Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

tiểu luận: "Phép biện chứng về mâu thuẫn và việc phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.57 KB, 12 trang )

TRƯỜNG..........................
KHOA……………………

TIỂU LUẬN
Đề tài
Phép biện chứng về mâu thuẫn và
việc phân tích mâu thuẫn giữa xây
dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội
nhập kinh tế quốc tế


Lời nói đầu
Trong q trình vận động và phát triển của sự vật ln ln xẩy ra mâu
thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa các yếu tố trong bản thân sự vật hay mâu thuẫn
giữa các sự vật với nhau. Triết học Mác-Lênin đã chỉ ra, mâu thuẫn là một tất
yếu khách quan, mang tính phổ biến và có đa dạng các loại mâu thuẫn. Xác định
đúng từng loại mâu thuẫn sẽ cho phép con người tìm ra được những giải pháp
phù hợp, tối ưu để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện thúc đẩy sự vật phát
triển. Từ lí luận mâu thuẫn, ta xem xét mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế độc
lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
Tồn cầu hố kinh tế là xu thế tất yếu khách quan trong giai đoạn hiện
nay, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản
xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa
có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh, vừa tạo ra những cơ hội cho
sự phát triển nhưng cũng vừa có những thách thức đối với các quốc gia, nhất là
các quốc gia đang ở trình độ kém phát triển như Việt Nam. Vì tồn cầu hố là
một xu thế, một q trình khách quan cho nên không thể đảo ngược. Trong điều
kiện thế giới ngày nay, các quốc gia khơng thể tẩy chay hồn tồn tồn cầu hố
hoặc đứng ngồi q trình tồn cầu hố. Vấn đề đối với các quốc gia là, phải có
chiến lược thích ứng và khơn ngoan để vượt qua thách thức và chớp lấy thời cơ,
đồng thời phải có ý thức giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, bảo vệ


toàn vẹn lãnh thổ để đưa quốc gia dân tộc mình đến chỗ phát triển và phồn vinh.
Tức là phải tìm ra các giải pháp phù hợp để giải quyết tốt mâu thuẫn giữa xây
dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
Trước yêu cầu thực tế đặt ra như vậy, nên tôi đã chọn đề tài nghiên cứu
"Phép biện chứng về mâu thuẫn và việc phân tích mâu thuẫn giữa xây
dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế".
Kết cấu bài viết gồm hai phần:

1


Phần I là lí luận phép biện chứng về mâu thuẫn, trong đó đưa ra định
nghĩa về mâu thuẫn, các loại mâu thuẫn và mối quan hệ giữa chúng.
Phần II là phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với
hội nhập kinh tế quốc tế; trên cơ sở đó đưa ra khuyến nghị để giải quyết một
cách tốt nhất các mâu thuẫn đó.
Chọn đề tài phù hợp với bản thân, em lập kế hoạch nghiên cứu và đã trải
qua quá trình nghiên cứu khoa học thực sự, từ thu thập, xử lý thông tin đến tổng
hợp và viết báo cáo. Bài tiểu luận đã phản ánh một nhãn quan khoa học của
người viết về lí luận mâu thuẫn và xử lý mâu thuẫn trong thực tiễn giữa xây
dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, do hạn chế
về thời gian và trình độ nhận thức, bài viết khơng tránh khỏi thiếu sót. Em rất
mong nhận được sự góp ý của các thầy cơ và những người quan tâm để bài viết
được hoàn thiện hơn.
Qua bài viết này, em xin gửi lời cảm ơn đến PGS.TS Đoàn Quang Thọ và
TS Phạm Văn Sinh, những người đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành tốt bài
tiểu luận này!
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2003


2


Phần I
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MÂU THUẪN
1. Khái niệm về mâu thuẫn
Mâu thuẫn của sự vật, của thế giới đã được rất nhiều nhà triết học trong
lịch sử bàn đến. Chẳng hạn, thuyết âm dương ngũ hành của Trung Hoa đã đề
cập tới các mâu thuẫn Âm – Dương, mâu thuẫn giữa các yếu tố bản nguyên
Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả và Thổ. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Hêraclít cũng nhẫn
mạnh mâu thuẫn của các hiện tượng, quá trình khách quan. Hêghen đề cập tới
mâu thuẫn của tư duy. Nói chung, các quan niệm trên đều đã mơ tả mâu thuẫn
khách quan nhưng chưa làm rõ được sự chuyển hố biện chứng của các mặt đối
lập. Vì thế, khái niệm mâu thuẫn cịn nặng về hình thức mà chưa đi sâu vào nội
dung biện chứng của các mặt đối lập.
Đến triết học Mác - Lênin đã đưa ra một khái niệm khoa học về mâu
thuẫn: Mâu thuẫn là sự thống nhất của các mặt đối lập.
Như vậy, có hai điều kiện để xác định một mâu thuẫn biện chứng: Thứ nhất là,
các xu hướng đối lập nhau. Thứ hai là, các xu hướng là điều kiện tồn tại và phát
triển của nhau.
Tuy nhiên, theo cách hiểu biện chứng, cần lưu ý không phải mọi cái đối
lập đều tạo nên mâu thuẫn mà chỉ có những xu hướng đối lập nào là tiền đề tồn
tại của nhau mới tạo thành mâu thuẫn.
2. Các loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn có tính khách quan, phổ biến và đa dạng. Dưới đây là một số
loại mâu thuẫn:
* Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các yếu tố cấu thành một sự vật
nhất định. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa mặt đối lập của sự vật này


3


với mặt đối lập của sự vật khác. Việc phân chia mâu thuẫn bên trong và mâu
thuẫn bên ngoài cần có quan điểm lịch sử cụ thể, tuỳ phạm vi phân tích.
Mâu thuẫn bên trong có vai trị quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động
và phát triển của sự vật. Cịn mâu thuẫn bên ngồi có vai trị hỗ trợ. Mâu thuẫn
bên ngồi tự nó khơng thể phát huy được vai trị của mình, mà phải thơng qua
mâu thuẫn bên trong để phát huy tác dụng nhất định. Tuy nhiên, giữa mâu thuẫn
bên trong và mâu thuẫn bên ngồi có sự tác động qua lại với nhau. Giải quyết
mâu thuẫn này cũng là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn kia.
* Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, các
mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự
phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật. Nó tồn tại gắn liền với sự vật từ khi
sinh ra cho đến khi sự vật kết thúc.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện
nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó
của sự vật.
Mâu thuẫn cơ bản đóng vai trị hết sức quan trọng đối với sự vật. Mâu
thuẫn cơ bản là cơ sở hình thành và chi phối các mâu thuẫn khác trong quá trình
phát triển của sự vật. Khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay
đổi về chất. Mâu thuẫn không cơ bản tồn tại bao giờ cũng gắn liền với mâu
thuẫn cơ bản, và trong quá trình vận động, mâu thuẫn cơ bản có thể làm nảy
sinh mâu thuẫn khơng cơ bản.
* Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
Dựa vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật
trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ
yếu và mâu thuẫn thứ yếu.


4


Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát
triển của mọi sự vật. Nó có tác dụng quyết định đến các mâu thuẫn khác tồn tại
trong cùng sự vật ở giai đoạn đó.
Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn khơng đóng vai trị quyết định đối với
quá trình phát triển của sự vật.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu là biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn cơ bản ở một
giai đoạn nhất định. Do đó, việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu chính là từng
bước giải quyết mâu thuẫn cơ bản.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu cũng có thể chuyển hố cho nhau
trong q trình phát triển của sự vật.
* Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, những tập đoàn
người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh
hướng xã hội mà lợi ích về cơ bản là nhất trí với nhau.
Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn khơng đối kháng có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Mâu
thuẫn đối kháng theo nguyên tắc chung chỉ được giải quyết thông qua các cuộc
cách mạng xã hội. Cịn mâu thuẫn khơng đối kháng, xu hướng phát triển đặc thù
của nó ngày càng dịu đi. Mâu thuẫn này được giải quyết vẫn phải tuân thủ
nguyên tắc là thông qua đấu tranh nhưng bằng phương pháp hồ bình.
Như vậy, hiểu bản chất các loại mâu thuẫn để tìm ra cách giải quyết phù
hợp là điều rất quan trọng trong thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt là giai đoạn hiện
nay, trước xu thế tồn cầu hố kinh tế diễn ra ồ ạt, kinh tế Việt Nam muốn
không bị tụt hậu, muốn khởi sắc thì cần phải can đảm hồ mình vào trào lưu

kinh tế chung toàn thế giới, đồng thời phải phát huy nội lực để tự đứng vững
trước mọi tác động tiêu cực từ bên ngoài.

5


Phần II
MÂU THUẪN GIỮA XÂY DỰNG KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Trong giai đoạn hiện nay, cũng như trong tương lai xa hơn, hội nhập kinh
tế quốc tế đối với Việt Nam có nghĩa là Việt Nam phải tham gia các tổ chức
kinh tế quốc tế và khu vực như AFTA, APEC, WTO,…, phát triển các quan hệ
thương mại và đầu tư rộng rãi với mọi quốc gia, đặc biệt là các trung tâm kinh
tế thế giới, mở rộng sự hợp tác với các công ty xuyên quốc gia. Phát triển các
mối quan hệ này sẽ dẫn đến một kết cục là: các hàng rào thuế quan và phi thuế
quan phải giảm thiểu theo các nguyên tắc của các tổ chức trên, các công ty nước
ngoài được phép vào Việt Nam hoạt động một cách bình đẳng với các cơng ty
Việt Nam và ngược lại các công ty Việt Nam cũng được phép hoạt động bình
đẳng tại các nước đối tác. Trong điều kiện đó việc xây dựng một nền kinh tế độc
lập tự chủ nên được hiểu như thế nào là thích hợp. Liệu có mâu thuẫn giữa hội
nhập kinh tế quốc tế với xây dựng kinh tế độc lập tự chủ?
Trước hết, ta phải hiểu bản chất của nền kinh tế độc lập tự chủ. Có hai
cách hiểu sau:
Thứ nhất, nền kinh tế độc lập tự chủ trong mơ hình kinh tế hướng
nội.
Mơ hình kinh tế độc lập tự chủ hướng nội là một nền kinh tế có khả năng
tự đảm bảo các nhu cầu của đất nước, càng nhiều càng tốt. Một cơ cấu hoàn
chỉnh, hoặc tương đối hoàn chỉnh là quốc sách của mơ hình này. Trong đó
những ngành cơng nghiệp nặng, đặc biệt là những ngành công nghiệp nền tảng
6



gồm năng lượng, sản xuất các nguyên liệu cơ bản như sắt thép, hoá chất, lọc
dầu, xi măng,…được đặc biệt chú trọng từ đầu. Quan điểm cơ cấu ngành của
nền kinh tế độc lập tự chủ theo mơ hình này nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
việc tự đảm bảo các nhu cầu trong nước, dù phải chịu những bất lợi về hiệu quả,
và hầu như khơng tính tới những lợi thế so sánh quốc tế. Ưu tiên hàng đầu là
khơng phụ thuộc vào bên ngồi.
Với những chính sách này đã gây ra những tác hại to lớn: Nó làm tăng giá
các hàng hoá trong nước gây thiệt hại cho người tiêu dùng; Duy trì bảo hộ tình
trạng lạc hậu về cơng nghệ tổ chức quản lý; Chính sách bảo hộ cao đã làm méo
mó mơi trường đầu tư; Hạn chế việc mở rộng thị trường.
Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong mơ hình kinh tế hướng nội có một đặc
trưng quan trọng nhất là tự đảm bảo các nhu cầu thiết yếu trong nước, để không
bị lệ thuộc vào bên ngồi, từ hoạch định chiến lược chính sách đến các hàng
hố, dịch vụ, cũng khơng bị tác động từ bên ngồi bởi các chấn động về chính
trị, an ninh, kinh tế,…
Thực tế thế giới cho thấy đã khơng có một quốc gia nào đi theo mơ hình
kinh tế này đạt được những thành công vững chắc, mà hầu hết đều đã hoặc là
thất bại, hoặc là phải trả một cái giá rất đắt, hoặc là lâm vào khủng hoảng, suy
thối, trì trệ kéo dài. Vì vậy, buộc các quốc gia phải tìm kiếm một mơ hình phát
triển khác, một cách hiểu khác về tính độc lập tự chủ của nền kinh tế.
Cách hiểu thứ hai là nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
Nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là một
nền kinh tế gồm những ngành có lợi thế cạnh tranh cao, và tuỳ thuộc vào thị
trường thế giới. Độc lập tự chủ trong mơ hình này chấp nhận sự tuỳ thuộc lẫn
nhau trên cơ sở cùng có lợi trong quan hệ giữa các quốc gia. Sự tuỳ thuộc lẫn
nhau này diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực từ hoạch định chính sách phát triển,
thể chế kinh tế vĩ mơ, đến cả sự hình thành các ngành kinh tế, các công ty. Mô


7


hình kinh tế này đưa lại nhiều mặt tích cực, nhưng đồng thời cũng đưa lại nhiều
mâu thuẫn, nhiều tiêu cực.
Trước hết, nhận định mặt tích cực, hội nhập kinh tế quốc tế đã và sẽ tạo
ra những cơ hội cho sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, cho phép chúng
ta tiếp cận với nền văn minh công nghiệp của thế giới. Tồn cầu hố kinh tế là
một cơ hội để chúng ta phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước, tạo ra cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội và do đó
mà có điều kiện và khả năng thực tế để bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc gia.
Trong điều kiện tồn cầu hố kinh tế hiện nay, chúng ta có nhiều cơ hội để tiếp
cận nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới, học hỏi những
kinh nghiệm quản lí xã hội, tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh công
nghiệp.
Bên cạnh mặt tích cực, tồn cầu hố kinh tế cũng đưa lại khơng ít mâu
thuẫn. Cụ thể là:
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngồi, có
nhiều vốn đầu tư đổ vào thì nền kinh tế mới có điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng
hiện đại, mới có điều kiện đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao năng suất lao
động. Tuy nhiên, vốn đầu tư từ nước ngoài bao giờ cũng gắn với những điều
kiện nhất định, như điều kiện về mục đích sử dụng, đối tượng sử dụng, thời gian
sử dụng,…Như vậy là nước nhận đầu tư đã phần nào bị chi phối, bị khống chế
về kinh tế, chính trị bởi chủ đầu tư. Và từ đó làm nảy sinh mâu thuẫn bên ngoài
giữa nước nhận đầu tư và nước chủ đầu tư, nước nhận đầu tư mất tính độc lập.
Hơn nữa, nếu sử dụng không đúng nhu cầu của nền kinh tế hay sử dụng khơng
có hiệu quả thì nền kinh tế khơng những khơng phát triển mà cịn bị khủng
hoảng, mất cân đối. Nghĩa là ảnh hưởng đến tính tự chủ về kinh tế của nước
nhận đầu tư.

- Tồn cầu hố, tức hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ bị bãi bỏ dần,
các công ty được tự do cạnh tranh bình đẳng trên tồn thế giới. Lúc đó, ở những
nước kém phát triển, do các cơng ty làm ăn kém hiệu quả, sức cạnh tranh yếu
8


nên dần dần sẽ bị phá sản, giải thể. Hàng hoá ngoại nhập chiếm lĩnh thị trường
nội địa, nền kinh tế bị lệ thuộc vào nước ngoài. Dẫn đến nước yếu thế trong
cạnh tranh sẽ bị mất quyền tự chủ.
- Tồn cầu hố, nghĩa là sẽ hình thành các thể chế kinh tế toàn cầu. Các
quốc gia thành viên phải áp dụng và thi hành hệ thống luật pháp quốc tế, các
quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia sẽ phát triển. Do đó,
độc lập, tự chủ về kinh tế chỉ mang tính tương đối.
-Những nước nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn do bị thiệt thịi vì những quy
định bị áp đặt từ những nước lớn. Đồng thời, những nước nghèo và kém phát
triển nếu khơng nhanh chóng tạo ra được một thiết chế kinh tế tương hợp với
thiết chế kinh tế khu vực và tồn cầu, khơng có khả năng cạnh tranh và hội nhập
thực sự thì chỉ đơn thuần trở thành nơi cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản
phẩm cho các nước có kinh tế phát triển, thành nơi tiếp nhận các công nghệ lạc
hậu hoặc thải loại, thành nơi mà các nước phát triển chuyển giao ô nhiễm dưới
cái vỏ bọc chuyển nhượng hay viện trợ công nghệ, nghĩa là thay thế sự phụ
thuộc này bằng một sự phụ thuộc khác.
- Phân công lao động ngày càng trở nên sâu sắc là hệ quả tất yếu của nền
sản xuất hàng hoá nói chung và của tồn cầu hố kinh tế nói riêng. Tồn cầu
hố kinh tế sẽ tạo ra sự phân công lao động quốc tế một cách sâu sắc hơn; do đó
trên phạm vi tồn cầu, năng suất lao động sẽ cao hơn, của cải được sản xuất ra
sẽ nhiều hơn với chất lượng tốt hơn và giá thành rẻ hơn. Bởi vì khi chưa tham
gia tồn cầu hố kinh tế cũng tức là chưa có sự phân cơng lao động quốc tế sâu
sắc, mỗi quốc gia gần như đều phải tự cấp tự túc, đều phải làm ra cả những cái
mà mình khơng có thế mạnh để đáp ứng cho nhu cầu đa dạng của nền kinh tế

quốc dân; cịn khi tham gia tồn cầu hố kinh tế, mỗi quốc gia sẽ chỉ sản xuất ra
một số loại hàng hoá nhất định để trao đổi với các quốc gia khác, ai mạnh mặt
nào sẽ khai thác triệt để mặt đó. Tức là có mối liên hệ phụ thuộc chặt chẽ lẫn
nhau giữa các quốc gia.

9


Vậy, để giải quyết mâu thuẫn giữa hội nhập kinh tế với độc lập tự
chủ, chúng ta nên nhìn nhận theo khía cạnh sau:
Trước hết, và quan trọng nhất là phải đảm bảo lợi ích phát triển của quốc
gia ở mức cao nhất có thể được. Các mối quan hệ của một nước với các nước
khác phải được xem xét đánh giá trên tiêu chuẩn có đảm bảo được lợi ích phát
triển của đất nước khơng. Đó mới là mục tiêu cho mọi chiến lược phát triển.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế tiến triển như hiện nay, mọi nền kinh tế ngày
càng tuỳ thuộc nhiều hơn vào bên ngoài. Nhưng nếu sự tuỳ thuộc nhiều hơn đó
đảm bảo tốt hơn cho lợi ích phát triển quốc gia, thì khơng có lí gì lại khơng chấp
nhận.
Thứ hai, sức cạnh tranh của nền kinh tế phải được cải thiện và tăng dần.
Sức cạnh tranh này phải được thể hiện các mặt:
Thể chế chính trị, kinh tế, xã hội, phải đủ mạnh, đủ tạo ra một môi trường
đầu tư, kinh doanh thuận lợi, chi phí thấp, rủi ro thấp, khả năng sinh lợi lớn.
Cơ cấu kinh tế gồm những ngành có khả năng cạnh tranh cao, có khả
năng tự điều chỉnh, tự rút lui khỏi những ngành kém khả năng cạnh tranh.
Cơ cấu doanh nghiệp cũng phải bao gồm những doanh nghiệp có sức
mạnh cơng nghệ và trí lực, đủ sức cạnh tranh trên thương trường trong nước và
quốc tế.
Nguồn nhân lực trong nước phải được đào tạo tốt và phát triển, sử dụng
có hiệu quả.
Biểu hiện tập trung của sức cạnh tranh của nền kinh tế là ở chất lượng và

giá thành của sản phẩm và dịch vụ của đất nước. Nếu sản phẩm và dịch vụ của
một quốc gia có giá thành cao, chất lượng thấp, thì sẽ khơng tiêu thụ được ở cả
thị trường trong nước và bên ngoài. Kết cục sẽ dẫn đến là nền kinh tế của quốc
gia đó sẽ lâm vào suy thối, khủng hoảng, tụt hậu kéo dài. Trong điều kiện đó
khó có thể nói đến độc lập và tự chủ. Còn như một nền kinh tế làm ra các sản
phẩm và dịch vụ chất lượng cao, giá lại thấp, có thể chiếm lĩnh cả thị trường
trong nước và quốc tế, tạo ra thu nhập ngoại tệ, dự trữ ngoại tệ lớn, có thể nhập
10


khẩu nhiều loại hàng hoá và dịch vụ đáp ứng các nhu cầu trong nước. Một nền
kinh tế có sức cạnh tranh cao như vậy trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay
là một nền kinh tế có tính độc lập và tự chủ cao.
Thứ ba, có khả năng ứng phó có hiệu quả với những chấn động chính trị,
kinh tế, xã hội bên ngoài.
Những chấn động bên ngoài có thể là: một cuộc chiến tranh từ bên ngồi tới,
một cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực hay thế giới,…Chiến lược tốt nhất của
một quốc gia là cố tránh tham gia những cuộc chiến tranh ở bên ngoài và tránh
để xẩy ra xung đột và chiến tranh ở trong nước. Còn một khi chiến tranh đã
bùng nổ, đã tham chiến, thì nhất định đất nước sẽ bị tàn phá nhất là trong điều
kiện chiến tranh hiện đại ngày nay. Song một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao,
có dự trữ ngoại tệ lớn, sẽ có sức chịu đựng cao hơn các nền kinh tế lạc hậu khác.
Một nền kinh tế hội nhập quốc tế cao, lợi ích quốc gia đan xen chặt chẽ với lợi
ích của nhiều quốc gia khác, nhiều trung tâm kinh tế, thì sẽ có nhiều khả năng
kết hợp sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế để bảo vệ đất nước tốt hơn.
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế có thể đưa đến một số mâu thuẫn với
việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Tuy nhiên hội nhập kinh tế là hợp quy
luật và không thể đảo ngược. Hội nhập kinh tế mang lại những lợi ích hết sức
lớn lao về nhiều mặt cho tất cả các nước. Những nước đi sau có thể tranh thủ
các cơ hội do nó mang lại phục vụ cho sự phát triển đất nước nhằm giảm bớt

khoảng cách với các nước phát triển. Và khơng có gì có thể tồn tại vĩnh viễn.
Nhận thức của con người đối với các sự vật phải thay đổi với những điều kiện
lịch sử cụ thể thay đổi. Nhận thức về một nền kinh tế độc lập tự chủ ngày nay
không thể vẫn là những nhận thức của những năm 50 và 60. Cần có nhận thức
mới thích hợp với điều kiện mới. Chính những nhận thức mới này sẽ mở đường
cho thực tiễn phát triển. Nhìn thẳng vào sự thật. Thực tiễn đang đòi hỏi phải có
nhận thức mới, tư duy mới.

11



×