Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Sổ tay Hóa Học Chuyên đề NHÔM CROM KẼM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 93 trang )

A.
B.
C.
D.

LỜI NÓI ĐẦU
Để đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng học tập va khả năng phát
huy tìm tòi, học hỏi của mình, chúng em biên soạn quyển sổ tự học
với chuyên đề NHÔM – CROM – KẼM. Quyển sổ đặc biệt có ích cho
chúng em cho việc học tập để chuẩn bị cho các kì thi học sinh giỏi và
học kì. Nội dung quyển sổ được biên soạn theo thứ tự các chương,
mỗi chương gồm 4 phần:
Tóm tắt lý thuyết – phần này giới thiệu kiến thức hóa học bổ ích nhằm
cung cấp thêm thông tin cho bạn đọc, làm cơ sở trả lời các bài tập trắc
nghiệm khách quan một cách chính xác và nhanh gọn.
Bài tập tự luận – nhằm kiểm tra khả năng lặp luận, vận dụng kiến thức
trong quá trình giải bài tập từ dễ đến khó
Bài tập trắc nghiệm – mỗi chương được biên soạn 100 bài tập nhằm
củng cố kiến thức và giải nhanh các bài tập.
Bảng đáp án và hướng dẫn giải – tất cả các bài tập đều có đáp số và
hướng dẫn chi tiết với những bài khó
Nhân dịp này, chúng em xin được bày tỏ sự chân thành tới cô
Nguyễn Hoàng Oanh, Cô Lê Trương Kim Phượng và các bạn đã tiếp
sức cho em hoàn thành quyển này. Chúng em mong muốn nhận được
những ý kiến đóng góp, xây dựng từ phía cô và các bạn để chất lượng
quyển sổ càng được nâng cao
Người thực hiện:
Nguyễn Trần Khương Nhã
Nguyễn Thị Kiều Anh
Nguyễn Trọng Nghĩa
Phan Quốc Thịnh



1


A.VỊ TRÍ VÀ CẤU TẠO:

Nhôm là nguyên tố hóa học có số hiệu nguyên tử 13, thuộc nhóm IIIA, chu kì 3. Trong
nhóm, nhôm đứng dưới nguyên tố phi kim bo (B). Trong chu kì 3, nhôm đứng sau nguyên tố
kim loại magie (Mg) và trước nguyên tố phi kim silic (Si).
Cấu hình electron nguyên tử: Nhôm có bán kính nguyên tử (0,125nm) nhỏ hơn nguyên tử
Mg (0,16nm). Nguyên tử Al có 13e được phân bố như sau: 1s 22s22p63s23p1, trong đó có 3e hóa
trị (3s23p1 ). Ion Al3+ có cấu hình electron của nguyên tử khí hiếm Ne:
Al → Al3+ + 3e
[Ne]3s23p1

[Ne]

Al là nguyên tố p.
Năng lượng ion hóa: So sánh năng lượng ion hóa I với I của nguyên tử nhôm ta thấy:
3

2

I : I = 2744 : 1816 = 1,5 : 1.
3

2

Như vậy, năng lượng ion hóa I chỉ lớn hơn năng lượng ion hóa I có 1,5 lần. Do vậy khi
3


2

cung cấp năng lượng cho nguyên tử Al sẽ có 3e tách ra khỏi nguyên tử.
Độ âm điện: Nguyên tử Al có giá trị độ âm điện là 1,61.
Số oxi hóa: Trong hợp chất, nguyên tố Al có số oxi hóa bền là +3.
Mạng tinh thể: Nhôm có cấu tạo kiểu mạng lập phương tâm diện.

2


Cấu tạo tinh thể của nhôm.
Nhôm có chín đồng vị, số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 (đồng vị ổn định) và Al26 (đồng vị phóng xạ, t = 7,2 × 105 năm) tìm thấy trong tự nhiên, tuy nhiên Al-27 có sự phổ
1/2

biến trong tự nhiên là 100%. Al-26 được sản xuất từ agon trong khí quyển do va chạm sinh ra
bởi các tia vũ trụ proton. Các đồng vị của nhôm có ứng dụng thực tế trong việc tính tuổi của
trầm tích dưới biển, các vết mangan, nước đóng băng, thạch anh trong đá lộ thiên, và các thiên
thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa,
lắng đọng, lưu trữ trầm tích, thời gian cháy và sự xói mòn trong thang độ thời gian 105 đến
106 năm (về sai số).
Al-26 nguồn gốc vũ trụ đầu tiên được sử dụng để nghiên cứu Mặt Trăng và các thiên
thạch. Các thành phần của thiên thạch, sau khi thoát khỏi nguồn gốc của chúng, trong khi chu
du trong không gian bị tấn công bởi các tia vũ trụ, sinh ra các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi
xuống Trái Đất, tấm chắn khí quyển đã bảo vệ cho các phần tử này không sinh ra thêm Al-26,
và sự phân rã của nó có thể sử dụng để xác định tuổi trên trái đất của các thiên thạch này. Các
nghiên cứu về thiên thạch cho thấy Al-26 là tương đối phổ biến trong thời gian hình thành hệ
hành tinh của chúng ta. Có thể là năng lượng được giải phóng bởi sự phân rã Al-26 có liên
quan đến sự nấu chảy lại và sự sai biệt của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành
cách đây 4,6 tỷ năm.

I.Tính chất lí học.

3


Nhôm kim loại kết tinh trong hệ lập phương tâm diện. Nó là kim loại màu trắng bạc.
Khi để trong không khí trở nên xám vì có màng oxit mỏng đã được tạo nên ở trên bề mặt.
Nhôm nóng chảy ở nhiệt độ tương đối thấp, 6500C và nóng chảy ở nhiệt độ cao, 24670C.
Nhôm là kim loại nhẹ ( 2,7g/cm3 ).
Nhôm lỏng rất nhớt, độ nhớt đó giảm xuống khi có thêm những lượng nhỏ Mg hay Cu, cho
nên trong hợp kim đúc của nhôm luôn luôn có Cu. Ở nhiệt độ thường (20 0C) nhôm tinh khiết
khá mềm, dễ dát mỏng và dễ kéo sợi. Ở trong khoảng nhiệt độ 100 – 150 0C, nhôm tương đối
dẻo và chế hóa cơ học nhung đến khoảng 6000C, trở nên ròn dễ nghiền thành bột.
Nhôm là kim loại dẫn điện và dẫn nhiệt tốt. Độ dẫn điện của nhôm bằng 0,60 độ dẫn điện
của đồng. Độ dẫn điện của nhôm hơn 3 lần sắt.
Bề mặt của nhôm rất trơn bóng, có khả năng phản chiếu tốt ánh sáng và nhiệt.
II.Tính chất hóa học:
Nhôm là kim loại có tính khử mạnh. Tuy nhiên tính khử của Al yếu hơn các kim loại kiềm
và kiềm thổ.
Khác với bo, nhôm là kim loại hoạt động vì có bán kính nguyên tử lớn hơn bo. Tuy nhiên
ở điều kiện thường, bề mặt của nhôm bị bao bọc bởi màng oxit rất mỏng

( đến 0,00001 mm)

và bền làm cho nhôm trở nên kém hoạt động
Dây nhôm hay lá nhôm dày không cháy khi đốt mạnh và nóng chảy trong màng oxit tạo
thành những túi, bên trong túi là nhôm lỏng và bên ngoài là oxit. Lá nhôm rất mỏng hoặc bột
nhôm khi được đốt nóng có thể cháy phát ra ánh sáng chói và nhiều nhiệt:
4Al + 3O → 2Al O
2


2

3

∆H 0 = −1676kJ / mol

Tấm nhôm, đã được nhúng vào dung dịch muối thủy ngân hoặc kim loại thủy ngân, khi để
trong không khí ở nhiệt độ thường sẽ bị oxi hóa hoàn toàn vì tron trường hợp này nó không
được màng oxit bảo vệ nữa.

4


Do có ái lực lớn với oxit, nhôm là chất khử mạnh. Ở nhiệt độ cao, nhôm khử dễ dàng nhiều
oxit kim loại đến kim loại tự do:
2Al + 3/2O → Al O ’

∆H 0 = −1676kJ

2Cr + 3/2O → Cr O ’

∆H 0 = −114kJ

2Fe + 3/2O → Fe O ’

∆H 0 = −820kJ

2


2

2

2

2

2

3
3
3

Cho nên:
2Al + Cr O → Al O +2Cr

∆H 0 = −535kJ

2Al + Fe O → Al O + 2Fe

∆H 0 = −856kJ

2

2

3

2


3

2

3
3

Trên thực tế người ta dùng bột nhôm để điều chế những kim loại khó bị khử và khó nóng
chảy như Cr, Fe, Mn, Ni, Ti, Zr, V.
Phương pháp dùng nhôm khử oxit kim loại để điều chế kim loại gọi là phương pháp nhiệtnhôm.
Nhôm tương tác với Clo, brom ở nhiệt độ thường với iot khi đun nóng, với nitơ, lưu huỳnh
và cacbon ở nhiệt độ khá cao (700 – 8000C) và không tương tác với hiđro.
Nhôm tuy có tổng các năng lượng ion hóa thứ nhất, hai và ba khá lớn nhưng nhờ ion Al 3+
có nhiệt hiđrat hóa rất âm cho nên nhôm kim loại dễ chuyển sang dạng ion Al 3+ (dd)
Al3+(dd) + 3e → Al(r),

E0= -1,66V

Có thể điện cực tương đối thấp như vậy, về nguyên tắc nhôm dễ dàng đẩy hiđro ra khỏi
nước và axit. Nhưng thực tế vì bị màng oxit bền bảo vệ, nhôm không tác dụng với nước khi
nguội và khi đun nóng, không tác dụng với dung dịch loãng của axit photphoric và axitaxetic.
Nhôm chỉ tan dễ dàng trong các dung dịch axit clohiđric và axit sunfuric, nhất là khi đun
nóng. Phản ứng chung của nhôm tan trong dung dịch axit là:
2Al + 6H O+ + 6H O → 2[Al(H O) ]3+ +3H
3

2

2


6

2

Trong axit nitric đặc và nguội nhôm không những không tan mà còn bị thụ động hóa,
nghĩa là sau khi đã tiếp xúc với nitric đặc, nhôm sẽ không tan trong dung dịch loãng của axit
clohiđric và axit sunfuric nữa. Trong thực tế người ta dùng nhôm làm xitec đựng axit nitric

5


đặc. Nhôm cũng không tác dụng với axit nitric rất loãng mà tan dễ nhất trong dung dịch có
nồng độ trung bình, nhất là khi đun nóng.
Giống như Be, nhôm có thể tan trong dung dịch kiềm mạnh giải phóng hiđro.
2Al + 2OH- + 6H O → 2[Al(OH) ]- +3H
2

4

2

Thế điện cực của hidro ở pH = 7 ( E 0 của H O/H bằng -0,41V ) cao hơn so với thế điện
2

2

cực chuẩn của nhôm ( E0 của Al3+/Al ) nên nhôm có thể khử được nước, giải phóng khí hidro:
2Al + 6H O → 2Al(OH) + 3H .
2


3

2

Phản ứng trên nhanh chóng dừng lại vì lớp Al(OH) không tan trong nước đã ngăn cản
3

không cho nhôm tiếp xúc với nước.
Vì sao những vật bằng nhôm hằng ngày tiếp xúc với nước dù ở nhiệt độ nào cũng không
xảy ra phản ứng?
Đó là do trên bề mặt của vật được phủ kín bằng màng Al O rất mỏng ( không dày hơn 10-5
2

3

mm ) rất mịn và bền chắc đã không cho nước và khí thấm qua.

III.Trạng thái thiên nhiên và phương pháp điều chế.
Phần rất lớn nhôm tập trung vào các alumsilicat, ví dụ như orthoclazơ (K O, Al O , 6SiO )
2

2

3

2

mica (K O, 2H O, 3Al O , 6SiO ), nefelin (Na, K O, Al O , 2SiO ). Một sản phẩm rất phổ biến
2


2

2

3

2

2

2

3

2

của quá trình phân hủy các nham thạch tạo nên bởi alumosilicat là cao lanh gồm chủ yếu
khoáng sét caolinit (Al O , 2SiO , 2H O). Hai khoáng vật quan trọng đối với công nghiệp của
2

3

2

2

nhôm là boxit (Al O , xH O) và criolit (Na [AlF ]). Boxit chính là sản phẩm phân hủy của đất
2


3

2

3

6

sét ở trong điều kiện khí hậu nhiệt đới hoặc nữa nhiệt đới.
Nhôm được sản xuất với quy mô công nghiệp bằng phương pháp điện phân hỗn hợp nóng
chảy của Al O và Na [AlF ]. Criolit có vai trò quan trọng là hạ nhiệt độ nóng chảy của chất
2

3

3

6

6


điện li: Al O nóng chảy ở 20720C nhưng hỗn hợp của 10% Al O và 90% Na [AlF ] nóng
2

3

2

3


3

6

chảy ở 9500C.
Boxit (Al O , xH O) thường chứa các tạp chất như Fe O SiO , CaO nên cần phải tinh chế.
2

3

2

2

3,

2

Muốn vậy trước đây người ta nấu chảy bột nghiền nhỏ của boxit với sođa:
Al O + Na CO → 2NaAlO + CO
2

3

2

3

2


2

Rồi hòa tan sản phẩm vào nước; những tạp chất như Fe(OH) CaSiO lắng xuống còn
3’

3

NaAlO tan vào dung dịch ở dạng Na[Al(OH) ].
2

4

Ngày nay để có dung dịch đó người ta dùng phương pháp Baye(Bayer): Đun nóng bột oxit
nghiền với dung dịch NaOH 40% trong nồi áp suất ở nhiệt độ 150 0C và dưới áp suất 5-6atm.
Nhôm oxit tan trong dung dịch kiềm đó tạo thành natri hiđroxoaluminat:
Al O + NaOH → 3H O + 2Na[Al(OH) ]
2

3

2

4

Lọc lấy dung dịch và dùng nước pha loãng, kết tủa Al(OH) sẽ lắng xuống:
3

Na[Al(OH) ] ↔ Al(OH) + NaOH
4


3

Quá trình điện phân được thực hiện ở nhiệt độ 960 0C với điện áp khoảng 5V và cường độ
dòng điện 140000A. Thùng điện phân gồm có vỏ bằng thép, bên trong lớp gạch chịu lửa, cực
dương là những thỏi than lớn nối với nhau và cấm vào thùng điện phân, cực âm là lớp than
nằm ở đáy thùng. Cơ chế của quá trình điện phân Al 0 trong Na [AlF ] cũng chưa xác định
2 3

3

6

được một cách dứt khoát. Hiện nay người ta thường giải thích rằng criolit là hỗn hợp của AlF

3

và 3NaF, khi điện phân chỉ NaF bị điện phân cho Na và F . Natri kim loại khử AlF tạo thành
2

3

Al kim loại và muối NaF, còn F đẩy oxi trong Al 0 tạo thành AlF . Nhờ vậy nồng độ của
2

2 3

3

criolit ở trong thùng điện phân hầu như không đổi. Kết quả là nhôm sinh ra ở cực âm, tập

trung ở đáy thùng điện phân dưới dạng lỏng, khí oxi bay lên ở cực dương tác dụng với than ở
cực đó tạo nên các khí CO và CO làm cho cực bị ăn mòn, cho nên trong quá trình điện phân
2

người ta phải hạ thấp dần cực dương xuống.
Sản phẩm thu được khá tinh khiết và có hàm lượng vào khoảng 99,4 – 99,8% Al.

7


Điện phân lần thứ hai, nhôm có thể đạt đến hàm lượng 99,98%. Ngày nay bằng phương
pháp nóng chảy vùng người ta có thể tinh chế nhôm với độ tinh khiết hết sức cao là 99,9998%.
Để có Al O tinh khiết ngày nay người ta có thể chế hóa nefelin hoặc cao lanh. Chẳn hạn
2

3

khí chế hóa nefelin, người ta nung hỗn hợp đã được nghiền mịn và trộn của nefelin, đá vôi và
soda ở nhiệt độ 12000C trong lò quay:
(Na, K) Al Si O + 2CaCO → 2CaSiO + 2(Na, K)AlO + 2CO
2

2

2

8

3


3

2

2

Hỗn hợp sau khi nung được nghiền mạnh và ngâm chiết trong nước rồi lọc lấy dung dịch
aluminat. Sục khí CO là một sản phẩm của phản ứng trên, vào dung dịch hidroxoaluminat sẽ
2

thu được kết tủa Al(OH).
2(Na, K)[Al(OH) ] + CO → (Na, K) CO + 2Al(OH) + H O
4

2

2

3

3

2

Quá trình chuyển Al(OH) thành Al O được thực hiện giống như trên.
3

2

3


IV. Đồng vị:
Nhôm có 9 đồng vị, số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 (đồng vị ổn định) và Al-26
(đồng vị phóng xạ, t1/2 = 7,2 × 105 năm) tìm thấy trong tự nhiên, tuy nhiên Al-27 có sự phổ
biến trong tự nhiên là 100%. Al-26 được sản xuất từ agon trong khí quyển do va chạm sinh ra
bởi các tia vũ trụ proton. Các đồng vị của nhôm có ứng dụng thực tế trong việc tính tuổi của
trầm tích dưới biển, các vết mangan, nước đóng băng, thạch anh trong đá lộ thiên, và các thiên
thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa,
lắng đọng, lưu trữ trầm tích, thời gian cháy và sự xói mòn trong thang độ thời gian 105 đến
106 năm (về sai số).
Al-26 nguồn gốc vũ trụ đầu tiên được sử dụng để nghiên cứu Mặt Trăng và các thiên
thạch. Các thành phần của thiên thạch, sau khi thoát khỏi nguồn gốc của chúng, trong khi chu
du trong không gian bị tấn công bởi các tia vũ trụ, sinh ra các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi
xuống Trái Đất, tấm chắn khí quyển đã bảo vệ cho các phần tử này không sinh ra thêm Al-26,
và sự phân rã của nó có thể sử dụng để xác định tuổi trên trái đất của các thiên thạch này. Các
nghiên cứu về thiên thạch cho thấy Al-26 là tương đối phổ biến trong thời gian hình thành hệ
hành tinh của chúng ta. Có thể là năng lượng được giải phóng bởi sự phân rã Al-26 có liên
quan đến sự nấu chảy lại và sự sai biệt của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành
cách đây 4,6 tỷ năm.
V.Các số oxi hóa của nhôm:
Trạng thái ôxi hóa 1:
8



AlH được điều chế khi nhôm bị nung nóng ở nhiệt độ 1500 °C trong
hiđrô.

Al2O được điều chế bằng cách nung nóng ôxít thông thường, Al 2O3, với silic ở nhiệt
độ 1800 °C trong chân không.

• Al2S được điều chế bằng cách nung nóng Al 2S3 với vỏ nhôm ở nhiệt độ 1300 °C trong
chân không. Nó nhanh chóng bị chuyển thành các chất ban đầu. Selenua được điều chế tương
tự.

AlF, AlCl và AlBr tồn tại trong pha khí khi ba halua được nung nóng cùng với
nhôm.

Trạng thái ôxi hóa 2:

Subôxít nhôm, AlO có thể được tồn tại khi bột nhôm cháy trong ôxy.
Trạng thái ôxi hóa 3:

Quy tắc Fajans chỉ ra rằng cation hóa trị ba Al3+ là không được mong chờ tìm thấy
trong các muối khan hay trong các hợp chất nhị phân như Al2O3. Hiđrôxít nhôm là một bazơ
yếu và muối nhôm của các axít yếu, chẳng hạn như cacbonat, không thể tạo ra. Muối của các
axít mạnh, chẳng hạn như nitrat, là ổn định và hòa tan trong nước, tạo thành các hiđrat với ít
nhất sáu phân tử nước kết tinh.

Hiđrua nhôm, (AlH3)n, có thể sản xuất từ trimêthyl nhôm và hiđrô dư thừa. Nó cháy
kèm nổ trong không khí. Nó cũng có thể được điều chế bằng phản ứng của clorua nhôm trên
hiđrua liti trong dung dịch ête, nhưng không thể cô lập thành dạng tự do từ dung dịch.
Cacbua nhôm, Al4C3 được sản xuất bằng cách nung nóng hỗn hợp hai nguyên tố
trên 1.000 °C. Các tinh thể màu vàng nhạt có cấu trúc lưới phức tạp,và phản ứng với nước hay
axít loãng tạo ra mêtan. Axêtylua, Al2(C2)3, được điều chế bằng cách cho axêtylen đi qua
nhôm nóng.

Nitrua nhôm, AlN, có thể được sản xuất từ các nguyên tố ở nhiệt độ 800 °C. Nó bị
thủy phân bởi nước tạo ra amôniắc và hiđrôxít nhôm.

Phốtphua nhôm, AlP, được sản xuất tương tự, và bị thủy phân thành phốtphin (PH3).


Ôxít nhôm, Al2O3, tìm thấy trong tự nhiên như là corunđum, và có thể điều chế bằng
cách đốt nóng nhôm với ôxy hay nung nóng hiđrôxít, nitrat hoặc sulfat. Như là một loại đá
quý, độ cứng của nó chỉ thua có kim cương, nitrua bo và cacborunđum. Nó gần như không
hòa tan trong nước.

Hiđrôxít nhôm có thể được điều chế như là một chất kết tủa dạng gelatin bằng cách
cho thêm amôniắc vào trong dung dịch của các muối nhôm. Nó là lưỡng tính, vừa là bazơ yếu
vừa là axít yếu, có thể tạo ra các muối aluminat với kim loại kiềm. Nó tồn tại trong các dạng
tinh thể khác nhau.

Sulfua nhôm, Al2S3, có thể điều chế bằng cách cho sulfua hiđrô đi qua bột nhôm.
Nó là một chất đa hình.

Florua nhôm, AlF3, có thể điều chế bằng cách cho hai nguyên tố tác dụng với nhau
hay cho hiđrôxít nhôm tác dụng với HF. Nó tạo thành phân tử lớn, bay hơi không qua pha


9


nóng chảy ở nhiệt độ 1.291 °C (thăng hoa). Nó là một chất rất trơ. Các trihalua khác là các
chất dime, có cấu trúc cầu nối.

Các hợp chất hữu cơ của nhôm có công thức chung AlR3 tồn tại và nếu không phải
là các phân tử lớn, thì là các chất dime hay trime. Chúng được sử dụng trong tổng hợp chất
hữu cơ, ví dụ trimêtyl nhôm.

Các chất alumino-hyđrua của phần lớn các nguyên tố có khả năng tích điện dương đã
được biết, trong đó có giá trị nhất là hiđrua nhôm liti, Li[AlH4]. Khi bị đốt nóng, nó phân hủy

thành nhôm, hiđrô và hiđrua liti, nó bị thủy phân trong nước. Nó có nhiều ứng dụng trong hóa
hữu cơ. Các alumino-halua [AlR4] có cấu trúc tương tự.
VI. Ứng dụng của kim loại nhôm:
Tính theo cả số lượng lẫn giá trị, việc sử dụng nhôm vượt tất cả các kim loại khác, trừ sắt,
và nó đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Nhôm nguyên chất có sức chịu kéo
thấp, nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng, kẽm, magiê, mangan và silic.
Khi được gia công cơ-nhiệt, các hợp kim nhôm này có các thuộc tính cơ học tăng lên đáng kể.

Các hợp kim nhôm tạo thành một thành phần quan trọng trong các máy bay và tên lửa do
tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng.
• Các loại vỏ phủ nhôm đôi khi được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay
khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng, nhờ vào đặc tính hấp thụ bức xạ điện từ của Mặt Trời tốt,
mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.
• Ôxít nhôm, alumina, được tìm thấy trong tự nhiên dưới dạng corunđum, emery, ruby và
saphia và được sử dụng trong sản xuất thủy tinh. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong
các ống tia laser để sản xuất ánh sáng có khả năng giao thoa.


10


• Khi nhôm được bay hơi trong chân không, nó tạo ra lớp bao phủ phản xạ cả ánh sáng và
bức xạ nhiệt. Các lớp bao phủ này tạo thành một lớp mỏng của ôxít nhôm bảo vệ, nó không bị
hư hỏng như các lớp bạc bao phủ vẫn hay bị. Trên thực tế, gần như toàn bộ các loại gương
hiện đại được sản xuất sử dụng lớp phản xạ bằng nhôm trên mặt sau của thủy tinh. Các gương
của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm, nhưng là ở mặt trước để tránh các
phản xạ bên trong mặc dù điều này làm cho bề mặt nhạy cảm hơn với các tổn thương.
• Hợp kim nhôm, nhẹ và bền, được dùng để chế tạo các chi tiết của phương tiện vận tải (ô
tô, máy bay, xe tải, toa xe tàu hỏa, tàu biển, v.v.)
• Đóng gói (can, giấy gói, v.v)

• Xử lý nước
• Xây dựng (cửa sổ, cửa, ván, v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây
dẫn phần cuối cùng của các mạng điện, trực tiếp đến người sử dụng.)
• Các hàng tiêu dùng có độ bền cao (trang thiết bị, đồ nấu bếp, v.v)
• Các đường dây tải điện (mặc dù độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng, nó nhẹ
hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn) .

Chế tạo máy móc.
• Mặc dù tự bản thân nó là không nhiễm từ, nhôm được sử dụng trong thép MKM và các
nam châm Alnico.
• Nhôm siêu tinh khiết (SPA) chứa 99,980% - 99,999% nhôm được sử dụng trong công
nghiệp điện tử và sản xuất đĩa CD.
• Nhôm dạng bột thông thường được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có
thể cho thêm vào trong sơn lót, chủ yếu là trong xử lý gỗ — khi khô đi, các bông nhôm sẽ tạo
ra một lớp kháng nước rất tốt.
• Nhôm dương cực hóa là ổn định hơn đối với sự ôxi hóa, và nó được sử dụng trong các
lĩnh vực khác nhau của xây dựng.


11


Phần lớn các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính hiện đại được sản xuất từ nhôm vì
nó dễ dàng trong sản xuất và độ dẫn nhiệt cao.
Ôxít nhôm, alumina, được tìm thấy trong tự nhiên dưới dạng corunđum, emery, ruby và
saphia và được sử dụng trong sản xuất thủy tinh. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong
các ống tia laser để sản xuất ánh sáng có khả năng giao thoa.


Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt, nó sử dụng để làm nguyên liệu rắn cho tên lửa, nhiệt

nhôm và các thành phần của pháo hoa.
VII. Tác hại của nhôm đối với con người và vật dụng:
Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ biến nhất mà không có chức năng có ích nào cho
các cơ thể sống, nhưng có một số người bị dị ứng với nó — họ bị các chứng viêm da do tiếp
xúc với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ
hôi (phấn rôm), các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng
từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm, nôn mửa hay các triệu chứng khác của ngộ độc nhôm do
ăn (uống) các sản phẩm như Kaopectate® (thuốc chống ỉa chảy), Amphojel® và Maalox®
(thuốc chống chua).

12


Đối với những người khác, nhôm không
bị coi là chất độc như các kim loại nặng,
nhưng có dấu hiệu của ngộ độc nếu nó
được hấp thụ nhiều, mặc dù việc sử dụng
các đồ nhà bếp bằng nhôm (phổ biến do
khả năng chống ăn mòn và dẫn nhiệt tốt)
nói chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng
ngộ độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều

các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng quá nhiều các chất hút mồ
hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn duy nhất sinh ra sự ngộ độc nhôm. Người ta cho rằng nhôm có
liên quan đến bệnh Alzheimer, mặc dù các nghiên cứu gần đây đã bị bác bỏ.
Cần cẩn thận để không cho nhôm tiếp xúc với một số chất hóa học nào đó có khả năng ăn
mòn nó rất nhanh. Ví dụ, chỉ một lượng nhỏ thủy ngân tiếp xúc với bề mặt của miếng nhôm có
thể phá hủy lớp ôxít nhôm bảo vệ thông thường có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ,
thậm chí cả một một cái xà có cấu trúc nặng nề có thể bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do
này, các loại nhiệt kế thủy ngân không được phép trong nhiều sân bay và hãng hàng không, vì

nhôm là thành phần cấu trúc cơ bản của các máy bay.

13


B.MỘT SỐ HỢP CHẤT CỦA NHÔM:
1.

Nhôm oxit ( Al O ):
2

3

Nhôm oxit là oxit lưỡng tính với công thức hóa học Al O . Nó thường được
2

3

gọi là alumina (α-alumina), hoặc corundum ở dạng tinh thể của nó.
Corundum là dạng tinh thể tự nhiên phổ biến nhất của nhôm oxit. Hồng ngọc và ngọc
bích là hình thức đá quý corundum. Các ion oxy tạo thành một cấu trúc lục giác hợp với ion
nhôm làm 2/3 của các khe hở tám mặt (Mỗi ion Al3+ trung tâm là tám mặt(mỗi ion Al 3+ trung
tâm là tám mặt):

Oxit nhôm là một chất cách điện nhưng có độ dẫn nhiệt tương đối cao (30 Wm

-1

.K-1) so


với một vật liệu gốm sứ. Ở dạng tinh thể corundum hoặc dạng nhôm oxit-α, độ cứng của nó và
sự mài mòn thích hợp làm thành phần trong các công cụ cắt. Nhôm oxit chịu trách nhiêm
kháng chiến cho nhôm kim loại ở trong các điều kiện thời tiết. Độ dày và tính chất của lớp


oxit này có thể được tăng cường bằng cách sử dụng một quá trình đựoc gọi là anodising.
Nhôm oxit tạo bởi anodising thưòng vô định hình.
Nhôm oxit không tan trong nưóc, nhưng nó là chất lưõng tính, có thể tác dụng với axit và
bazơ:
Al O + 6HCl → 2AlCl + 3H O
2

3

3

2

Al O + NaOH + H O → 2Na Al(OH)
2

3

2

3

6

Khử Al O bằng cacbon không cho nhôm kim loại mà cho nhôm cacbua:

2

3

Al2O3 + 9C Al C + 6CO
4

3

Al O không tác dụng với H , Co ở bất kì nhiệt độ nào.
2

3

2

Có thể điều chế Al O bằng phương trình sau:
2

3

Al(OH) → Al O + H O
3

2

3

2


Trong công nghiệp điều chế Al O từ quặng boxit.
2

3

Tinh thể nhôm oxit trong suốt không màu hoặc có màu, một phần dùng làm đồ nữ trang,
một phần dùng chế tạo các chi tiết trong các ngành kĩ thuật chính xác, như chân kính đồng hồ,
máy phát laze...
Nhôm oxit lẫn tạp chất có độ rắn cao, được dùng làm vật liệu mài ( đá mài, bột giấy ráp,
bột đánh bóng...)

2. Nhôm hidroxit ( Al(OH) ):
3


Nhôm hidroxit được tạo nên khi hidroxit kim loại kiềm tác dụng với muối nhôm, là kết tủa
nhầy màu trắng, thực tế không tan trong nước. Kết tủa đó chứa nhiều nước. Bằng phương
pháp Rownghen người ta xác nhận rằng nó không có kiến trúc tinh thể. Để lâu nó mất nước
dần và sấy khô rồi nung đến mất hoàn toàn nước nó biến thành oxit. Người ta cho rằng ngoài
sự mất nước kết tinh, kết tủa đó còn mất nước do sự ngưng tụ những phân tử Al(OH)

3

Sự ngưng tụ giữa các nhóm OH tiếp tục làm mất nước cho đến khi chỉ còn oxit. Như vậy
kết tủa nhầy của nhôm hidroxit là hidrat của oxit có thành phần biến đổi từ Al O nH O (n > 3)
2

3.

2


qua Al O .3H O ( tức là Al(OH) , Al O .H O ( tức là AlOOH) đến Al O . Tuy nhiên do thói
2

3

2

3

2

3

2

2

3

quen và để thuận tiện người ta biểu diễn thành phần của kết tủa nhầy của nhôm hidroxit bằng
công thức Al(OH)

3

Al(OH) tinh thể được tạo nên khi cho khí CO tác dụng với dung dịch Natri aluminat. Tinh
3

2


thể đó cũng tồn taijtrong thiên nhiên ở dạng khoáng vật hidragilit ( hay gipxit). Hidragilit gồm
những tinh thể đơn tà và có kiến trúc lớp. Mỗi lớp gồm có hai mặt phẳng đựng các nhóm OH
và những nguyên tử Al nằm giữa hai lớp đó . Mỗi nguyên tử Al được sáu nhóm OH bao
quanh. Trong mạng lưới của Al(OH) có những liên kết hidro định hướng kiểu O—H ---O—H
3

; mỗi nguyên tử O của lớp này nằm trên nguyên tử O ở mặt phẳng dưới của lớp nằm trên tâm
của nguyên tử O ở mặt phẳng trên của lớp dưới và có liên kết hidro theo các hướng thẳng
đứng và nằm ngang. Dưói đây là công thức cấu tạo của nó:


Hidragilit bên ở nhiệt độ dưới 155 0C nó có trong thành phần của nhiều loại boxit.
Ngoài ra trong boxit còn có hai khoáng vật nữa có thành phần AlOOH và có tinh thể tà
phương là: ddiasspo AlOOH γ bền ở khoảng nhiệt độ 280 – 400 0C ( phân hủy thành Al O - α
2 3
ở 4200C) và boxit AlOOH γ bền ở khoảng 1550 – 2800C ( phân hủy thành Al O γ ở gần
2

3

3000C). Boxit cũng có thể tạo nên khi đun nóng nhôm hidroxit trong dung dịch amoniac ở
2000C.
Nhôm hidroxit là chất lưỡng tính điển hình, khi mới kết tủa nó tan dễ dàng trong các dung
dịch axit và bazo:
Al(OH) + 3H O+ → [Al(H O) ]3+
3

3

2


6

Al(OH) + OH- + 2H O → [Al(OH) (H O) ]3

2

4

2

2

Ion [Al(OH) ( H O) ]- thường viết gọn là [Al(OH) ]- có thể kết hợp thêm ion tạo thành
4

2

2

4

[Al(OH) ]2- và [Al(OH) ]3-. Tất cả những ion này được gọi chung hidroxoaluminat. Muối khan
5

6

thu được khi làm bay hơi dung dịch natri hidroxoaluminat thường được biểu diễn bằng công
thức NaAlO và coi như là muối của axit metaaluminat (HalO hay AlOOH). Vì tính axit của
2


2

nhôm hidroxit là rất yếu nên muối aluminat thủy ngân mạnh trong dung dịch đậm đặc và bị
thủy phân hoàn toàn trong dung dịch loãng cho kết tủa hidroxit và môi trường kiềm.


Bởi vậy khi pha loãng dung dịch aluminat hay sục khí CO vào dung dịch đó, hidroxit sẽ
2

kết tủa. Trong phòng thí nghiệm, để điều chế nhôm hidroxit người ta cho muối trong các chất
NaOH, KOH, NH và Na CO vào dung dịch của muối nhôm. Phản ứng ion chung là:
3

2

3

Al3+ + 3OH- → Al(OH)

3

Điều chế:
Muối nhôm tác dụng với dung dịch kiềm vừa đủ:
AlCl + 3NaOH → Al(OH) + 3NaCl
3

3

Nếu dư:

Al(OH) + NaOH → NaAlO + H O
3

3. Nhôm Sunfat và phèn nhôm

2

2


Nhôm sunfat Al (SO ) là chất bột màu trắng. Nó bị phân hủy ở nhiệt độ trên 770 0C. Từ
2

4 3

dung dịch nước, nó kết tinh ở dạng hidrat Al (SO ) . 18H O, đây là những tinh thể đơn tà,
2

4 3

2

trong suốt, dễ tan trong nước và ít tan trong rượu. Khi sấy trong chân không ở 50 0C, nó mất
bớt nước chuyển thành hidrat Al (SO ) . 16H O và khi đun nóng đén 3400C nó mất nước hoàn
2

4 3

2


toàn biến thành muối khan.
Nhôm sunfat có thể kết hợp với sunfat kim loại kiềm để tạo thành loại muối M Al (SO ) .
2

2

4 4

24H O thường gọi là phèn nhôm. Chính tên gọi nhôm (alumanium) là sinh ra từ chữ phèn
2

(alumen).
Phèn là một loại muối kép có công thức chung là: M SO . E (SO ) . 24H O.
2

4

2

4 3

2

Trong đó M là Na, K, Rb, Cs, NH , Tl và E là Al, Cr, Fe, Ga, In, Tl, Co. Chúng đồng hình
4

với nhau và tạo nên những tinh thể đẹp hình bát diện, không màu hoặc có màu. Được sử dụng
nhiều hơn hết là phèn nhôm – kali K SO . Al (SO ) . 24H O, phèn crom – kali.
2


4

2

4 3

2

K SO Cr (SO ) . 24H O và phèn sắt – amoni ( NH ) SO . Fe (SO ) . 24H O.
2

4

2

4 3

2

4 2

4

2

4 3

2

Phèn nhôm – kali, hay thường gọi là phèn chua là hợp chất ở dạng những tinh thể hình bát

diện, không có màu, có vị hơi chua và chát. Ở 92,5 0C nó nóng chảy trong nước kết tinh, ở
nhiệt độ cao hơn nó dễ mất nước hoàn toàn tạo thành muối khan dưới dạng một khối hình nấm
to, xốp và rất dễ vở thành bột gọi là phèn phi. Khác với Al (SO ) . 18H O có nhiệt hòa tan
2

4 3

2


dương, phèn nhôm – kali có nhiệt hòa tan âm. Độ tan ở trong nước của phèn nhôm – kali kém
hơn độ tan của từng muối sunfat riêng nó tan khong đáng kể ở nhiệt độ thấp nhưng độ tan tăng
nhanh khi nhiệt độ tăng.
Nhiệt

0

15

30

60

92,5

100

2,95

5,04


8,40

24,8

119,5

154

độ
( 0C )
Độ tan
(g) trong
100g nước
Phèn nhôm không tan trong rượu tuyệt đối.
4.Nhôm hidrua(AlH )
3

Nhôm hidrua là hợp chất polime (AlH ) . Nó là chất rắn vô định hình, màu trắng, không
3 n

bay hơi và phân hủy ở nhiệt độ trên 105 0C thành nguyên tố. Cũng như bo hidrua, nhôm hidrua
là hợp chất thiếu electron. Người ta cho rằng nó có kiến trúc lớp . Mỗi nguyên tử Al được sáu
nguyên tử hidro bao quanh theo kiểu bát diện. Mỗi nguyên tử Al nối với ba nguyên tử Al ở
bên cạnh bằng những liên kết ba tâm như trong ddiboran:
Nhôm hidrua là hợp chất rất nhạy với oxi và nước, chẳn hạn nó bóc cháy trong không khí.
Khi tan trong dung dịch ete, nó dễ dàng kết hợp với hidrua của kim loại kìêm tạo thành
hidroaluminat.
Ví dụ:
nLiH + (AlH ) → nLi[AlH ]

3 n

4

Cũng như Li[BH ] là chất khử mạnh, thường dùng trong các phản ứng hữu cơ và vô cơ.
4

Nhôm hidrua tuy khác nhiều với bo hidrua nhưng các ion [AlH ]- và [BH ] lại giống nhau
4

4

nhiều.
Ở nhiệt độ thấp, nhôm hidrua dễ dàng kết hợp với những chất cho như NH , MNH ,
3

M NH, M N ( M = kim loại kiềm), N(CH ) .
2

3

3 3

2


Ví dụ:
(AlH ) + nNH → nAlH .NH
3 n


3

3

3

Gióng như B, đối với Al người ta cũng đã biết được những hợp chất có kiến trúc tương tự
những hợp chất tương ứng của cacbon.
Ví dụ
H N – AlH ( alazan) tương tự H C – CH (etan)
3

3

3

3

H N = AlH (alazen) tương tự H C = CH (etilen)
2

2

2

2

HN ≡ AlH (alazin) tương tự HC ≡ CH (axetilen)
Những hợp chất này của nhôm kém bền hơn so với những hợp chất tương ứng của bo.
Nhôm hidrua lần đầu tiên được điều chế vào năm 1942 khi phóng điện êm qua hỗn hợp

nhôm trimetyl và hidro. Chế hóa hỗn hợp sản phẩm được tạo nên là Al (CH ) H và (AlH )
2

3 3

3

3 n

với trimetylamin [N(CH ) ], thu được (AlH ) N(CH ) . Chưng cất hợp chất này ở 100 – 1350C,
3 3

3 n

3 3

người ta tách được (AlH )

3 n

Gần đây nhôm hidrua được điều chế bằng tương tác của AlCl với dung dịch Li[AlH ]
3

4

trong ete.
AlCl + 3Li[AlH ] → 4AlH + 3LiCl.
3

4


3

5. Nhôm halogenua:
Các hợp chất nhôm halogenua khác với nhau nhiều về cấu tạo và tính chất. Nhôm florua có
kiến trúc ion, nhôm brom và nhôm iodua ở mọi trạng thái đều gồm những phần tử Al Br và
2

6

Al I , nhôm clorua ở trạng thái rắn có kiến trúc ion nhưng ở trạng thái khí và trạng thái tan
2 6

gồm những phân tử Al Cl
2

6

Dưới đây là nhiệt tạo thành H0 (kJ/mol) của các halogenua đó:
tt

AlF

AlCl

3

-1504

3


-704

AlBr

3

-527

AlI

3

-314

Nhôm florua (AlF ). Nhôm florua là chất ở dạng những tinh thể tam tà, có màu trắng, nóng
3

chảy ở 12900C. Mậng lưới tinh thể rất vững bền, gồm các ion F - và có ion Al3+ gói ghém gần


như sít sao. Rất trơ về mặt hóa học, nó không tan trong nước axit và bazo. Nó chỉ kết hợp dễ
dàng với florua kim loại tạo thành các floroaluminat có công thức chung M[AlF ], M [AlF ]
4

2

5

và M [AlF ] ( M = kim loại kiềm). trong các floroaminat, quan trọng đối với thực tế là criolit

3

6

Na [AlF ] được dùng vào việc điều chế nhôm.
3

6

Nhôm florua có thể điều chế bằng cách cho nhôm hay nhôm oxit tương tác với khí HF ở
nhiệt độ cao:
2Al + 6HF → 2AlF + 3H
3

2

Al O + 6HF → 2AlF + 3H O
2

3

3

2

Nhôm clorua khan là chất ở dạng những tinh thể lục phương có màu trắng thường ngả màu
vàng nhạt vì chứa tạp chất FeCl . Nó nó thăng hoa ở 1830C và nóng chảy dưới áp suất
3

192,60C.

Xác định khối lượng phân tử của chất ở trạng thái khí và trạng thái tan trong dung môi hữu
cơ, nhận thấy trong các trạng thái đó phân tử ở dạng ddime Al Cl . Bằng phương pháp nhiễu
2

6

xạ electron, người ta biết rằng hai nguyên tử Al trong phân tử ddime đó nối với nhau qua cầu
clo tương tự như cầu hidro trong ddoboran:
Độ dài của liên kết Al – Cl trong cầu là 2,21A, độ dài của liên kết Al – Cl ở hai đầu là
2,06A và góc ClAlCl là 800 Mỗi liên kết Al – Cl – Al không cần phải mô tả như liên kết ba
tâm B – H – B trong ddiboran mà có thể coi là gồm có một liên kết cộng hóa trị bình thường
tạo nên nhờ sự ghép đôi một electron của Al với một eletron của Cl và mọt liên kết cộng hóa
trị kiểu cho – nhận mà nguyên tử cho là ClPhân tử ddime này phân li hoàn toàn thành phân tử đơn ở 8000C
Nhôm clorua ở trạng thái rắn dẫn điện tốt hơn ở trạng thái nóng chảy, vì ở trạng thái rắn có
cấu tạo ion còn khi nóng chảy có sự chuyển sang hợp chất phân tử.
Nhôm clorua khan bốc khói khá mạnh trong không khí vì nó hút ảm mạnh rồi bị thủy phân
giải phóng HCl:
AlCl + 2H O → Al(OH) Cl + 2HCl.
3

2

2


Bởi vậy cần để muối khan ở trong lọ kín. Nó dễ tan trong nước và trong nhiều dung môi
hữu cơ. Khi bỏ nhôm clorua khan vào nước ta nghe tiếng xèo xèo giống như khi nhúng sắt đỏ
vào nước: ở đây phản ứng phát ra nhiều nhiệt. Dung dịch nước của nó cũng như của muối
nhôm khác có phản ứng axit vì bị thủy phân. Những nấc thủy phân của ion Al 3+ ở trong nước
được coi như là sự phân li proton của phân tử H O ở trong ion phức aqua. Ví dụ như nấc thủy

2

phân thứ nhất:
[Al(H O) ] → [Al(H O) OH]- + H+ có K =1,12.10-5
2

6

2

5

Như vậy dung dịch muối nhôm có tính axit tương đương dung dịch axit axetic. Khi đun
nóng hay trong dung dịch loãng, phản ứng thủy phân đó xảy ra hoàn toàn:
AlCl + 3H O → Al(OH) + 3HCl
3

2

3

Trong thực tế người ta có thể chuẩn độ muối nhôm bằng NaOh với chỉ thị là metyl da cam.
Nhôm clorua hexahidrat có thành phần AlCl . 6H O là chất ở dạng những tinh thể tà
3

2

phương, trong suốt, có màu vàng rất nhạt và chảy rửa trong không khí. Nó tan dễ dàng trong
nước nhưng rất khó kết tinh từ dung dịch nước. Khi đun nóng, muối hidrat không mất nước
biến thành muooid khan và giải phóng khí HCl theo phản ứng:

AlCl . 6H O → Al(OH) + 3H O + 3HCl
3

2

3

2

Hidrat đó chỉ chuyển thành muối khan khi đun nóng trong khí Cl hay khí HCl.
2

Nhôm clorua có thể kết hợp dễ dàng với clorua kim loại kiềm tạo thành cloroaluminat có
công thức chung là M[AlCl ] và M [AlCl ] ( m là kim loại kiềm). Muối khan dặc biệt dễ kết
4

3

6

hợp với NH , H O, PCl POCl và một số hợp chất hữu cơ. Vì vậy nó được dùng rộng rãi làm
3

2

5

3

chất xúc tác trong tổng hợp hữu cơ. Dưới tác dụng của khí oxi khô, muối khan bị phân hủy

giải phóng Cl ở nhiệt độ 4200C.
2

2Al Cl + 3O → 2Al + 6Cl
2

6

2

2

2

Ở 10000C nó tương tác với nhôm kim loại tạo thành muối của nhôm có số oxi hóa thấp
hơn:
Al Cl + 4Al → 6AlCl
2

6


Nhôm clorua khan có thể diều chế bằng cách cho khí clo tương tác với bột nhôm ở 500 –
5500C hoặc với hỗn hợp Al O và than ở 10000C hoặc cho khí HCl khô đi qua bột nhôm đốt
2

3

nóng:
Ví dụ:

3Cl + Al O + 3C → 2AlCl + 3CO
2

2

3

3

Muối hidrat được điều chế bằng cách sục khí HCl đến bão hòa vào dung dịch của nhôm
trong axit clohidric.
7. Nhôm nitrat:
Al(NO ) .9H O là những tinh thể tà phương hay đơn tà, dễ tan trong nước và rượu. Trong
3 3

2

không khí ẩm tinh thể chảy rữa. Ở 700C Al(NO ) .9H O nóng chảy và chuyển thành
3 3

2

Al(NO ) .6H O. Ở 1400C, tạo thành muối bazơ 4Al O .3N O .14H O và ở 2000C tạo thành
3 2

2

2

3


2

5

2

Al O .
2

3

t0C

Al(NO ) %

t0C

Al(NO ) %

0

37,8

40

46,3

10


40,2

50

49,1

20

43,0

60

50,9

30

44,9

70

54,6

3 3

3 3

Độ tan của Al(NO ) trong nước.
3 3

Điều chế:


Al(OH) + 3HNO
3

3

→ Al(NO3)3 + 3H2O.

8. Nhôm sunfua:
Al S là một khối đặc màu xám vàng, trọng lượng riêng 2,37 ; có mùi khí hydro sunfua.
2 3

Khi cho thăng hoa để tinh chế Al S , người ta được những tinh thể hình kim trắng có nhiệt độ
2 3

nóng chảy 11000C. Dưới tác dụng của nước nóng, phản ứng xảy ra mạnh, giải phóng H S vì
2

trong nước, Al S bị phân hủy thành Al(OH) và H S.
2 3

3

2


9. Hợp kim của nhôm
Hợp kim của nhôm là hợp kim của nhôm với các các nguyên tố khác như: đồng, thiếc,
mangan, silic, magiê.
+ Hợp kim đuyra:

Hợp chất quan trọng nhất của nhôm là đuyra. Thành phần có : 94% Al, 4%Cu, còn lại là
các nguyên tố Mn,Mg,Si.... Hợp kim này có độ bền hơn nhôm 4 lần ( gần bằng độ bền của
thép), có tỉ khối xấp xỉ 27.5g/cm3. Đuyra được dùng nhiều trong công nghiệp chế tạo máy bay,
ôtô, xe lửa...

+ Hợp kim silumin:

Thành phần chính của silumin là Al và Si ( 10 đến 14% Si). Hợp kim có ưu điểm nhẹ, bền
và rất ăn khuôn (thể tích dãn nợ khi nhiệt độ giảm). Silumin được dùng để đúc một số bộ phận
của máy móc.
+ Hợp kim almelec:


×