Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phân tích những đặc trưng trong văn hóa giao tiếP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.43 KB, 13 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC KI
ĐỀ BÀI: (Đề 34) Phân tích những đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của
người Việt. Liên hệ những ưu và hạn chế trong văn hóa giao tiếp của sinh
viên đại học Luật Hà Nội.

Dàn bài:
A – MỞ ĐẦU
B – NỘI DUNG
I – Những đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt
1. Khái niệm “đặc trưng”
2. Phân tích đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt
II – Liên hệ những ưu và hạn chế trong văn hóa giao tiếp của sinh viên đại
học Luật Hà Nội
1. Ưu điểm
2. Hạn chế
C – KẾT LUẬN

A – MỞ ĐẦU
1


Cùng với quá trình dựng nước và giữ nước, nền văn hóa Việt Nam đã hình
thành và phát triển. Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh bền bỉ, kiên cường,
nhân dân ta đã xây đắp lên một nền văn hóa kết tinh sức mạnh và in đậm dấu ấn
bản sắc của dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự trường tồn của dân tộc
Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng
các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhờ nền
tảng và sức mạnh văn hóa ấy mà dù có nhiều thời kì bị đô hộ, dân tộc ra vẫn giữ
vững và phát huy bản sắc, khẳng định được những đặc trưng của mình. Đặc trưng
của văn hóa Việt Nam in đậm trong nhiều mặt của đời sống người dân Việt Nam.


Sau đây em xin đi phân tích đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt cùng
sự liên hệ thực tế đến những ưu và hạn chế trong giao tiếp của sinh viên trường đại
học Luật Hà Nội.

B – NỘI DUNG
I – Những đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt
1. Khái niệm “đặc trưng”:
“Đặc trưng” là những đặc điểm, dấu hiệu nổi bật chỉ có ở một sự vật, hiện
tượng này mà không có ở những sự vật hiện tượng khác
2. Những đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt:
Có 6 đặc trưng cơ bản trong văn hóa giao tiếp của người Việt được thể
hiện trong 6 khía cạnh trong giao tiếp.
- Trước hết, xét về thái độ của người Việt Nam đối với việc giao tiếp, có
thể thấy được đặc điểm của người Việt Nam là vừa thích giao tiếp, lại vừa
rất rụt rè.
Người Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc lẫn nhau và rất coi trọng việc
giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong cộng đồng, chính đó là
nguyên nhân dẫn đến việc coi trọng giao tiếp. Sự giao tiếp tạo ra quan hệ :
2


“Dao năng liếc thì sắc, người năng chào thì quen”. Sự giao tiếp củng cố tình
thân : “Áo năng may năng mới, người năng tới năng thân”. Năng lực giao
tiếp được người Việt Nam xem là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá con
người : “Vàng thì thử lửa, thử than - Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử
lời”.
Vì coi trọng giao tiếp cho nên người Việt Nam rất thích giao tiếp. Việc thích
giao tiếp này thể hiện chủ yếu ở hai điểm: Từ góc độ của chủ thể giao tiếp,
người Việt Nam có tính thích thăm viếng. Đã là người Việt Nam, đã thân
với nhau, thì cho dù hàng ngày có gặp nhau ở đâu, bao nhiêu lần đi nữa,

những lúc rảnh rỗi, họ vẫn tới thăm nhau. Thăm viếng nhau đây không do
nhu cầu công việc ( như ở Phươg Tây) mà là biểu hiện của tình cảm, tình
nghĩa, có tác dụng thắt chặt thêm quan hệ. Với đối tượng giao tiếp thì người
Việt Nam có tính hiếu khách. Có khách đến nhà, dù quen hay lạ, thân hay sơ
người Việt, dù nghèo khó đến đâu, cũng cố gắng tiếp đón một cách chu đáo
và tiếp đãi một cách thịnh tình, dành cho khách các tiện nghi tốt nhất, các đồ
ăn ngon nhất :” Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi, bởi lẽ đói năm, không ai đói
bữa”. Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại có một đặc tính
hầu như ngược lại là rất rụt rè - điều mà những người quan sát nước ngoài
rất hay nhắc đến. Sự tồn tại đồng thời hai tính cách trái ngược nhau (tính
thích giao tiếp và tính rụt rè ) này bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng
xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị. Đúng là người Việt Nam xởi
lởi, rất thích giao tiếp, nhưng đó là khi thấy mình đang ở trong phạm vi của
cộng đồng quen thuộc, nơi tính cộng đồng (liên kết) ngự trị. Còn khi đã vượt
ra khỏi phạm vi của cộng đồng, trước những ngời lạ, nơi tính tự trị phát huy
tác dụng thì người Việt Nam, ngược lại, lại tỏ ra rụt rè. Hai tính cách tưởng
như trái ngược nhau ấy không hề mâu thuẫn với nhau vì chúng bộc lộ trong

3


những môi trường khác nhau, chúng chính là hai mặt của cùng một bản chất,
là biểu hiện cách ứng xử linh hoạt của người Việt Nam.
Trong xã hội hiện nay, thái độ thích giao tiếp tiếp tục phát huy tác dụng gắn
kết những mối quan hệ, tạo không khí hòa nhập, gần gũi giữ người với
người. Nhưng thái độ rụt rè đôi khi lại thể hiện sự thiếu tự tin trong giao
tiếp, vì rụt rè mà “ăn không nên đọi, nói chẳng nên lời”, cũng có thể tạo cảm
giác không thoải mái, mất hứng thú cho người đối diện.
- Xét về quan hệ giao tiếp, nguồn gốc văn hóa nông nghiệp với đặc điểm
trọng tình đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm - lấy sự yêu sự ghét làm nguyên tắc ứng xử : “Yêu nhau yêu cả đường đi - Ghét nhau, ghét cả

tông ti họ hàng”.
Nếu trong tổng thể, người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm nguyên lí
chủ đạo nhưng vẫn thiên về âm tính hơn, thì trong cuộc sống người Việt
Nam sống có lí có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Khi cần cân nhắc giữa
tình với lí thì tình được đặt cao hơn lí : “Một bồ cái lí không bằng một tí cái
tình”. Đặc trưng này một phần thể hiện được bản chất thẳng thắn, bộc trực,
chất phát của người Việt Nam; song điều này chỉ thích hợp khi chúng ta
tham gia một quan hệ xã hội nhỏ, không dẫn tới những hậu quả nghiêm
trọng, dễ giải quyết. Còn trong xã hội hiện nay, cách giao tiếp trọng tình hơn
lí không còn phổ biến như trước vì nó không thể hiện được sự khách quan,
công bằng, chính trực.
- Với đối tượng giao tiếp, người Việt Nam có thói quen ưa tìm hiểu, quan
sát, đánh giá. Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng
gia đình (bố mẹ còn hay mất, đã có vợ/chồng chưa, có con chưa, mấy trai
mấy gái,...) là những vấn đề người Việt Nam thường quan tâm.
Thói quen ưa tìm hiểu này khiến cho người nước ngoài có nhận xét là người
Việt Nam hay tò mò. Đặc tính này dù gọi bằng tên gọi gì đi chăng nữa chẳng
qua cũng chỉ là một sản phẩm nữa của tính cộng đồng làng xã mà ra. Do tính
4


cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến người
khác, mà muốn quan tâm thì cần biết rõ hoàn cảnh. Mặt khác, do phân biệt
chi li các quan hệ xã hội, mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng hô
riêng, nên nếu không có đầy đủ thông tin thì không thể nào lựa chọn từ xưng
hô cho thích hợp được. Tính hay quan sát khiến người Việt Nam có được
một kho kinh nghiệm xem tướng hết sức phong phú : chỉ cần nhìn vào cái
mặt, cái mũi, cái miệng, con mắt,... là đã biết được tính cách của con người.
Chẳng hạn, riêng về xem người qua con mắt đã có các kinh nghiệm : “Đàn
bà con mắt lá dăm- Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền”; “Người khôn

con mắt đen sì- Người dại con mắt nửa chì nửa thau”. Biết tính cách, biết
người là để lựa chọn đối tượng giao tiếp thích hợp: “Tùy mặt gửi lời, tùy
người gửi của”; “Chọn mặt gửi vàng”. Trong trường hợp không được lựa
chọn thì người Việt Nam sử dụng chiến lược thích ứng một cách linh hoạt:
“ở bầu thì tròn , ở ống thì dài” ; “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo
giấy”. Với đặc trưng ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá này giúp mọi người dễ
dàng ứng xử linh hoạt trong giao tiếp hơn, có được thái độ và cách xưng hô
đúng đắn, thích hợp. Bên cạnh đó, nó cũng có hạn chế đó là sự tìm hiểu quá
mức sẽ gây cảm giác khó chịu cho đối phương, thậm chí có thể khiến họ
cảm thấy như đang bị xâm hại đến quyền cá nhân của họ, đặc biệt là đối với
người nước ngoài.
- Tính cộng đồng còn khiến cho người Việt Nam, dưới gốc độ chủ thể
giao tiếp, có đặc điểm là trọng danh dự : “Tốt danh hơn lành áo”.
Danh dự được người Việt Nam gắn với năng lực giao tiếp : Lời nói ra để lại
dấu vết, tạo thành tiếng tăm, nó được truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai
tiếng. Không phải ngẫu nhiên mà từ "tiếng" trong tiếng Việt, từ nghĩa ban
đầu là "ngôn ngữ" (ví dụ: tiếng Việt ), đã được mở rộng ra để chỉ sản phẩm
của ngôn ngữ ( ví dụ: tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa), và, cuối cùng, chỉ
5


cái thành quả mà tác động của lời nói đã gây nên - đó là "danh dự, uy tín" (ví
dụ: nổi tiếng). Trong một mức độ nào đó, thái độ trọng danh dự này đã phát
huy tính tích cực của nó là giúp chủ thể khẳng định được vị thế bản thân,
thêm tự tin vào chính mình. Tuy nhiên cũng chính vì quá coi trọng danh dự
nên người Việt Nam mắc bệnh sĩ diện: “Ở đời muôn sự của chung - Hơn
nhau một tiếng anh hùng mà thôi”; “Đem chuông đi dấm nước người Không kêu cũng đấm ba hồi lấy danh”. Ở chốn làng quê, thói sĩ diện thể
hiện trầm trọng trong tục lệ ngôi thứ nơi đình trung và tục chia phần. Các cụ
già tám mươi, tuy ăn không được, nhưng vì danh dự ( sĩ diện), vẫn có thể to
tiếng với nhau vì miếng ăn: “Một miếng giữa làng, bằng một sàng xó bếp”.

- Về cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự
hòa thuận.
Lối giao tiếp ưa tế nhị khiến người Việt Nam có thói quen giao tiếp "vòng
vo tam quốc", không bao giờ mở đầu trực tiếp, nói thẳng vào vấn đề như
người phương Tây. Truyền thống Việt Nam khi bắt đầu giao tiếp là phải vấn
xá cầu điền, hỏi thăm nhà cửa ruộng vườn. Cũng để tạo không khí, để đưa
đẩy, người Việt Nam trước đây có truyền thống "miếng trầu là đầu câu
chuyện". Với thời gian, trong chức năng "mở đầu câu chuyện" này, "miếng
trầu" từng được thay thế bằng chén trà, điếu thuốc, ly bia... Để biết người
đối ngoại với mình có còn cha mẹ hay không, người Việt Nam thường hỏi:
“Các cụ nhà ta vẫn mạnh giỏi cả chứ?”. Để biết người phụ nữ đang nói
chuyện với mình có chồng hay không, người Việt Nam ý tứ sẽ hỏi: “Chị về
muộn thế liệu anh nhà( ông xã) có phàn nàn không?” Còn đây là lời tỏ tình
rất vòng vo của người con trai Nam Bộ - nơi mà người Việt có tiếng là bộc
trực hơn cả : “Chiếc thuyền giăng câu, Đậu ngang cồn cát, Đậu sát mé nhà,
Anh biết em có một mẹ già, Muốn vô phụng dưỡng, biết là đặng không?”
( Ca dao). Lối giao tiếp "vòng vo tam quốc" kết hợp với nhu cầu tìm hiểu về
6


đối tượng giao tiếp tạo ra ở người Việt Nam thói quen chào hỏi - "chào" đi
liền với "hỏi" : "Bác đi đâu đấy?", "Cụ đang làm gì đấy ?"... Ban đầu, hỏi là
để có thông tin, dần dần trở thành một thói quen, người ta hỏi mà không cần
nghe trả lời và hoàn toàn hài lòng với những câu "trả lời" kiểu: "Tôi đi đằng
này một cái" hoặc trả lời bằng cách hỏi lại: “Cụ đang làm gì đấy?”.
Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư duy
coi trọng các mối quan hệ (tư duy biện chứng). Nó tạo nên một thói quen
đắn đo cân nhắc kĩ càng khi nói năng : “Ăn có nhai, nói có nghĩ”; “Người
khôn ăn nói nữa chừng- Để cho kẻ dại nữa mừng nữa lo”,...Chính sự đắn đo
cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm thiếu tính quyết

đoán. Để tránh phải quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để
giữ được sự hòa thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là
một bộ phận quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt; có thể gặp
nụ cười Việt Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất. Tâm lý trọng sự hoà
thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn: “Một sự nhịn
chín sự lành”; “Chồng giận thì vợ bớt lời - Cơm sôi nhỏ lửa có đời nào
khê”.
-Người Việt Nam có một hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú.
Trước hết, đố là sự phong phú trong hệ thống xưng hô bằng các từ chỉ quan
hệ họ hàng. Hệ thống xưng hô này có các đặc điểm : Thứ nhất, có tính chất
thân mật hóa (trong tình cảm), coi mọi người trong cộng đồng như bà con họ
hàng trong một gia đình. Thứ hai, có tính chất xã hội hóa, cộng đồng hóa cao
- trong hệ thống từ xưng hô này, không có cái "tôi" chung chung. Quan hệ
xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp
- chú khi ni , mi khi khác. Cùng là hai người, nhưng cách xưng hô có khi
đồng thời tổng hợp được hai quan hệ khác nhau : Chú - con, bác - con, bác em, anh- tôi,... Lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên chồng; bằng thứ tự
7


sinh ( Cả, Hai, Ba, Tư...). Thứ ba, thể hiện tính tôn ti kĩ lưỡng: Người Việt
Nam xưng và hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn (gọi mình thì khiêm
nhường, còn gọi đối tượng giao tiếp thì tôn kính). Cùng một cặp giao tiếp,
nhưng có khi cả hai đều cùng xưng hô là em và đều cùng xưng là em và đều
gọi nhau là chị. Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng :
người ta chỉ gọi tên cái ra để chửi nhau; đặt tên con cần nhất là không được
trùng với tên của những người bề trên trong gia đình, gia tộc cũng như ngoài
xã hội. Vì vậy mà trước đây có tục nhập gia vấn húy (vào nhà ai, hỏi tên chủ
nhà để khi nói nếu có động đến từ đó thì phải nói lệch đi).
Nghi thức lời nói trong lĩnh vực cách nói lịch sự cũng rất phong phú. Do
truyền thống nặng về tình cảm và linh hoạt nên người Việt Nam không có

những từ cảm ơn, xin lỗi khái quát dùng chung cho mọi người trường hợp
như người phương Tây. Cũng như trong xưng hô, đối với mỗi người ta có
một cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau : Con xin chú (Cảm ơn khi nhận quà),
Chị chu đáo quá, Anh tốt quá (cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá
(cảm ơn khi được tiếp đón nồng hậu), Quý hóa quá (cảm ơn khi có khách
đến thăm), Anh quá khen (cảm ơn khi được khen),...
II – Liên hệ những ưu và hạn chế trong văn hóa giao tiếp của sinh viên đại học
Luật Hà Nội.
1. Ưu điểm:
- Thái độ giao tiếp: Sinh viên các trường đại học nói chung và sinh viên
đại học Luật Hà Nội nói chung khá năng động trong giao tiếp. Bộ phận
lớn sinh viên trường ta thích giao tiếp. Lí do một phần do sự năng động
của tuổi trẻ, thứ hai là do bản chất của ngành học. Thích giao tiếp và
muốn giao tiếp giỏi nên sinh viên Luật khá tích cực trong việc học hỏi và
trau dồi kiến thức giao tiếp. Có thể bắt gặp mọi lúc trong khuôn viên
8


trường những chỗ tụ tập của sinh viên bàn luận học hành, hỏi han công
việc cá nhân của nhau. Điều đó đã tạo nên một môi trường sôi nổi, hòa
đồng và thân thiện.
- Quan hệ giao tiếp: Lấy tình cảm làm nguyên tắc chủ đạo là đặc trưng
trong văn hóa giao tiếp của người Việt. Sinh viên trường Luật Hà Nội
nhìn chung vẫn giữ được đặc trưng này. Không phải vì học luật mà sinh
viên trở nên khô khan, ăn “luật”, nói “luật” như nhiều người nghĩ. Sinh
viên vẫn biết được khi nào cần cứng rắn, khi nào nên nhu mì, nhường
nhịn. Là những nhà làm luật tương lai, sinh viên trường ta linh hoạt hơn
người xưa trong quan hệ giao tiếp, vẫn cố gắng giữ chữ “tình” trong giao
tiếp nhưng cũng không quên sử dụng lí trí trong giao tiếp, cân bằng giữa
tình và lí để có những lối giao tiếp phù hợp nhất, thỏa đáng nhất.

- Đối tượng giao tiếp: Vẫn giữ được đặc trưng giao tiếp của người Việt.
Sinh viên chúng ta vẫn thích tìm hiểu về tuổi tác, gia đình, nghề nghiệp,
trình độ học vấn…của đối tượng giao tiếp. Lí do chính đáng cho việc này
để lựa chọn đối tượng giao tiếp thích hợp. Trong xã hội ngày nay, nhu
cầu kết bạn ngày càng trở nên cần thiết, do đó nếu không biết rõ điều
kiện, hoàn cảnh của người kia thì sẽ rất khó nói chuyện, giao lưu những
vấn đề khác. Cũng là một cách để thể hiện sự lịch sự, khi hỏi han, biết
được tuổi tác của đối phương chúng ta sẽ dễ dàng xưng hô và tỏ thái độ
đúng mực. Nhưng linh hoạt hơn, sinh viên đã không còn quá đi sâu vào
tìm hiểu đối tượng giao tiếp mà chỉ tìm hiểu một cách căn bản nhất để
hiểu sơ qua về người đối thoại, tránh được cảm giác khó chịu của người
ta. Bên cạnh đó, sinh viên đại học Luật Hà Nội cũng phát huy được ưu
điểm khác đó là mở rộng đối tượng giao tiếp. Không chỉ thu hẹp đối
tượng trong khuôn viên trường học mà sinh viên trường ta còn không
ngại giao tiếp bên ngoài xã hội, với nhiều thành phần, tầng lớp khác
9


nhau. Sinh viên coi đó là những cơ hội để trải nghiệm thực tế, tiếp thu
thêm kinh nghiệm giao tiếp, kết bạn, hiểu biết hơn con người trong xã hội
hiện nay,…
- Chủ thể giao tiếp: Sinh viên đại học Luật khi giao tiếp rất coi trọng danh
dự. Do có ý thức cá nhân cao và coi trọng ngành học của mình nên sinh
viên luôn cố gắng giữ phong thái đĩnh đạc, chững chạc để thể hiện tốt
nhất phẩm giá bản thân khi giao tiếp. Ngoài ra, sinh viên luật còn rất tự
tin, chủ động, cởi mở khi giao tiếp, vẫn giữ được sự nghiêm túc, chuẩn
mực giao tiếp, vừa có ý thức tạo không khí giao tiếp thân thiện, hòa đồng.
Đó là cũng có thể được coi là thế mạnh của sinh viên trường luật. Điều
này rất có ý nghĩa với công việc sau này của mỗi người.
- Cách thức giao tiếp: Sinh viên trường ta giao tiếp rất khéo léo, ý tứ, trọng

sự hòa thuận. Được học và đào tạo trong môi trường văn minh, chuyên
nghiệp và ngành nghề mẫu mực nên lời ăn, tiếng nói đối với sinh viên đại
học Luật cần hết sức khéo léo để vừa hợp tình vừa hợp lí, vừa tai mình
mà cũng thuận lòng người nghe. Cách nói giảm, nói tránh, nói vòng vo, ý
nhị vẫn được áp dụng rộng rãi để giảm mức độ quan trọng của sự việc,
mang lại cảm giác nhẹ nhàng hơn đối với người đối thoại. Không chỉ
phát huy đặc trưng tốt đẹp trong văn hóa người Việt, sinh viên còn tiếp
thu cách thức giao tiếpkhác cũng rất phù hợp với xã hội năng động bây
giờ đó là lối nói ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu, tránh gây cảm giác phiền
hà mà lại đem lại hiểu quả giao tiếp cao, nhanh chóng được tiếp nhận và
xử lí thông tin.
- Hệ thống nghi thức lời nói: Sinh viên duy trì hệ thống nghi thức lời nói
đặc trưng và phát huy hơn cả là nghi thức nói mang tính xã hội hóa cao,
tính cộng đồng cao để dễ dàng thích ứng trong mọi trường hợp giao tiếp
và có thể áp dụng với nhiều đối tượng khác nhau, dễ nhận được sự đồng
tình từ mọi người trong hoạt động giao tiếp.
10


2. Hạn chế:
- Thái độ giao tiếp: Bên cạnh số đông những sinh viên thích giao tiếp thì
vẫn có những sinh viên rụt rè trong giao tiếp. Chủ yếu đó là những sinh
viên ở dưới quê lên, chưa bắt nhịp được với cuộc sống đô thị, khả năng
thích ứng không cao nên chưa thể hội nhập và giao tiếp một cách thoải
mái. Đó là một điểm hạn chế cần khắc phục ngay khi là sinh viên trường
đại học Luật. Bản chất nghề nghiệp không cho phép mỗi sinh viên ngập
ngừng, thiếu tự tin khi giao tiếp. Để có thể tạo thái độ thích giao tiếp, mỗi
sinh viên cần không ngại ngùng thay đổi bản thân, trau dồi kiến thức xã
hội và rèn luyện chăm chỉ.
- Quan hệ giao tiếp: Một bộ phận nhỏ sinh viên đại học Luật Hà Nội quá

thiên về chữ “tình”, hoặc “lí”. Qúa thiên về tình cảm thì không đúng bản
chất người học luật, điều này không thể áp dụng trong tương lai khi mỗi
sinh viên là người bảo vệ công bằng, lẽ phải cho xã hội. Nhưng một số
khác lại quá cứng nhắc khi nghiêng về lí trí, khiến cho lời nói trở nên
cứng nhắc. Trong giao tiếp thân mật với bạn cũng giữ thái độ như thế
khiến cho cuộc đối thoại trở nên hơi nặng nề, không có sự đồng cảm, chia
sẻ và cảm thông. Để cân bằng cảm xúc và lí trí trong giao tiếp là điều
không dễ, bắt buộc mỗi sinh viên phải cố gắng tích cực rèn luyện bản
thân.
- Đối tượng giao tiếp: Đa số với những sinh viên từ quê lên học vẫn giữ lối
ứng xử làng xã thân thuộc, vẫn có thói quen tìm hiểu, quan sát, đánh giá
đối phương một cách hơi sâu, khiến cho người tiếp xúc không thoải mái.
Điều này làm phản tác dụng vốn có của đặc trưng giao tiếp này. Không
những không tạo sự gần gũi, lối ứng xử đúng đắn mà còn khiến cuộc hội
thoại trở nên ngượng nghịu, không đạt được kết quả như mong đợi,…
- Chủ thể giao tiếp: Là sinh viên của một trường danh giá hàng đầu đất
nước, sinh viên trường ta cũng ít nhiều mang trong mình sự kiêu ngạo.
11


Chúng ta có quyền ngẩng cao đầu hơn người khác, nhưng không có nghĩa
là luôn quá đề cao mình mà đánh giá thấp người khác. Sinh viên trong
trường cũng không tránh khỏi “bênh sĩ diện” trong giao tiếp. Ăn “luật”,
nói cũng “luật”, nhưng không phải ai cũng đủ thông minh để hiểu hết
những điều mình đang nói. Chỉ vì không muốn mất mặt với bạn bè, với
người thân mà buôn ra đôi ba câu đề cập đến tình hình chính trị nghe có
vẻ uyên thâm, sâu sắc những có thể thực chất chỉ là nghe qua thầy cô,
đọc sách báo, nhớ nhưng không hiểu,… Đây là căn bệnh nếu không chữa
kịp thời sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng hơn như nói đại, nói láo,
nói bâng quơ, không đúng sự thật,…

- Cách thức giao tiếp: Một bộ phận sinh viên đại học Luật Hà Nội ăn nói
còn bộp chộp, thiếu ý tứ, có gì nói đấy, không suy nghĩ. Điều này làm
mất lòng khá nhiều người mà họ tiếp xúc. Có sinh viên lại cố gắng khắc
phục nhược điểm của lối nói vòng vo một cách thái quá lại khiến cho
ngôn từ trở nên cộc lốc, ngắn gọn quá mức đến khó hiểu, không những
không nhận được sự tiếp nhận của đối phương mà nếu giữ lối ứng xử ấy
trong thời gian dài sẽ tạo thói quen ngại nói, ngại giao tiếp, thiếu kĩ năng
mềm dẻo trong giao tiếp, xứng xử,…
- Hệ thống nghi thức lời nói: Bên cạnh mặt tích cực kể trên, mặt hạn chế
đáng nói về khía cạnh này là sự “lai căng” ngôn ngữ trong sinh viên
trường ta. Với xu thế hội nhập, Tiếng Anh ngày càng trở nên quan trọng
với mỗi người. Nhưng cũng chính vì thế mà nhiều sinh viên lợi dụng sự
thông dụng của Tiếng Anh để sử dụng đồng thời cùng tiếng Việt một
cách không hợp lí như “thanks nha” (tức là: cảm ơn nhé), hoặc dịch tiếng
Anh sang tiếng Việt một cách đơn thuẩn, không ý nghĩa như “ugly tiger”
( “ugly” = xấu, “tiger” = con hổ”, “ugly tiger” = xấu hổ). Đây là lối nói

12


đang làm hỏng giá trị và sự trong sáng của tiếng Việt, cần được sửa chữa
kịp thời để không làm mất đi bản sắc văn hóa người Việt…

C – KẾT LUẬN
Những đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người Việt không chỉ có mặt tích cực
mà vẫn mang trong mình những hạn chế nhất định. Trong xu thế hội nhập hiện
nay, giới trẻ nói chung và sinh viên trường đại học Luật Hà Nội nói chung cần cố
gắng phát huy những mặt tích cực của những đặc trưng đó và linh hoạt hơn trong
giao tiếp để hạn chế những khiếm khuyết, bổ sung những lối ứng xử, giao tiếp của
những nền văn hóa khác mà vẫn phù hợp với thuần phong, mĩ tục của người Việt

Nam. Để làm tốt điều đó, mỗi sinh viên cần không ngừng học tập, trau dồi và bồi
dưỡng bản thân. Có như vậy, chúng ta mới xây dựng được một môi trường giao
tiếp năng động, sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với thời đại mà vẫn không phá bỏ bản
sắc riêng của văn hóa Việt Nam.

13



×