Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Tìm hiểu thực trạng nhận thức của học sinh THPT về Giáo dục giới tính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.1 KB, 90 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường là sự xuất hiện của nhiều thứ văn hóa phẩm không lành mạnh có ảnh
hưởng rất lớn đến trẻ ở lứa tuổi vị thành niên (VTN). Theo số liệu cuộc tổng
điều tra dân số năm 1999 ở nước ta VTN chiếm 22.7% dân số và hiện nay VTN
có thai ngoài ý muốn, nạo phá thai và nhiễm HIV/AIDS, các bệnh lây nhiễm qua
đường tình dục ngày càng tăng, đặc biệt là các thành phố lớn [9].
Tuổi dậy thì là một giai đoạn phát triển quan trọng của một con người, nó
xuất hiện với những biểu hiện thay đổi rất đặc trưng về mặt tâm sinh lý. Đó là
giai đoạn từ tuổi thơ đang dần trở thành người lớn với sự trưởng thành cả về thể
chất và tâm hồn rất sâu sắc. Trong thời kỳ này trẻ bắt đầu có những băn khoăn,
suy nghĩ về sự biến đổi của cơ thể, những khác biệt giới tính giữa nam và nữ,
và với những nhu cầu về tình bạn, tình yêu, tình dục…Tuổi dậy thì ở mỗi nền
văn hóa có những đặc điểm riêng nhưng nói chung đều bộc lộ sự thay đổi về
nhân cách và tâm lý, trẻ VTN luôn muốn thử sức, luôn muốn tự khẳng định,
thích mạo hiểm nhưng khi gặp khó khăn, đau buồn hay thất bại lại chưa đủ
bản lĩnh để lí giải, chống chọi và vượt qua. Chính trong thời điểm này nhu
cầu được giáo dục giới tính (GDGT) ở trẻ vị thành niên là rất cao đặc biệt là
giai đoạn đầu của tuổi dậy thì - giai đoạn trẻ rất cần được sự giúp đỡ, giáo
dục để hình thành nhân cách xã hội và phát triển định hướng giáo dục giới
tính nhằm xây dựng mối quan hệ lành mạnh và có trách nhiệm với bạn bè, gia
đình, biết tôn trọng bản thân và bạn khác giới.
Nhà giáo dục học Makarenco đã từng khẳng định “GDGT chỉ là một khía
cạnh của giáo dục toàn diện và không thể tách rời ra được, như một cánh tay
dính liền với cơ thể. Muốn cho cánh tay khỏe mạnh thì phải làm cho toàn bộ cơ
thể khỏe mạnh và ngược lại nếu có cơ thể khỏe mạnh về mọi mặt chỉ có cánh tay
GDGT là bị bỏ bê và nhức nhối thì người đó không thể thưởng thức sự lành
mạnh của phần cơ thể còn lại" [4]. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc



GDGT cho trẻ VTN và không thể xem GDGT như là một điều mới lạ trẻ phải
học ở trường khi tới tuổi dậy thì.
Tuổi vị thành niên nói chung, học sinh phổ thông trung học nói riêng rất
cần có nhận thức đúng đắn về giới tính, tình yêu, cần được trang bị kiến thức về
giới tính và tình dục cũng như các biện pháp tránh thai. Ở Việt Nam hiện nay,
theo chương trình giáo dục mà Bộ Giáo Dục Đào Tạo quy định thì giáo dục giới
tính đã được đưa vào giảng dạy lồng ghép từ cấp THCS. Vậy thực trạng nhận
thức của các em học sinh THPT về GDGT hiện nay ra sao? Tình trạng dạy và
học GDGT như thế nào? Những nguyên nhân nào dẫn tới nhận thức của học
sinh THPT về vấn đề GDGT?...Với tất cả những lí do trên tôi tiến hành đề tài
nghiên cứu:
Tìm hiểu thực trạng nhận thức
của học sinh THPT về Giáo dục giới tính
(nghiên cứu trường hợp trường THPT Ngô Quyền, TP Thái Nguyên)
2. Ý nghĩa khoa học - ý nghĩa thực tiễn
2.1 Ý nghĩa khoa học.
Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ một số lý thuyết xã hội học
như: Lý thuyết cấu trúc chức năng, lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết nhu
cầu, lý thuyết vai trò.
Kết quả nghiên cứu giúp tìm hiểu thực trạng nhận thức của học sinh
THPT về GDGT đồng thời cũng làm rõ vai trò của nhà trường, gia đình và xã
hội trong việc GDGT cho học sinh THPT.
2.2 Ý nghĩa thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu còn giúp học sinh THPT có nhận thức sâu sắc
về vấn đề GDGT cũng như nhu cầu được GDGT. Nhận thức được điều đó sẽ
giúp các em trang bị kiến thức đầy đủ về GDGT, giải quyết được những băn
khoăn, thắc mắc cũng như những sai lầm trong giai đoạn tuổi dậy thì.
Kết quả nghiên cứu còn giúp gia đình, nhà trường và cộng đồng xã hội
hiểu rõ vai trò quan trọng của mình trong việc GDGT cho học sinh THPT.



Giúp các nhà quản lý, nhà khoa học tham khảo, đưa ra những biện pháp
cũng như phương án giúp học sinh THPT có kiến thức toàn diện hơn về vấn đề
này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng nhận thức của học sinh THPT về
vấn đề GDGT cũng như các yếu tố tác động đến nhận thức này. Qua đó đưa ra
một số khuyến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng GDGT cho trẻ em vị
thành niên.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.
• Thực trạng nhận thức của học sinh THPT về GDGT
• Phân tích một số yếu tố tác động đến nhận thức của học sinh THPT về
vấn đề GDGT
• Đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp về vấn đề nghiên cứu góp phần
nâng cao nhận thức của học sinh THPT về vấn đề này.
4.Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu, mẫu nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng nhận thức của học sinh THPT về Giáo dục giới tính.
4.2 Khách thể nghiên cứu
Học sinh trường THPT Ngô Quyền, TP Thái Nguyên
4.3 Phạm vi nghiên cứu
• Phạm vi khảo sát
Trường THPT Ngô Quyền, TP Thái Nguyên
• Thời gian khảo sát
Từ ngày 3 đến 7 tháng 5 năm 2007
4.4 Mẫu nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên số liệu thu thập được từ 150 bảng hỏi cho học
sinh lớp 10, 11, 12 trường THPT Ngô Quyền, TP Thái Nguyên với cơ cấu mẫu
như sau:

• Số lượng mẫu:

150 phiếu


• Cơ cấu giới tính:

Nam : 45.3%
Nữ: 54.7%

• Cơ cấu năm học:

Lớp 10: 34%
Lớp 11: 34%
Lớp 12: 32%

• Cơ cấu học lực:

Yếu: 1.33%
Trung bình: 19.33%
Khá: 68%
Giỏi: 11.33%

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
* Chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện với tính cách là phương pháp
luận khoa học để nhận thức và giải thích các hiện tượng và các quá trình của đời
sống xã hội trong mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau có tính quy luật giữa chúng,
đi tìm nguồn gốc của các quá trình xã hội ở trong những mâu thuẫn biện chứng
khách quan nội tại của chúng.

Do vậy khi nghiên cứu thực trạng về nhận thức của học sinh THPT về vấn
đề GDGT cũng phải xem xét trên nhiều khía cạnh, đặt đối tượng nghiên cứu
trong mối quan hệ với các yếu tố khác. Ở đây, với mong muốn tìm hiểu thực
trạng nhận thức của học sinh THPT về vấn đề GDGT cần phải xem xét quá trình
tiếp nhận những kiến thức về GDGT ở nhà trường, gia đình và xã hội ra sao,
quá trình có tác động như thế nào đến nhận thức của học sinh về vấn đề giới
tính.
* Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và
tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường
cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
cũng chỉ ra rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản
ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. ở trong nhiều thời kỳ lịch sử
khác nhau, có những lí luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau là do những
điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quy định.


Vì vậy, khi giải thích các hiện tượng xã hội và những biến đổi của nó, chủ
nghĩa duy vật lịch sử xuất phát từ những điều kiện hiện thực của sự hoạt động
của con người trong thời đại cụ thể
Khi nghiên cứu thực trạng nhận thức của học sinh THPT về vấn đề giáo
dục giới tính cần đặt vấn đề nghiên cứu trong sự phát triển biến đổi của đất nước
về mặt kinh tế, xã hội, văn hoá để có thể hiểu được những khía cạnh khác nhau
tác động đến quá trình tiếp thu kiến thức GDGT của học sinh cũng như những
biến đổi trong vai trò giáo dục nhận thức cho học sinh của nhà trường.
Những nguyên tắc và quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đóng vai trò
nền tảng và là cơ sở phương pháp luận của toàn bộ quá trình nghiên cứu đề tài.
5.2 Phương pháp thu thập thông tin cụ thể
• Phương pháp phân tích tài liệu
Trong quá trình nghiên cứu có thu thập, phân tích và tham khảo tài liệu,
các công trình nghiên cứu và báo cáo khoa học có liên quan đến đề tài nhằm làm

rõ cơ sở lý luận và tổng quan của đề tài, góp phần bổ sung cho những nhận định
của mình.
Ngoài ra đề tài còn sử dụng, phân tích các báo cáo về địa bàn nghiên cứu.
• Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp điều tra khảo sát qua bảng hỏi
với kích thước mẫu là 150, nghiên cứu được tiến hành đối với học sinh lớp 10,
lớp 11, lớp 12 trường THPT Ngô Quyền, TP Thái Nguyên. Cách chọn mẫu là
ngẫu nhiên thuận tiện. Mỗi khối chọn đại diện 3 lớp.
Đề tài sử dụng các thông tin định lượng thu được từ bảng hỏi dưới dạng
thông tin đã xử lý bằng chương trình SPSS 13.0
• Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp này được thực hiện để thu thập những thông tin định tính,
nhằm làm phong phú thêm cho những thông tin định lượng. Đặc biệt phương
pháp này tập trung chủ yếu vào những ý kiến của các em học sinh về vai trò của
nhà trường, gia đình, các phương tiện truyền thông đại chúng trong việc giáo
dục giới tính. Qua đây đi sâu tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em để làm rõ


hơn vấn đề nghiên cứu của mình. Phỏng vấn sâu được tiến hành với số lượng là
5 mẫu trong đó có 4 đối tượng là học sinh và 1 đối tượng là giáo viên trường
THPT Ngô Quyền với các đặc điểm khác nhau về giới tính, khối học.
6. Giả thuyết nghiên cứu
• Học sinh trường THPT Ngô Quyền đã có những hiểu biết về vấn đề
GDGT nhưng chỉ dừng lại ở mức độ tìm hiểu những kiến thức chung về
lĩnh vực giới tính.
• Gia đình, nhà trường, nhóm bạn bè có vai trò quan trọng trong việc
GDGT cho học sinh THPT. Tuy vậy, vẫn còn có những lĩnh vực bị bỏ
ngỏ như: quan hệ với bạn khác giới, vấn đề tình dục và quan hệ tình
dục… Học sinh thường tìm đến các phương tiện truyền thông đại chúng
để lấp đầy những kiến thức còn thiếu hụt.



7. Khung lý thuyết

Điều kiện kinh tế xã hội

Học sinh trường THPT
Ngô Quyền

Thực trạng nhận thức của học sinh
THPT Ngô Quyền về GDGT
7
Tâm lý
tuổi dậy
thì

Cơ quan
sinh dục
nam nữ

Tình bạn

Tình yêu

Tình dục

biện
CácCác
bệnh
pháp

lây
tránh
truyền thai
qua
đường
tình dục


NỘI DUNG CHÍNH


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
• Thuyết hành động xã hội
Các tác giả nổi tiếng của thuyết này như Weber, Parson,… đều coi hành
động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ con người - xã hội, là cơ sở của đời sống
xã hội của con người. Theo Weber, hành động xã hội là hành vi được chủ thể
gắn cho một ý nghĩa chủ quan nhất định. Và cái mà Weber gọi là "ý nghĩa chủ
quan" chính là ý thức , là hành động có ý thức, chủ thể hiểu được mình định
thực hiện hành động gì? và sẽ thực hiện nó như thế nào? khác hẳn với những
hành động bản năng sinh học.
Hành động xã hội có tính chuẩn mực, luôn phụ thuộc vào hệ giá trị chuẩn
mực của xã hội. Nhận thức của học sinh THPT về vấn đề GDGT đều được điều
chỉnh bởi quan niệm của xã hội về giá trị chuẩn mực đã được các thành viên trong
xã hội chấp nhận vì vậy nhận thức và hành vi về vấn đề GDGT của các em không
thể không tính đến hệ giá trị - chuẩn mực của xã hội.
Hành động có tính duy lý, nghĩa là phụ thuộc vào nhận thức chủ quan
của chủ thể. Các cá nhân một mặt tuân theo hệ giá trị chuẩn mực của xã hội,
mặt khác vẫn hành động rất khác nhau, chứ không nhất thiết theo khuôn mẫu
cứng nhắc. Vì vậy các cá nhân tuỳ thuộc vào nhu cầu, mức độ quan tâm của

mình mà có những nhận thức và hành vi khác nhau về vấn đề GDGT.
• Thuyết cấu trúc - chức năng.
Theo lý thuyết câú trúc chức năng thì xã hội là một hệ thống tương đối
chặt chẽ được cấu thành từ các tiểu hệ thống. Đến lượt mình mỗi tiểu hệ thống
lại được coi là một hệ thống được cấu thành từ các tiểu hệ thống nhỏ hơn...Mỗi
bộ phận của hệ thống hoặc tiểu hệ thống đều giữ những vai trò nhất định phù
hợp nhằm duy trì sự ổn định và đảm bảo sự phát triển của toàn bộ hệ thống. Mở
rộng ra cho bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào trong xã hội cũng đều có những


chức năng riêng của mình, mà nếu thiếu đi sự vật, hiện tượng ấy cùng những
chức năng tương ứng của nó thì xã hội không thể tồn tại được.
Vận dụng quan điểm này có thể xem xét nhà trường, gia đình và cộng
đồng xã hội là những tiểu hệ thống và hoạt động giáo dục tri thức khoa học cũng
như GDGT là những tiểu hệ thống nhỏ hơn. Và trong đời sống xã hội nếu thiếu
đi bất cứ một tri thức nào thì con người khó có thể phát triển bình thường. Việc
Giáo dục giới tính cho các em học sinh THPT phải được xem là việc cần làm ngay
và là trách nhiệm của cả gia đình, nhà trường và xã hội nhằm giúp các em có thể
phát triển một cách hài hoà về thể chất và tâm hồn
• Lý thuyết nhu cầu của Maslow.
Nhu cầu thể hiện sự đòi hỏi của cơ thể sống đối với môi trường bên ngoài
thể hiện thành những ứng xử tìm kiếm, nếu không thì thiếu những điều kiện tồn
tại và phát triển.
Maslow là người đầu tiên đưa ra hệ thống các nhu cầu của con người.
Thuyết về thang phân cấp nhu cầu của ông được chia thành 5 bâc: từ nhu cầu vật
chất đến nhu cầu hoàn thiện và phát huy tiềm năng của bản thân.
1. Các nhu cầu về sinh lý: ăn, ngủ...
2. Các nhu cầu về an toàn an sinh.
3. Nhu cầu về xã hội văn hoá.
4. Nhu cầu tự trọng

5. Nhu cầu tự thể hiện, tự khẳng định.
Mọi hành vi của con người đều do sự thúc đẩy của những nhu cầu nhất
định. Mỗi cá nhân khác nhau trong hoàn cảnh khác nhau sẽ có nhu cầu khác
nhau và ở cấp bậc khác nhau, nhưng phải đáp ứng được nhu cầu bậc thấp mới đi
đến đáp ứng được nhu cầu bậc cao hơn.


Sử dụng lý thuyết này vào đề tài nghiên cứu để chỉ ra rằng: việc trẻ trong
độ tuổi dậy thì có nhu cầu được hiểu biết các vấn đề về giới tính là tất yếu nhằm
đáp ứng nhu cầu của chính bản thân các em.
• Lý thuyết vai trò
Theo Ralph Linton, vai trò là một quan điểm cơ bản trong lý thuyết xã hội
học nó đánh giá cao những mong đợi xã hội gắn với những vị thế cụ thể và phân
tích thực hiện những mong đợi. Mỗi cá nhân có một loại vai trò được đem lại từ
những hình mẫu xã hội khác nhau mà anh ta tham dự. Trong tiến trình cuộc đời
của mỗi cá nhân thực hiện một số những vai trò khác nhau lần lượt hoặc đồng
thời và tổng hợp tất cả các vai trò xã hội của anh ta được thực hiện từ khi sinh ra
cho đến lúc chết tạo thành nhân cách xã hội của anh ta. Ralph Linton nói chúng
ta giữ địa vị nhưng chúng ta đóng các vai trò. Vai trò và địa vị không thể tách
rời nhau. Không thể có vai trò mà không có địa vị hoặc ngược lại. Vai trò trở
thành tập hợp các quyền và nghĩa vụ đã được thể chế hoá có nghĩa là với vị trí
mà các nhân xã hội hay tổ chức nắm giữ thì chủ thể xã hội đó cần thực hiện tốt
những mong đợi, bổn phận, trách nhiệm ở vị trí đó.
Ở đề tài này có thể thấy vai trò của nhà trường, gia đình và cộng đồng
xã hội là có trách nhiệm giáo dục những tri thức khoa học cũng như những
tri thức xã hội cho học sinh. Vai trò đó được thực hiện khi nhà trường, gia
đình, cộng đồng xã hội tham gia vào việc giáo dục học sinh thoả mãn những
mong đợi của xã hội đối với nghĩa vụ và trách nhiệm của trường học.
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chưa bao giờ GDGT được quan tâm nhiều như hiện nay trên phạm vi

toàn thế giới, nhất là sau hai hội nghị quốc tế ở Cairo 1994 ( Dân số và phát
triển) và Bắc Kinh 1995 ( Diễn đàn phụ nữ) vì xã hội đã nhận thấy những nguy
cơ hiển nhiên của việc không coi trọng đúng mức ý nghĩa giáo dục và phòng
ngừa của bộ môn GDGT này.


Hầu hết các nước Châu Âu đều coi GDGT là một vấn đề lành mạnh. Còn
ở nhiều nước Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, vấn đề GDGT vẫn được
coi là vấn đề “ nhạy cảm” do xuất phát từ tư tưởng phong kiến. Nhưng trong
những năm trở lại đây, trước xu thế phát triển của xã hội, vấn đề GDGT được đề
cập nhiều hơn trên các phương tiện truyền thông đại chúng qua sách báo, TV.
Cuốn sách “ Sức khoẻ vị thành niên” là tài liệu do Trung tâm Bảo vệ bà
mẹ trẻ em kế hoạch hoá gia đình hợp tác với Thụy Điển đem lại những thông tin
quý giá giúp định hướng hành động GDGT và chăm sóc SKSS vị thành niên.
Cuốn sách “ Giáo dục giới tính vì sự phát triển của vị thành niên” của bác
sĩ Đào Xuân Dũng đã cho thấy sự cần thiết phải GDGT cho trẻ ở độ tuổi vị
thành niên.
TS Hoàng Bá Thịnh chủ biên với cuốn sách " Một số nghiên cứu về SKSS
ở Việt Nam sau Cairo" của NXB Chính trị quốc gia.
Ngoài những cuốn sách nói về GDGT phải kể đến các công trình nghiên
cứu, các bài báo trên tạp chí.
Trường ĐH Y Thái Bình với “ báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu SKSS Vị
thành niên ở 5 tỉnh của Việt Nam” Nghiên cứu cho biết tỉ lệ VTN có được thông
tin từ nhà trường trong các lĩnh vực SKSS.
Nguyễn Linh Khiếu với bài viết “ Tình bạn, tình yêu, tình dục tuổi vị
thành niên” (t/c Khoa học về phụ nữ, số 3/2000). Bài viết là kết quả nghiên cứu
khía cạnh tình bạn, tình yêu trong một dự án về SKSS vị thành niên năm 1998.
Một bài báo khác đăng trên t/c Khoa học về Phụ nữ, số 3/2003 của
Nguyễn Phương Thảo, “ Vị thành niên và vấn đề Sức khoẻ sinh sản” Bài viết
phân tích hiểu biết của VTN về những nội dung cơ bản của SKSS như: tuổi dậy

thì, tình dục, mang thai, các biện pháp tránh thai...
Tạp chí Khoa học và phụ nữ số 3/2001 của các tác giả Đoàn Kim Thắng
và Dương Chí Thiện đã có nghiên cứu về “ Giáo dục giới tính và SKSS VTN”.
Bài viết đã đưa ra thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của trẻ em VTN đối
với giáo dục SKSS VTN và GDGT.


Nghiên cứu khác được thực hiện tại Hà Nội với nội dung “ Nhu cầu
GDGT và SKSS của học sinh THPT” nghiên cứu trường hợp 4 trường nội thành
Hà Nội ( tạp chí XHH số 4, 2002) của 3 tác giả Đoàn Kim Thắng, Phạm Thị
Văn, Phạm Quốc Thắng. Nghiên cứu nêu lên thực trạng nhận thức, thái độ, hành
vi và nhu cầu học sinh THPT về GDGT.
Ngoài ra còn các khoá luận tốt nghiệp
“ GDGT cho con cái trong gia đình hiện nay” năm 1997 của Phạm Thị
Kim Xuyến.
“Tìm hiểu nhận thức và hành vi chăm sóc SKSS của VTN Việt Nam hiện
nay” của Bùi Thu Hương năm 2002
“Vai trò của cha mẹ trong việc Giáo dục SKSS VTN trong các gia đình
công nhân viên chức ở thị xã Tam Điệp, Ninh Bình hiện nay” của Nguyễn
Thanh Hương năm 2005.
Tuy nhiên có rất ít các đề tài nghiên cứu về thực trạng nhận thức của học
sinh THPT về vấn đề GDGT. Việc dạy và học GDGT trong các trường THPT
hiện nay ra sao? Nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội đóng vai trò như thế
nào trong việc GDGT. Đề tài nghiên cứu này mong muốn làm rõ những vấn đề
trên.


1.3. Một số khái niệm công cụ
1.3.1 Nhận thức.
Theo nghĩa triết học, nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện

thực ở trong tư duy của con người, được quy định bởi những quy luật phát triển
xã hội và không thể tách rời với thực tiễn. Mục tiêu của nhận thức là đạt đến
chân lý khách quan. Quá trình nhận thức: thu thập kiến thức, hình thành khái
niệm về hiện tượng thực tế giúp con người hiểu biết về thế giới xung quanh.
Quá trình nhận thức là để tích luỹ tri thức, tích luỹ kinh nghiệm từ đó cải tạo thế
giới.
Như vậy, nhận thức là sự phản biện biện chứng thế giới khách quan vào
trong bộ óc của con người, là quá trình xâm nhập ý chí con người vào hiện thực
làm cho hiện thực chịu sự chi phối của chủ thể và quá trình nhận thức chính là
quá trình con người làm phong phú thêm tri thức bằng những tri thức mới.
Nhận thức nảy sinh, bộc lộ và phát triển trong sự tương tác giữa chủ thể
nhận thức và khách thể nhận thức trong quá trình phản ánh hiện thức khách
quan.
Chủ thể nhận thức là con người, trong tính hiện thực của nó,mà bản chất
con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Con người với tư cách là chủ thể
nhận thức, nhận thức của con người bị chi phối bởi các yếu tố sau:
 Nhu cầu lợi ích: mỗi cá nhân, nhóm người đều có những nhu cầu
lợi ích nhất định.
 Truyền thống văn hoá dân tộc và điều kiện kinh tế xã hội khác nhau
được phản ánh khác nhau ở những người khác nhau.
 Các tri thức của thế hệ trước để lại đối với tong cá nhân có sự kế
thừa hay bác bỏ ảnh hưởng rất lớn tới nhận thức của họ.
 Đặc điểm tâm sinh lý của từng người: Vì chủ thể nhận thức là con
người nên phụ thuộc nhiều vào đặc điểm sinh học di truyền, bẩm
sinh.
 Trình độ phát triển cụ thể của mỗi cá nhân về mặt sinh học.


Khách thể nhận thức: Là đối tượng mà nhận thức hướng vào, khách thể
nhận thức không đồng nhất với thế giới vật chất vì khách thể nhận thức không

những chỉ hướng vào thế giới vật chất mà còn hướng vào thế giới tinh thần.
Khách thể nhận thức của nghiên cứu này là toàn bộ quá trình giáo dục
giới tính bao gồm: nội dung GDGT, công tác tuyên truyền giáo dục, …
Giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức có mối quan hệ biện
chứng không thể tách rời trong quá trình nhận thức. Khách thể nhận thức được
phản ánh mang đậm tính cá nhân thông qua cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tư
tưởng…làm cho chủ thể nhận thức có thái độ, tình cảm đối với khách thể nhận
thức và hành động tương ứng.
Hoạt động xã hội và nhận thức có mối quan hệ biện chứng. Cội nguồn của
nhận thức là tính tích cực hoạt động, hiệu quả hoạt động phụ thuộc vào nhận
thức. V.I Lênin đã viết:" Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng đến thực
tiễn đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực
tại khách quan"
Nhận thức là sự phản ánh thế giới xung quanh," nhận thức là biết được,
hiểu được, ý thức được" thế giới xung quanh thông qua các hoạt động thực tiễn
và từ sự nhận thức đó con người tiến hành các hoạt động thực tiễn, thông qua đó
nâng cao hiểu biết của mình.
1.3.2 Khái niệm vị thành niên:
Vị thành niên là thời kỳ chuyển đổi từ trẻ con thành người lớn. Nó được
đánh dấu bằng những thay đổi xen lẫn nhau về thể chất, trí tuệ và mối quan hệ
xã hội chuyển từ giản đơn sang phức tạp ( WHO, 1979). Thời kỳ này kéo dài
khoảng 10 năm từ 10 – 19 tuổi, có trường hợp đến 21 tuổi. Đây là giai đoạn đứa
trẻ có nhiều biến động lớn về thể chất, tâm lý, phát triển trí tuệ, về mối quan hệ
với bạn cùng lứa tuổi, với thầy cô giáo, với cha mẹ và đặc biệt có sự thay đổi về
hoạt động chức năng sinh sản. Những thay đổi vừa phức tạp vừa đột biến đến
mức đã có người định nghĩa “ Vị thành niên là một thời kỳ bão tố của những dao
động lớn giữa những điều cực kỳ trái ngược nhau”(Neillk,1979)


1.3.3 Khái niệm giáo dục

Theo từ điển tiếng việt: “ Giáo dục là những hoạt động nhằm tác động
một các hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó
làm cho đối tượng này dần có được những phẩm chất, năng lực, những yêu cầu
đặt ra” [12]
Theo Nguyễn Sinh Huy và Nguyễn Văn Lê (Giáo dục học đại cương,
NXB Giáo dục, 1999)
Giáo dục theo nghĩa hẹp : "bao gồm quá trình hoạt động nhằm tạo ra cơ
sở khoa học của thế giới quan, lý tưởng đạo đức, thái độ thẩm mỹ đối với hiện
thực của con người, kể cả việc phát triển nâng cao thể lực. Quá trình này được
xem là một bộ phận của quá trìn giáo dục tổng thể, kết quả không chỉ được xem
xét về ý thức mà căn cứ trên hành vi, thói quen, hiểu biết của trình độ phát triển
( cao hay thấp) của trình độ có giáo dục của mỗi người” [5]
Theo các nhà xã hội học thì giáo dục là tất cả các dạng hoạt động của con
người, ở đâu có sự giao lưu hoạt động, truyền đạt và lĩnh hội những giá trị, kinh
nghiệm xã hội thì ở đó có giáo dục. Khi đó giáo dục đồng nghĩa với xã hội hoá.
Nhà XHH người Nga Andreeva định nghĩa: “ Xã hội hoá là một quá trình hai
mặt, một mặt cá nhân tiếp nhận những kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập
vào môi trường xã hội hoá. Mặt khác sản xuất một cách chủ động hệ thống vào
mối quan hệ xã hội”
1.3.4 Khái niệm giới tính:
Theo từ điển tiếng việt: “ Giới tính là sự khác biệt sinh học giữa nam và
nữ” [12]
1.3.5 Khái niệm giáo dục giới tính
Giáo dục giới tính là một bộ phận hữu cơ của giáo dục đời sống gia đình,
giúp thế hệ trẻ:


• Có những hiểu biết cơ bản về các đặc điểm giới tính, về quá trình sinh sản
ở người, về các bệnh lây lan do quan hệ tình dục.
• Có ý thức và biết đánh giá đúng đắn hành vi của mình và của người khác

trong mối quan hệ với người khác giới, xây dựng đúng đắn tình bạn, tình
yêu chân chính.
• Chuẩn bị về mặt tâm lí và thực tiễn cho cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, tư
cách làm cha, làm mẹ trong tương lai
( Từ điển Bách khoa Việt Nam 2, NXB từ điển Bách khoa Hà Nội, 2002)
Như vậy, Giáo dục giới tính nhằm giáo dục mối quan hệ nhân văn và có
trách nhiệm giữa nam và nữ trên các khía cạnh sinh học, sức khoẻ sinh sản và tính
dục. GDGT là một khoa học liên ngành ( tâm lý, y học, xã hội học).
Giáo dục giới tính là sự chuẩn bị cho thanh thiếu niên những hiểu biết để
bước vào đời để để biết ứng xử với nhau một cách tôn trọng và có trách nhiêm
và cũng để biết tự bảo vệ sức khoẻ sinh sản.
1.4. Tổng quan địa bàn nghiên cứu
Trường THPT Ngô Quyền nằm ở phía tây thành phố Thái Nguyên, trên
địa bàn phường Thịnh Đán. Trường được thành lập từ năm 1966. Lúc đầu là
trường cấp 3 Đồng Hỷ ( từ năm 1966 - 1986). Sau đó, tháng 9 năm 1986 được
đổi tên là trường THPT Ngô Quyền - TP Thái Nguyên. Trường thu hút học sinh
ở 7 xã phường miền tây TP Thái Nguyên: phường Thịnh Đán, phường Tân
Thịnh, phường Thịnh Đức, xã Quyết Thắng, xã Phúc Trừu, xã Phúc Xuân và xã
Bình Sơn.
Trong những năm gần đây, trường đã ổn định về cơ cấu, số lượng và quy
mô đào tạo.
• Về cơ sở vật chất:
Trường THPT Ngô Quyền có diện tích khuôn viên là 25.000 m2.
Trường có 20 phòng học đủ bàn ghế, quạt, điện cho học sinh học tập.
Ngoài ra còn có các phòng chức năng như: khu hiệu bộ, phòng tin học với 25


máy tính, phòng thư viện, phòng thí nghiệm, phòng dạy giáo án điện tử, hội
trường nhà đa năng và sân chơi, sân tập giáo dục thể chất và giáo dục quốc
phòng.

• Về đội ngũ giáo viên:
- Tổng số giáo viên: 61 người
- Đảng viên: 24 người
- Trình độ:

Thạc sĩ: 7 giáo viên
Đại học: 62 giáo viên
Cao đẳng, trung cấp: 6 giáo viên

- Độ tuổi:

Dưới 30 tuổi: 4 giáo viên
Từ 31- 40 tuổi: 23 giáo viên
Từ 41 - 50 tuổi: 41 giáo viên

- Trường có 6 tổ bộ môn:
Tổ Toán - Tin: 15 giáo viên
Tổ Văn: 10 giáo viên
Tổ Lý - Hoá: 13 giáo viên
Tổ Xã hội: 8 giáo viên
Tổ Ngoại ngữ: 6 giáo viên
Tổ Sinh - Thể: 9 giáo viên
• Về đội ngũ học sinh:
Có 31 lớp ( 29 lớp công lập, 2 lớp bán công) với tổng số học sinh: 1540
học sinh trong đó 1425 học sinh công lập, 115 học sinh bán công
Khối 10: 10 lớp công lập : 521 học sinh
Khối 11: 10 lớp công lập : 508 học sinh
Khối 12: 11 lớp - 511 học sinh (396 học sinh công lập -115 học
sinh bán công)
Trong đó


Nam: 808 học sinh
Nữ: 732 học sinh

( Nguồn: Báo cáo thực hiện nhiệm vụ năm học 2006 - 2007)



CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH TRƯỜNG
THPT NGÔ QUYỀN VỀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
2.1. Đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi vị thành niên.
Vị thành niên (VTN) là những người ở lứa tuổi từ 10-19. Năm 1998,
trong một tuyên bố chung giữa Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Quỹ Nhi đồng
Liên hợp quốc (UNICEF) và Quỹ Dân số liên hợp quốc (UNFPA) đã thống nhất
phân loại nam nữ còn trẻ tuổi thành 3 loại như sau:
Vị thành niên ( Adolescent) : 10 - 19 tuổi.
Thanh niên ( Youth): 15 - 24 tuổi.
Người trẻ (yong people): 10 - 24 tuổi.
Với định nghĩa nói trên, VTN chiếm 20% dân số thế giới. Trong khi khái
niệm thanh niên khác nhau theo từng nền văn hoá thì toàn thế giới ngày càng
nhất trí rằng tuổi VTN là một giai đoạn khác biệt và quan trọng trong cuộc sống
con người.
Trong nghiên cứu này thì chú ý đến VTN ở lứa tuổi từ 15 -17 tuổi ( đang
học THPT). Đây là lứa tuổi đã và đang trong giai đoạn dậy thì, là giai đoạn thay
đổi một cách toàn diện về tâm sinh lý và tình cảm ở mỗi cá nhân.
 Về thể chất:
Thời kỳ dậy thì ở tuổi VTN trong giai đoạn này diễn ra sự thay đổi mạnh mẽ
về thể chất như: sự thay đổi của cơ thể, phát triển và hoàn thiện về chiều cao, cân
nặng…Ở nước ta, theo một số chương trình nghiên cứu khoa học, tuổi dậy thì của
các em chậm hơn từ 1 -3 năm so với thế giới. Các em gái Việt Nam có tuổi dậy thì

khoảng 12 tuổi, chậm vào khoảng 18 tuổi. Các em gái ở đô thị thường bước vào
tuổi dậy thì sớm hơn các em gái ở nông thôn.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay thì tuổi dậy thì của các em ngày nay
đến sớm hơn thế hệ trước. Một số liệu cụ thể sau đây cho thấy: Trước khi trẻ lên
8, trọng lượng toàn bộ bắp thịt chiếm 27% trọng lượng toàn thân. Trước khi trẻ
lên 14 tuổi, trọng lượng toàn bộ bắp thịt chiếm 32% trọng lượng toàn thân. Đến


15 - 16 tuổi thì tăng vọt về trọng lượng vì chỉ riêng trọng lượng bắp thịt đã
chiếm 43% trọng lượng toàn cơ thể.
Như vậy, có nghĩa là từ 8 tuổi đến 14 tuổi trọng lượng các bắp thịt chỉ
tăng có 5%. Từ 14 - 16 tuổi trọng lượng các bắp thịt tăng lên tới 12%. Do ảnh
hưởng của một số nội tiết như tuyến giáp trạng ( bao quanh bên ngoài phía trên
cổ họng ) và tuyến yên ( như một cái mấu nằm phía dưới bộ óc) tiết ra những
chất kích thích làm xương phát triển nhanh.
Mặt khác, do tuyến yên hoạt động mạnh cho nên các tuyến sinh dục cũng
phát triển mạnh dần lên và tiết ra nhiều chất hoocmon có tác dụng thúc đẩy sự
phát triển của các cơ quan có chức năng thực hiện quá trình sinh đẻ sau này. Vì
vậy thời ký này về mặt chuyên môn người ta goi sự biến đổi trong cơ thể các em
là sự phát dục [3].
 Về tâm lý
Cùng với sự phát triển về sinh lý, thể chất của tuổi dậy thì, sự biến đổi về
tâm lý cũng diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp. Xuất hiện nhiều cảm xúc về giới
tính được bộc lộ ra mà trước đây chỉ ở dạng tiềm năng. Xuất hiện nhiều những
thắc mắc, băn khoăn lo lắng trước sự biến đổi của cơ thể.
Trong thời kỳ này, do hệ thống tuần hoàn máu nảy sinh hiện tượng mâu
thuẫn tạm thời, cụ thể là tim của các em phát triển mạnh có nhiều khả năng hoạt
động nhưng mạch phát triển chậm hơn gây trở ngại, khiến cho tim hoạt động
không đều. Hậu quả của tình trạng này là máu của óc khi tăng khi giảm. Điều
này đã ảnh hưởng đến tâm trạng của các em, nhất là các em gái "đa cảm", các

em thường có cảm giác "căng thẳng, mệt mỏi, đôi lúc hoa mắt chóng mặt. Hệ
thần kinh đối với hoạt động của hệ tim mạch chưa hoàn thiện, do đó nhiều khi
nhịp tim của các em bị kích thích nhưng thần kinh không kiểm soát được, nhịp
tăng lên đột ngột dễ gây những cảm xúc tiêu cực bột phát: giận dỗi... . [3]
Tính cách đặc trưng của lứa tuổi VTN là tính trẻ con và tính người lớn
pha trộn - một người lớn chưa đủ chín chắn, thích bắt chước người lớn nhưng lại
không có trách nhiệm của người lớn, chuẩn bị trở thành người lớn nhưng lại
chống đối và bỡn cợt cả người lớn. Chính vì tính cách đó mà VTN luôn muốn


thử sức, luôn muốn tự khẳng định , thích mạo hiểm nhưng một khi gặp khó
khăn, đau buồn, hay thất bại lại chưa đủ bản lĩnh để lí giải, chống chọi và vượt
qua, cho nên nhiều khi rơi vào trạng thái khủng hoảng tâm lí, mất cân bằng,
không làm chủ được bản thân...
Những nét cơ bản về tâm sinh lý tuổi VTN sẽ giúp chúng ta nhận biết rõ
hơn về những thay đổi của của VTN nói chung và học sinh THPT nói riêng. Đặc
biệt, đối với đề tài nghiên cứu này, việc hiểu biết một cách rõ ràng và khoa học
là một điều quan trọng và cần thiết cho việc phân tích nội dung nghiên cứu ở
chương sau. Ngoài ra, nhận thức rõ về đặc điểm tâm sinh lý của VTN còn giúp
cho việc hoạch định các hoạt động GDGT trong nhà trường, gia đình và các tổ
chức xã hội.
2.2. Nhận thức của học sinh trường THPT Ngô Quyền, TP Thái
Nguyên về GDGT
Rất nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh thanh thiếu niên ngày nay
dậy thì sớm hơn trước. Những năm cuối cấp tiểu học các em gái đã có hành
kinh. Các em trai ở năm đầu trung học cơ sở đã có hiện tượng mộng tinh, điều
đó không hiếm. Cuộc điều tra quốc gia về Vị thành niên và thanh niên (SAVY)
năm 2003 là cuộc điều tra lớn và toàn diện nhất về thanh thiếu niên ở Việt Nam
đã cho thấy rằng, tuổi trung bình có kinh nguyệt lần đầu ở nữ là 14.5 tuổi và
mộng tinh / xuất tinh ở nam là 15.6 tuổi. Cũng theo kết quả điều tra của SAVY

thì phần lớn thanh thiếu niên ở độ tuổi này chưa có quan hệ tình dục nhưng
tác động tâm lý xã hội do các thay đổi trong cơ thể có thể là những thách thức
thực sự. Nếu không được chuẩn bị sẵn tinh thần và có đầy đủ các thông tin thì
những thay đổi rất bình thường và phổ biến này ở lứa tuổi vị thành niên có
thể gây nên những hoang mang không cần thiết. Chính vì vậy việc cung cấp
thông tin về những thay đổi trong thời kì dậy thì cho nam nữ bắt đầu tuổi
thanh thiếu niên là rất cần thiết.
Trong thời gian gần đây, những nội dung của giáo dục giới tính đã được
nhiều cấp, ngành quan tâm và đã được Bộ Giáo dục đưa vào chương trình giảng
dạy từ bậc trung học cơ sở. Tuy nhiên giáo dục giới tính chưa phải là một bộ


môn riêng biệt như các bộ môn khác mà nội dung này chỉ được giới thiệu lồng
ghép vào các môn Sinh học hay Giáo dục công dân. Trong nghiên cứu này sẽ
tìm hiểu thực trạng nhận thức của học sinh THPT về vấn đề GDGT và qua đó
biết được vai trò của nhà trường, gia đình, các phương tiện truyền thông đại
chúng... trong việc GDGT cho học sinh THPT.
Như đã nói ở phần thao tác hoá khái niệm, những kiến thức về vấn đề
GDGT như sự cảm nhận về tâm lí tuổi dậy thì, tình bạn, tình yêu, tình dục, về
các biện pháp tránh thai, các bệnh lây truyền qua đường tình dục...có thể được
xem là những nội dung cơ bản trong kiến thức về lĩnh vực GDGT.
Ở độ tuổi dậy thì, cùng với những thay đổi về cơ thể thì tính tò mò của trẻ
cũng phát triển hơn. Chúng bắt đầu quan sát với những suy nghĩ và những nhận
xét riêng của mình. Đôi khi bố mẹ thực sự bối rối khi trẻ hỏi về những điều
chúng nghe và nhìn thấy qua TV hay trong đời sống hàng ngày. Và chúng không
bao giờ ngừng đi tìm câu trả lời khi chưa được giải đáp thắc mắc một cách cụ
thể. Bên cạnh những thông tin được cung cấp tại trường học, thì gia đình, bạn bè
và các phương tiện truyền thông đại chúng là những nơi mà trẻ cũng tiếp nhận
các kiến thức GDGT. Với nguồn cung cấp thông tin đa dạng, phong phú và
không có sự kiểm soát như vậy, những kiến thức về giới tính của các em hiện

nay đang ở mức độ nào? các em đang thiếu hụt về thông tin gì?
Khi hỏi 150 học sinh trường THPT Ngô Quyền có nghe về GDGT không
thì 98% (147/150) học sinh trả lời là có. Đây là điều có thể lí giải được vì
chương trình GDGT đã được lồng ghép vào môn Sinh học và Giáo dục công
dân trong nhà trường THCS. Mặc dù chưa trở thành môn học chính thức
nhưng học sinh đã được nghe, được học về một số nội dung của GDGT.
Ngoài ra, qua điều tra thì được biết trong trường THPT Ngô Quyền cũng có
tổ chức các cuộc thi, các buổi toạ đàm về GDGT. Hơn nữa, hiện nay cụm từ "
Giáo dục giới tính" đã được đề cập rất nhiều trên các phương tiện truyền
thông đại chúng như: sách báo, đài, TV, internet... Và như vậy, cụm từ "Giáo
dục giới tính" không còn xa lạ với học sinh THPT là điều dễ hiểu.


Trên cơ sở có biết về GDGT, chúng tôi đi đến tìm hiểu xem các em học
sinh trường THPT Ngô Quyền nắm được những vấn đề gì của GDGT.

Qua biểu đồ có thể thấy, tỷ lệ học sinh biết những kiến thức về GDGT là
khá cao nhưng lại có sự chênh lệch giữa các nội dung về GDGT mà các em biết
đến. 99.3% học sinh được hỏi trả lời rằng đã được cung cấp thông tin về tình
bạn, 86% là tỷ lệ học sinh được cung cấp thông tin về các bệnh lây truyền qua
đường tình dục, kiến thức về tuổi dậy thì là 85.3%, kế đến về tình yêu là 78.7%,
các biện pháp tránh thai là 78%. Những hiểu biết về tình dục chiếm tỉ lệ thấp
hơn. Chỉ có 58.7% học sinh trả lời là có biết đến những kiến thức về tình dục.
Những số liệu trên đã chứng minh rằng, các em ít nhiều đều có những
kiến thức nhất định về GDGT. Phần lớn những kiến thức của các em thường tập
trung vào những nội dung: tâm lí tuổi dậy thì, cơ quan sinh dục nam nữ, các biện
pháp tránh thai, các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Còn những kiến thức
về tình dục các em ít được cung cấp hơn. Có thể giải thích được sự khác biệt này
là do những kiến thức về cơ quan sinh dục, các biện pháp tránh thai... là những
nội dung đã được giảng dạy tại trường. Qua đó, những thông tin này được trang

bị một cách đầy đủ và khoa học. Hơn nữa, phần lớn các em tìm hiểu những kiến
thức nào mà mình quan tâm, những kiến thức có lợi cho bản thân các em như


phòng chống các bệnh lây qua đường tình dục, sự phát triển tâm sinh lý tuổi dậy
thì.
Có lẽ các vấn đề liên quan đến tình dục vẫn còn là vấn đề nhạy cảm nên
ngay cả trong gia đình, nhà trường vẫn còn khá e dè, ngại ngùng khi nói đến vấn
đề này. Có nhiều quan niệm cho rằng việc dạy GDGT cho các em ở thời điểm
này là quá sớm, là “ vẽ đường cho hươu chạy”, sẽ khiến các em nảy sinh sự tò
mò, có thể dẫn đến những hậu quả như: yêu đương sớm, bỏ bê học hành... sẽ
dẫn đến những hậu quả xấu như: quan hệ tình dục trước hôn nhân, mang thai
sớm... Nhưng thực ra không phải vậy, nếu gia đình, nhà trường không giảng dạy
cho các em thì các em cũng tự tìm hiểu để thoả mãn trí tò mò của mình. Đối với
trẻ VTN không có gì nguy hại hơn là những tri thức đó được nhận biết một cách
vụng trộm. Khi bản thân trẻ bắt đầu thức dậy một cách tự nhiên những thay đổi
tâm sinh lý thì cách hợp lý nhất, hiệu quả nhất là giảng dạy GDGT một cách
chính thống. Khi các em được cung cấp thông tin, được giáo dục một cách đúng
đắn và đầy đủ, các em sẽ tự giải đáp được những băn khoăn, thắc mắc, điều
chỉnh kịp thời những hành vi sai lệch của mình. Từ đó, các em sẽ tự ý thức về
bản thân và sống có trách nhiệm với bản thân hơn.
Qua số liệu trên cho thấy những kiến thức về GDGT của các em học sinh
cuối cấp THCS là khá phong phú, đa dạng. Hầu hết các em đã biết đến những
nội dung của GDGT. Vậy những thông tin mà các em có được đang ở mức độ
nào?
2.2.1 Nhận thức về tuổi dậy thì
Tuổi dậy thì là một giai đoạn phát triển quan trọng của một con người.
Thời kỳ này được đánh dấu bằng những biến chuyển mạnh mẽ về mặt tâm sinh
lý. Hiểu rõ về giai đoạn dậy thì là cơ sở quan trọng giúp VTN nói chung và học
sinh THPT nói riêng giải quyết một cách hợp lý những vấn đề sinh lý và bệnh lý

trong quá trình phát triển. Bên cạnh đó, nhà trường và gia đình cũng hiểu rõ hơn
về học sinh, con em mình.
Bảng 1: Những biểu hiện dậy thì ở nữ (%)

Biểu hiện dậy thì ở nữ

Số lượng

Tỉ lệ (%)


×