Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.49 KB, 15 trang )

HANOI LAW UNIVERSITY

CLASS: N03 - GROUP: 2

Mục lục
Trang.
I. Mở đầu

2

II. Nội dung

2

1. Định nghĩa dư luận xã hội

2

2. Các tính chất cơ bản của dư luận xã hội

3

a) Tính khuynh hướng
b) Tính lợi ích
c) Tính lan truyền
d) Tính bền vững tương đối và tính dễ biến đổi
e) Tính tương đối trong khả năng phản ánh
thực tế xã hội của dư luận.
3.Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật.

2


4
5
6
8
9

3.1.Ý thức pháp luật:
3.2Sự tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật
a) Tác động tới hệ tư tưởng pháp luật
b) Tác động tới tâm lý pháp luật
III. Kết luận

I. Đặt vấn đề:
Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 1

9
9
9
11
14


HANOI LAW UNIVERSITY

CLASS: N03 - GROUP: 2

Dư luận xã hội là hiện tượng thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã
hội. Dư luận xã hội đã xuất hiện và tồn tại từ lâu trong lịch sử, nó hình thành,
tồn tại và phát triển cùng với quá trình vận động, phát triển của bản thân xã
hội loài người.

Dư luận xã hội tồn tại từ lâu đời cũng với xã hội loài người, được xem là
có trước cả luật pháp, có tác dụng là phương tiện giáo dục, định hướng và
điều chỉnh hành vi. Khi người ta nói đến dư luận xã hội, thường là người ta
nghĩ đến những đánh giá của cộng đồng đối với những sự kiện xã hội nhất
định. Những đánh giá này dù có chủ định hay không chủ định nhắm tới một
ai, song ai cũng xem đó là một đánh giá mà mình cần phải xem xét đến mỗi
khi hành động.
Sự hình thành của dư luận xã hội theo nhiều cách, bằng nhiều con đường
đã khiến dư luận xã hội trở thành một thực thể trung gian mang thông tin có
ý nghĩa đối với sự tồn tại của cộng đồng và ảnh hưởng rất lớn đối với các cá
nhân và các nhóm trong xã hội.
Chính vì thế, những hiểu biết về dư luận xã hội là rất cần thiết và hữu ích.
Để hiểu rõ về dư luận, ta cần nắm rõ về các tính chất của dư luận xã hội. Qua
những hiểu biết nhất định về dư luận xã hội, ta sẽ thấy tác dụng của dư luận
xã hội đối với lĩnh vực pháp luật là như thế nào?

II. Nội dung:

1. Định nghĩa dư luận xã hội:
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh

giá của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang
tính thời sự, có liên quan tới lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của
nhiều người và được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn
của họ.
2. Các tính chất cơ bản của dư luận xã hội:
a) Tính khuynh hướng:
Thái độ chung của dư luận xã hội đối với mỗi sự kiện, hiện tượng, quá
trình xã hội có thể khái quát theo các khuynh hướng nhất định, gồm tán
Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 2



HANOI LAW UNIVERSITY

CLASS: N03 - GROUP: 2

thành, phản đối hay lưỡng lự ( chưa rõ thái độ). Cũng có thể phân chia dư
luận xã hội theo các khuynh hướng như tích cực hoặc tiêu cực; tiến bộ hoặc
lạc hậu… Ở mỗi khuynh hướng, thái độ tán thành hoặc phản đối lại có thể
phân chia theo các mức độ cụ thể như rất tán thành, tán thành, lưỡng lự,
phản đối, rất phản đối. Chẳng hạn , bộ ảnh áo dài của Hoa hậu Mai Phương
Thúy là những tác phẩm đang gây nên nhiều tranh cãi trong dư luận. Có
luồng ý kiến cho rằng, ê kíp thực hiện những tác phẩm này đã lạm dụng hình
ảnh chiếc áo dài để khoe vẻ đẹp cơ thể người phụ nữ một cách phản cảm.
Nhưng bên cạnh đó, rất nhiều nghệ sĩ nhiếp ảnh cũng đã lên tiếng bảo vệ, cho
rằng đây là bộ ảnh gợi cảm chứ không phản cảm. Khi nhìn nhận từ các góc độ
khác nhau thì người ta sẽ có những đánh giá khác nhau về bộ ảnh này.
Bên cạnh đó, tính khuynh hướng cũng biểu thị sự thống nhất hay xung đột
của dư luận xã hội. Xét theo các mức độ tán thành hoặc phản đối được nêu ra ở
trên, nếu đồ thị phân bố dư luận xã hội có dạnh hình chữ U thì biểu thị sự xung
đột; còn nếu đồ thị biểu diễn theo hình chữ J thì biểu thị sự thống nhất. Đồ thị
phân bố dư luận xã hội có dạng chữ U trong khi xã hội có hai loại quan điểm
mâu thuẫn, đối lập nhau về cũng sự kiện hiện tượng, quá trình xã hội nào đó
cùng có tỉ lệ người ủng hộ cao. Trong xã hội nhất định, nếu thái độ của dư luận
xã hội đối với phần lớn những vấn đề về kinh tế, chính trị,xã hội có dạng hình
chữ U thì chứng tỏ xã hội đó đang đứng trên bờ vực của cuộc nội chiến. Khi đồ
thị phân bố dư luận xã hội có dạng hình chữ J thì chỉ có một loại quan điểm ( tán
thành hoặc phản đối) có tỉ lệ số người ủng hộ cao mà thôi, điều đó biểu thị sự
thống nhất cao trong dư luận xã hội.
b) Tính lợi ích:

Để trở thành đối tượng của dư luận xã hội, các sự kiện, hiện tượng xã hội
đang diễn ra phải được xem xét từ dóc độ chúng có mối quan hệ mật thiết với
lợi ích của các nhóm xã hội khác nhau trong xã hội . Tính lợi ích của dư luận
xã hội được nhìn nhận trên hai phương diện là lợi ích vật chất và lợi ích tinh
thần.
Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 3


HANOI LAW UNIVERSITY

CLASS: N03 - GROUP: 2

Lợi ích vật chất được nhận thức rõ nét khi các hiện tượng diễn ra trong
xã hội có liên quan chặt chẽ đến hoạt động kinh tế và sự ổn định cuộc sống
của đông đảo người dân. Chẳng hạn, các chủ trương của Đảng và Nhà nước
về khoán trong nông nghiệp, về cải cách chế độ tiền lương, các quyết định về
tăng giá xăng dầu, điều chỉnh mức thi tiền điện thoại… đều là những ví dụ
sinh động cho mối liên quan này.
Lợi ích tinh thần được đề cập khi các vấn đề, các sự kiện đang diễn ra
đụng chạm đến hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội, các phong tục tập
quán, khuôn mẫu hành vi ứng xử văn hóa của cộng đồng xã hội hoặc của cả
dân tộc.
Chẳng hạn, năm 2011, dư luận rất quan tâm về những hành động của
Trung Quốc trên biển Đông. Các hoạt động này rộ lên từ đầu năm 2009, bắt
đầu từ vụ đụng độ tàu Mỹ và Trung Quốc ngày 8/3 trên biển Đông, lệnh cấm
đánh bắt cá của Trung Quốc từ ngày 16/5/2009, tăng cường lực lượng tàu
ngư chính xuống biển Đông, đề xuất của hải quân Trung Quốc phân chia
quyền kiểm soát Thái Bình Dương giữa Trung Quốc và Mỹ, tới tuyên bố của
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) ngày 16/6/2009 sẽ tiến
hành khoan sâu thăm dò khai thác trong biển Đông trong năm 2009. Nhưng

gây quan ngại nhiều nhất chính là việc ngày 7/5/2009 Trung Quốc chính thức
yêu cầu lưu truyền trong cộng đồng các nước thành viên Liên Hợp Quốc bản
đồ thể hiện đường lưỡi bò (hay còn gọi là đường chữ U, đường đứt khúc 9
đoạn) trên biển Đông, yêu sách không chỉ các đảo, đá mà toàn bộ vùng biển
trong đó. Công hàm của Trung Quốc đệ trình lên Ủy ban Liên Hợp Quốc về
Thềm lục địa mở rộng ngày 7/5/2009 có lẽ là văn bản đầu tiên trong hơn 60
năm qua, thể hiện yêu sách chính thức của Trung Quốc về "đường lưỡi bò” và
cũng là lần đầu tiên mà Trung Quốc chính thức công bố bản đồ đường yêu
sách này với thế giới. Ngoại trừ các học giả Trung Quốc, tất cả các học giả
nước ngoài đều chỉ rõ "đường lưỡi bò” của Trung Quốc hoàn toàn không có
Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 4


HANOI LAW UNIVERSITY

CLASS: N03 - GROUP: 2

cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn. Theo đó, vùng nước trong "đường lưỡi bò”
chiếm đến 80% diện tích Biển Đông mà Trung Quốc cho là "vùng nước lịch sử”
của họ là không thể chấp nhận được. Cộng đồng quốc tế chưa bao giờ ghi
nhận một yêu sách như vậy và sẽ không chấp nhận một vùng biển lớn nhất
nhì thế giới thuộc về quyền tài phán của một nước. Thậm chí, Indonesia là
một nước không hề có tranh chấp Biển Đông cũng phải chính thức gửi công
hàm phản đối "đường lưỡi bò”, cho rằng bản đồ "đường lưỡi bò” của Trung
Quốc là "rõ ràng không có căn cứ pháp lý quốc tế và đi ngược lại với các quy
định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982”. Các nguồn dư luận
khách quan trên thế giới đều đều phản đối, vì cho rằng những yêu sách chủ
quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, mà đặc biệt là yêu sách "đường lưỡi bò”
là những đòi hỏi vô lý, không phù hợp với luật pháp quốc tế và cũng hoàn
toàn mâu thuẫn với tài liệu lịch sử chính thống của người Trung Quốc.

Dư luận xã hội chỉ hình thành khi vấn đề đó đụng chạm đến lợi ích
trong xã hội. Lợi ích của nhóm trong xã hội không chỉ biểu hiện một cách đơn
giản là lợi ích bị can hệ trực tiếp mà lợi ích đó được chia sẻ bởi các nhóm
trong xã hội. Các phán xét, đánh giá của dư luận xã hội thường xuất phát từ
nhận thức về lợi ích của các nhóm trong xã hội.
Tự bản thân mình, lợi ích mới chỉ là điều kiện để thúc đẩy việc tạo ra dư
luận xã hội. Điều kiện đủ ở đây chính là nhận thức của các nhóm xã hội về lợi
ích của mình và về mối quan hệ giữa chúng với sự kiện, hiện tượng trong quá
trình đang diễn ra.
c) Tính lan truyền:
Dư luận xã hội được coi như biểu hiện của hành vi tập thể, hiện tượng
được các nhà xã hội học rất quan tâm. Cơ sở của bất kì hành vi tập thể nào
cũng là hiệu ứng xảy ra phản xạ quay vòng, trong đó khởi điểm từ cá nhân
hay nhóm xã hội nhỏ sẽ gây nên chuỗi các kích thích của các cá nhân khác,
nhóm xã hội khác. Để duy trì được chuỗi kích thích này luôn cần có các nhân
Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 5


HANOI LAW UNIVERSITY

CLASS: N03 - GROUP: 2

tố tác động lên cơ chế hoạt động tâm lí của cá nhân và nhóm xã hội. Đối với
dư luận xã hội các nhân tố tác động đó có thể được coi là các thông tin bằng
hình ảnh, âm thanh sống động trực tiếp, có tính thời sự. Dưới tác động của
các luồng thông tin này, các nhóm công chúng khác nhau sẽ cùng được lôi
cuốn vào quá trình bày tỏ sự quan tâm của mình thông qua các hoạt động
trao đổi, bàn bạc, tìm kiếm thông tin, cùng chia sẽ trạng thái tâm lí của mình
với người xung quanh. Đặc biệt đối với các sự kiện lớn của đất nước như tình
trạng chiến tranh, các cuộc bầu cử; hay các sự kiện vượt ra ngoài hoạt động

sống và làm việc bình thường của con người như các vụ tội phạm nguy hiểm,
nạn hạn hán, lũ lụt… Chúng ta có thể theo dõi và ghi nhận được ảnh hường
của các luồng thông tin đến các hành động quan tâm của công chúng. Khi đó,
sự hình thành mạnh mẽ và lan truyền nhanh chóng của dư luận xã hội được
thể hiện rất rõ nét.
d) Tính bền vững tương đối và tính dễ biến đổi.
Dư luận xã hội vừa có tính bền vững tương đối lại vừa có tính dễ biến
đổi. Có những dư luận xã hội chỉ qua một đêm là thay đổi nhưng cũng có
những dư luận xã hội qua hàng thập niên vẫn không thay đổi. Tính bền vững
tương đối của dư luận xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đối với những sự
kiện, hiện tượng hay các quá trình quen thuộc, dư luận xã hội thường rất bền
vững. Chẳng hạn, sự đánh giá rất cao của dư luận xã hội về cuộc đời và sự
nghiệp của Bác Hồ, về tầm quan trọng của sự nghiệp đổi mới, chính sách
khoán trong nông nghiệp… tới nay vẫn không thể bị thay đổi. Cái mới lúc đầu
chỉ được số ít thừa nhận và do đó dễ bị đa số phản đối khi cái mới vươn lên
khẳng định mình trong cuộc sống.
Thứ nhất, tính biến đổi của dư luận xã hội thường được xem xét trên
phương diện biến đổi theo không gian và môi trường văn hóa. Sự phán xét,
đánh giá của dư luận xã hội về bất kì sự kiện, hiện tượng, hay quá trình xã hội
nào cũng phụ thuộc vào hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang tồn tại
trong nền văn hóa của cộng đồng người khác nhau lại thể hiện sự phán xét,
Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 6


HANOI LAW UNIVERSITY

CLASS: N03 - GROUP: 2

đánh giá khác nhau. Chẳng hạn, hiện tượng tảo hôn, chế độ đa thê là hiện
tượng bình thường, được chấp nhận tại các nước thuộc khu vực Trung Đông,

Nam Sahara (Châu Phi) hay Ấn Độ nhưng chúng sẽ phải gặp phải sự phản
ứng gay gắt tại nhiều nước ở châu Âu, Bắc Mỹ, Đông Nam Á… Trong khi đó,
quan hệ tình dục ngoài hôn nhân dễ dàng được chấp nhận ở châu Âu, Bắc Mỹ,
mà lại bị phản đối mạnh mẽ, thậm chí bị trừng phạt theo luật lệ tôn giáo ở
Trung Đông, Ấn Độ.
Thứ hai, tính biến đổi được xem xét trên phương diện thời gian. Cùng
với sự phát triển của xã hội, nhiều giá trị văn hóa, chuẩn mực xã hội, phong
tục tập quán có thể bị biến đổi ngay trong cùng nền văn hóa – xã hội; dẫn đến
sự thay đổi trong cách nhìn nhận, đánh giá của dư luận xã hôi. Chẳng hạn,
trong thời kì bao cấp ở nước ta trước đây, khi Nhà nước chịu trách nhiệm chu
cấp và đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho người dân thì các hoạt động buôn
bán, kiếm lời cho cá nhân bị xã hội lên án mạnh mẽ và quy kết thành tội đầu
cơ, tích trữ. Còn trong thời kì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
hiện nay thì dư luận xã hội không còn đánh giá các hoạt động đó một cách
tiêu cực, mà coi đó là hoạt động kinh doanh thương mại bình thường. Nói
như thế không có nghĩa là dư luận xã hội không cảnh giác với những trường
hợp đặc biệt, khẩn cấp như việc đầu cơ tích trữ lương thực để bán kiếm lời
sau những vụ bão lụt, mất mùa… Khi các hoạt động này mang tính trục lợi và
gây thiệt hại cho người dân, loại hành vi đó cấu thành tội đầu cơ được quy
định tại Điều 160 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, sẽ bị dư luận xã hội lên
án và pháp luật trừng trị.
Phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể, dư luận xã hội còn biến đổi theo đối
tượng của các phán xét, đánh giá khi công chúng phát hiện thêm các mối liên
quan giữa đối tượng ban đầu với các sự kiện, hiện tượng, quá trình diễn ra
kèm theo nó. Mặt khác, xuất phát từ các phán xét, đánh giá bằng lời, dư luận
xã hội có thể chueyenr hóa thành các hành động mang tính tự phát hoặc có tổ
chức để thể hiện thái độ đồng tình hay phản đối của mình. Một mặt, dư luận
xã hội cực lực lên án, đòi xử lí nghiêm khắc ( thể hiện bằng ý kiến) các vụ tội
Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 7



HANOI LAW UNIVERSITY

CLASS: N03 - GROUP: 2

phạm tấn công vào các chiến sĩ công an khi đang thi hành nhiệm vụ. Mặt
khác, chính người dân đã tích cự quyên góp từ thiện ( thể hiện bằng hành
động) để hỗ trợ một phần cho gia đình của những người chiến sĩ công an đã
dũng cảm hy sinh trong khi làm nhiệm vụ này.
Dư luận xã hội về những vấn đề của đời sống xã hội có thể ở trạng thái
tiềm ẩn, không bộc lộ bằng lời. Trong những xã hội thiếu dân chủ, dư luận xã
hội đích thực thường tồn tại dưới dạng tiềm ẩn. Trong xã hội cũng thường ó
dư luận xã hội tiềm ẩn về những sự việc, sự kiện sắp tới, chưa xảy ra, hiện
thời chưa cấp bách.
e) Tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế xã hội của dư luận
xã hội.
Sự phản ánh thực tế xã hội của dư luận xã hội có thể đúng (đúng nhiều
hoặc đúng ít), có thế sai (sai nhiều hoặc sai ít). Dù có đúng đến mấy thì dư
luận xã hội vẫn có những hạn chế, do đó, không nên tuyệt đối hóa khả năng
nhận thức từ dư luận xã hội. Dù có sai đến mấy, trong dư luận xã hội vẫn có
những hạt nhân hợp lí không thể coi thường được. Chân lí của dư luận xã hội
không phụ thuộc vào tính chất phổ biến của nó. Không phải lúc nào dư luận
của đã số cũng đúng hơn dư luận củ a thiểu số. Cái mới lúc đầu thường chỉ có
một số người nhận thấy, do đó, dễ bị đa số phản đối. Đối với những vấn đề
trừu tượng, phức tạp, dư luận của giới trí thức, của những người có trình độ
học vấn cao thường chín chắn hơn so với những người có trình độ học vấn
thấp. Chẳng hạn như vừa qua, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử vụ án Lê
Văn Luyện, tòa tuyên án 18 năm tù đối với Luyện.Bản án 18 năm tù đã khép
lại vụ án thảm sát tiệm vàng khiến cả nước xôn xao suốt năm qua. Số đông dư
luận vẫn chưa thật sự thỏa mãn với bản án này khi cho rằng với những gì

Luyện gây ra thì phải chịu hình phạt nặng hơn. Họ vẫn hy vọng sẽ có một bản
án xứng đáng hơn dành cho tên sát nhân máu lạnh. Còn những người có kiến
thức về pháp luật, hiểu biết pháp luật thì cho rằng không thể để cảm tính yêu
ghét chi phối. Bởi vì trước hết, luật vẫn là luật. Trong quá trình áp dụng thì
Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 8


HANOI LAW UNIVERSITY

CLASS: N03 - GROUP: 2

vẫn phải tuân thủ. Sau này có lẽ phải nghiên cứu đầy đủ và kĩ lưỡng hơn. Hình
phạt này thể hiện tính chất nhân đạo vì trẻ em chưa nhận thức đầy đủ và trẻ
em còn nhiều thời gian để ăn năn hối cải và phục thiện. Tuy nhiên, những
người có hiểu biết về pháp luật, đồng tình với việc phải tuân thủ theo pháp
luật thì lại chiếm số ít trong xã hội.
3. Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật:
3.1.Ý thức pháp luật:
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, quan điểm, quan niệm
thịnh hành trong xã hội thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật
và sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp đối với các hành vi pháp
lý thực tiễn.
Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn
tại xã hội từ góc nhìn pháp luật, là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một
giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà
nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp hay không hợp pháp
của hành vi con người trong xã hội. Ý thức pháp luật có cấu trúc tương đối
phức tạp, có thể được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Dựa vào cấu trúc
của ý thức pháp luật, chúng ta có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau để
phân tích sự tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật. Và ở đây,

chúng ta sẽ căn cứ vào nội dung và tính chất của các bộ phận hợp thành, ý
thức pháp luật bao gồm hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật để làm rõ
tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật là gì.
3.2.Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật:
a) Tác động tới hệ tư tưởng pháp luật:
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các tư tưởng, quan điểm, quan niệm
có tính chất lý luận và khoa học về pháp luật, phản ánh về pháp luật và các
hiện tượng pháp luật một cách sâu sắc, tự giác dưới dạng các khái niệm, các
phạm trù khoa học. Hệ tư tưởng pháp luật phản ánh trình độ nhận thức cao,
có tính hệ thống về các vấn đề mang tính bản chất của pháp luật và các hiện
tượng pháp luật trên lập trường của một giai cấp nhất định. Nó là cơ sở để
Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 9


HANOI LAW UNIVERSITY

CLASS: N03 - GROUP: 2

sáng tạo các giá trị pháp luật, phổ biến các tư tưởng, quan điểm pháp luật
tiến bộ, nhân văn trong xã hội.
Dư luận xã hội tác động trực tiếp và gián tiếp đến sự hình thành và phát
triển của hệ tư tưởng pháp luật. Với tư cách một hiện tượng xã hội, dư luận
xã hội phản ánh tồn tại xã hội nói chung, đồng thời phản ánh các sự kiện, hiện
tượng pháp lý xảy ra trong đời sống xã hội. Sự bàn luận, trao đổi ý kiến giữa
các thành viên trong xã hội về các sự kiện, hiện tượng pháp lý đưa tới kết quả
là, họ đạt tới sự nhận thức chung, thống nhất trong các phán xét, đánh giá về
sự việc, sự kiện pháp lý. Ban đầu, "chuẩn mực" chung chi phối quá trình thảo
luận, bàn bạc giữa họ là những thông tin, kiến thức, hiểu biết về pháp luật mà
mỗi thành viên có được từ những nguồn khác nhau, chủ yếu là những khái
niệm cơ sở mang tính kinh nghiệm. Các ý kiến bước đầu được đưa ra có thể

khác nhau vì nhận thức pháp luật của mỗi thành viên xã hội cũng khác nhau.
Dần dần, các cuộc thảo luận đi vào chiều sâu, nội dung các phán xét, đánh giá
của dư luận xã hội thường tập trung vào những vấn đề trọng tâm, đưa ra
những nhận định phản ánh đúng đắn bản chất của các sự kiện, hiện tượng
pháp lý. Khi đã hình thành, dư luận xã hội biểu thị thái độ, quan điểm, cảm
xúc, ý chí tập thể của đại đa số người trong cộng đồng xã hội trước thực tiễn
đời sống pháp luật của xã hội, thể hiện trình độ nhận thức cao, có tính hệ
thống về các vấn đề mang tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng
pháp luật.
Dư luận xã hội là sản phẩm của tư duy phán xét, là sự thể hiện quan
điểm, thái độ của các cá nhân trước các hiện tượng pháp lý. Nhờ có đặc điểm
cơ bản là tính lan truyền mà dư luận xã hội lan truyền càng rộng thì càng có
xu hướng thống nhất về nội dung các phán xét, đánh giá, càng làm cho mọi
người trong xã hội nhận thức sâu sắc hơn những vấn đề mang tính bản chất
của pháp luật và các hiện tượng pháp luật. Do đó ảnh hưởng của dư luận xã
hội đối với hệ tư tưởng pháp luật còn thể hiện ở chỗ, dư luận xã hội tham gia
vào việc phổ biến, tuyên truyền trong các tầng lớp xã hội những giá trị pháp
luật, các tư tưởng, quan điểm pháp luật.
Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 10


HANOI LAW UNIVERSITY

CLASS: N03 - GROUP: 2

Bên cạnh đó, trên cơ sở của sự phán xét, đánh giá về các sự kiện, hiện
tượng pháp luật diễn ra trong đời sống xã hội, dư luận xã hội làm nảy sinh
trong nhận thức của mọi người những khái niệm cơ sở, mang tính bề ngoài,
ngẫu nhiên và sau đó là những tri thức phản ánh đúng đắn bản chất của các
hiện tượng pháp lý. Từ đó, hình thành nên các quan điểm, quan niệm, tư

tưởng phản ánh những vấn đề có liên quan đến pháp luật và các hiện tượng
pháp luật một cách sâu sắc, có tính hệ thống trong xã hội. Điều đó nói lên sự
tác động mạnh mẽ của dư luận xã hội đối với quá trình hình thành và phát
triển của hệ tu tưởng pháp luật.
Mặt khác, hệ tư tưởng pháp luật chính thống của một xã hội nhất định
bao giờ cũng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Do đó, trong mỗi học
thuyết, quan điểm pháp lý đều chứa đựng những tư tưởng về quyền lợi kinh
tế, chính trị, xã hội và ý chí của một giai cấp nhất định. Chúng nảy sinh, tồn tại
phát triển hay bị thủ tiêu đều phụ thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh nhất
định. Khi giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội, có lợi ích giai
cấp phù hợp với lợi ích cơ bản của các lực lượng xã hội khác thì tính dân chủ,
tính khoa học và tính xã hội của hệ tư tưởng pháp luật sẽ thể hiện nổi trội, rõ
nét. Trong điều kiện như vậy, nội dung của các nhận định, đánh giá về những
sự kiện, hiện tượng pháp lý mà dư luận xã hội đưa ra sẽ tương ứng và phù
hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật của hệ tư tưởng pháp luật chính
thống, nghĩa là ý chí của giai cấp cầm quyền có nhiều nét tương đồng với dư
luận xã hội của các tầng lớp nhân dân. Qua đó, dư luận xã hội có tác động
mạnh mẽ và tích cực tới sự hình thành, phát triển và phổ biến hệ tư tưởng
pháp luật trong xã hội.
Như vậy, có thể nói, dư luận xã hội với tư cách một hiện tượng thuộc lĩnh
vực tinh thần của đời sống xã hội luôn có tác động mạnh mẽ đến hệ tư tưởng
pháp luật. Một mặt, thông qua quá trình trao đổi, thảo luận ý kiến giữa các
nhóm xã hội về những sự kiện, hiện tượng pháp luật diễn ra trong xã hội, dư
luận xã hội góp phần làm nảy sinh các quan điểm, quan niệm, tư tưởng phản
ánh những vấn đề có liên quan đến pháp luật và các hiện tượng pháp luật
Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 11


HANOI LAW UNIVERSITY


CLASS: N03 - GROUP: 2

một cách sâu sắc, có tính hệ thống trong xã hội. Mặt khác, dư luận xã hội có
tác dụng phổ biến, tuyên truyền trong các tầng lớp xã hội những giá trị pháp
luật, các tư tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, nhân văn.
b) Sự tác động của dư luận xã hội đến tâm lý pháp luật:
Tâm lý pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, cảm
xúc, tâm trạng của các cá nhân và các nhóm xã hội đối với pháp luật, cũng
như những hiện tượng pháp lý diễn ra trong đời sống xã hội.
Tâm lý pháp luật chỉ biểu hiện cấp độ nhận thức thông thường dựa trên
cơ sở tình cảm pháp luật truyền thống, kinh nghiệm sống, tập quán và tâm lý
xã hội. Tâm lý pháp luật, cũng như những yếu tố tâm lý vốn có của con người
là sự phản ánh trực tiếp các sự kiện, hiện tượng bên ngoài có liên quan đến
pháp luật. Những sự kiện, hiện tượng pháp luật đó đồng thời cũng là đối
tượng phản ánh của dư luận xã hội. Vì vậy, ảnh hưởng của dư luận xã hội đến
tâm lý pháp luật được thể hiện trên ba phương diện. Thứ nhất, tác động tới
tình cảm pháp luật của con người, góp phần định hướng cho sự hình thành
tình cảm pháp luật của mỗi công dân. Thứ hai, tác động tới tâm trạng của
con người trước luật pháp cả theo hướng tích cực lẫn tiêu cực. Thứ ba, tác
động đến sự tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mỗi cá nhân trong
phạm vi điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hiện hành
Tình cảm pháp luật là yếu tố cơ bản của tâm lý pháp luật, thường được
hình thành một cách tự phát dưới ảnh hưởng của hoạt động giao tiếp hàng
ngày của con người với môi trường pháp lý xung quanh. Và, do là yếu tố
mang tính tự phát, chịu sự chi phối của phong tục, tập quán, kinh nghiệm
sống và nếp sống của con người, nên tình cảm pháp luật có thể được bộc lộ
dưới dạng các phản ứng tích cực, cũng như tiêu cực của mỗi người trước
những sự kiện, hiện tượng pháp lý diễn ra trong thực tế. Do vậy, tình cảm
pháp luật có thể biểu hiện dưới dạng tích cực, như thái độ phản ứng lại các
hành vi vi phạm pháp luật, yêu công lý, đề cao công bằng xã hội, đề cao trách

nhiệm pháp lý... cũng có thể biểu hiện dưới dạng tiêu cực, như cổ vũ cho hành
Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 12


HANOI LAW UNIVERSITY

CLASS: N03 - GROUP: 2

vi phạm pháp, chống đối người thi hành .công vụ, làm ngơ trước người bị
hại... Tất cả những biểu hiện đó của tình cảm pháp luật đều là đối tượng phán
xét, đánh giá của dư luận xã hội.
Tâm trạng của con người trước luật pháp là sự thể hiện trạng thái tâm
lý của các cá nhân trước các sự kiện, hiện tượng pháp lý diễn ra trong đời
sống xã hội thường ngày. Đây là yếu tố rất linh động, dễ thay đổi của tâm lý
pháp luật. Do sự tác động, ảnh hưởng của các yếu tố, như điều kiện sống, lao
động, sinh hoạt hàng ngày mà tâm trạng của con người thường được thể hiện
ra ở các trạng thái đối lập: hưng phấn - ức chế, lạc quan - bi quan, hy vọng thất vọng, quan tâm - thờ ơ, nhiệt tình - lãnh đạm... trước thực tiễn cuộc sống.
Tuỳ thuộc đang trong tâm trạng hưng phấn, nhiệt tình, người ta dễ có những
phản ứng mạnh mẽ, tích cực trước các hành vi vi phạm pháp luật ở nơi công
cộng, còn khi không tin tưởng vào sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật,
người ta thường thờ ơ trước các sự kiện pháp lý... Những tâm trạng đó được
bộc lộ trong nội dung các phán xét, đánh giá của dư luận xã hội và qua đó, dư
luận xã hội tác động tới tâm trạng của con người trước luật pháp.
Tâm lý pháp luật không chỉ biểu hiện ở tình cảm pháp luật, tâm trạng
của con người trước luật pháp, mà nó còn được biểu hiện ra ở việc các cá
nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử của mình trong môi trường điều chỉnh
của pháp luật. Hành vi pháp luật của con người, trong chừng mực nhất định,
chính là sự hiện thân của tình cảm pháp luật và tâm trạng trước luật pháp
của họ. Cách thức mà mỗi cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử của mình có
thể biểu hiện dưới dạng cảm xúc, như tự hào, phấn khởi hay e ngại, xấu hổ, lo

lắng... Những phán xét, đánh giá (khen - chê, biểu dương - lên án...) của dư
luận xã hội đối với hành vi của các cá nhân, ở một mức độ nào đó, đều tham
gia vào việc điều chỉnh hành vi pháp luật của cá nhân. Nói cách khác, dư luận
xã hội, trong trường hợp này, là "tấm gương" để mỗi cá nhân tự soi mình vào
đó mà định hướng, điều chỉnh hành vi ứng xử của bản thân. Sức mạnh đặc
trưng của dư luận xã hội khiến cho mỗi cá nhân luôn phải suy nghĩ, xem xét
Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 13


HANOI LAW UNIVERSITY

CLASS: N03 - GROUP: 2

trước khi thực hiện một hành vi pháp luật nào đó: hành vi đó đúng hay sai?
phù hợp hay không phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành? Nếu
thực hiện một hành vi nào đó thì có bị dư luận xã hội lên án hoặc phải chịu sự
xử lý theo các nguyên tắc luật định không? Điều đó cho thấy, dư luận xã hội
luôn có tác động tới cách thức mà mỗi cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử
của mình.

III. Kết luận:
Dư luận xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như:
tâm lý học, chính trị học, sử học và đặc biệt là xã hội học. Nếu như tâm lý học
nghiên cứu dư luận xã hội dưới dạng nghiên cứu tâm lý đám đông, vô thức
tập thể; các nhà chính trị học, sử học nhấn mạnh tới vai trò của dư luận xã
hội trong các quá trình quản lý xã hội, và ảnh hưởng của nó đối với các chính
sách của chính phủ thì xã hội học đi vào bản chất xã hội của dư luận xã hội. Xã
hội học tập trung mối quan tâm của mình vào quá trình hình thành, phổ biến,
tiếp nhận dư luận xã hội, tác động của dư luận xã hội đối với các mặt hoạt
động của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị,… ) và từng nhóm xã hội, cũng như

chú trọng đến việc đo đạc dư luận xã hội.
Trong lịch sử xã hội loài người, dư luận xã hội đã từng đóng vai trò điều
hoà các mối quan hệ xã hội, định hướng hành vi xã hội của con người ngay cả
khi trong xã hội chưa có sự phân hoá giai cấp, chưa xuất hiện nhà nước và
pháp luật, cũng có nghĩa là chưa có ý thức pháp luật đó là xã hội nguyên thuỷ.
Sức mạnh to lớn của dư luận xã hội xuất phát từ vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân trong lịch sử. Sự gia tăng vai trò của các tầng lớp nhân dân
trong xã hội đã dẫn đến sự gia tăng hiệu lực và tính hiện thực của dư luận xã
hội, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thẩn làm cải biến xã hội.

Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 14


HANOI LAW UNIVERSITY

CLASS: N03 - GROUP: 2

Danh mục tài liệu tham khảo.
1. Tập bài giảng xã hội học – Trường Đại học Luật Hà Nội

2. TS. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010;
Ngọ Văn Nhân, Sự tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật
của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp chí dân chủ và pháp
luật, số 5(158)/2004, tr. 22 - 27;
3.
4.
5.

Nguyễn Thị Minh Hồng MSSV: 360256Page 15




×