Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Hoàn thiện CO’ chế quản lý tài chính tại công ty tài chính cống nghiệp tàu thuỷ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.28 KB, 69 trang )

21

Nhận thức từ ý nghĩa vấnLỜI
đề MỞ
nêu ĐẦU
trên, với mong muốn được tìm hiếu
sâu hơn về các lĩnh vực quản lý tài chính đặc biệt là Cơ chế quản lý tài chính
Nam thực
đangtập
trong
tiến trình
nhậpCông
kinhnghiệp
tế quốc
Sự nghiệp
và qua Việt
quá trình
tại Công
ty Tàihộichính
Tàutế.Thuỷ.
Trong
công
nghiệp
hoá
hiện
đại
hoá
đất
nước
đòi
hỏi


phải
huy
động
mọi
nguồn
lực
báo cáo thực tập chuyên ngành này Em xin phép được nghn cún đề tài
“Hoàn
của

hội
về
con
người,
công
nghệ,

vốn.
Đóng
góp
không
nhỏ
vào
sự
thiện CO’ chế quản lý tài chính tại Công ty tài chính cống nghiệp Tàu
nghiệp
chung
đó

các

tổ
chức
tài
chính
tín
dụng.
thuỷ”.
Công
Tàitập
chính
Công nghiệp
là Công
ty luận
Tài chính
Nhà
Báo
cáo tythực
tốt nghiệp
ngoài Tàu
phần thủy
mở đầu
và kết
được chia
nước
thuộc
Tổng
Công
ty
Công
nghiệp

Tàu
thủy
Việt,
hoạt
động
theo
Luật
thành 3 phần:
các tổ chức tín dụng, các Luật có liên quan khác. Được thành lập ngày
19/12/1998
theoỉ: Cơ
Quyết
của Bộ
Giáo ty
Thông
Vận tải
Chưong
sở lýđịnh
luậnsố
về 3456/ỌĐ-BGTVT
Cơ chế quản lý tài chính
tại Công
tài chính
và chính thức đi vào hoạt động tù' ngày 9 tháng 5 năm 2005. Công ty tài chính
Công nghiệp tàu thuỷ là một trong những đơn vị thành viên của Tống Công ty
ChưoTig 2: Thực trạng cơ chế quản lý tài chính tại Công ty tài chính
Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam với nhiệm vụ chính là huy động vốn đế đáp
ứng các
nhuTàu
cầuthuỷ

vốn ngắn hạn, trung và dài hạn trong việc phát triển ngành
Công
nghiệp
Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam.
Chưong 3: Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại Công ty Tài chính
Sau gần
năm hoạt động, thông qua hoạt động chủ yếu là huy động
Công nghiệp
Tàu10
thuỷ
vốn, Công ty tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ đã và đang dần chứng tở được
vai trò Do
là đầu
cung
cấpnghiệm
và thu và
xếpnhận
vốnthức,
chủ yếu
viên trong
hạn mối
chế về
kinh
bản cho
báo các
cáo thành
này không
tránh
Tống
Công

ty
Công
nghiệp
Tàu
thủy
Việt
Nam,
cho
các
dự
án
trọng
khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của Thầy Cô hướngđiếm
dẫn. mà
Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam làm chủ đầu tư trên các
phương diện đầu tư mở rộng, đầu tư mới, đầu tư nâng cấp, và bổ sung vốn lưu
động.
Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động này được đánh giá là cao. Nhưng đế
đứng vững trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong thời gian
tới và khẳng định vai trò không thể thiếu trong quá trình phát triển của Tổng
Công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính
là vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2008
Sinh viên

Ngụy Đình Hùng


3


CHƯƠNG I
Cơ SỎ LÝ LUẬN VỀ Cơ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CỦA
CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1. Tổng Quan về Công ty Tài Chính
1.1.1.
Khái niệm và vai trò của Công ty Tài Chính
> Khái niệm về công ty tài chính
Các tổ chức trung gian tài chính là một bộ phận cấu thành của hệ thống
tài chính quốc gia. Nó có vai trò đặc biệt trong việc huy động các nguồn lực
tài chính và cung cấp các dịch vụ tài chính cho hoạt động sản xuất, thưong
mại, dịch vụ và đầu tư phát triển nền kinh tế của đất nước. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường, các tố chức trung gian tài chính cũng ngày
càng phát triển phong phú và đa dạng.
Có nhiều cách phân loại các tổ chức trung gian tài chính khác nhau ở
các nước, song nhìn chung thường được phân thành hai loại là các Ngân hàng
và các Tổ chức Tài chính phi ngân hàng.
Các Tổ chức tài chính phi Ngân hàng là các tổ chức kinh doanh trong
lĩnh vục tài chính tiền tệ, được thực hiện một sổ hoạt động Ngân hàng như là
nội dung kinh doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ
hạn và làm dịch vụ thanh toán. Cũng như các Ngân hàng, các Tố chức tài
chính phi Ngân hàng cũng có chức năng làm trung gian tài chính: huy động
các món tiền gửi có kỳ hạn, đặc biệt là tiền tiết kiệm đế đưa vào lĩnh vự’c đầu
tư...
Các Tố chức Tài chính phi Ngân hàng bao gồm: Các Công ty Tài chính
và các Công ty cho thuê Tài chính, Công ty Bảo hiểm, Công ty Chứng khoán,
Công ty quản lý Quỹ đầu tư...


4


Các Ngân hàng là loại hình trung gian tài chính tiêu biểu đã đuợc xuất
hiện từ lâu (thế kỷ XV). Nó cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng nhất cho
nền kinh tế. Còn các Công ty Tài chính thì mới được hình thành sau này (thế
kỷ XX). Sự xuất hiện của loại hình này nhằm khắc phục được những hạn chế
về mặt luật pháp đổi với hoạt động của các Ngân hàng (các Ngân hàng
Thương mại thường không được phép mở rộng các dịch vụ Tài chính Ngân
hàng sang các lĩnh vực khác) và bố sung cho các khu vực thị trường mà các
Ngân hàng Thương mại không đáp ứng được nhu cầu về vốn đầu tư ngày
càng to lớn.
Có nhiều cách hiếu và diễn đạt khác nhau về Công ty Tài chính. Bản
thân tên gọi Công ty Tài chính mới xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ XX.
Tại mồi nước, tuỳ theo chính sách phát triển loại hình các Tổ chức Tài chính
đế quy định phạm vi, nội dung các nghiệp vụ mà các Công ty Tài chính được
phép thực hiện. Thị trường tài chính càng phát triến thì cấu trúc tô chức và
hoạt động của các Công ty tài chính càng phong phú, đa dạng. Song, các
Công ty Tài chính trên thế giới đều có đặc điểm chung là:
- Các Công ty Tài chính là một tổ chức kinh doanh chuyên nghiệp trên
thị trường tài chính, hạch toán độc lập, được đăng ký kinh doanh theo pháp
luật. Quy mô thường nhỏ và vừa, và không có nhiều chi nhánh như các Ngân
hàng Thương mại.
- Khác với các Ngân hàng Thương mại, được hoạt động cả ba khâu:
nhận tiền gửi, cho vay và thanh toán, hoạt động của các Công ty Tài chính
hẹp hơn, giới hạn ở một số khâu và mang tính chuyên nghiệp, đặc biệt trong
một số nghiệp vụ nhất định. Đặc biệt các Công ty Tài chính không được nhận
tiền gửi không kỳ hạn hoặc ngắn hạn, không được thực hiện nghiệp vụ thanh
toán. Các Công ty Tài chính huy động vốn bằng cách phát hành các công cụ
nợ (kỳ phiếu, trái phiếu) và dùng số tiền đó đế cho vay hoặc đầu tư.


5


Ở Việt Nam, theo Điều 2 Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày
04/10/2002 của Chính phủ định nghĩa Công ty Tài chính như sau:
Công ty Tài chính là loại hình tô chức tín dụng phi Ngân hàng, với
chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn von khác đê cho
vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chỉnh, tiền tệ và thực hiện một
số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không dược làm dịch vụ
thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới ỉ năm.
> Vai trũ của Cụng ty tài chớnh
Công ty Tài chính là một trung gian tài chính, vì vậy nó mang đầy đủ
vai trò của một trung gian tài chính trong nền kinh tế. Một trung gian tài
chính có nhiệm vụ thu hút, tích tụ tập trung các nguồn vốn nhằm cho những
người có nhu cầu sử dụng vốn vay. Thông qua các phương thức huy động vốn
chủ yếu là phát hành giấy tờ có giá, Công ty Tài chính thực hiện hoạt động
tín dụng, kinh doanh trên thị trường chứng khoán, hoạt động ngoại hối, các
dịch vụ bảo hiếm, bao thanh toán, tư vấn tài chính. Công ty Tài chính đã đem
lại lợi ích đầy đủ cho người có vốn (người cho vay), người cần vốn (người đi
vay) và cho cả nền kinh tế. Với tính chất là một tố chức tài chính chuyên môn
hoá cao trong một số nghiệp vụ được quy định, các Công ty Tài chính tạo ra
được nhiều lợi thế như sau:
- Thứ nhất: Công ty Tài chính giúp những khách hàng của mình tiết
kiệm được các chi phí về thông tin và giao dịch khi cung ứng hoặc sử dụng
các nguồn vốn. Đặc biệt là tạo ra các cơ hội đầu tư sinh lời cho các cá nhân:
các cá nhân sẽ không dễ gì làm lợi tù' các món tiền của mình do thiếu những
thông tin cần thiết trên thị trường tài chính. Hơn nữa, món tiền của họ lại nhỏ,
chi phí giao dịch lại quá lớn, thủ tục đôi khi lại rườm rà khiến cá nhân gặp
khó khăn khi đầu tư. Trong khi đó, Công ty Tài chính có đủ điều kiện cần


6


thiết để phân tích, tổng hợp tình hình, do đó, việc đầu tư sẽ dễ đem lại lợi
nhuận hơn. Khi gửi tiền vào các Công ty Tài chính, nguồn lợi sẽ mang lại cho
cả hai bên nhờ tính kinh tế do quy mô, nhờ sự phân tán rủi ro đa dạng hoá và
nhờ việc giảm chi phí giao dịch trong tống thế. Các Công ty Tài chính giúp
khách hàng của mình tiết kiệm được các chi phí thông tin và giao dịch khi
cung ứng hoặc sử dụng các nguồn vốn bởi họ luôn có những chiến lược hợp
lý, linh hoạt trong quan hệ với khách hàng, trong việc triển khai các nghiệp vụ
được phép làm... nên họ tạo ra được tỷ suất lợi nhuận cao, đảm bảo đem lại
những cơ hội đầu tư tốt cho khách hàng gửi tiền vào Công ty.
- Thứ hai: Công ty Tài chính là kênh có tính chất chuyên môn hoá trong
việc thu hút và đầu tư các khoản vốn trung và dài hạn. Các Công ty Tài chính
thường có khả năng cung cấp vốn cho các giao dịch dài hạn và có tính rủi ro
cao hơn (đầu tư mạo hiếm). Nhờ đó, Công ty Tài chính đã góp phần làm
phong phú thêm các dịch vụ tài chính, ngân hàng.
- Thứ ba: Hoạt động của các Công ty Tài chính cũng rất phù họp với
các hoạt động giao dịch vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và do đó rất
phù hợp với các nước đang phát triển. Vì ngoài các Ngân hàng, các Công ty
Tài chính với sự linh hoạt trong hoạt động cũng đã tập trung được một lượng
vốn lớn từ nguồn tiết kiệm từ dân chúng và các tổ chức kinh tế trên thị trường
tài chính. Các Công ty Tài chính có thế phát hành những giấy tờ có giá với lãi
suất cao, mệnh giá thấp... để thu hút được được sự đầu tư của các nhà đầu tư
lớn, nhỏ trên thị trường tài chính vào nó, điều này sẽ khiến nguồn vốn huy
động được nhiều hơn, đồng thời mở rộng được giao dịch cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
- Thứ tư: Đối với các Công ty Tài chính thuộc các tập đoàn kinh tế, hay
trực thuộc Tổng Công ty có điều kiện hiểu biết sâu về các Công ty thành viên,
có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc trong việc quản lý rủi ro tài chính



7

và huy động vốn cho tập đoàn, trong việc cấp vốn cho các Công ty thành viên
hay khách hàng của Công ty thành viên trong tập đoàn.
- Thứ năm: Sự hình thành và hoạt động của các Công ty Tài chính đã
thúc đấy cạnh tranh trong đầu tư trên thị truờng tài chính. Thông qua việc
đáp ứng các nhu cầu về vốn trung và dài hạn, hoạt động của các Công ty Tài
chính đã và đang thúc đấy sự phát triển của thị truờng tài chính. Những năm
gần đây, nhiều loại hình Công ty Tài chính ra đời làm chất luợng phục vụ
được cải thiện, giá vốn đầu tư ngày càng giảm, tạo thêm nhiều khả năng lựa
chọn cho khách hàng. Vì vậy, Ngân hàng và Công ty Tài chính, mỗi loại hình
đều có thế mạnh riêng, nhưng tất cả đều góp phần tăng cường hiệu quả kinh
tế-xã hội.
Hiện nay Công ty Tài chính đang có xu hướng xích lại gần các Ngân
hàng Thuong mại về mặt chức năng khi thực hiện được ngày càng đa dạng
các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp.
1.1.2.

Cỏc loại hỡnh của Cụng ty Tài chớnh

Hoạt động của Công ty Tài chính là rất đa dạng, phong phú, nếu căn cứ vào
hoạt động nghiệp vụ, Công ty Tài chính được chia thành:
- Công ty Tài chính bán hàng: Đây là loại hình Công ty Tài chính
chuyên cho người tiêu dùng vay để mua hàng hoá từ một nhà bán lẻ hoặc một
nhà sản xuất khác. Các món vay thường được thực hiện nhanh và tiện lợi tại
nơi mua hàng của người tiêu dùng. Nhờ vậy, Công ty Tài chính bán hàng có
thế cạnh tranh được với các Ngân hàng Thương mại trong cho vay tiêu dùng.
- Công ty Tài chính người tiêu dùng: Đây là loại hình Công ty Tài
chính chuyên cho người tiêu dùng vay đế mua những món hàng riêng như đồ
đạc, dụng cụ gia đình hoặc giúp thanh toán các món nợ nhở.



8

- Công ty Tài chính kinh doanh: Đây là loại hình Công ty Tài chính
chuyên cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt cho doanh nghiệp bằng cách mua
các hoá đơn nợ của doanh nghiệp khác đối với doanh nghiệp theo hình thức
chiết khấu, việc cung cấp này gọi là bao thanh toán. Ngoài ra, Công ty Tài
chính kinh doanh cũng chuyên môn hoá trong việc cho thuê thiết bị, là những
thứ họ mua và sau đó cho các nhà kinh doanh thuê một số năm.
Căn cứ và quan hệ sở hữu, các Công ty Tài chính có thể chia thành:
- Công ty Tài chính độc lập thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh như:
nghiệp vụ tín dụng (cho vay, bảo lãnh cho khách hàng thương mại và sản xuất
công nghiệp); các nghiệp vụ cho thuê, nghiệp vụ bao thanh toán; kinh doanh
tiền tệ; tư vấn tài chính.
- Công ty Tài chính trong các tập đoàn kinh tế tham gia chủ yếu các
hoạt động như: tìm kiếm các nguồn đầu tư để cung ứng cho các thành viên
trong tập đoàn, quản lý và đầu tư các nguồn chưa sử dụng trong tập đoàn,
quản lý các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, điều hoà vốn giữa các thành viên,
làm đầu mối và tư vấn cho tập đoàn, các Công ty thành viên trong quan hệ với
Ngân hàng, quản lý rủi ro tài chính trong tập đoàn, các dịch vụ tài chính khác...
Công ty Tài chính trong tập đoàn kinh tế là một loại hình Công ty Tài
chính rất phố biến hiện nay. Sự cần thiết của Công ty Tài chính trong các tập
đoàn kinh tế xuất phát từ những đặc trưng của tập đoàn kinh tế:
+ Các tập đoàn kinh tế là những chủ thế kinh tế kinh doanh quy mô lớn,
lĩnh vực hoạt động đa dạng, do đó, nhu cầu về vốn rất lớn, thường xuyên.
+ Các tập đoàn kinh tế thường có nhiều bộ phận, chi nhánh, hoạt động
trên nhiều lĩnh vực, vì vậy, tại một thời điếm nào đó trong nội bộ tập đoàn có
bộ phận tiền nhàn rỗi, trong khi bộ phận khác đang cần vốn đế đáp ứng nhu



9

cầu đầu tu. Từ đó, trong tập đoàn kinh tế xuất hiện yêu cầu để điều hoà vốn
giữa các bộ phận thuộc tập đoàn.
Như vậy, đế đáp ứng nhu cầu về vốn, bảo đảm hiệu quả hoạt động, tập
đoàn kinh tế cần có một trung gian tài chính làm kênh dẫn vốn tù' những chủ
thể có vốn trong nền kinh tế tới tập đoàn kinh tế, đáp ứng nhu cầu về vốn của
tập đoàn một cách hiệu quả nhất, đồng thời là trung gian điều hoà vốn giữa
các bộ phận trong tập đoàn. Vì vậy, Công ty Tài chính là hình thức tổ chức
phù hợp và giữ vai trò rất quan trọng đối với tập đoàn kinh tế thông qua chính
các hoạt động của mình như:
+ Tìm kiếm các nguồn vốn, dẫn vốn nhàn rỗi tù' bên ngoài đáp ứng nhu
cầu của các thành viên tập đoàn.
+ Đưa vốn tù' những bộ phận tạm thời có tiền nhàn rỗi đến những bộ
phận cần vốn thông qua thực hiện điều hoà vốn giữa các thành viên trong tập
đoàn.
+ Cung cấp vốn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khác hàng của tập đoàn,
thúc đấy hoạt động của tập đoàn kinh doanh.
Trên thế giới, hầu hết các tập đoàn kinh tế lớn ở mọi quốc gia đa ngành
nghề chuyên doanh như General Motor (Mỹ), Siemens (Đức), Hitachi (Nhật
Bản), Samsung (Hàn Quốc) đều có sở hữu các Công ty Tài chính. Mô hình
Công ty Tài chính trong tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới đã ra đời từ rất lâu
và gắn liền với việc ra đời và mỏ' rộng của các tập đoàn mẹ. General Motor
Acceptant là thành viên của tập đoàn General Motor được thành lập vào năm
1919, Hitachi Capital là Công ty Tài chính của Tập đoàn Hitachi được thành
lập vào năm 1957.
Các Công ty Tài chính trong tập đoàn kinh tế trên thế giới ngày càng
chiếm vị trí quan trọng đối với tập đoàn không chỉ vì đem lại lợi nhuận ngày



10

càng lớn mà còn đóng góp cho sự phát triển của tập đoàn. Năm 2000, IBM
Credit đóng góp 21,7% doanh thu cho tập đoàn IBM, còn Công ty Tài chính
trong tập đoàn Samsung đóng góp 25% doanh thu toàn tập đoàn hàng năm.

1.1.3.

Những đặc trưng CO’ bản Của Công ty Tài Chính

Công ty Tài chính khi hoạt động kinh doanh thì phải có yêu cầu là có số
vốn pháp định tối thểu là 50 tỷ (Theo quy định của ngân hàng nhà nước Việt
Nam) và luôn có hai loại hoạt động chính: đó là huy động vốn và cho vay,
ngoài ra nó còn có một số hoạt động kinh doanh khác.
Những năm vừa qua, do hoạt động của Công ty Tài chính bị bó hẹp và
giới hạn hơn ở một số nghiệp vụ nhất định mang tính chuyên nghiệp nên
không những loại hình cho vay của Công ty Tài chính đã luôn có sự thay đối
mà cách thức huy động đế cho vay cũng đã chuyển hướng.
Các Công ty Tài chính không được nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc
ngắn hạn, không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán. Hoạt động huy động
vốn của Công ty Tài chính chủ yếu được thực hiện thông qua huy động tiền
gửi có kỳ hạn hoặc phát hành các chứng khoán nợ hay vay của các Ngân hàng
và các tố chức tín dụng khác. Vì vậy, Công ty Tài chính thường có vốn lệ
thuộc chủ yếu vào các định chế tài chính khác.
Vốn huy động được sử dụng đế cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối
với các đối tượng sản xuất hoặc tiêu dùng, thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán
hoặc thuê mua. Ngày nay, hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
thu nhập của các Công ty Tài chính. Theo tài liệu của Hội đồng dự trữ Liên
bang Mỹ (FRB) công bố năm 1993 về lưu lượng dự liệu ngân quỹ, số dư cho

vay kinh doanh của các Công ty Tài chính Mỹ đã đạt đến tống cộng gần 300
tỷ USD so với 116 tỷ USD đối với tín dụng tiêu dùng và 67 tỷ USD đổi với
cho vay thế chấp. Điều này phản ánh nhu cầu đa dạng hoá các hoạt động và


11

giảm thiểu rủi ro trong việc cho vay. Bên cạnh đó, nhiều Công ty Tài chính đã
theo đuổi phương thức mà các chuyên gia tài chính gọi là chiến lược thích
ứng. Nhiều Công ty sở hữu cá nhân ngày càng nhắm vào bộ phận khách hàng
đặc thù và tạo ảnh hưởng lên toàn bộ sinh hoạt của họ đế chiếm lĩnh những thị
trường đặc thù đó.
Như vậy, hoạt động cơ bản của một Công ty Tài chính bao gồm:
>

Hoạt động huy động vốn
Công ty Tài chính được nhận tiền gửi có kỳ hạn của các cá nhân và

các tố chức kinh tế ;
Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ
có giá khác đế huy động vốn của các tố chức và cá nhân trong và ngoài nước;
Vay các tố chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước;
Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong
và ngoài nước.
>

Hoạt động sử dụng von
Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho các cá nhân và các tô

chức kinh tế ;

Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ và các tổ chức cá nhân trong và
ngoài nước ;
Đầu tư vào các dự án phát triển, tái thiết các doanh nghiệp, ngành
kinh tế kỹ thuật, các công trình tạo ra sản phẩm chất lượng cao, giá trị lớn và
mang lại lợi ích quốc gia, quốc tế và các công trình bảo vệ, duy trì và phát
triển môi trường sinh thái của quốc gia và khu vục.
>

Cung cấp các dịch vụ Ngân hàng


12

Công ty Tài chính được thực hiện tất cả các loại dịch vụ Ngân hàng trừ
việc phát hành và cho khách hàng sử dụng các phương tiện thanh toán (tiền,
thẻ tín dụng, ngân phiếu) và thanh toán vãng lai, liên ngân hàng (bù trù’).

1.2. Co’ chế quản lý tài chính của Công ty Tài Chính

1.2.1.

Khái niệm cơ chế quản lý tài chính

Theo cách hiểu chung nhất thì “Cơ chế” là cách thức theo đó một quá
trình được thể hiện. Cụ thế hơn trong lĩnh vực quản lý, Cơ chế được hiếu là
tống họp các phương pháp, các hình thức, các công cụ được vận dụng đẻ tác
động lên một hệ thống như liên kết, điều hoà, phân phối hoạt động giữa các
bộ phân trong một hệ thống đế đạt được những mục tiêu cuối cùng trong hoạt
động quản lý.
Như vậy: Cơ chế quản lý tài chính là một hệ thống tổng thể các phương

pháp, các hình thức và các công cụ được vận dụng đế quản lý các hoạt động
kinh tế, tài chính trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt được các mục tiêu
của Doanh nghiệp.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong nội dung quản lý tài chính của
Công ty tài chính dù là mô hình Công ty như thế nào chăng nữa, thì nói đễn
Cơ chế quản lý tài chính là nói đến các nội dung cơ bản: Cơ chế huy động
vốn; Cơ chế quản lý sử dụng vốn và tài sản; Cơ chế quản lý lợi nhuận; Cơ ché
kiếm soát tài chính. Tuy nhiên, Cơ chế quản lý tài chính không có một khuân
mẫu cứng nhắc áp dụng cho mọi nền kinh tế, cho mọi quy mô, tính chất của
Doanh nghiệp, mỗi loại hình doanh nghiệp có cách vận dụng cơ chế quản lý
tài chính khác nhau, hiệu quả của việc vận dụng Cơ chế quản lý tài chính lại
phụ thuộc vào các yếu tố khách quan, chủ quan, trong đó vai trò chủ quan của
người điều hành cơ chế là nhân tố quyết định. Điều đó có nghĩa là, người điều
hành cơ chế phải nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan của nền kinh tế


13

thị trường, phân tích đánh giá chính xác tình hình để chủ động đưa ra các
quyết định tài chính phù hợp.
Cơ chế huy động vốn của Doanh nghiệp bao gồm các phương pháp, các
hình thức, các công cụ huy động các nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn
của Doanh nghiệp
Cơ chế quản lý sử dụng vốn và tài sản của Doanh nghiệp bao gồm các
phương pháp, các hình thức phân phối, điều hoá vốn và tài sản của Doanh
nghiệp nhằm quản lý khai thác sử dụng vốn và tài sản của Doanh nghiệp một
cách có hiệu quả nhất.
Cơ chế quản lý lợi nhuận bao gồm các phương pháp, các hình thức
quản lý lợi nhuận, phân phổi và sử dụng kết quả kinh doanh hình thành và sử
dụng các quỹ tập trung của Doanh nghiệp

Cơ chế kiểm soát tài chính của Doanh nghiệp bao gồm các phương
pháp, hình thức và công cụ nhằm kiểm soát các thông tin tài chính, kiếm soát
các số liệu dự toán, quyết toán, kiểm soát nội bộ...

1.2.2.

Nội dung CO’ chế quả lý tài chính

1.2.2.1.

Co’ chế huy động vốn

Vốn là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp duy trì và phát triển
sản xuất kinh doanh, đồng thời là cơ sở đế phân phối và đánh giá hiệu quả các
hoạt động kinh tế. Đối với Công ty Tài chính, vốn còn là cơ sở nền tảng đế
tiến hành tố chức mọi hoạt động kinh doanh. Thật vậy, với đặc trung của
Công ty Tài chính là tố chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường
tiền tệ và thị trường vốn thì vốn không còn đơn thuần là phương tiện kinh
doanh mà nó còn là đối tượng kinh doanh chính của Công ty Tài chính, trục
tiếp quyết định tới quy mô hoạt động kinh doanh của Công ty Tài chính. Như


14

vậy, những Công ty Tài chính có vốn lớn sẽ có nhiều thế mạnh trong kinh
doanh, ngược lại những Công ty Tài chính không có hoặc có ít vốn cũng đồng
nghĩa với việc gặp nhiều khó khăn khi tiến hành kinh doanh.
Co chế huy động vốn của Doanh nghiệp bao gồm các phưong pháp, các
hỡnh thức, cỏc cụng cụ huy động cỏc nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn
của Doanh nghiệp.

Vốn của Công ty Tài chính bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ, vì vậy huy
động vốn của Công ty Tài chính bao gồm huy động vốn chủ sở hữu và huy
động động nợ.

a. Huy động vốn chủ sở hữu
Đế bắt đầu hoạt động, Công ty Tài chính phải có một lượng vốn nhất
định. Đây là loại vốn Công ty tài chính có thế sử dụng lâu dài, hình thành nên
trang thiết bị, nhà cửa cho Công ty Tài chính. Hình thức huy động vốn này rất
đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của Công ty Tài chính.
> Huy động von ban đầu (von góp)
Tuỳ theo tính chất của mỗi Công ty Tài chính mà nguồn gốc hình thành
vốn ban đầu khác nhau. Neu là Công ty Tài chính Nhà nước, vốn ban đầu do
Nhà nước cấp (vốn của Nhà nước). Neu là Công ty Tài chính cổ phần, vốn sẽ
do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cố phiếu. Đối với Công
ty Tài chính liên doanh vốn do các bên liên doanh góp. Công ty Tài chính trực
thuộc tố chức tín dụng, vốn ban đầu sẽ do chính tố chức tín dụng đó cấp bằng
vốn chủ sở hữu của mình.
> Nguồn von bô sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, Công ty Tài chính có thế tăng vốn chủ sở
hữu theo nhiều phưong thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể.


15

+ Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm... để
mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết hoặc đế đáp ứng yêu
cầu ra tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nuớc quy định... Đặc điểm của
hình thức huy động này là không thường xuyên, tuy nhiên, nó giúp cho Công
ty Tài chính có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
+ Nguồn từ lợi nhuận không chia: Trong điều kiện thu nhập sau thuế

lớn hơn không, Công ty Tài chính có xu hướng gia tăng vốn chủ sở hữu bằng
cách chuyến một phần thu nhập sau thuế thành vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ tích luỹ
tuỳ thuộc vào cân nhắc của chính Công ty Tài chính về tích luỹ và tiêu dùng.
> Các quỹ
Công ty Tài chính có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên
là quỹ dự phòng tốn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ
lại nhằm bù đắp những tốn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao
mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại
tài sản của Công ty Tài chính và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu
khi phát hành cố phiếu mới. Tùy theo quy định cụ thế của tùng nước, các
Công ty Tài chính có thế có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc...
Các quỹ của Công ty Tài chính thuộc sở hữu của Công ty. Nguồn hình
thành các quỹ này là từ thu nhập của Công ty. Tuy nhiên, một số quỹ không
được sử dụng lâu dài.
> Nguồn vay nợ có thế chuyển đôi thành cô phần
Các khoản vay trung hạn và dài hạn của Công ty Tài chính mà có khả
năng chuyển đổi thành vốn cố phần có thể được coi là một bộ phận của vốn
chủ sở hữu của Công ty Tài chính (vốn bố sung) do nguồn này có một số đặc
điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không
phải hoàn trả khi đến hạn.


16

b. Huy động nợ

Công ty Tài chính có thể sử dụng nhiều công cụ huy động nợ khác
nhau nhưng nhìn chung vẫn tập trung chủ yếu vào các công cụ sau:
> Nhận tiền gửi và làm đại ỉỷ bảo hiếm
Công ty Tài chính được nhận tiền gửi của mọi tổ chức và cá nhân trong

nền kinh tế. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, nguồn vốn huy động từ tiền gửi
chưa tương xứng với vai trò của nó trong tống nguồn von huy động của Công
ty Tài chính.
Cùng với xu thế đa dạng hoá hoạt động, Công ty Tài chính còn thực
hiện dịch vụ bảo hiểm. Dịch vụ bảo hiểm giúp cho Công ty Tài chính huy
động được một lượng vốn rất lớn tù' khoản thu phí bảo hiếm. Khoản phí này
trong thời gian nhàn rỗi sẽ là một nguồn vốn quan trọng.
> Vay trực tiếp các tô chức kinh tế trong nước và quốc tế
Công ty Tài chính có thế vay vốn trực tiếp từ mọi tổ chức, cá nhân nếu
có nhu cầu. Nguồn vốn này có thế là nguồn ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn.
Việc vay mượn có thể diễn ra trong ngắn hạn để phục vụ nhu cầu thanh toán
nhanh như vay trên thị trường liên ngân hàng hoặc vay tù' các trung gian tài
chính để tài trợ cho các dự án. Tuy nhiên các Công ty Tài chính chủ yếu vay
trực tiếp từ Công ty mẹ và các thành viên cùng tập đoàn với lãi suất ưu đãi.
> Phát hành kỳ phiếu, trải phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy
tờ cỏ gia khác
Trái phiếu là tên chung của các giấy tờ vay nợ dài hạn và trung hạn.
Trái phiếu hay còn gọi là trái khoán là một công cụ nợ mà người phát hành
đảm bảo sẽ chi trả cho người thụ hưởng một khoản tiền nhất định sau một
khoảng thời gian xác định.


17

Sự hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Lãi suất trái phiếu: nguời đầu tu luôn muốn hưởng một lãi suất cao
nhưng người phát hành phải cân nhắc mức lãi suất có thế chấp nhận được.
- Kỳ hạn của trái phiếu: tuỳ từng thòi kỳ phát triến của nền kinh tế hay
tâm lý mà trái phiếu với kỳ hạn khác nhau được ưa thích khác nhau. Kỳ hạn
càng dài thì rủi ro càng cao nhưng lãi suất đế bù đắp rủi ro cũng càng cao.

- Uy tín của doanh nghiệp: các doanh nghiệp có uy tín càng vũng mạnh
thì dễ dàng phát hành trái phiếu ra công chúng.
Có rất nhiều loại trái phiếu hiện nay đang lun hành trên thị trường tài
chính mà Công ty Tài chính có thể phát hành: Trái phiếu có lãi suất cố định,
trái phiếu có lãi suất thay đối, trái phiếu có thế thu hồi, trái phiếu công trình.
Chứng chỉ tiền gửi (CD) là một công cụ nợ được bán cho người gửi
tiền. Nó thanh toán lãi hàng năm theo một khoản đã định và khi đến kỳ hạn
thanh toán thì hoàn trả hết giá mua ban đầu. Chứng chỉ tiền gửi có thể mua
bán trên thị trường.
> Tiếp nhận von uỷ thác đầu tư của Chỉnh phủ, các To chức và cá
nhân
Uỷ thác là việc Công ty Tài chính nhận quản lý một lượng giá trị của
một đon vị kinh tế khác. Công ty Tài chính có quyền sử dụng nhưng không có
quyền sở hữu lượng giá trị này. Lợi nhuận thu tù’ việc sử dụng, đầu tư trên
lượng giá trị sẽ trích một phần gọi là phí uỷ thác cho Công ty.
Có nhiều hình thức uỷ thác như uỷ thác đầu tư, uỷ thác quản lý tài sản,
uỷ thác sử dụng vốn. Nguồn uỷ thác ở Công ty Tài chính hiện nay chủ yếu là
uỷ thác đầu tư.


18

Công ty Tài chính trong tập đoàn ở vị trí người được uỷ thác lẫn người
uỷ thác. Các tổ chức uỷ thác cho Công ty Tài chính chủ yếu là Công ty mẹ,
các đơn vị thành viên và các trung gian tài chính khác. Công ty mẹ thường
thông qua việc uỷ thác vốn cho Công ty Tài chính đế hỗ trợ vốn đầu tư, phát
triến cho các thành viên. Mục đích thành lập của Công ty Tài chính chủ yếu là
huy động vốn, hồ trợ các đơn vị trong Tổng Công ty và đơn vị cùng ngành
kinh tế kỹ thuật nên Công ty Tài chính có lợi thế về việc nắm thông tin,
nghiệp vụ chuyên môn trong ngành, dẫn đến việc thẩm định các dự án tín

dụng chính xác hơn, mối quan hệ với khách hàng chặt chẽ hơn. Do vậy mà
các trung gian tài chính khác khi muốn đầu tư vào một dự án trong ngành sẽ
uỷ thác qua Công ty Tài chính nhằm hạn chế rủi ro.

1.2.2.2.

Cơ chế quản lý sử dụng vốn và tài sản

Cơ chế quản lý sử dụng vốn và tài sản của Doanh nghiệp bao gồm các
phương pháp, các hình thức phân phối, điều hoá vốn và tài sản của Doanh
nghiệp nhằm quản lý khai thác sử dụng vốn và tài sản của Doanh nghiệp một
cách có hiệu quả nhất.
a, Quản lý sử dụng vốn
Cơ chế quản lý sử dụng vốn trong Công ty tài chính được thực hiện
thông qua các hoạt động sau:
- Đầu tư chứng khoán ngắn hạn
Các hoạt động đầu tư đều nhằm mục đích tăng vòng quay sử dụng vốn,
thu lợi tức đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phân tán rủi ro qua những
ngành, lĩnh vực khác nhau. Đặc điểm của các loại chứng khoán ngắn hạn là
thời gian đầu tư ngắn thường dưới một năm, lợi tức thấp. Khi đầu tư vào các
chứng khoán ngắn hạn các Công ty tài chính thường căn cứ vào nguồn vốn


19

của mình, cân đổi nhu cầu sử dụng vốn lưu động, nhu cầu vốn của thị trường,
phân tích diễn biến lãi suất của các loại chứng khoán trên thị trường để xác
định mức đầu tư, thời điểm mua, thời điếm bán sao cho có lợi nhất.
Đầu tư chứng khoán dài hạn: Thường bao gốm cổ phiếu, trái
phiếu công ty và trái phiếu chính phủ.

Các công ty tài chính khi quyết định đầu tư chứng khoán dài hạn phải
căn cứ vào thực trạng tài chính của Công ty và mục tiêu đầu tư. Mục tiêu đầu
tư của chứng khoán có thể là: Đảm bảo an toàn vốn băng phưong thức mua lại
những chứng khoán có mức thanh khoản và độ an toàn cao, trái phiếu có lãi
suất cao; tích luỹ vốn: mua cô phiếu của những doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả, tốc độ tăng trưởng cao hoặc là mua bán lại để thu lợi tức tối đa.
Để hạn chế được rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán, nâng cao
hiệu quả đầu tư, Các Công ty tài chính đều có quy định chặt chẽ trình tụ’ các
bước tiến hành khi quyết định đầu tư chứng khoán. Thông thường, các quy
trình này đề cập đến những vấn đề sau: Điều tra nghiên cứu thị trường, thẩm
định giá chứng khoán trên cơ sở các thông tin có được; lập kế hoạch đầu tư,
nêu rõ các loại chứng khoán cần mua, tỷ lệ giữa các loại, thời điếm mua, phân
cấp trong việc sử lý thông tin và quyết định giá cả, quyết định cuối cùng về
việc mua bán chứng khoán.
Đầu tư chứng khoán là hình thức đầu tư mang lại cho các Công ty tài
chính nhiều lợi ích nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là thời kỳ nền kinh
tế rơi vào khủng hoảng hoặc tình hình tài chính doanh nghiệp không lành
mạnh. Việc đầu tư chứng khoán phụ thuộc rất nhiều vào quá trình tìm và sử lý
thông tin, sự phân tích của những chuyên gia chứng khoán giỏi, nhiều kinh
nghiệm và cần nhậy cảm, óc phán đoán và bản lĩnh của người ra quyết định.

Quản lý các khoản nợ phải trả


20

Đối với các khoản nợ phải trả các Công ty tài chính phải có trách nhiệm
mở sổ theo dõi đầy đủ các khoản nợ phải trả bao gồm các khoản lãi phải trả;
thanh toán các khoản nợ phải trả theo đúng thời hạn đã cam kết. Thường
xuyên xem xét, đánh giá, phân tích khả năng thanh toán nợ của Công ty, phát

hiện sớm tình hình khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ phải trả đế có
giải pháp khắc phục kịp thời không đế phảt sinh các khoản nợ quá hạn; đối
với các khoản nợ phải trả bằng ngoại tệ, Công ty tài chính phải hoạch toán
toàn bộ chênh lệch tỷ giá phát sinh của số dư nợ phải trả vào chi phí kinh
doanh trong kỳ để tạo nguồn trả nợ. Trường hợp hoạch toán cho năm sau để
không bị lỗ nhưng mức hoạch toán chi phí trong năm ít nhất cũng bằng chênh
lệch tỷ giá của số ngoại tệ phải trả trong năm đó.
b, Quản lý tài sán
Tài sản và vốn là hai mặt của một vấn đề, vốn chính là tài sản nếu xét
về mặt giá trị hay nói cách khác, vốn chính là biểu hiện bằng tiền của tài sản.
Do vậy, nói một cách biện chứng khi đề cập đến vốn, sử dụng vốn và quản lý
vốn, chúng ta không chỉ đề cập đến sử dụng và quản lý vốn cả về mặt hiện
vật, tức là sử dụng và quản lý tài sản.
Quản ỉỷ tài sản cổ định
Các nước khác nhau có quy định về tiêu chuẩn nhận biết tài sản cố định và có
thế điều chỉnh cho phù hợp với mức giá của từng thời kỳ. Chính phủ các nước
quy định thổng nhất tiêu chuẩn nhận biết tài sản cố định cho tất cả các loại
hình doanh nghiệp ở nước đó nhằm đảm bảo tính bình đắng cho các doanh
nghiệp trong việc hoạch toán chi phí kinh doanh, hoạch toán thu nhập và nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp.
Cũng phải nói thêm rằng trong điều kiện mở rộng và phát triển các
quan hệ hàng ho á - tiền tệ, sự phát triến và ứng dụng nhanh chóng các tiến bộ


21

khoa học kỹ thuật cũng như tính đặc thù trong sản xuất của một số ngành, nên
một số chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra có liên quan đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, nếu đồng thời thoả mãn tiêu chuẩn nhận biết tài
sản cố định và không hình thành tài sản cố định hữu hình thì được coi là tài

sản cố định vô hình của doanh nghiệp. Ví dụ như các chi phí mua bằng sáng
chế, giải pháp hữu ích, bản quyền và một số chi phí khác...
Đặc điếm chung của tài sản cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản
xuất sản phẩm. Trong quá trình đó, hình thái vật chất đặc tính sử dụng ban
đầu của tài sản cố định không thay đổi, song giá trị của nó lại được chuyến
dịch vào từng phần giá trị sản phấm sản xuất ra, cấu thành nên chi phí sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được
tiêu thụ. Vì vậy, giống như nhiều doanh nghiệp khác, trong công tác quản lý tài
sản của Công ty tài chính, vấn đề khấu hao tài sản cố định phải được đặt ra.
Khấu hao tài sản cố định là việc chuyến phần giá trị hao mòn của tài
sản cố định trong quá trình sử dụng vào giá trị sản phâm sản xuất ra theo các
phương pháp tính khấu hao thích hợp. Mục đích của khấu hao tài sản cố định
là nhằm tích luỹ vốn đế tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng tài sản
cố định. Bộ phận giá trị tài sản hao mòn được chuyển dịch vào giá trị sản
phấm được tích luỹ khấu hao tài sản cố định ctrong doanh nghiệp. Trên thực
tế, khi chưa có nhu cầu đầu tư mua sắm tài sản cố định, các doanh nghiệp
cũng có thể sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao đế đáp ứng các nhu cầu kinh
doanh của mình.
Nội dung quản lý tài sản cố định trong các Công ty tài chính tập trung
vào các vấn đề chủ yếu: Phương pháp tính khấu hao và tỷ lệ khấu hao tài sản
cố định; quản lý quỹ khấu hao tài sản cố định; đánh giá hiệu quả sử dụng tài
sản cố định.


22

- Phương pháp tính khấu hao và tỷ lệ khấu hao tài sản cố định.
Ớ các nước trên thế giới, việc quy định phương pháp tính khấu hao và
tỷ lệ khẩu hao tài sản cố định là tương đối thông thoáng. Chính phủ các nước
giành quyền chủ động lựa chọn phương pháp và tỷ lệ tính khấu hao tài sản cố

định cho các doanh nghiệp trên nguyên tắc chấp hành đầy đủ Luật thuế thu
nhập doanh nghiệp. Vì mức trích khấu hao tài sản cố định có liên quan đến
chi p h í , lợi nhuận và số thuế thu nhập phải nộp nên khấu hao được gọi là “lá
chắn thuế”. Đế chống gian lận thuế, Chính phủ các nước có chính sách khẩu
hao tài sản theo hướng: Khuyến khích khẩu hao nhanh đối với máy móc, thiết
bị nhanh bị hao mòn vô hình, đồng thời áp dụng quy định khấu hao bình quân
đối với các tài sản cố định như nhà cửa, vật kiến trúc...
Phương pháp tính khấu hao đường thắng: Các công ty tài chính hoạt
động có hiệu quả kinh tế cao cỏ thể được khấu hao nhanh gấp hai lần mức
khấu hao được xác định theo phương pháp đường thẳng để nhanh chóng đổi
mới công nghệ đối với các tài sản cố định là máy móc, thiết bị, dụng cụ làm
việc, phương tiện vận tải; dụng cụ quản lý.
Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh: Theo
phương pháp này, tỷ lệ khấu hao sẽ không đổi, chỉ có giá trị còn lại của tài
sản cố định là thay đối; là giảm dần và mức khấu hao hàng năm sẽ giảm dần.
Phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm: Tài sản cổ
định tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao theo phương
pháp này là các loại máy móc, thiết bị đồng thời thoả mãn các điều kiện: Trực
tiếp liên quan đến việc sản xuất sản phẩm; xác định tổng khối lượng, khối
lượng sản xuất theo công suất thiết kế của tài sản cố định; công suất sử dụng
thực tế bình quân trong năm tài chính không thấp hơn 50% công suất thiết kế.


23

Tỷ lệ khấu hao tài sản cố định phụ thuộc vào đặc điếm kinh tế, kỹ thuật
của từng nhóm tài sản cố định và phụ thuộc vào từng ngành nghề, lĩnh vực
sản xuất kinh doanh cụ thể.
- Quản lý quỹ khấu hao tài sản cố định: về nguyên tắc quỹ khấu
hao tài sản cố định là nguồn tài chính quan trọng cùng với nguồn vốn đầu tư

bố sung khác như vốn vay, vốn được trích tù’ lợi nhuận sau thuế đế tái sản
xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định. Nhưng trong thực tế,
quỹ khấu hao tài sản cố định được sử dụng rất linh hoạt đặc biệt là đối với
các công ty tài chính theo nguyên tắc có hoàn trả vào các hoạt động sản xuất
kinh doanh đế sinh lời góp vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định.
Quản lý ngân quỹ
Ngân quỹ của Công ty tài chính là những tài sản có tính thanh khoản
cao nhất (được sử dụng đế thanh toán tức thời), được thiết lập nhằm duy trì
khả năng chi trả và các yêu cầu khác của Công ty tài chính.
Thứ nhất, mỗi Công ty tài chính đều cần duy trì dự trữ bắt buộc (theo
quy định của pháp luật đối với mỗi giai đoạn thời kỳ nhất định) theo quy định
của Ngân hàng nhà nước.Các nguồn là đối tượng phải tính dự trữ bắt buộc
cũng có thế bị thay đối tuỳ theo chính sách của Ngân hàng nhà nước, thông
thường đó là các nguồn tiền gửi. Các nguồn tiền gửi ngắn hạn phải trích mức
dự trữ bắt buộc với tỷ lệ cao so với các nguồn khác, phần tiền dự trữ này được
gửi tại tài khoản của Công ty tài chính tại Ngân hàng nhà nước.
Thứ hai, Công ty tài chính phải duy trì khả năng chi trả bằng cách duy
trì ngân quỹ với tỷ lệ thích hợp với nhu cầu thanh toán của những khách hàng.
Đối với các Công ty tài chính đáp ứng nhu cầu thanh khoản chủ yếu bằng các
tài sản thanh khoản thì ngân quỹ ngoài bảo đảm dự trữ bắt buộc còn đáp ứng
yêu cầu chi trả.


24

Quản lý ngân quỹ, về thực chất là tính toán số ngân quỹ tối thiểu cần
giữ trong các thời kỳ khác nhau, đồng thời cân đối giữa các bộ phận của ngân
quỹ (tiền mặt, tiền gửi...) một cách phù họp vơi nhu cầu sử dụng của khách hàng.
Quản lý tín dụng
Tín dụng mang lại lợi nhuận lớn cho Công ty tài chính nhung cũng

nhiều rủi ro, nhu vậy, mục tiêu an toàn và sinh lợi vẫn là mục tiêu chính trong
quản lý tín dụng.
Dựa trên cơ sở chính sách tín dụng của Ngân hàng nhà nước ban hành
cùng với nhu cầu tín dụng trên thị trường theo từng thời kỳ Công ty tài chính
đưa ra những cơ chế quản lý tín dụng phù hợp nhằm tăng quy mô tín dụng, đa
dạng hoá có hoạt động tín dụng, giảm lãi suất hay cung cấp các điều kiện ưu
đãi. Bên cạnh đó, Công ty tài chính phải nghiên cứu và xác lập mối quan hệ
giữa các biện pháp tăng quy mô với thu nhập ròng tù' hoạt động tín dụng
thông qua chênh lệch lãi suất biên.
Mặt khác hoạt động tín dụng có rủi ro rất lớn. Do vậy, vào mỗi quý
Công ty tài chính phải tiến hành phân loại nhóm nợ đồng thời trích dự phòng
rủi ro theo quy định của Ngân hàng nhà nước, xây dựng hệ thống thông tin
chuẩn mực để phản ứng với các biến động của thị trường tài chính nhằm mục
đích tín dụng an toàn.
Quản ỉỷ các tài sản ngoại bảng
Công ty tài chính phải phân loại tài sản ngoại bảng theo thời gian,chủ
thế, tính chất rủi ro. Thực hiện các nghiên cứu dự báo về các nhân tố ảnh
hưởng đến tài sản ngoại bảng như thị trường vốn, tỷ giá, lãi suất...Việc
nghiên cứu này cho phép các Công ty tài chính xếp loại các tài sản ngoại bảng
và hoạch định chính sách trong việc cung cấp các hợp đồng tài chính tương


25

lai. Ngoài ra, Các Công ty tài chính cần dự phòng tài trợ cho các tài sản ngoại
bảng như gia tăng ngân quỹ, chứng khoán thanh khoản với mức lãi suất sinh
lời thấp hoặc trích quỹ dự phòng tốn thất.

1.2.2.3.


Co’ chế quản lý lợi nhuận

Lợi nhuận của doanh nghiệp là tống lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh,
lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động khác. Tuy nhiên
đối với các Công ty tài chính thì lợi nhuận được hiếu đó chính là Lợi nhuận tù’
các hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư và lợi nhuận từ các hoạt động khác.
Cơ chế quản lý lợi nhuận bao gồm các phương pháp, các hình thức
quản lý lợi nhuận, phân phối và sử dụng kết quả kinh doanh hình thành và sử
dụng các quỹ tập trung của Doanh nghiệp.
Phân phối lợi nhuận
Cơ sở kinh tế và pháp lý quyết định nội dung phân phổi lợi nhuận còn
lại của Doanh nghiệp là quan hệ sở hữu vốn ở Doanh nghiệp. Người bỏ vốn
vào kinh doanh sau khi thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước.
Nói cách khác Chủ doanh nghiệp được toàn quyền sở hữu, sử dụng lợi
nhuận còn lại của Doanh nghiệp. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý luận về
quan hệ sản xuất là quan hệ sở hữu quyết định quan hệ phân phối. Phân phối
lợi nhuận nhằm mục tiêu chủ yếu là tái đầu tư, bảo toàn và phát triển vốn của
Các Công ty tài chính, khuyến khích người lao động nâng cao hiệu quả lao
động.
về nguyên tắc, Công ty tài chính ở các nước thì lợi nhuận được chia
thành hai phần, một phần đem chia và một phần khonng chia. Tỷ lệ này do
Đại hội cố đông quyết định.


26

- Phần lợi nhuận sau thuế đuợc các Công ty tài chính phân phối
vào các quỹ theo quy định của pháp luật và theo tỷ lệ của đại hội đồng cổ
đông quyết định.
Quỹ dự trữ tài chính (phần không chia) tạo nguồn đế bù đắp những rủi

ro, tốn thất trong quá trình kinh doanh, bù lỗ trong trường họp công ty làm ăn
thua lỗ đế bảo đảm sự hoạt động bình thường và uy tín cho Công ty, trả lợi
tức cổ phần cho cổ đông trong những năm kinh doanh kém hiệu quả, bổ sung
vốn khi tăng vốn của Chủ sở hữu.
Số dư lợi nhuận ròng còn lại sử dụng đế lập quỹ trả
đông (phần đem chia), quỹ này được sử dụng đế trả lợi
đông có Cố phiếu ưu tiên theo mức lợi tức cố định, trích
cán bộ, công nhân viên có thành tích trong việc điều hành,
trả lợi tức cho các cố phiếu phố thông.

1.2.2.4.

lợi tức cho các cố
tức cho những cố
thưởng cho những
phần còn lại dùng

Cơ ch ế kiếm soát tài ch ính

Co chế kiểm soát tài chính của Doanh nghiệp bao gồm các phương
pháp, hình thức và công cụ nhằm kiểm soát các thông tin tài chính, kiếm soát
các số liệu dự toán, quyết toán, kiếm soát nội bộ...
Kiếm soát tài chính, nhìn tù' nhiều góc độ khác nhau gồm có thanh tra,
kiểm tra của các cơ quan độc lập, kiểm soát trong nội bộ doanh nghiệp. Trong
phạm vi báo cáo này bài viết chỉ giới hạn trong phạm vi kiểm soát tài chính
nội bộ, kiếm soát nội bộ bao gồm kiếm soát quản trị nội bộ và kiếm soát kế
toán nội bộ.
Kiểm soát nội bộ bao gồm kế hoạch tổ chức và tất cả những biện pháp
phối hợp được thừa nhận dùng trong kinh doanh đế bảo vệ tài sản tô chức,



×