Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA LỖ TẤN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.94 KB, 23 trang )

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA LỖ TẤN
(Qua truyện 2 ngắn : Gào thét, Bàng hoàng)
Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân, tự là Dự Tài. Lỗ Tấn là bút danh.
Ông sinh ngày 25-9-1881 tại huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang trong một
gia đình quan lại sa sút. Ông nội Chu Giới Phù từng làm quan trong triều
Mãn Thanh, sau bị cách chức, hạ ngục, năm Lỗ Tấn 13 tuổi. Cũng năm đó
ông thân sinh Chu Bá Nghi lâm bệnh, ba năm sau thì mất. Mẹ là Lỗ Thuỵ,
một phụ nữ trung hậu, kiên nghị, có ảnh hưởng sâu sắc đến Lỗ Tấn.
Thời đại Lỗ Tấn sống là thời đại đầy biến động của nước Trung Hoa,
nhất là sau năm 1919, trước ảnh hưởng của dân chủ phương Tây và ánh sáng
của cách mạng tháng Mười Nga. Lỗ Tấn đã trải qua hai cuộc cách mạng,
cách mạng dân tộc kiểu cũ và cách mạng dân tộc kiểu mới. Lịch sử đã in rõ
dấu vết trong quá trình tư tưởng và sáng tác của Lỗ Tấn, nhà văn của giai
đoạn tìm đường này.


LỖ TẤN (1881 – 1936)

Với quan điểm đúng đắn: “văn học phải phục vụ nhân sinh”, trong
suốt cuộc đời sáng tác của mình, Lỗ Tấn đã dùng ngòi bút như một vũ khí
sắc bén chống lại các thế lực phản động và phản ánh chân thực cuộc sống
của nhân dân lao động khổ cực dưới hai tầng áp bức bóc lột: đế quốc và
phong kiến. Đồng thời, thông qua những tác phẩm của mình ông cũng gửi
gắm vào trong đó những tư tưởng về nhân sinh và thể hiện niềm cảm thông,
chua sót với số phận của những “con người nhỏ bé”.
Lỗ Tấn sáng tác ở nhiều thể loại: thơ, tiểu thuyết, tạp văn… Trong đó,
truyện ngắn của ông có sức hút đặc biệt với độc giả và được giới văn học
đánh giá cao bởi những tác phẩm của ông như những tấm gương phản chiếu
cả một thời kì lịch sử xã hội Trung Quốc từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ
XX với nghệ thuật xây dựng hình tượng điển hình mang tính khái quát cao.


Ở đây, xin lưu ý trước hết đến hai tập truyện ngắn Gào thét (1923), Bàng
hoàng (1925) được sáng tác trong thời kì đầu – thời kì người chiến sĩ dân
chủ cách mạng.
Với Gào thét gồm 14 thiên viết từ năm 1918 đến 1922. Đây là tập tiểu
thuyết đầu tiên, là “tiếng thét trợ uy do lòng đồng cảm với những người
nhiệt tình”.
Với Bàng hoàng gồm 11 thiên viết lúc mặt trận văn hoá mới đã xảy ra
chia rẽ. Đã có lúc ông tự thấy nhiệt tình cách mạng nguội lạnh đi ít nhiều,
thấy mình đang là một “người cô độc”, lủi thủi một mình trên bãi sa mạc
mênh mông. Nhan đề tác phẩm “Bàng hoàng” đã gói gọn tâm trạng dao
động, bi quan ấy. Tuy vậy, ông vẫn không bị hoàn cảnh khắc nghiệt quật
ngã, vì vậy ông không bao giờ tự buông thả mình ngay trong cả những lúc


chơi vơi vì mất phương hướng hành động, Lỗ Tấn vẫn le lói một niềm tin
“trên mặt đất làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Một
chút niềm tin ấy, tuy vẫn rất mơ hồ, nhưng nó là biểu hiện của tinh thần kiên
trì lí tưởng ở một con người giàu nghị lực.
Trong Gào thét và Bàng hoàng, Lỗ Tấn đã đề cập đến các vấn đề:
Tinh thần triệt để chống phong kiến. Vạch trần tính chất không triệt để của
cách mạng Tân Hợi (1911). Cuộc sống của người nông dân. Cảnh ngộ người
trí thức. Số phận người phụ nữ.
Trước hết, ta thấy trong các sáng tác của Lỗ Tấn người nông dân xuất
hiện nhiều lần. Cái đó cũng tất nhiên, bởi vì người chịu bóc lột áp bức nhiều
nhất trong chế độ phong kiến Trung Hoa là người nông dân. Lỗ Tấn là nhà
văn đầu tiên trong văn học hiện đại Trung Quốc đã nêu lên một cách sinh
động tình cảnh của nông dân và quần chúng bị áp bức cùng vấn đề tìm lối
thoát. Đây, một Nhuận Thổ trong Cố hương hai mươi năm về trước là cậu bé
khoẻ mạnh, thông minh, “biết nhiều điều lạ lùng lắm”. Nhưng hai mươi năm
sau một hiện thực tàn khốc đã thay thế: Nhuận Thổ bây giờ rụt rè, sợ sệt đần

độn như một pho tượng gỗ. Cái cảnh con đông, mùa mất, sưu thuế, trộm
cướp, quan lại, thân hào đã làm cho anh tê dại cả về thể xác lẫn tâm hồn.
Đây, một AQ cần cù, chăm chỉ muốn sống lương thiện nhờ vào đôi bàn tay
lao động của mình. Nhưng những kẻ khốn khổ “trên không chằng, dưới
không rễ” như AQ thì ngay cả ước mơ đơn giản và nhỏ nhoi đến thế cũng
không thực hiện được. Những kẻ thống trị ở làng Mùi cấu kết với nhau áp
bức bóc lột y, dồn y đến chân tường của cuộc sống. Y đã bị lưu manh hoá và
rồi bị chết oan dưới lưỡi dao oan nghiệt của bọn thống trị.
Và hãy xem trong một phong kiến lâu đời như ở Trung Quốc, dưới
ách nặng của bốn tầng áp bức: chính quyền, tộc quyền, thần quyền, phụ
quyền, người phụ nữ trở thành “con dê tế thần” thảm hại cho chế độ phong


kiến. Có thể thấy hai loại phụ nữ được Lỗ Tấn thể hiện trong tác phẩm của
mình: phụ nữ nông thôn (Lễ cầu phúc, Li hôn) phụ nữ thành thị (Tiếc
thương những ngày đã mất, Một gia đình hạnh phúc…). Những hình ảnh đó
được xây dựng khác nhau, nhưng cuối cùng những người phụ nữ này đều có
chung một số phận bi thảm, đều trở thành vật hi sinh cho xã hội.
Còn đây, ta tìm được đủ các loại trí thức trong sáng tác của Lỗ Tấn:
cũ có, mới có, nam có, nữ có, giàu có, trẻ có… Qua sự mổ xẻ của tác giả
một cách tỉ mỉ, mọi cái tốt xấu ở họ đều được đánh giá khách quan. Đó là
loại trí thức sinh trưởng vào thời đại trước và sau cách mạng Tân Hợi, bị văn
hoá phong kiến và chế độ khoa cử đầu độc (Luồng ánh sáng, Khổng Ất
Kỉ…). Trong đầu óc họ, những tư tưởng mới mẻ từ bên ngoài, dù là mới mẻ
đến đâu cũng không sao len lỏi vào nổi. Họ lạc hậu đến mức không tưởng
tượng nổi. Trong khi chính bản thân họ không theo kịp phong trào cách
mạnh của quần chúng, không tiếp tục được ánh sáng của những trào lưu tư
tưởng mới thì họ cứ lăm le đem kiến thức đã sáo mòn ra dạy đời – với một
thái độ đắc ý đến kì quặc. Ông đồ Khổng Ất Kỉ hễ mở miệng là “chi hồ giả
dã”; những người nghe “chữ nhất bẻ đôi” cũng không biết nên chẳng ai hiểu

gì cả, người ta thấy câu “chi hồ giả dã” cũng vô lí như người nói vậy. Đứa
bé hầu rượu khinh ông ta, không thèm nghe ông ta dạy học. Đáng sợ hơn là
loại trí thức khư khư bảo vệ đạo đức lễ giáo phong kiến như những Tư Minh
(trong Xà phòng), Cao Cán Đình (trong Cao Phu tử). Còn loại trí thức tiểu
tư sản có nhiều nhận thức tiến bộ về xã hội, muốn đứng lên cải tạo xã hội,
nhưng họ chưa có thế giới quan của giai cấp công nhân, lại chưa biết dựa
vào lực lượng của quần chúng, họ còn quá nặng về chủ nghĩa cá nhân. Thêm
vào đó là lập trường hay ngả nghiêng, dao động, họ dễ thoả hiệp với phong
kiến khi chiến thắng, dễ bi quan tiêu cực khi thất bại.


Như vậy, với một đề tài khá rộng, việc thể hiện thế giới các nhân vật
vẫn được Lỗ Tấn xử lí rất tài tình. Đọc Gào thét và Bàng hoàng, rõ ràng ta
thấy những nhân vật trong truyện ngắn của ông hết sức đa dạng, phong phú,
mỗi người mang một nét riêng biệt khác nhau. Tuy mỗi người mỗi cảnh, mỗi
tính cách nhưng họ đều có số phận đầy bi kịch và đau khổ. Bởi lẽ ấy Lỗ Tấn
luôn có cái nhìn đầy thiện cảm và đứng về phía họ. Song nếu chỉ nhìn nhận
ở một số nét hết sức khái quát như trên thì có lẽ chúng ta sẽ khó hình dung
sâu sắc được thế giới nhân vật trong truyện. Ở đây trong phạm vi một bài
viết nhỏ chỉ xin được đi sâu vào một số vấn đề mà tôi đã có dịp được tìm
hiểu. Đó là hình tượng người phụ nữ và kiểu nhân vật bất bình thường trong
hai tập truyện ngắn trên của ông.
Khi đọc truyện ngắn của Lỗ Tấn, bản thân người viết nhận thấy: các
nhân vật được nhà văn xây dựng dù là người nông dân, trí thức hay quan lại,
địa chủ thì hình tượng người phụ nữ là nhân vật đặc biệt được ông quan tâm
và miêu tả trong sáng tác của mình. Trong sáng tác của ông hình tượng
người phụ nữ được hiện lên với nhiều góc cạnh khác nhau của cuộc sống.
Dù ở hoàn cảnh nào chúng ta đều thấy ở họ có những điểm chung, đó là
những cuộc đời đầy bi kịch, bị đầy đoạ cả về thể xác lẫn tinh thần, những
cuộc đời ấy khiến ta có hình dung rõ nét về người phụ nữ dưới chế độ xã hội

thực dân nửa phong kiến.
Nói đến các nhân vật phụ nữ, ngay từ những nghiên cứu đầu tiên về
Lỗ Tấn, Đặng Thai Mai đã nhận xét “vấn đề phụ nữ” như “những vấn đề hết
sức thiết tha với tiền đồ xã hội Trung Quốc” hay nhắc đến “ khuôn mặt tủi
hổ của một thím Tường Lâm bị vùi dập dưới tiếng cười khắc bạc của cõi
người”.


Xin được nói thêm, mức độ phát triển của một xã hội được đánh giá
qua mức độ giải phóng phụ nữ. Vấn đề phụ nữ đặc biệt bức thiết đối với
phương Đông, vì ở đó người phụ nữ gánh chịu nhiều thiệt thòi, bất công.
Trung Quốc là cái nôi của đạo Khổng- Khổng giáo là triết học và tôn giáo
mang tính chất đặc trưng như một “căn cước phương Đông”- đặc biệt khe
khắt với người phụ nữ. Không thể kể ra hết những quan niệm, ràng buộc, tục
lệ oái ăm trói buộc cuộc đời người phụ nữ. Vì thế mà đến thời Ngũ Tứ, cách
mạng dân chủ mới đã nêu yêu cầu cao hơn về vấn đề giải phóng phụ nữ như
một đòi hỏi cấp bách của xã hội Trung Quốc bấy giờ trong bối cảnh chung
của nhân loại. Lương Khải Siêu trước đó từng dâng sớ “ vạn ngôn thư “ đòi
cải cách, trong đó yêu cầu lập trường học cho phụ nữ, khuyến khích phụ nữ
bỏ bó chân …
Lỗ Tấn có khi khiêm tốn nhận rằng “ chưa từng nghiên cứu về vấn
đề phụ nữ” ( Về chuyện giải phóng phụ nữ – Nam xoang Bắc điệu ) nhưng
thật ra ông đã đưa ra rất nhiều ý kiến mang đậm tính duy tân về vấn đề
người phụ nữ trong xã hội Trung Quốc hiện đại .
Có thể thấy thuyết tiến hóa mà hệ quả là mong muốn xây dựng
những con người mới, phát triển, tiến lên phía trước của Lỗ Tấn đã cùng một
dòng hệ thống khi ông phân tích những vấn đề phụ nữ. Ông đánh giá việc hạ
thấp vai trò của người phụ nữ trong xã hội Trung Quốc : “người đàn bà làm
mẹ ở Trung Quốc vẫn bị hết thảy những người đàn ông, ngoài con mình đẻ
ra, khinh rẻ” (Về chuyện giải phóng phụ nữ – Nam xoang Bắc điệu ), hay đả

kích tục bó chân, ông mỉa mai “ dân tộc Trung Hoa chúng ta tuy thường tự
cho là dân tộc thích “ trung dung “ và thực hành “trung dung”, kỳ thực
chúng ta không khỏi là những người quá khích (…) nhất là chân phụ nữ, đó
là một chứng cứ rất vững, không nhỏ thì thôi, nhỏ thì chỉ cần có ba tấc,


không đi được, cứ uốn uốn, éo éo” ( Từ bàn chân phụ nữ - Nam xoang Bắc
điệu ).
Lỗ Tấn còn chỉ ra những nhược điểm trong tính cách của người phụ
nữ nảy sinh do hoàn cảnh xã hội như tính nhịn nhục, cam chịu, nhẫn nại
bằng một ví dụ trong Thập tứ hiếu, đó là Hiếu nữ Tào Nga truyện: “Cổ kim
có rất nhiều người con có hiếu, gặp cướp, gặp lửa, gặp hổ, gặp bão, nhưng
cái cách ứng phó thì chín phần mười là “khóc” và “lạy”, Trung Quốc đến
khi nào mới hết khóc và lạy nhỉ ?” ( Ghi sau – Nhặt cánh hoa tàn)
Lỗ Tấn không ngần ngại hào hứng xây dựng hình ảnh người phụ nữ
mới của Trung Quốc tương lai độc lập, tự tin, không lệ thuộc vào người
khác, có quyền làm chủ vận mệnh của mình; “ … không ngừng đấu tranh để
giải phóng tư tưởng, giải phóng kinh tế, giải phóng xã hội cũng là tự giải
phóng cho mình . Nhưng tất nhiên cũng cần phải đấu tranh để tháo những
xiềng xích trói buộc người phụ nữ …” (Về chuyện giải phóng phụ nữ – Nam
xoang Bắc điệu ). Ông còn tỉnh táo chỉ ra sự thay đổi cải lương, người phụ
nữ ra ngoài xã hội mà không có quyền làm chủ về kinh tế thì cũng vô dụng,
vì họ biết làm gì để sống “ Cho nên bất kỳ người phụ nữ nào, nếu không có
quyền kinh tế ngang người đàn ông thì tôi cho rằng tất cả mọi tên gọi đẹp đẽ
đều suông cả” (Về phụ nữ – Nam xoang Bắc điệu ).
Lỗ Tấn dành sự khâm phục đối với những người phụ nữ tiến bộ, đã
cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ, cho sự phát
triển của xã hội. Đó là những người phụ nữ tham gia các phong trào tiến bộ
và hy sinh mà Lỗ Tấn đã có dịp trực tiếp giảng dạy ở trường Đại học Nữ sư
phạm Bắc kinh : “Đối với chị tôi phải dâng cả tấm lòng đau thương và kính

mến của tôi, chị không phải là học sinh của “thằng tôi sống lay lắt đến ngày


hôm nay”, chị là thanh niên của Trung quốc, vì Trung Quốc mà hy sinh” (
Kỷ niệm chị Lưu Hòa Trân – Hoa cái).
Sở dĩ dừng lại hơi sâu về vấn đề phụ nữ vì chính từ những suy nghĩ
trên, những suy nghĩ của Lỗ Tấn đã thăng hoa thành những hình tượng mà ở
đây sẽ đề cập đến. Có thể thấy rất rõ vấn đề nổi bật của nhân vật chị Tường
Lâm trong Cầu phúc là vấn đề tiết liệt và vấn đề nhịn nhục, cam chịu, ù lì;
vấn đề giải phóng hôn nhân, bình đẳng nam nữ thể hiện rất rõ trong Ái – Ly
hôn, vấn đề giải phóng cá tính, hôn nhân phải đi đôi với giải phóng về kinh
tế trong hình tượng Tử Quân –Tiếc thương những ngày đã mất … Có như
vậy, sẽ thấy hệ thống nhân vật nữ trung tâm của một Lỗ Tấn – nhà văn thể
hiện rất nhất quán những suy tư mà ông – nhà tư tưởng đã chiêm nghiệm.
Tổng cộng Lỗ Tấn có bốn nhân vật nữ trung tâm bên cạnh mười bốn

nam nhân vật trung tâm. Như vậy số lượng nam nhân vật trung tâm nhiều
gấp 3,5 lần số nhân vật nữ trung tâm. Con số này biểu hiện sự khập khiễng
âm (nữ) dương (nam). Dẫu ít chiếm vị trí trung tâm bằng các nhân vật nam
nhưng các nhân vật nữ ấy vẫn khẳng định được vị trí của mình trong sáng
tác của Lỗ Tấn mà điểm đáng chú ý nhất là bốn nhân vật này đã hình thành
nên một hành lang nhân vật với các cấp bậc phát triển tư tưởng theo hoàn
cảnh lịch sử và xã hội.
Cho đến bây giờ, Lỗ Tấn vẫn là nhà văn Trung Quốc thiết tha nhất
và hiểu sâu sắc nhất cuộc sống của lớp người dưới đáy xã hội. Ông thường
đề cập đến trạng thái bi kịch trong tâm hồn những người cùng khổ mà không
dừng lại ở nỗi đau thể xác. Hình ảnh chị Tư Thiền và chị Tường Lâm đều là
chân dung những người phụ nữ nông dân bất hạnh nhất trong văn học hiện
đại Trung Quốc: chồng chết, ở vậy nuôi con, con chết, họ cô đơn ngay giữa



đồng loại của mình vì không tìm được sự cảm thông. “Hạnh tai lạc họa”, cái
chết của con trai chị Tư Thiền còn là một cơ hội bị kiếm chác, lợi dụng. Còn
cuộc đời chị Tường Lâm là một chuỗi dài những đau khổ không dứt. Người
ta có thể kêu rên về nỗi đau thể xác như chị: đi ở, bị đánh, bị bắt cóc, đi
xin… thế nhưng Lỗ Tấn muốn nhấn mạnh đến gánh nặng tinh thần do xã hội
áp đặt mà chị vác trên vai lê suốt cả đời mình nhưng không nhận ra để quẳng
xuống: “Chế độ này đã ép họ trở thành nô lệ, dưới mọi hình thức, rồi còn đổ
trên đầu họ bao nhiêu là tội lỗi.” (Về phụ nữ- Nam xoang Bắc điệu).
Điều Lỗ Tấn “nộ kỳ bất tranh” (giận họ không đấu tranh), và bi kịch
của hai người phụ nữ này mang đậm màu sắc tố cáo hơn là vì họ đều không
nhận ra hoàn cảnh của mình mà cứ tình nguyện lao đầu vào tròng, tự nguyện
hòa hợp với phong kiến trong từng hơi thở. Họ cũng là một con bệnh của
phép thắng lợi tinh thần mà sau này trong AQ Chính truyện Lỗ Tấn đề cập rõ
hơn.
Mục đích của Lỗ Tấn khi đưa ra loại nhân vật khuất nhục này là
muốn “chấn hưng dân khí”, mà điểm quan trọng đầu tiên của khẩu hiệu này
là buộc con người phải ý thức được vị trí đích thực của mình trong xã hội.
K. Marx khi phê bình sự lạc hậu của dân Đức so với dân châu Âu thế kỷ
XIX đã nhấn mạnh: “Vấn đề là không được để cho người Đức có lấy một
chút ảo tưởng và nhẫn nhục nào cả. Phải làm cho sự áp bức hiện thực trở nên
nặng nề hơn bằng cách thêm vào đó ý thức về sự áp bức. Phải làm cho sự
nhục nhã trở thành nhục nhã hơn bằng cách công bố nó… phải làm cho nó
biết sợ bản thân mình để làm cho họ mạnh dạn hơn”. Chính sự miêu tả tự ý
thức của Lỗ Tấn đã thêm một vết khắc vào quá trình hình thành con người
Trung Quốc toàn diện.


Với loại nhân vật phụ nữ này, nhất là nhân vật Tường Lâm, Lỗ Tấn
đã cùng với Tào Ngu (qua nhân vật thị Bình trong Lôi vũ) tạo nên hình ảnh

những nhân vật phụ nữ đau khổ nhất, hiện thực nhất và đầy tình nhân bản
của văn học Trung Quốc hiện đại.
Đến nhân vật Ái (Ly hôn), đây lại là loại phụ nữ tiêu biểu cho những
người bị áp bức nhưng biết vùng dậy đấu tranh.
Ái là người phụ nữ mạnh mẽ, đốp chát và triệt để. Người đọc nhớ mãi
hình ảnh một cô Ái nhảy xổ lên trang viết khát khao đòi quyền lợi, lẽ phải.
Cô quyết tâm đi tìm lẽ công bằng cho cuộc hôn nhân đã tan vỡ của mình. Cô
là hình tượng phụ nữ đầu tiên của Lỗ Tấn dám đứng lên chống lại sự bất
công, áp bức của lễ giáo phong kiến, sự đè nén vô nhân đạo, sự tôn vinh chế
độ nam quyền. Thế nhưng sự vùng dậy tự phát của Ái có nhiều hạn chế, cô
chỉ biết những kẻ áp bức mình trực tiếp mà chưa hiểu nguyên nhân sâu xa
quyết định số phận của mình, những kẻ cầm cân nảy mực nơi công đường
cũng chính là những người bảo vệ đạo đức phong kiến mà không bênh vực
quyền lợi của người dân thấp cổ bé họng. Không chỉ bị hạn chế bởi nhận
thức mà trong quá trình đấu tranh, tư tưởng của Ái cũng có sự phân tâm. Cô
bị choáng ngợp trước uy quyền to lớn, bộ mặt hung thần của vị quan huyện.
Thì ra nỗi sợ hãi cố hữu kết đọng hàng nghìn năm trong vô thức còn mạnh
hơn tư tưởng phản kháng của Ái, làm tiêu hao hết ý chí đấu tranh của cô.
Tiếng kêu vươn mình của Ái cũng là tiếng thét vùng dậy của một giai
tầng người trong xã hội mà họ gần như đã nhận ra vị trí của mình, muốn
đứng lên tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Ái là hình ảnh tương lai của Tư
Thiền, Tường Lâm- không biết mình khổ, không dám đấu tranh. Thế nhưng
Ái vẫn thất bại, cam chịu khuất phục dù sức phản kháng trong cô có thừa.


Và như vậy thì Ái vẫn chưa là mẫu nhân vật lý tưởng có thể vực dậy một
nước Trung Hoa trở trăn trên đường phát triển.
Tiếp theo nhân vật Ái là Tử Quân (Tiếc thương những ngày đã mất),
một trí thức mới tiến bộ mang tư tưởng thanh niên thời Ngũ tứ.Trong cơn
biến động xã hội bấy giờ, trí thức đóng vai trò quan trọng trên vũ đài chính

trị-lịch sử. Lỗ Tấn đã phân tích những đặc điểm của người trí thức Trung
Hoa: ôm ấp nhiều mộng đẹp, có lý tưởng, cầu tiến nhưng khi gặp thất bại thì
dễ bi quan, chán nản, dao động, cuối cùng dần trở nên cô độc, phản lại lý
tưởng của mình rồi chết dần chết mòn. Tử Quân trong Tiếc thương những
ngày đã mất là một nhân vật với những đặc trưng như trên.
Tử Quân là một nữ sinh tắm mình trong không khí sôi nổi đổi thay
của thời Ngũ Tứ : Khổng giáo bị liệng qua cửa sổ, phụ nữ được tự do yêu
đương, được lập trường Luật khoa, Y khoa … Cô cùng Quyên Sinh yêu
nhau và tự tạo lập một gia đình riêng nhưng cuối cùng tổ ấm đó cũng tan vỡ
do những nguyên nhân nội tại và khách quan.
Tử Quân là một hiện tượng trí thức “sống thừa”, qua đó Lỗ Tấn chỉ
ra nguyên nhân xã hội và đặc biệt là nguyên nhân tính cách trong bi kịch của
cuộc đời họ. Cô là con người trong xã hội tư sản mà ở đó cô vừa là nạn nhân
–kẻ bị tha hóa trên đường phát triển, vừa là thủ phạm gây ra bi kịch bản thân
mà cô không nhận thức được. Tử Quân cố gắng vươn lên, thoát khỏi những
định kiến xã hội để sống hợp với nguyện vọng chính đáng của mình, nhưng
cách chống đối hiện thực của cô là thoát ly gia đình lớn rồi lao vào một gia
đình nhỏ cũng tủn mủn như vậy mà thôi, cô lại không có đủ dũng khí và
lòng quyết tâm để theo lý tưởng đến cùng. Hơn nữa, vai trò người phụ nữ
trong xã hội thới này chưa phải được giải phóng hoàn toàn, nhất là về mặt


kinh tế. Xã hội vẫn là một xã hội của đàn ông, tương tự như Ibsen khi nói về
“bi kịch hiện đại” của Nora ( Gia đình búp bê-Ibsen) : “Người phụ nữ không
thể đứng độc lập trong xã hội ngày nay, một xã hội đặc quyền của đàn ông,
với luật pháp được đặt ra bởi đàn ông và một hệ thống pháp lý đánh giá
những hành vi của phụ nữ trên quan điểm của họ”. Tử Quân và Nora đều
thoát ly gia đình, ra xã hội, với yêu cầu được tự do phát triển như một thành
viên độc lập và hữu trách. Đó là quá trình “người trí thức bung mình khỏi
nền tư duy cổ truyền” nhưng vấn đề chưa hẳn đã được giai quyết vì họ

không có một chút địa vị kinh tế độc lập nào thì con đường phát triển chưa
hẳn đã rộng thênh thang. Trong Nora đi rồi thì ra sao ? ( Tạp văn), Lỗ Tấn
đã phân tích vận mệnh của người phụ nữ nếu thoát ly gia đình mà không
được độc lập về kinh tế, về xã hội thì cũng không có con đường phát triển.
Nếu trong Cô dâu (Tsekhov) và Gia đình búp bê người phụ nữ bỏ nhà ra đi,
câu chuyện kết thúc, sân khấu hạ màn, thì vận mệnh bi thảm của Tử Quân
sau khi xây dựng một gia đình mới đã nói hết với thanh niên trí thức tư sản
mọi sự thật cay đắng sau đó. Chỗ “dừng bút” của Tsekhov và Ibsen chính là
chỗ “tíêp bút” của Lỗ Tấn.
Một cách chiếu ứng mới trong quan hệ người-người là trong tình
yêu. Tiếc thương những ngày đã mất là truyện víêt về tình yêu duy nhất của
Lỗ Tấn, nhưng lại già dặn và đầy chất thơ, thể hiện vốn hiểu bíêt sâu sắc của
nhà văn. Cái hay của Lỗ Tấn là lồng bi kịch tình yêu riêng tư vào một vấn đề
chung của xã hội mà không hề thô thiển, gượng ép. Tử Quân và Quyên Sinh
yêu nhau, nhưng khi tìm được hạnh phúc rồi thì Tử Quân lại quên rằng “tình
yêu phải được đổi mới luôn, lớn dần lên và phải sáng tạo”. Hơn 200 năm
trước, T.Corneille đã kết luận : “Tình yêu khi đã thỏa mãn thì sự hấp dẫn
không còn nữa”. Tử Quân chìm ngập trong cái mà cô cho là “đích của hạnh


phúc”, cô không còn “cùng nhìn về một hướng” với Quyên Sinh nữa, cô trở
thành người theo sau anh: “Trên con đường mưu sống đó thì cần phải hoặc
nắm tay cùng đi, hoặc một mình can đảm bước tiến lên. Còn như chỉ biết
nắm lấy vạt áo mà đi theo thì dù người kia là một chiến sĩ đi nữa, cũng khó
mà chiến đấu cho được. Rốt cuộc cả hai sẽ bị tiêu diệt”. Và khi người này
trở thành gánh nặng cho người kia, thì lúc đó tình yêu biến mất. Lối thoát
duy nhất của Tử Quân chỉ là con đường quay về nhà trong nỗi tủi nhục, ê
chề vì thất bại của mình, tồn tại vô nghĩa, cái chết đối với cô là tất yếu, và đó
là cái chết bi kịch nhất trong hệ thống thi pháp cái chết trong truyện ngắn
của Lỗ Tấn.

Qua hình tượng Tử Quân, Lỗ Tấn nêu ra một vấn đề mang ý nghĩa
thời đại sâu sắc : yêu cầu giải phóng cá tính và tự do hôn nhân không thể
giải quyết đơn độc tách rời yêu cầu giải phóng xã hội. Thế nhưng khi bày tỏ
sự không đồng ý việc theo đuổi hạnh phúc cá nhân ảo tưởng của Tử Quân,
Lỗ Tấn chưa chỉ ra được đâu là lối thoát chân chính cho những thanh niên trí
thức tiểu tư sản.
Mặt khác, ta còn thấy cuộc đời của những nhân vật phụ nữ trung tâm
luôn đa đoan, không trọn vẹn, không một cuộc tình êm ả, đối với gia đình thì
tan tác, chia lìa, không một kết thúc nguyên vẹn, tròn trịa, ngay ngắn. Dường
như truyện của Lỗ Tấn viết về người phụ nữ được xây dựng trên nỗi ám ảnh
về cái tàn lụi, tan rã.
Hạ Tế An, một nhà nghiên cứu về Lỗ Tấn ở Mỹ nhận xét : “Lỗ Tấn
là một thiên tài bệnh hoạn,… trong tác phẩm của ông, hy vọng và linh cảm
cùng tồn tại với tối tăm. Xem ra Lỗ Tấn rất rỏ mô tả sự chết chóc … Tang


ma, nghĩa địa, hành hình, nhất là chém đầu, lại còn cả ốm đau, bệnh tật,
những đề mục ấy đều thu hút trí tưởng tượng sáng tạo của ông”.
Hiểu cái chết của nhân vật có hai cách: cái chết thực (nghĩa đen) và
cái chết ảo (nghĩa bóng). Cái chết là vật xác định cụ thể để kiểm tra thái độ
và năng lực chịu đựng của con người. Cái chết thể hiện triết lý của Lỗ Tấn
về thời đại, về thân phận con người…
Tường Lâm chết rụi giữa tiếng pháo cầu phúc của những nhà giàu
sang mà không gặt được một giọt nước mắt của người đời. Tử Quân chết
thảm một cách cô đơn lặng lẽ đến không cùng trong “cái cõi người không có
tình yêu”.
Có những cái chết ảo (chết tinh thần) do cô đơn, do tuyệt vọng…
Cuộc đời chị Tư Thiền từ nay mòn mỏi trôi đi sau khi bé Bảo- linh hồn cuộc
sống của chị không còn nữa. Cuộc đời nhục nhã của cô Ái sau khi gánh chịu
sự tan vỡ của cuộc sống hôn nhân, lại thêm sự thất bại sau lần hăm hở đi

kiện, và sự dèm pha, dè bỉu ác ý của người xung quanh.
Chị Tường Lâm thực sự chết tinh thần trước khi cái chết thể xác tự
đến. Chị bị tuyên án tử hình khi nghe nói chết đi sẽ bị chia làm hai cho mỗi
người chồng một nửa. Sự băn khoăn “người chết có linh hồn hay không?”
của chị chính là nỗi sợ hãi day dứt đó. Thì ra không phải chỉ có đói khát, giá
lạnh mà nguyên nhân gây ra cái chết còn là nỗi lo sợ bị trừng phạt, đọa đày.
Tường Lâm đã bị bốn sợi dây: chính quyền, thần quyền, tộc quyền và nam
quyền xiết cổ một cách êm ái mà chị không hề hay biết.
Tử Quân còn bi kịch hơn, tâm hồn nàng thực sự đã chết sau khi nhận
ra tình yêu lớn của nàng đã chết. Nỗi đau của nàng sâu sắc hơn vì bản thân


nàng là môt trí thức. Khi người ta khổ mà không biết mình khổ, người ta còn
có thể sống được. Tử Quân lại ý thức rõ về nỗi bất hạnh của mình. Khả năng
của người trí thức là “dấn thân”, là đi đến tận cùng, gặm nhấm tận cùng cảm
giác, nỗi đau của mình, vì thế mà họ đau hơn người khác. Nhưng logic phát
triển tự thân của nhân vật không cho phép Tử Quân chết ngay lúc đó (vì lúc
này tính cách nàng đã thay đổi: bạc nhược, yếm thế.. tự tử là điều không dễ
dàng. Hầu như tất cả nhân vật của Lỗ Tấn không ai dám tự tử), mà phải để
nàng sống lần mòn, chết lần mòn…
Đàn bà trong thế giới của Lỗ Tấn là những nhân vật không hoàn toàn
tích cực, được như Ái và Tử Quân thì đến phút cuối cũng xao lòng, thay đổi,
và vận mệnh vì thế cũng xoay chiều ngả nghiêng. Họ dường như không làm
chủ được cuộc đời mình mà như những con tốt trong một xã hội đầy phong
ba. Nỗi bất hạnh cao nhất là không thực hiện được thiên chức phụ nữ của
mình, gây dựng một gia đình hạnh phúc với chồng con. Đàn bà không phải
là đàn bà, thiên chức phụ nữ của họ đã bị hủy hoại, triệt tiêu bởi chính những
tác động của xã hội. Có thể nói, qua những nhân vật nữ bị những sang chấn
về mặt tinh thần, mức tố cáo xã hội, phủ nhận xã hội của những trang văn Lỗ
Tấn đạt hiệu quả cao hơn. Lỗ Tấn đau xót vì điều này. Ông từng nói có hai

loại người ông không bao giờ chĩa mũi dùi châm biếm, đó là phụ nữ và trẻ
em. Đọc những trang văn về chị Tư Thiền, chị Tường Lâm, Ái, Tử Quân, ta
nhận ra điều đó.
Khảo sát hệ thống nhân vật của Lỗ Tấn người viết nhận thấy ông đã
sáng tạo được nhiều mô típ mới trong đó “ kiểu nhân vật bất bình thường”
nổi lên như một hạt nhân phi pháp.


Khác với các nhà văn quá khứ và cùng thời Lỗ Tấn không chỉ sáng
tạo ra nhiều điển hình nhân vật mà còn phát biểu một số ý kiến về cách xây
dựng nhân vật như thế nào, nhiều nhân vật của Lỗ Tấn “ xa lạ mà quen
thuộc” và ngược lại. Tính cách nhân vật trong tác phẩm của ông có sự phát
triển logic nhưng rất đa dạng nếu như trong văn học người ta tả nhân vật “
làm gì” hơn là tả nhân vật “làm như thế nào” thì trong truyện ngắn của Lỗ
Tấn tính cá biệt cũng như điển hình của nhân vật không chỉ được biểu hiện ở
nhân tố bề ngoài mà còn được khắc họa rõ rệt bản chất bên trong của nhân
vật. Những nhân vật “geotest”_ nghịch dị về tính cách trong thực tại xã hội
cũng như trong văn học. Bởi vậy việc sáng tạo kiểu nhân vật bất bình
thường với tư cách “ là hình thức khái quát hiện thực có tính nghệ thuật”
chắc chắn không nằm ngoài ý đồ tư tưởng của nhà văn.
Đề tài của hai tập truyện Gào thét và Bàng hoàng đều là đề tài về cuộc
sống con người của giai đoạn hiện đại và hoàn toàn do tác giả hư cấu sáng
tạo chứ không phải là đề tài của truyện cũ viết lại lấy từ truyện cổ thần thoại,
truyền thuyết, điều này dễ dẫn đến lẽ tất yếu thi pháp nhân vật của truyện có
đề tài đời thường sẽ khác với thi pháp nhân vật của truyện thần thoại.
Là một nhà văn mang tính dân tộc chân chính Lỗ Tấn tiếp thu phương
pháp miêu tả “vẽ rồng chấm mắt” truyền thống của đất nước, nhưng ở ông
đã có sự đổi mới, sự đổi mới này phần nhiều “tùy thuộc ở ý định” ( Gớt)
sáng tác của ông. Nếu như trong tác phẩm của Lỗ Tấn có xuất hiện một kiểu
nhân vật bất bình thường thì việc sắp xếp tổ chức lại những chất liệu vốn có

trong thực tế theo một cách riêng, hơi biến dạng, khác thường khi miêu tả
diện mạo nhân vật là điều rất ý nghĩa
Trên thế giới đã có không ít nhà văn thực hành phương pháp này. Khi
bị chỉ trích rằng không thể tìm thấy trong cuộc sống có ai giống nhân vật
ông miêu tả thì Banzac trả lời : “dùng phương pháp của hội họa muốn vẽ


một hình tượng đẹp thì mượn dùng cánh tay của mô-đen này, chân của môđen kia, bộ ngực của mô-đen nọ và đôi vai của mô-đen nào khác nữa đó”
(T.pêtơrốp). Trách nhiệm của nghệ sĩ là phải đem lại sinh mệnh cho tứ chi
này làm cho nó có thể sống được. Ở trường hợp Lỗ Tấn, ngoại hình của
nhân vật bao giờ cũng được miêu tả vài nét đặc điểm mà thôi. Ông nói “cũng
như những bức tranh truyền thần vẽ ý không hề vẽ kĩ râu mày, chẳng qua chỉ
chấm phá vài nét thôi thế nhưng thần tình sẽ hiển hiện, chỉ cần ai đã từng
thấy người bị vẽ thì xem qua cũng biết đó là ai”.
Dưới ngòi bút truyền thần của Lỗ Tấn, con mắt có thể dùng để biểu
hiện tính cách nhân vật. Đặc biệt với kiểu nhân vật bất bình thường con mắt
dùng để biểu hiện tư tưởng tình cảm phức tạp của nhân vật cùng sự đổi mới
thủ pháp nghệ thuật quan trọng trong khi miêu tả ngoại hình nhân vật, nhất
là nhân vật bất bình thường cuả Lỗ Tấn. Chẳng hạn như nhân vật thím
Tường Lâm trong lễ cầu phúc ( Bàng hoàng). Bốn lần thay đổi trong sự mô
tả đôi mắt từ chỗ “ lanh lợi” đến chỗ “ lờ đờ” rồi “ sâu hoắm xuống” và cuối
cùng thì “chỉ còn đôi tròng mắt lâu lâu đưa đi đưa lại mới chính tỏ rằng thím
là một con người đang sống mà thôi (tr26). Lỗ Tấn đã khắc họa được số
phận bi thảm của một người phụ nữ nông thôn từ nhút nhát tủi phận đến
phản kháng hoài nghi và rồi chết đi trong sự quên lãng của một xã hội đen
bạc. Hầu như các nhân vật bất bình thường trong một số truyện ngắn của
ông đều được người đọc nhận ra qua sự đặc tả đôi mắt dị biệt khác thường.
đây là nhân vật Trần Sĩ Thành (Luồng ánh sáng - tập Gào thét) với “cặp
mắt” xưng húp, đỏ mọng, mệt mỏi, sáng lên một cách cổ quái (tr.165). Đây
là Nhuận Thổ ( Cố hương- Gào thét) với khuôn mặt thê lương , cặp mắt than

thở “mi mắt viền đỏ húp mọng lên” (tr93).
Hơn thế, trong khi miêu tả số diện mạo nhân vật, Lỗ Tấn thể hiện từng
nhân vật không những là hình ảnh tưởng tượng, hình ảnh cảm giác mà có cốt


cách riêng, những cử chỉ dáng điệu lạ thường khônng lặp lại, hãy thử mường
tượng lại chân dung của Khổng Ất Kỷ - nhân vật trong truyện ngắn cùng tên
(Gào thét): “ bác ta người cao, mắt xanh lè, giữa những nếp nhăn thường có
vài vết sẹo, lại có một bộ râu lồm xồm, rối như mớ bòng bong. Áo tuy là áo
dài, nhưng vừa bẩn vừa rách, hình như mười năm nay chưa giặt” (tr39). Ở
đây có cách tả chân dung truyền thống: với người, bộ mặt, tóc tai, quần áo
( so với cách tả diện mạo hết sức ước lệ của các nhà tiểu thuyết cổ Trung
Quốc) nhưng có nhiều nét đổi mới: vóc người nhân vật cao và gầy không
còn là tráng sĩ dũng mãnh nữa, sắc mặt được nhấn mạnh chứ không phải
khuôn mặt.
Với ngòi bút “tả chân” Lỗ Tấn không đem đối lập vẻ bề ngoài nhân
vật với thế giới nội tâm của họ - thực chất “cái bên ngoài” của nhân vật
trong khi vẫn giữ toàn bộ tính cá thể, tính không lặp lại của nó, lại biểu hiện
sâu sắc mọi cung bậc tình cảm, tâm lí, tính cách thậm chí cả sắc thái xã hội,
cả thời đại nhân vật đang sống. Đặc biệt là AQ mỗi khi nhắc đến cái sẹo và
chiếc đuôi sam vàng, tự nhiên người ta liên tưởng đến đặc điểm và hành
động buồn cười của AQ, ngược lại mỗi khi nghĩ đến tính cách của AQ người
ta lại liên tưởng đến cái sẹo mà AQ tối kị và chiếc đuôi sam vàng thường
vẫn bị ngươì ta túm lấy nó. Cách miêu tả diện mạo ngắn gọn và tài tình này
đã khu biệt Lỗ Tấn với các nhà văn hiện đại Trung Quốc khác như Mao
Thuẫn, Diệp Thiệu Quân…
Dưới chế độ phong kiến hà khắc không ít nhân vật của Lỗ Tấn đã bị
chà đạp bị ức chế tinh thần đến mức độ “hồn lìa khỏi xác” hoặc trở nên bất
đắc chí, điên khùng hoặc trở thành xấu xí thảm hại vừa gây sự khinh miệt,
vừa gây sự thương cảm. Những đặc điểm sinh lí của nhân vật không những

làm nổi nhân vật lên mà còn nói được khía cạnh nào đó của cuộc đời nhân
vật trong xã hội có áp bức ví như nhân vật Nhuận Thổ từ một chú bé có


khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật (Gào thét, tr.89) - qua một quá trình
đấu tranh với cuộc sống thực tại đầy khắc nghiệt anh đã trở thành người
“không còn lanh lẹ với những nếp răn khắc sâu trên mặt…có lẽ anh chỉ cảm
thấy khổ nhưng không nói ra được hết” ở đây tác giả đã cố gắng tạo một sự
so sánh diện mạo nhân vật từ khi còn nhỏ đến trưởng thành. Chỉ qua một vài
chi tiết miêu tả ngoại hình nhân vật như vậy người đọc có thể hình dung ra
những nỗi niềm đau buồn uẩn ức đằng sau khuôn mặt ấy đó là thực tại: mất
mùa, thuế nặng, trộm cướp, quan lại…đầy đọa thân anh khiến anh trở thành
mụ mẫm, đần độn hẳn đi, trở thành một nhân vật bất bình thường trong diện
mạo.
Có nhà nghiên cứu nhân nhận xét về cách miêu tả chân dung trong
Hầu lâu mộng như sau : “ tác giả tả Giả Bảo Ngọc chỗ nào tả diện mạo thì
chỉ biết tả diện mạo, chỗ nào tả tính cách thì chỉ biết tả tính cách…như thế
không phải là nhân vật sống. Ở Lỗ Tấn thì khác , khi nhân vật bước ra ông
không vội vàng miêu tả ngoại hình ngay, mà khi triển khai sự việc tâm lí
hành động diện mạo nhân vật mới dần dần lộ ra. Rõ ràng cách tả của Lỗ Tấn
là gắn với tâm lý, tính cách nhân vật. Qua một vài ví dụ đã phân tích ở trên,
ta thấy nhân vật không phải được “ in ra mà nó sống động như nhân vật
ngoài đời”.
Có thể nói, trong truyện ngắn của Lỗ Tấn diện mạo nhân vật đồng thời
tượng trưng cho tính cách nhân vật ấy. Bởi vậy, tìm hiểu nhân vật bất bình
thường trong truyện ngắn Lỗ Tấn không thể bỏ qua sự phân tích ngoại hình
nhân vật, ngược lại thông qua những chi tiết nghệ thuật mà tác giả sử dụng
để đặc tả diện mạo nhân vật người ta biết đi sâu tìm hiểu nghệ thuật xây
dựng nhân vật bất bình thường trong tâm lí, tính cách và hành động.
Tính cách nhân vật được hình thành và phát triển trong hoàn cảnh

điển hình đó cũng là cống hiến của Lỗ Tấn. Khi xử lý mối quan hệ giữa tính


cách điển hình và hoàn cảnh điển hình Lỗ Tấn thường chỉ ra chân lý: tính
cách con người là do hoàn cảnh quy định.
Tính cách phức tạp đầy mâu thuẫn biểu hiện rõ nhất trong hình tượng
AQ ca ngợi những gì trước kia căm ghét phản đối tất cả những gì mà trước
kia chủ trương sùng bái và bắt đầu tìm đến “phép thắng lợi tinh thần” tong
sự thất bại và từ trong thất bại quên đi khổ đau. Có thể sơ bộ tóm tắt quá
trình tính cách AQ như vậy. Lỗ Tấn biết tuân thủ sự phát triển tính cách nội
tại của nhân vật khi xây dựng hình tượng nhân vật AQ, ông tỏ ra hiểu sâu
sắc bản chất tâm lí, tính cách những người như y, nhận định về loại nhân vật
này Lỗ Tấn viết: “ họ không dám nhìn thẳng vào sự thật, họ dùng cách che
dấu để tạo ra một con đường thoát rất kỳ diệu mà mà họ tưởng là một con
đường đúng đắn con dường đó chứng tỏ rằng tính quốc dân yếu đuối…thế
nhưng lại cảm thấy ngày càng vẻ vang”. Dựa vào lòng tin đối với những ưu
thế tinh thần cuả một quá khứ vinh quang mà AQ đã quên đi nhưng đau khổ
trước mắt nhưng cái “bệnh hoạn” của một ý thức hệ rõ ràng đang băng hoại
tận tập trung vào AQ “một con người không phải xuất thân từ giai cấp mà ý
thức hệ đó vốn là của riêng nó thì AQ nghiễm nhiên trở thành người đại diện
cho giai đoạn lịch sử cuối cùng của xẫ hội phong kiến TQ”.
Thành công của Lỗ Tấn trong việc xây dựng những nhân vật có
tâm lý tính cách bất bình thường như vậy chính là ở chỗ ông biết đặt nhân
vật vào trong xung đột mâu với xã hội . Mâu thuẫn xung đột này vừa tạo nên
kết cấu tác phẩm vừa là môi trường bộc lộ tính cách nhân vật. Trong truyện
ngắn của ông người đọc hầu như không nhận thấy lời thuyết minh của tác
giả. Khi tiếp xúc với sự kiện và các nhân vật. Từng nhhân vật được đối thoại
với người đọc do vậy tâm lý nhân vật bộc lộ một cách tự nhiên. Ông từng
nói: “cứ viết một mạch nhân vật ấy dần dần hoạt động lên, làm tròn nhiệm
vụ của nó”. Lỗ Tấn không nghĩ thay làm thay cho nhân vật, nhân vật của



ông đã “ hành động theo sáng kiến của nó” (Heghen) sự phát triển tính cách
của nhân vật phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Hãy xem nhân vật AQ từ góc độ là một bất bình thường trong truyện
ngắn Lỗ Tấn ta thấy nhân vật “lạ thường” ngay cả trong tên gọi. AQ không
có họ không có tên nên tác giả đành phải dùng một chữ la tinh để gọi mang trong mình sức châm biếm to lớn hơn nhìêu trong tiểu thuyết “khiển
trách” cuối thế kỉ XIX. Cái tên gọi này không phải để chế giễu AQ mà là chế
giễu toàn bộ chế độ phong kiến thối nát đã làm tha hóa tâm hồn những người
dân lương thiện khiến họ không nhận ra đựơc tên gọi cuả mình, bản chất của
mình. Lỗ Tấn với tư cách là một nhà văn cách mạng đã nhìn thấu được căn
bệnh quốc dân tính ấy của nhân dân mình để rồi qua tác phẩm văn học sáng
tạo ra một kiểu nhân bất bình thường tương ứng, nhằm mục đích “giáo dục
cho nhân dân biết sợ bản thân mình bằng cách hát cho họ nghe bài hát của
chính họ” (Mac) để làm nhân dân mạnh dạn hơn lên.
Coi “người điên” là một hình tượng văn học được sáng tạo ra để
phục vụ ý đồ tư tưởng của nhà văn chúng ta mới thấy hết được tài năng nghệ
thuật của Lỗ Tấn. Việc Lỗ Tấn phát hiện ra chữ “ăn thịt người” trong lịch sử
mấy nghìn năm lễ giáo phong kiến Trung Quốc là việc làm rất phù hợp với
tâm lý của một người trí thức đã hóa điên. Cái tài của Lỗ Tấn là ở chỗ biết
khéo léo lợi dụng hoạt động tâm lý của một người điên để bắt người đọc suy
nghĩ về một tâm lý “không điên” chút nào.
Dẫn chứng trong Gào thét, Bàng hoàng sẽ thấy Lỗ Tấn không chỉ
một lần nhắc tới nhân vật người điên trong truyện ngắn Cây trường minh
đăng in trong tập Bàng hoàng, kiểu nhân vật này cũng xuất hiện khác với
người điên trong “Nhật ký người điên” về diện mạo và hành động có vẻ
được khắc họa rõ nét hơn. Dưới con mắt cuả những người tỉnh táo (không
điên) trong truyện “trông hắn vẫn như mọi hôm, mặt vuông vàng khè, cái áo



dài rách tươm..chớp chớp mắt điên cuồng, vội vàng tìm trên đất, tìm trên
không, tìm trong người hắn ta, hình như tìm lửa để đốt cây trường minh
đăng- một sản phẩm của nền văn minh cổ hủ”.
Có thể tìm thấy những nhân vật đồng dạng với “người điên”
trong sáng tác của Lỗ Tấn qua tác phẩm Gôgôh Những linh hồn chết, (nhân
vật Trisicô; Nhật ký người điên- nhân vật Pôprisin”, Xecvntec (nhân vật
Đonkihote)..Lỗ Tấn và các nhà văn vừa kể trên đã thâm nhập vào quá trình
phát triển tâm lý của nhân vật để tim hiểu “cái động cơ nội tại của con người
và từ đó sáng tạo một kiểu nhân vật hết sức độc đáo”.
Tiếng thét kêu cứu của người điên là tiếng thét vang lên trong nỗi
hoảng sợ kinh hoàng bệnh lý nhưng đồng thời cũng là lời thức tỉnh quốc dân
của một người sớm gíac ngộ cách mạng sớm nhận ra con đường đúng dắn
mà dân tộc mình phải đi. Như vậy Lỗ Tấn đã biết sử dụng và sử dụng một
cách nghệ thuật hình tượng nhân vật đặc biệt - nhân vật người điên với
những tâm lý tính cách hành động bất bình thường để gây chú ý ấn tượng
cho người đọc, tiếng kêu cứa của người điên đã vang lên một cách khác lạ
có tác dụng đánh thức mọi người.
Nhà văn Tônxtôi đã viết: “Hãy sống cuộc đời nhân vật được mô tả,
hãy mô tả những cảm xúc nội tâm của chúng trong các hình tượng và chính
các nhân vật làm những gì mà họ cần phải làm, dựa vào tính cách tức là
chính mình nghĩ ra cách cởi nút trên cơ sở tính cách và vị trí các nhân vật”.
Như vậy, qua đó chúng ta thấy được sư thành công của Lỗ Tấn trong việc
thể hiện thế giới các nhân vật ngày càng độc đáo và sâu sắc.
Ẩn giấu bên dưới những trang văn xuôi cực kỳ giản dị, cô đúc, lạnh
lùng, đôi khi bỡn cợt là trái tim sục sôi, rướm máu của ông trước cuộc đời, là
bức chân dung tinh thần của một con người mà khi mất đi, hơn 6000 sinh


viên- học sinh đã kính cẩn nghiêng mình trước quan tài thêu ba chữ “dân tộc
hồn”- không chỉ vì ông đại diện cho “linh hồn dân tộc”, mà còn vì ông là

người đã phác thảo, vẽ nên chân dung con người, linh hồn dân tộc Trung
Hoa thời hiện đại một cách chân thực nhất, sâu sắc nhất qua một loạt các
nhân vật điển hình như sống mãi cùng văn ông.



×