Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (963.42 KB, 21 trang )

“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

Mục lục
Nội dung

Trang

1 – Lí do chọn đề tài........................................................................................................1
2 - Mục đích nghiên cứu..................................................................................................2
3 – Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu...........................................................2
4 – Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................2
5 – Đóng góp của đề tài...................................................................................................3
6 – Bố cục của tiểu luận...................................................................................................3

PHẦN NỘI DUNG.............................................................4
Chương 1..........................................................................................................................4
Khái quát lịch sử hình thành và đặc điểm của kiến trúc đình làng Việt Nam thế kỉ
XVI - XVII.......................................................................................................................4
1. 1. Nguồn gốc và chức năng của đình làng...............................................................4
1.2. Khái quát về nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc đình làng.................................8
Chương 2........................................................................................................................12
Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam
thế kỉ XVI XVII...............................................................................................................................12
2.1. Giá trị văn hóa.....................................................................................................12
2.2. Giá trị tạo hình của điêu khắc đình làng Việt Nam.............................................13

PHẦN KẾT LUẬN..........................................................18

SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 SPMT



“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

PHẦN MỞ ĐẦU
1 – Lí do chọn đề tài.
Trước các biến động của lịch sử - xã hội, dường như rất nhiều giá trị
văn hóa đã nảy sinh hoặc quy tụ về với làng, làm cho văn hóa làng trở nên
đa dạng, phong phú trong tính tự trị riêng của nó. Trải qua bao nhiêu thăng
trầm, biến cố của lịch sử, con người lao động đã không ngừng đấu tranh để
vươn lên, không ngừng sáng tạo để sản sinh ra những đứa con tinh thần cho
cuộc sống. Một trong những sản phẩm của sự sáng tạo đó là đình làng.
Ở mỗi vùng nông thôn Việt Nam hình ảnh cây đa, mái đình đã trở
thành biểu tượng của văn hóa đời sống, gắn bó mật thiết với những hoạt
động, sinh hoạt của người dân. Đình làng là nơi thờ thành hoàng làng, người
có công đầu sáng lập làng xã, hoặc các anh hùng dân tộc… Ngoài ra đình
làng còn là nơi sinh hoạt văn hóa, hội hè…là trụ sở hành chính của chính
quyền làng xã, nơi giải quyết mọi vấn đề, mọi công việc theo các quy ước
của làng. Do vậy, kiến trúc đình làng được chú trọng, phát triển mạnh. Gắn
chặt với kiến trúc là nghệ thuật chạm khắc đình làng. Những chạm khắc đình
làng được thể hiện trên các vì kèo, đầu bẩy, xà…mà ở đó những nghệ sĩ dân
gian đã gửi gắm những tâm tư, tình cảm của mình, ngoài những mảng hoa
văn như một sự kế tiếp truyền thống trước đó, những đề tài như loài vật,thảo
mộc đặc biệt là hình tượng con người với những sinh hoạt đời thường đã
thực sự trở thành những tác phẩm nghệ thuật dân gian có giá trị. Điêu khắc ở
đình làng không những là nguồn tài liệu để nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam, mà còn là nguồn tài liệu để nghiên cứu đời sống ngày thường cũng
như tâm hồn của người nông dân Việt Nam.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền khoa học kĩ thuật, đời
sống của con người được nâng cao, nhưng những giá trị to lớn của những
công trình nghệ thuật đình làng vẫn còn nguyên giá trị. Là một sinh viên
SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT


1


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

ngành sư phạm mĩ thuật và cũng là giáo viên giảng dạy mĩ thuật trong
trường phổ thông, em luôn có mong muốn tìm hiểu để mở rộng vốn hiểu biết
của mình về những giá trị nghệ thuật truyền thống của cha ông ta để lại,
đồng thời góp phần nhỏ bé vào việc lưu truyền những giá trị nghệ thuật dân
gian cho các thế hệ học sinh, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “ Giá trị nghệ
thuật tạo hình của điêu khắc đình làng Việt Nam thế kỉ XVI” để nghiên cứu.
Với thời gian và lượng kiến thức có hạn khi nghiên cứu, nên đề tài này
không thể tránh được những thiếu xót, rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của các thầy giáo, cô giáo và các bạn bè đồng nghiệp để tôi hoàn
thành bài tiểu luận này.
2 - Mục đích nghiên cứu.
- Làm sáng tỏ giá trị nghệ thuật trong cách thể hiện nội dung, hình ảnh và
cách tạo hình của chạm khắc đình làng.
- Mở rộng vốn hiểu biết về những giá trị thẩm mĩ của những tác phẩm chạm
khắc đình làng.
3 – Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
- Cách diễn tả nội dung và cách thể hiện hình ảnh của các tác phẩm chạm
khắc đình làng
- Các tác phẩm chạm khắc của một số ngôi đình nổi tiếng của vùng Bắc Bộ.
4 – Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu qua tài liệu
- Nghiên cứu thực tiễn làm sáng tỏ vấn đề
- Đánh giá,phân tích rút bài học kinh nghiệm


SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

2


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

5 – Đóng góp của đề tài.
- Khẳng định giá trị nghệ thuật của chạm khắc đình làng Việt Nam, góp
phần gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa dân gian của đời sống xã
hội.
- Bổ sung nguồn tư liệu cho nghiên cứu và giảng dạy bộ môn Mĩ thuật.
6 – Bố cục của tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, đề tài
được cấu trúc thành 2 chương.
Chương 1: Khái quát lịch sử hình thành và đặc điểm của kiến trúc đình làng
Việt Nam.
Chương 2: Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng.
*
*

*

SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

3


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
Khái quát lịch sử hình thành và đặc điểm của kiến trúc đình làng
Việt Nam thế kỉ XVI - XVII.
1. 1. Nguồn gốc và chức năng của đình làng
1.1.1. Nguồn gốc:
Mỗi làng quê Việt Nam đều có một ngôi đình. Đó là nơi thờ Thành
Hoàng làng (vị thần bảo trợ của làng ). Vào mỗi dịp lễ tết, đình trở thành
trung tâm văn hóa của làng mà ở đó, tất cả kho tàng văn hoá tích luỹ từ đời
này qua đời khác được thể hiện đầy đủ nhất.

Đình “Đình Bảng” (Từ Sơn, Bắc Ninh)
“Đình” theo nghĩa Hán tự là một ngôi nhà để trú ngụ, nghỉ tạm. Theo
một số nhà nghiên cứu, từ “đình” xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Việt Nam
là vào thế kỷ thứ II đến thứ III.Tuy nhiên giả thiết này còn thiếu cơ sở khoa
học. Thời nhà Trần đình với tư cách là trạm nghỉ chân đã được nghi trong
Đại việt sử kư toàn thư “Thượng hoàng xuống chiếu rằng, trong nước ta
phàm chỗ nào có đình trạm đều phải đặt tượng phật để thờ”. Thời nhà Mạc,
SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

4


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

từ chức năng ngôi nhà công cộng, đình trở thành công trình đa chức năng.
Nó là nơi thờ thành Hoàng Làng và là nơi hội họp của làng xã. Điều này đã
được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước ghi nhận, người đầu tiên khái
quát tên là M.Giran “Đình là nơi thờ Thành Hoàng làng và là một ngôi nhà
chung cho sinh hoạt cộng đồng. Nơi đây thường diễn ra các cuộc hội họp

của các hương lão, chức sắc trong làng về việc công, hoặc phân sử kiện
tụng, đồng thời là nơi cúng lễ. Có thể nói nơi đã xảy ra hết thảy các hoạt
động của cuộc sống, xã hội người Việt”
Đình đã xuất hiện ở nhiều vùng nông thôn Việt Nam. Thời Mạc đã
xây dựng nhiều ngôi đình có quy mô lớn như đình Thổ Hà, Lỗ Hạnh - Bắc
Giang, đình Tây Đằng – Hà Tây(cũ)…sang thời Lê Trung Hưng xuất hiện
nhiều ngôi đình nổi tiếng khác: đình Cao Thượng - Bắc Giang, đình Cổ Mễ,
Phù Lao – Bắc Ninh, đình Ngọc Cảnh – Vĩnh Phúc… Các đình ở thế kỷ này
có nhiều giá trị nhân văn về kiến trúc và điêu khắc.
Tới thế kỷ thứ XVIII việc xây dựng đình có nhiều giảm sút nhưng vẫn
có những ngôi đình được xây dựng với quy mô lớn như đình Hồi Quan, đình
Đình Bảng.
1.1.2. Chức năng:
Là một thiết chế văn hoá tín ngưỡng tổng hợp, theo các nhà nghiên
cứu đình làng có 3 chức năng: Tín ngưỡng – Hành chính – Văn hóa.
* Chức năng tín ngưỡng.

SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

5


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

Trong các đình làng Việt Nam, vị thần được thờ phụng là Thành
Hoàng làng, vị vua tinh thần, vị thần hộ mệnh của làng.

Đình Phù Lưu (Bắc Ninh)
Nguồn gốc của Thành Hoàng làng cũng rất phức tạp. Trước hết là
những vị thần tự nhiên, được thờ ở rất nhiều đình làng. Các vị thần này đều

được “khoác áo” nhân thần với các tiểu sử rất thế tục. Được thờ khá phổ
biến là Sơn tinh và Thuỷ thần.
Thứ hai là các nhân thần. Các nhân vật lịch sử như Lý Bí, Ngô
Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo… Chiếm số đông trong các nhân
thần là những người ít nổi tiếng hơn như quan lại, nho sĩ và đặc biệt là các
bộ tướng của Hai Bà Trưng, nhất là các nữ tướng. Những vị thần này thực ra
là những nhân vật truyền thuyết có tính “giả lịch sử” hơn
Loại Thành Hoàng thứ ba gắn liền với tín ngưỡng bản địa như tục
thờ cây, thờ đá thời nguyên thuỷ.
Thành Hoàng làng còn có thể là những người xuất thân hèn kém, có
người chết vào giờ thiêng cũng được thờ làm thần. Ngoài ra, ở một số làng
nghề thủ công người ta thờ các tổ làng nghề, được gọi là “tiên sư”
SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

6


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

* Chức năng hành chính.
Đình làng thực sự trở thành trụ sở hành chính của làng, còn được
gọi là “nhà việc”, nơi mọi việc thuộc về hành chính của làng đều được tiến
hành ở đó, từ việc xét xử các việc tranh chấp, phạt vạ, khao vọng, đến thu tô,
thuế, việc bắt lính, thu dịch …
Các làng đều có hương ước riêng với nội dung cụ thể khác nhau.
Tuy nhiên, các hương ước thường bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Những quy ước về ruộng đất: Việc phân cấp công điền, công thổ
theo định kỳ và quy ước về việc đóng góp (tiền và thóc)
- Quy ước về việc khuyến nông, bảo vệ sản xuất, duy tu đê đập, cấm
lạp sát trâu bò, cấm bỏ ruộng hoang, chặt cây bừa bãi…

- Những quy ước về tổ chức xã hội và trách nhiệm của các chức dịch
trong làng. Việc xác định trách nhiệm của các chức dịch nhằm hạn chế họ lợi
dụng quyền hành và thế lực để mưu lợi riêng.
- Những quy ước về văn hóa tinh thần và tín ngưỡng. Đó là những quy
ước nhằm đảm bảo các quan hệ trong làng xóm, dòng họ, gia đình, láng
giềng…được duy trì tốt đẹp. Quy định về việc sử dụng hoa lợi của ruộng
công vào việc sửa chữa hoặc xây dựng đình, chùa, đền, quy định về thể lệ tổ
chức lễ hội, khao vọng, lễ ra làng, lễ nộp cheo…

* Chức năng văn hóa.

SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

7


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

Đì n h làng là trung tâm sinh hoạt văn hoá của cả làng. “Cây đa,
bến nước, sân đì nh” đã đi vào tâm hồn những người dân quê. Đỉnh cao
của các hoạt động văn hóa diễn ra ở đì nh là lễ hội. Làng vào hội cũng có
nghĩa là làng vào đám, là hoạt động có quy mô và gây ấ n tượng nhất
trong năm đối với dân làng.
Những lễ hội truyền thống được dân làng thường xuyên tổ chức vào
các dịp lễ hội như: lễ hội xuống đồng, lễ hội mừng cơm mới, lễ cầu phúc…
và cùng với những lễ hội này là những trò chơi cổ truyền nhằm biểu dương
và ca ngợi tài trí của con người như: đánh cờ, đấu vật, kéo co, đánh đáo, đá
cầu, làm xiếc, đua thuyền… Đây là những sinh hoạt văn hoá lành mạnh
mang rõ dấu ấn bản sắc dân tộc và mỗi vùng đều có một bản sắc riêng như
hội pháo ở làng Đồng Kỵ - Bắc Ninh, hát quan họ ở một số đình làng Bắc

Ninh, bơi chải ở các đình làng dọc triền sông…
1.2. Khái quát về nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc đình làng.
1.2.1. Kiến trúc của ngôi đình trong tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống
Việt Nam.
Đình làng là gương mặt của nền kiến trúc mà không chỉ là công trình
oai nghiêm và đồ sộ nhất trong khung cảnh làng quê Việt Nam nghèo nàn
thời quân chủ, mà còn là nơi bảo tồn khá trọn vẹn những đặc điểm của nền
kiến trúc dân tộc.
Kiến trúc đình làng phát triển với sự đóng góp của quần chúng nhân
dân và thực sự trở thành những công trình đầu tư sáng tác tập thể trong thi
công kiến trúc và trang trí nội thất bên trong. Kiến trúc đình làng với đặc
trưng cân bằng, ổn định và linh hoạt là hệ quả của thế ứng xử của cư dân
đồng bằng Bắc Bộ đối với môi trường vừa chế ngự, vừa hạn chế sự khắc
SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

8


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

nghiệt của thiên nhiên, vừa linh hoạt khôn khéo tận dụng những điều kiện
thuận lợi để tồn tại và phát triển.
Hướng đình rất quan trọng, người ta tin rằng hướng dựng đình ảnh
hưởng trực tiếp đến công việc làm ăn cuả cả làng. Đình thường được dựng
trên bãi đất cao ráo, bằng phẳng rộng rãi và được xây dựng gần khu đông
dân cư. Kiến trúc đình làng là công trình to lớn nhất ở làng, nhưng nó không
vượt trội, phá vỡ cảnh quan xung quanh… Ngôi đình là nơi con người tìm
thấy sự gắn bó, hoà điệu với thiên nhiên, cũng như tìm thấy sự đồng cảm của
con người với con người. Xét về mặt tổng thể trước đình làng luôn là ao
đình(tròn hoặc bán nguyệt), tiếp đến là sân đình với nhiều hàng cây cổ thụ,

đây là hai yếu tố quan trọng tạo nên diện mạo của đình làng. Các cây cổ thụ
thường được trồng phía sau và hai bên sân đình, kết hợp với kiến trúc của
ngôi đình tạo nên tính đăng đối.
Tính đăng đối của đình cũng tác
động đến cảm giác, tạo sự ổn định,
bền vững, thể hiện nhu cầu thường
ngày của cư dân nông nghiệp.
Đình Tây Đằng – (Hà Tây cũ)
Kiến trúc đì nh thườ ng theo dạng chủ yếu là chữ nhất, chữ tam,
chữ đinh, chữ công. Hệ thống kết cấu gỗ, cột và bẩy, liên kết với mộng
tạo thế cân bằng vững chắc cho toà n bộ công trì nh. Các hàng cột lớn
được kê lên trên hò n đá tảng không cần móng gọ i là chân cộ t. Cột trong
kiến trúc đì nh Việt Nam đều được làm bằng gỗ nguyên cây, không có
cột nối, không sơn vẽ và được liên kết với nhau bằng các kiểu khác
nhau, đồng thời người ta có thể xoay hướng đì nh mà không cần tháo gỡ.
SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

9


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

Toà lớn của đình hay gọi là nhà đại bái thường là một căn nhà lớn lợp
ngói mũi, kiểu bốn mái xoè rộng ra ôm lấy đất. Thế nhưng, bốn tầu mái cao
rộng đó không trở nên nặng nề nhờ bốn góc của bốn đầu đao cong vút như
nâng các mái bay bổng. Kiểu mái này chính là đặc điểm nổi bật của kiến trúc
truyền thống Việt Nam, khác hẳn với kiểu tầu hộp hay giả tầu của nền kến
trúc Trung Hoa mà ta thường thấy trên hầu hết các mái nhà ở cố đô Huế.
Kiến trúc đại đình có nét chung của nền kiến trúc gỗ Phương Đông, dựa trên
sự liên kết của các bộ vì, kèo. Sức nặng của toà nhà do cột trong vì đảm

nhiệm nên khi ấy tường nhà không phải là cơ sở chịu lực mà chỉ làm nhiệm
vụ che nắng, mưa, gió, bão. Tuy nhiên, khác với các dân tộc khác, kiến trúc
đình làng Việt ban đầu là một không gian mở, mỗi khi làng có việc, cửa bức
bàn bốn mặt đình được dùng làm bàn tiệc, khiến bốn mặt đình càng trở nên
thông thoáng. Ở đình làng, chúng ta rất rễ nhận ra hầu hết các thành phần
kiến trúc đều được chạm khắc trang trí trên các vì kèo, đầu bẩy, đầu dư, ván
nong, cốn…. Trang trí đình làng lấy gian giữa làm trung tâm nên được chạm
khắc hình các vật như chúng ta vẫn thường thấy ở mĩ thuật phong kiến Việt
Nam như tứ linh (Long – Ly – Quy - Phượng), các loại hoa lá được cách
điệu cao như tứ quý (Tùng - Cúc – Trúc – Mai)… Có thể nói gian giữa của
đình được trang trí bằng lối mĩ thuật chính thống song có một nét riêng là rất
gần gũi với người dân lao động. Từ gian giữa toả ra các gian bên là thường
thể hiện những đề tài sinh hoạt của người dân có tính chất thoải mái, tự do
và cả những những lời lên án chế độ quân chủ hà khắc thời phong kiến. Tất
cả những điều ấy là dấu ấn tuyệt vời cho các thế hệ mai sau hiểu và cảm
được không khí sinh hoạt của cộng đồng làng xã thời xưa. Đồng thời là bản
sắc của nền kiến trúc Việt Nam - một bản sắc văn hoá và lịch sử sâu sắc
nhất.

SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

10


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

1.2.2. Nghệ thuật chạm khắc đình làng
Ở làng xã của Việt Nam đình làng là nơi bảo lưu nhiều vốn nghệ thuật
dân gian của dân tộc ta. Kiến trúc sư Trọng Hồi đã nói: “Đình làng là một
bảo tàng sống của thời đại”

Khi bước vào bên trong đình, không khí mát dịu làm ta như trút bỏ
vướng mắc của đời sống, chìm vào không gian tâm linh bao bọc xung quanh
để tĩnh trí mà chiêm bái trước đức Thành Hoàng làng, nhìn ngắm những
hình chạm khắc trên kiến trúc. Và ta hiểu rằng ngôi đình đang ôm vào bên
trong, thầm lặng giữ gìn một di sản nghệ thuật vô giá, mà đến ngày hôm nay
nhìn ngắm nó vẫn thấy hiển hiện, xôn xao đời sống xã hội mấy trăm năm về
trước và để lại những giá trị to lớn về văn hóa, lịch sử và nghệ thuật.
Nhìn một cách khái quát, nghệ thuật điêu khắc đình làng ở đồng bằng
Bắc Bộ phát triển từ những bước đầu tiên ở thế kỷ XVI, đạt dấu ấn rực rỡ
đỉnh cao ở thế kỷ XVII, chững lại, chín muồi ở thế kỷ XVIII và thoái trào ở
thế kỷ XIX. Có thể nói, giá trị nhiều mặt mà điêu khắc đình làng để lại tập
trung ở di sản điêu khắc đình làng thế kỷ XVI - XVII. Điêu khắc đình làng
của 2 thế kỷ này đại diện điển hình nhất cho toàn bộ nghệ thuật điêu khắc ở
đồng bằng Bắc Bộ.
Xuất phát từ nhu cầu nghệ thuật ngày càng cao của con người, đặc
biệt đình làng lại là nơi hội họp, tập trung của mọi người trong làng, những
người nghệ nhân dân gian đã tạo ra những bức chạm khắc nhằm trang trí cho
ngôi đình. Phần lớn là hình tượng con người với những hoạt động đời
thường vừa nói lên thị hiếu thẩm mĩ, vừa nói lên ước mơ, khát vọng của
người dân lao động.

SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

11


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

Chương 2
Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam

thế kỉ XVI - XVII.
2.1. Giá trị văn hóa.
Cũng như nhiều loại hình nghệ thuật dân gian khác, điêu khắc đình
làng là kết quả sáng tạo của nghệ nhân dân gian nhằm phục vụ cho đời sống
chung của làng xã. Vì vậy, điêu khắc đình làng luôn mang đậm tâm hồn, tình
cảm của người dân Việt và mĩ thuật đình làng trở thành sản phẩm đặc sắc
của truyền thống văn hóa... Nói đến điêu khắc đình làng, là nói đến những
chạm khắc trang trí mang một giá trị nghệ thuật đặc sắc của mĩ thuật cổ Việt
Nam. Điêu khắc đình làng được thể hiện trên khung vì kèo của kiến trúc gỗ,
vì vậy thành phần trang trí làm bớt đi cái thô mộc của gỗ. Nhìn tổng thể các
bức chạm khắc giống như một bức tranh liên hoàn nhưng ngắt ra ở mỗi đoạn
mà ta có thể xem nó như một tác phẩm độc lập, hoàn chỉnh, được các nghệ
nhân xây dựng lên từ những sinh hoạt, những ước mơ giản dị của người dân
lao động. Cảnh mẹ gánh con, đốn củi, bắn hổ, đá cầu, xem hát, chơi cờ, uống
rượu... là những sinh hoạt làng quê cho đến những cảnh như: tắm sen, nam
nữ vui đùa, tình tứ là thông điệp gửi gắm tâm tư tình cảm, khát vọng của
những người dân hồn hậu.

SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

Gánh con – Đình Tây Đằng

12


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

Đình làng là sản phẩm của Nho giáo nhưng điêu khắc đình làng vượt
lên trên cả giáo lý khắt khe của Nho giáo đó. Nếu như "nam nữ thụ thụ bất
thân" thì các chàng trai, cô gái trong Tắm sen ở đình Tây Đằng (Hà Tây),

Bốn nụ cười đình Hưng Lộc (Hà Nam) tự do vui đùa, trêu ghẹo nhau. Nếu
như con "rồng" của nhà Nho là biểu trưng cho Thiên tử thì con rồng trong
điêu khắc đình làng chỉ là biểu tượng của nhân duyên, là sự hội ngộ, sum
vầy "bao giờ rồng mới gặp mây" giống như khát vọng tình yêu nam nữ qua
hình ảnh Rồng - Tiên. Một trong nét đặc sắc của điêu khắc đình là mang
đậm tính nhân văn. Như đã nói bối cảnh lịch sử của mỹ thuật đình làng là
một xã hội đầy biến động, thế nhưng ta không thấy cảnh đâm chém, chết
chóc trong chủ đề của loại hình nghệ thuật dân gian, bằng thủ pháp riêng của
mình, điêu khắc đình làng toát lên vẻ hồn nhiên, dí dỏm, vui tươi của một
đời sống no đủ an bình. Nó gợi ta nhớ đến những hình khắc trên mặt trống
đồng Đông Sơn, là những cảnh hội hè, tế lễ. Phải chăng đó chính là khát
vọng và mỹ cảm của người dân lao động?
2.2. Giá trị tạo hình của điêu khắc đình làng Việt Nam.
2.2.1 – Phong cách bố cục.
Nói đến thủ pháp của nghệ thuật chạm khắc đình làng là nói đến sự
sáng tạo của người nghệ sĩ dân gian Việt Nam, không gian và thời gian trong
đó không cứng nhắc cố định ở một góc độ thời gian, không gian. Tất cả hết
sức linh hoạt, sinh động của không gian đồng hiện, của cách kết hợp nhiều
điểm nhìn. Cách bố cục các mảng chạm khắc luôn tùy hứng, gắn bó theo
khuôn kiến trúc. Ở tác phẩm “Tắm sen” khi xem chúng không chỉ nhìn thấy
những gì nổi trên mặt nước mà thấy cả người cả hoa sen, cả cá bơi trong
nước hết sức vui vẻ, hồn hậu.
SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

13


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

Hay cảnh sinh hoạt xã

hội trong điêu khắc đình làng
Thổ Tang (Vĩnh Phúc), bên
người uống rượu là người đi
cày, người cưỡi ngựa, nó gợi
lên cái nhịp điệu của đời sống
đương thời. Rồi một bàn cờ
của người nghệ sĩ dân gian
trong Đánh cờ được nhìn theo
nhiều chiều hướng khác nhau:
bàn cờ được nhìn từ trên xuống, người đánh cờ được nhìn vừa chính diện
vừa trắc diện. Vậy mà tất cả không hề phi lý, nó tổ hợp lại trong một trật tự,
một bố cục hoàn chỉnh của tâm thức phương Đông.
2.2.2 – Đường nét, hình khối trong chạm khắc đình làng.
Với bản chất chân thật, sống hòa mình với thiên nhiên của những
nghệ nhân nông dân, luôn có cách nhìn dung dị, giản đơn, nên các tác phẩm
chạm khắc cũng bộc lộ rõ hơn những đức tính của người dân. Với những
đường nét chạm khắc dứt khoát mà chắc khỏe, đơn giản nhưng sống động,
hấp dẫn, những mảng khối được diễn tả no căng, hình thức giản dị, mang
tính khái quát cao, tất cả đều được kết hợp trong không gian ước lệ, trong sự
hài hòa hoàn chỉnh tạo nên vẻ lung linh ẩn hiện trong mỗi tác phẩm.
2.2.3 – Kỹ thuật chạm khắc.
“Người thợ chạm ở làng xã, từ thuở nhỏ đã quen đục chạm gỗ, nhưng
vẫn là một nông dân vì anh ta tham gia mọi việc đồng áng. Nhát chạm dứt
khoát, chắc tay, nhưng nguồn cảm hứng lại rất chân thật, không phải là chân
thật một cách sơ khai không đạt tới nghệ thuật, mà là chân chất của nghệ sĩ
14
SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”


lớn, tươi mát và sinh động, kết quả một quá trình hấp thụ, cố kết cao độ giữa
những tình cảm sâu xa với những hình thức biểu hiện. Nghệ sĩ chạm gỗ như
người ca sĩ hay nhà thơ ở làng xã khi hứng lên, diễn tả bằng ngôn ngữ hàng
ngày những điều rất bình thường, nhưng rất xúc động lòng người. Những tác
phẩm ấy phản ánh lên tất cả vẻ đẹp, chứa đựng mọi hương thơm của quê
hương và Tổ quốc. Những nhà điêu khắc ấy không chạm trổ theo mẫu mà
theo cuộc sống. Những cảnh tượng diễn đi diễn lại xung quanh họ, ngày này
qua ngày khác, mùa này qua mùa khác, năm này qua năm khác, in vào tâm
khảm nghệ sĩ những nét không thể xoá, vì thế cuộc sống đi thẳng một cách
hầu như tự nhiên vào tác phẩm nghệ thuật, giải phóng nghệ sĩ khỏi những
quan niệm phong kiến thống trị”.
Bằng phương pháp tạo hình độc đáo, giống như người nghệ sĩ Tây
Nguyên, nhà điêu khắc của trang trí đình làng Bắc Bộ không bị bó buộc vào
những cơ sở tạo hình như người phương Tây. Không quan tâm đến khoa học
giải phẫu, bằng cách xây dựng hình thể "phi tỷ lệ", thậm chí còn được cường
điệu hóa, có khi đầu rất to hoặc cánh tay rất dài... nhưng tất cả lại hài hòa
trong tính biểu cảm của hình ảnh, đó là trạng thái, là cảm giác mà người
nghệ sĩ dân gian muốn tác động đến người xem.
Những mảng khuất, những hình khối cao thấp tạo nên những thần thái nghệ
thuật điêu khắc chứa đựng những tâm tư, tình cảm, khát vọng sống của con
người, của xã hội một thời, các bức phù điêu được chạm khắc một cách
mạnh, đơn giản với quan niệm không gian thoải mái khác hẳn so với điêu
khắc nơi chùa chiền hay cung điện.
Điêu khắc đình làng là sự tập trung và phát huy tột bậc các kỹ thuật
chạm khắc gỗ Việt Nam, trong đó chạm lộng là cách chạm khắc biểu cảm
SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

15



“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

nhất có hiệu quả không gian và hiệu quả khối cao nhất. Đó gần như những
pho tượng tròn, lồi hẳn ra, chồng chéo nhiều tầng lớp làm mất cảm giác về
nền vốn có của phù điêu. Cả thân gỗ được đục khoét tạo các khoảng trống
được luồn lách trong khối tượng. Điêu khắc và trang trí chạm lộng thường
để mộc và hiện diện cuốn hút mới lạ nhất của nghệ thuật đình làng.
Chạm lộng có sự kế thừa và phát triển, là đỉnh cao của điêu khắc đình
làng. Nhờ những sáng tạo của các nghệ nhân cừ khôi, chạm lộng đã tiến một
bước tiến tạo nên sự độc đáo. Những biến hoá giàu ngôn ngữ điêu khắc đã
làm cho chạm lộng tăng hiệu quả cảm thụ cởi mở, thông thoáng, đa chiều,
tạo tương phản không gian sáng - tối, vừa giữ được bố cục thẩm mỹ, tính
vững chắc về kết cấu, vừa tạo cảm giác nhẹ nhàng.
Chạm lộng là hình thức nghệ thuật mang tính kế thừa nghệ thuật điêu
khắc truyền thống, sự phát triển ngày càng nhiều đình làng với quy mô ngày
càng lớn đã đánh thức tiềm năng sáng tạo của những nghệ nhân dân gian
trong việc đào luyện thể hiện tác phẩm tạo nên những hiệu quả thẩm mỹ
mới, cảm thụ cao hơn trong không gian kiến trúc trang trí.

Đi săn – đình Hương Canh

SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

16


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

Bởi vậy, điêu khắc chạm lộng chính là sự sáng tạo trong quá trình lao

động nghệ thuật cùng với sự đòi hỏi ngày càng cao của xã hội đương thời.
Chạm lộng nở rộ và phát triển khi đề tài được khai mở rộng rãi, giàu chất
nhân văn, mang tính cộng đồng và dân chủ, ít màu sắc tôn giáo không chịu
gò bó của qui phạm lễ nghi. Các phù điêu được đẩy lên cao dành không gian
cho sinh hoạt, ánh sáng tự nhiên hắt mạnh từ nhiều phía. Từ những mảng
chạm nông chuyển dần sang chạm bong, kênh với kỹ thuật chạm sâu vào
bên trong khối gỗ, tạo thành nhiều lớp không gian mà dường như không còn
khái niệm về nền. Đó là bước tiến ngoạn mục của chạm khắc truyền thống
với những ưu thế: tạo chiều sâu không gian, hiệu quả tương phản sáng tối,
có thể đục một, hai tầng tạo nên sự uyển chuyển sinh động, cảm giác nhẹ
nhàng thanh thoát mà không ảnh hưởng đến kết cấu công trình...
Thủ pháp không gian, thời gian đồng hiện trong chạm lộng nhằm thể
hiện nhiều hình ảnh, đề tài về cuộc sống thường ngày được coi là đặc trưng
đậm nét của điêu khắc đình làng. Cái đẹp của tự nhiên, sự mộc mạc mang
tính cởi mở, chứa đựng vẻ đẹp nhân hậu của tâm hồn khiến cho sự ''phi lý''
về tỉ lệ thông thường lại trở nên thuận lý nhờ tính phóng khoáng, mạnh mẽ
mang lại cảm thụ mới mẻ chiêm nghiệm sâu lắng. Ở đình Tây Đằng (Hà
Tây) để diễn tả đời sống thường nhật, có cảnh chèo thuyền hái hoa, chèo
thuyền uống rượu, trai gái tình tự, làm xiếc, gánh con, nhổ cây đẽo gỗ, đâm
thú... Ở chùa Cói có cảnh dắt ngựa, cưỡi hổ báo... Tất cả đều biểu hiện giá trị
điêu khắc đậm nét với các khối được diễn tả no căng, hình thức giản dị, khái
quát cao. Ý nghĩa của đề tài, động tác và nghệ thuật đã vượt qua những phi
lý của hình thể mang tính cách điệu nghệ thuật cao. Trong hoạt cảnh của đời
sống xã hội đã mang hình thức tượng trưng với tỉ lệ không theo chuẩn mực
có sẵn, tuy vậy vẫn thể hiện được bố cục sống động. Cách chạm tự nhiên
thoải mái, rõ ràng đã tạo được một phong cách, không biểu lộ bài bản định
17
SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT



“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

sẵn mà vẫn giàu hơi thở cuộc sống. Điêu khắc chạm lộng Việt Nam là sự
phát triển đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc dân gian.

PHẦN KẾT LUẬN
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ngôi đình là sản phẩm thuần khiết
gắn với văn hoá làng, hội tụ biểu tượng cao độ về đời sống vật chất và tinh
thần của làng. Giá trị bất hủ của nó nằm ở thành tựu kiến trúc và điêu khắc
Việt Nam, ở đó đã kế thừa và phát triển cao, độc đáo nghệ thuật điêu khắc
truyền thống.
Những ngôi đình này, tuỳ theo từng thời đại mà mức độ chạm khắc có
khác nhau kỹ thuật khi chạm nông, lúc chạm nổi, kênh, bong, lộng... nhưng
tất cả đều thể hiện tài nghệ của các nghệ nhân xưa vừa giỏi kiến trúc vừa tài
hoa chạm khắc.
Tính uyển nhã và mộc mạc gần gũi chính là lý do để ngôi đình gắn bó
với tâm hồn người Việt. Các phù điêu và chạm khắc trang trí đình làng là
biểu tượng độc nhất vô nhị về truyền thống nghệ thuật của ông cha ta.
Người lao động Việt Nam và đặc biệt là các nghệ sĩ làng đã phá tung
cái kỷ cương phong kiến nghiệt ngã để tự trang bị cho mình một hào quang
đạo lý đầy tình thương, lòng nhân từ biểu hiện tâm hồn dân tộc “Phép vua
SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

18


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”

thua lệ làng”nên những ngôi đình làng còn để lại cho hậu thế nhiều hình mẫu
nghệ thuật, đề tài mang phong vị dân gian tươi trẻ, hóm hỉnh giàu nhân ái.

Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của của nền kinh tế thị trường,
cuộc sống của con người ngày càng được nâng cao thì những công trình kiến
trúc cổ trong đó có kiến trúc đình làng cần được bảo tồn và phát huy được
giá trị, nó là những chứng tích lịch sử, phản ánh rõ nét đời sống sinh hoạt
của người nông dân Việt Nam.
Như tuyên bố long trọng và nghiêm cẩn của các nhà lãnh đạo đứng
đầu các quốc gia, rằng “Hãy bảo vệ sự tồn tại, bền vững và khác biệt các nền
văn hoá của các dân tộc trên hành tinh của chúng ta” (Tuyên bố
Johannesburg đầu thập niên thế kỷ 21), thì chúng ta càng nhận thấy tầm
quan trọng và ý nghĩa sâu sắc của nền văn hoá nghệ thuật truyền thống Việt
Nam, trong đó có kho tàng điêu khắc, kiến trúc, hội hoạ dân gian - dân tộc
đình chùa làng Việt Nam là một đóng góp rất mực tự hào. Nó có sức nặng và
thuyết phục về nghệ thuật sáng tạo, độc đáo với kho báu tinh hoa nghệ thuật
thế giới. Nó đã đóng góp tiếng nói đa dạng, chững chạc về văn hoá - nghệ
thuật của Việt Nam với cộng đồng nhân loại trong thời đại giao lưu- hội
nhập - phát triển toàn cầu hoá đối với các châu lục. Chính vì vậy mà gần đây
các nhà nghiên cứu nước ngoài đã xác nhận vai trò quan trọng, tích cực của
mỹ thuật cổ Việt Nam. Chúng ta đã tổ chức không ít các triển lãm mỹ thuật
cổ dân tộc và ấn hành những ấn bản mỹ thuật cổ, cùng với đồ dùng sinh
hoạt dân gian truyền thống đưa đi triển lãm quốc tế nhiều nước và đã được
giới trí thức và công chúng yêu nghệ thuật các nước phương Tây đánh giá
cao và hưởng ứng nhiệt liệt.
Là một sinh viên mĩ thuật, đồng thời là giáo viên giảng dạy mĩ thuật
tại trường phổ thông, bản thân em cũng nhận thức được tầm quan trọng của
SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

19


“Giá trị nghệ thuật tạo hình của chạm khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”


nền nghệ thuật truyền thống, giúp cho chúng ta hiểu hơn về đời sống sinh
hoạt, phong tục tập quán, những khía cạnh đạo đức mang nét đặc trưng của
người nông dân vùng lúa nước. Vì vậy mỗi chúng ta cần có trách nhiệm gìn
giữ và giáo dục các thế hệ các em học sinh hiểu được giá trị và biết trân
trọng, gìn giữ những thành quả mà cha ông chúng ta đã dày công xây dựng

Tài liệu tham khảo
1. Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung, Việt Nam điêu khắc dân gian, Nxb
Ngoại Văn, Hà Nội, 1975.
2. Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hóa
dân tộc, Tạp chi Văn hóa - Nghệ thuật, Hà Nội, 2000.
3. Nguyễn Văn Cương - Nghệ thuật đình làng Bắc Bộ- Tạp chí Văn hóa
nghệ thuật.

SV: Chu Văn Tuấn – Lớp A2 – K3 - SPMT

20



×