Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

tiểu luận chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.16 KB, 13 trang )

2.2.3. Chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng
Ngay từ cuối những năm 70 của thế kỉ XX, khi nước ta lâm vào khủng
hoảng kinh tế - xã hội, Đảng ta, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đặc biệt là tổng kết
những kinh nghiệm sáng tạo của nhân dân, đã đề ra một số chủ trương đổi mới,
góp phần quan trọng làm tăng tốc độ phát triển kinh tế trong 5 năm từ năm
1981-1985. Tuy vậy, trong thời gian này, những nhược điểm của cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp chưa được khắc phục về cơ bản, đã tiếp tục cản trở sự
phát triển của lực lượng sản xuất, những tiến bộ và mức độ tăng trưởng kinh tế
chưa đủ để khắc phục những khó khăn, đất nước vẫn còn bị bao vây, cấm vận và
chi phí lớn về quốc phòng. Thêm vào đó, một số sai lầm trong xử lý vấn đề về
“giá-lương-tiền” làm cho khủng hoảng kinh tế-xã hội tiếp tục diễn ra rất gay gắt,
lạm phát lên đến 700% vào năm 1986.
Mặc dù, nước ta vẫn còn nhiều khó khăn nhưng với những kết quả ban
đầu đạt được của thời kỳ đổi mới từng phần đã mang lại cho chúng ta nhiều kinh
nghiệm quý báu. Chính dựa trên tổng kết thực tiễn, xem xét những kinh nghiệm
ấy và nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, mà Đảng
ta đã có những quyết sách mới rất đúng đắn nghiêm khắc kiểm điểm tình hình,
phân tích những sai lầm, khuyết điểm từ đó rút ra những kết luận cần thiết và đề
ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra một bước ngoặt trong quá trình đi lên xây
dựng Chủ nghĩa xã hội.
a. Chủ trương


Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một chủ trương được toàn Đảng,
toàn dân nhất trí. Có thể nói qua mỗi kì Đại hội Đảng, chủ trương hội nhập kinh
tế lại càng được xây dựng, phát triển và hoàn thiện hơn.

Trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình trong nước và quốc tế, Đâị hội Đảng lần
thứ VI ( tháng 12/1986), cùng với tuyên bố tiến hành công cuộc đổi mới toàn
diện, đã đưa chính sách đối ngoại " Thêm bạn bớt thù", " mở rộng quan hệ với
tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình", đồng thời nhấn mạnh tầm


quan trọng của việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đảng ta
chủ trương: " phải tham gia sự phân công lao động quốc tế.., tranh thủ mơ mang
quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước
công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên
tắc bình đẳng cùng có lợi ".
Để phá vỡ thế bị bao vây cấm vận và phát triển quan hệ đối ngoại, Đại hội Đảng
lần thứ VII ( tháng 6/1991) đã đưa ra một quyết sách mới về đối ngoại. Chúng ta
đã chuyển từ phương châm đối ngoại " thêm bạn bớt thù" của giai đoạn trước
sang đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa theo
phương châm " Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thé
giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Về quan hệ kinh tế quốc tế,
Đảng ta chủ trương " Gắn thị trường trong nước nước với thị trường thế giới,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu dùng trong nước với xuất khẩu", đồng thời
xã định rõ phương châm và nguyên tắc trong lĩnh vực quan hệ kinh tế đối ngoại:
" Mở rông đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tê đối ngoại trên nguyên


tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi". Chủ trương này đánh
dấu một bước ngoặt quan trọng khởi đầu cho tiến trình tham gia ngày càng sâu
rộng vào quá trình phân công lao động và quan hệ kinh tế quốc tế. Nghị quyết
Hội nghị Trung Ương lần thứ ba khóa VII (26/6/1992) đã xác định nhiệm vụ
then chốt của công tác đối ngoại thời kỳ đó là: cố găng khai thông quan hệ với
các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á ( ADB),..., mở rộng quan hệ với
các tổ chức hợp tác khu vực ở Châu Á - Thái Bình Dương. Tháng 11/1996, Bộ
Chính trị đã ra nghị quyết về mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác kinh tế đối
ngoại 5 năm 1996 - 2000.
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại nói chung,
chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng, theo hướng " Giữ vững độc lập tự chủ đi
đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.

Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên
ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng
mạnh về xuất khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả."
Tiếp đó, Nghị quyết 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII ngày
29/12/1997 về kinh tế đối ngoại đã nhấn mạnh ba nhiệm vụ quan trọng của nước
ta trong giai đoạn này là: (1) tiếp tục đổi mới, (2) phát huy tối đa nội lực và (3)
tăng cường hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc tế. Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của ta là: trên cơ sở phát huy nội lực thực hiện
nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, khuyến khích
mạnh mẽ việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, khuyến khích và tạo điều


kiện thuận lợi nhất cho xuất khẩu, tích cực thâm nhập và mở rộng thị trường
quốc tế. Nghị quyết cũng nhấn mạnh nhiệm vụ: chủ động chuẩn bị các điều kiện
cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là những sản phẩm mà chúng ta có khả
năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị trường quốc tế, đồng thời
tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định thương mại với Mỹ,
gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể chủ động thực hiện cam kết trong
khuôn khổ AFTA.
Đại hội Đảng lần thứ XI khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, rông mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển...Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường".
Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã thông qua nghị quyết số 07 về hội nhập kinh
tế quốc tế, cụ thể hóa chủ trương và phương châm hội nhập mà Đại hội IX đã đề
ra. Nghị quyết 07 xác định rõ mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là nhằm mở
rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX ( 1/2004) đã đánh giá tình hình thực hiện nghị
quyết Đại hội IX và Nghị quyêt 07 của Bộ chính trị và chỉ rõ nhiệm vụ trong
nửa nhiệm kỳ còn lại của Đại hội IX về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là " Chủ


động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các
cam kết quốc tế đa phương, song phương mà nước ta đã ký và chuẩn bị tốt các
điều kiện để sớm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới".
Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách
đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các
lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực".
Hoạt động đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế được triển khai trên một số hướng
chính sau:
Một là, tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, củng cố và hoàn thiện khuôn khổ
quan hệ ổn định, lâu dài với các nước nhất là láng giềng khu vực, các nước lớn
và các đối tác quan trọng khác, tạo bước chuyển biến mới trong quan hệ hợp
tác theo hướng đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, ổn định, bền
vững, tạo ra sự tin cậy lẫn nhau.
Hai là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn và đầy đủ
hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương sau khi gia nhập
WTO: thực hiện các cam kết với các nước về thương mại, đầu tư, mở cửa thị
trường, chuẩn bị tốt các điều kiện để ký các Hiệp định thương mại tự do song
phương với các nước, nhất là các nước lớn, ký các Hiệp định hợp tác kinh tế đa



phương và khu vực. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện có hiệu quả với các
nước ASEAN, các nước khu vực châu Á - TBD.
Ba là, tăng cường hơn nữa vai trò của hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo môi
trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại, cải thiện môi trường
đầu tư nhằm thu hút FDI, ODA, thúc đẩy mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế,
thương mại, đầu tư, mở rộng thị trường với các nước, các tổ chức quốc tế nhằm
thực hiện nhiệm vụ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
ĐH XI (1/2011), tiếp nối và phát triển những quan điểm, và chính sách
đối ngoại mà Đảng ta đã xây dựng và phát triển trong suốt hơn 80 năm tổ chức
và lãnh đạo cách mạng Việt Nam:
Thứ nhất: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi
trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế
của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Thứ hai: nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối
quan hệ quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối


đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm
thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế. Xúc tiến mạnh thương
mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc
tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến. Tham
gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích
quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến

chương Liên Hợp Quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực
và quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và
nhất là tình trạng biến đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức
quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên
quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc
nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh
quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.
Thứ ba: Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ,
ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở những nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công
tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác
cùng phát triển. Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với
các nước láng giềng có chung biên giới. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm
cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ
với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản,


công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở
bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; mở rộng tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phương ở khu vực và
thế giới. Coi trọng và nâng cao hiệu quả của công tác ngoại giao nhân dân. Tăng
cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại; chăm lo
đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; thường xuyên bồi
dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp.
Thứ tư: Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung
của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối
ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao
chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hoá; giữa đối ngoại với quốc
phòng, an ninh.

b. Chính sách
Thứ nhất, tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích...
để đạt được nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về hội nhập kinh tế
quốc tế.
Thứ hai, căn cứ vào hội nghị trung ương lần thứ IX, Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 cũng như các quy định của các tổ chức
kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập
với một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn
trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh,
bảo đảm cho hội nhập có hiệu quả.


Thứ ba, chủ động và khẩn trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới
công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa
lợi thế so sánh của nước ta.
Thứ tư, tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự hình thành phát triển và từng bước
hoàn thiện các loại hình thị trường, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng,
bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, kiện toàn Ủy ban
quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế.
Thứ sáu, kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối
ngoại, gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an
ninh, quốc phòng.
Thứ bảy, tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế
giới ( WTO) theo các phương án và lộ trình hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh của
nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang trong quá trình
chuyển đổi cơ chế kinh tế
Tóm lại, để phát triển kinh tế, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Việt Nam đã tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện qua các

điểm sau:
1. Tiến hành tự do hóa đơn phương, các cơ chế thị trường chủ yếu cơ bản
đã được thiết lập và từng bước được hoàn thiện hơn với đa thành phần sở hữu,
trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, khu vực kinh tế phi quốc


doanh được khuyến khích phát triển, đối xử bình đẳng giưa các thành phần kinh
tế trong nước.
2. Thực hiện từng bước theo những lộ trình cụ thể việc ưu đãi tối huệ
quốc và đối xử quốc gia trong các lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí
tuệ... đối với các nước đối tác trong các tổ chức kinh tế quốc tế mà Việt Nam
tham gia.
3. Cắt giảm thuế quan và từng bước xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan đối
với các chủng loại hàng hóa được quy định theo các lộ trình cụ thể.
4. Thực hiện tự do hóa, mở của thị trường và thực hiện đối xử bình đẳng
đối với các dịch vụ cũng như các nhà đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực dịch
vụ.
5. Mở cửa thị trường Việt Nam cho các nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư,
kinh doanh tại Việt Nam, thực hiện các biện pháp tự do hóa và thuận lợi hóa đối
với đầu tư trực tiếp nước ngoài và tiến tới dành cho các nhà đầu tư nước ngoài
quy chế đãi ngộ quốc gia.
6. Tôn trọng và thực hiện bảo hộ các quyền về bản quyền tác giả, bằng
phát minh sáng chế, thương hiệu, thiết kế, kiểu dáng công nghiệp, giống vật
nuôi cây trồng....
7. Công khai hóa các chính sách, luật lệ, quy định về chế độ thương mại,
thủ tục hành chính có liên quan và bảo đảm cho mọi người được tiếp cận một
cách thuận tiện và dễ dàng các thông tin đó.


8. Có cơ chế thông tin liên quan đến mua sắm công bảo đảm tính công

khai, minh bạch, thực hiện đầu tư công khai, công bằng, trong đó cho phép các
công ty tư nhân và công ty các nước đối tác tham gia đấu thầu các dự án mua
sắm công.
9. Nới lỏng và hạn chế về thủ tục cấp thị thực nhập canh và kiểm soát đối
với việc lưu trú, di chuyển của các nhà doanh nghiệp và nhân công thuộc các
nước thành viên cùng tham gia khuôn khổ hợp tác.
10. Xây dựng hệ thống quy định pháp lý rõ ràng về thủ tục hải quan và cải
tiến các thủ tục này theo hướng đơn giản, minh bạch để tạo thuận lợi cho việc
xuất - nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và các nước đối tác.
11. Xây dựng mới và điều chỉnh các tiêu chuẩn quốc gia phù hợp với tiêu
chuẩn khu vực và quốc tế, đồng thời thực hiện các quy định về công nhận lẫn
nhau ( MRA).
12. Chấp nhận các cách thức giải quyết tranh chấp được quy định trong
khuôn khổ các thể chế quốc tế mà Việt Nam tham gia.

Thành tựu:
Thứ nhất, Đảng và nhà nước ta đã nắm vững được xu thế khách quan của
toàn cầu hóa, tự do hóa dưới sự tác động của cách mạng khoa học và công nghệ
mới, do đó đã xây dựng và triển khai có hiệu quả các chủ trương, đường lối và
quyết sách nhằm đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp với xu thế khách quan của thời đại.


Thứ hai, hình thành nhận thức đúng đắn, sâu rộng trong các cấp, các
ngành về chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả gắn với yêu
cầu phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ, tránh tư tưởng giản đơn, nóng vội,
đồng thời trành tư tưởng bảo thủ trì trệ.
Thứ ba, các cán bộ ngành và địa phương đã có nhiều nỗ lực trong việc
thực hiện vai trò, nhiệm vụ của mình, ngày càng có bước trưởng thành và dần
dần đảm nhiệm được các nhiệm vụ liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ tư, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ta đã có quan điểm mới
về việc xác đinh đối tượng, đối tác, nhờ đó mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế thu
hút được sự đáp ứng tích cực và rộng rãi của cộng đồng quốc tế trong việc hợp
tác cùng phát triển với Việt Nam.
Hạn chế
• Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn chúng ta còn lúng túng,
bị động

• Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu
mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; luật pháp, chính
sách quản lý kinh tế - thương mại chưa hoàn chỉnh

• Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh
tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết


• Đội ngũ cán bộ công tác đối ngoại còn thiếu và yếu; công tác tổ chức chỉ
đạo chưa sát và chưa kịp thời.

• Sự phối hợp không phải lúc nào cũng thực sự chặt chẽ và hiệu quả giữa
các Bộ, ngành, địa phương, đoàn thể và doanh nghiệp trong quản lý và
triển khai các hoạt động đối ngoại.
• Việc rà soát, đôn đốc đàm phán và triển khai các thỏa thuận với các đối
tác tuy đã có bước tiến lớn, song có lúc có nơi vẫn chưa đủ quyết liệt,
mạnh mẽ.
• Công tác nghiên cứu, thông tin, dự báo đã được tăng cường đáng kể, theo
sát được các diễn biến tình hình quốc tế và khu vực và các vấn đề phát
sinh nhưng các kiến nghị đối sách cần sâu sắc hơn, kịp thời hơn.




×