàng lại tiếp tục găm hàng cho đến thời điểm số (4) thì cảm thấy được giá và lại
bán ra nhưng vẫn bị cầu lấn át. Lúc này khả năng về một sự thay đổi xu thế đã gần kề khi đã hai lần
xảy ra hiện tượng những người có hàng cảm thấy được giá trong đợt tăng giá liên tục này.
Từ thời điểm số (5) đến số (6) có thể coi là biến động dập dềnh với khối lượng lớn tiềm ẩn nguy cơ
về sự thay đổi giá khó đoán trước. Trong giai đoạn này nếu quan sát trên MACD sẽ thấy sự tiến sát

đến EMA – 9 của chính MACD và khi hai đường này giao nhau đã khẳng định sự xuống giá.
Xét ví dụ khác về công ty Cổ phiếu Hàng Hải Hà Nội - MHC
(Nguồn ảnh đồ thị trái phiếu )
Giai đoạn số 1 có thể coi là một giai đoạn biến động dập dềnh với khối lượng lớn tiềm ẩn nguy cơ
khó đoán trước, trong ngắn hạn giai đoạn này được chia thành các kỳ giảm và tăng giá với khối lượng
lớn.


×