Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ BẢN SẮC VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG XU THẾ TOÀN CẦU HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.58 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
“Toàn cầu hóa”, là khái niệm đã trở nên phổ biến trên tất cả các phương
tiện thông tin đại chúng từ giữa thập niên 70 của thế kỷ XX. Kể từ đó, người ta
đã nói đến toàn cầu hóa với tư cách một quá trình tất yếu, khách quan, một xu
thế phát triển hợp qui luật và không thể đảo ngược, được nẩy sinh với tư cách
kết quả tất yếu của sự bùng nổ với tốc độ vũ bão của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực tin học và viễn thông. Quá trình
này đã dẫn đến sự hình thành “nền kinh tế toàn cầu” trên một phạm vi rộng lớn,
có quy mô toàn thế giới và phát triển với một tốc độ “nhanh đến chóng mặt”, với
một cường độ mạnh chưa từng thấy. Toàn cầu hoá đã và đang tác động mạnh
mẽ đến mọi mặt trong đời sống xã hội của các quốc gia, dân tộc. Xét về lĩnh
vực văn hoá, toàn cầu hoá không chỉ tạo ra cơ hội cho các quốc gia, dân tộc
mở rộng sự giao lưu, hiểu biết và xích lại gần nhau, mà còn đặt những giá trị
văn hoá truyền thống của mỗi dân tộc trước nhiều thách thức to lớn.
Đối với nền văn hoá Việt Nam theo nghị quyết Trung Ương 5 (khoá VIII)
đã khẳng định: mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và phát triển,
dân tộc và quốc tế là thống nhất hữu cơ. Vì vậy, phát triển tất yếu đặt ra yêu cầu
là phải kế thừa. Kế thừa là mối liên hệ giữa những giai đoạn của quá trình phát
triển, trong đó cái mới lọc bỏ cái cũ, giữ lại trong mình một số yếu tố của cái cũ,
tức là bảo toàn yếu tố tốt này hay yếu tố tốt khác của hệ thống, chứ không phủ
định toàn bộ, phủ định sạch trơn. Như vậy kế thừa là cơ sở không thể thiếu được
của sự phát triển bền vững. Vì thế trong xu thế toàn cầu hoá để có thể hoà nhập
giao lưu với các nước trên thế giới chúng ta phải mở cửa giao lưu về kinh tế và
văn hoá tuy nhiên trong quá trình giao lưu đó vấn đề đặt ra là phải giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của Việt Nam.


I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
1. Văn hóa truyền thống và những đặc trưng cơ bản của văn hóa
truyền thống
Trong nghiên cứu về văn hóa nhiều học giả cho rằng văn hóa (hiểu theo


nghĩa rộng) nói chung bao gồm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần. Theo
nghĩa rộng nhất của nó, văn hóa bao gồm những sáng tạo phong phú về vật chất
và tinh thần của con người trong quá trình cải tạo hiện thực khách quan. Những
tri thức, các kết quả của hoạt động cải tạo xã hội và tự nhiên là thành phần của
văn hóa. Văn hóa không tự hạn chế vào một số biểu hiện của đời sống tinh thần.
Nó là toàn bộ cuộc sống; cả vật chất, tinh thần của từng cộng đồng người. Như
vậy, có thể khẳng định rằng: tất cả những gì không phải là thiên nhiên đều là văn
hóa. Văn hóa tinh thần cũng được hiểu theo hai nghĩa cơ bản rộng và hẹp. Theo
nghĩa rộng, văn hóa được hiểu là toàn bộ những giá trị, những hoạt động tinh
thần của con người. Có quan điểm cho rằng: Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng nhất
của nó là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
luật pháp, phong tục và những khả năng và tập quán khác mà con người có được
với tư cách là một thành viên của xã hội. Việc coi văn hóa tinh thần chỉ là tổng
hợp những giá trị tinh thần là phiến diện. Văn hóa tinh thần như là sự hoạt động
sáng tạo tích cực của con người, như là sự sản xuất cất giữ và sử dụng những giá
trị tinh thần.
Theo nghĩa hẹp, các tác giả cho rằng văn hóa tinh thần là những dấu ấn
tinh thần, những giá trị tinh thần đặc thù của một quốc gia dân tộc nhằm phân
biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tiêu biểu cho cách hiểu này là khái niệm văn
hóa của UNESCO được thừa nhận rộng rãi: Văn hóa là “tổng thể sống động các
hoạt động sáng tạo của con người đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn
ra trong hiện tại. Qua hàng thế kỷ các hoạt động sáng tạo ấy đã cấu thành nên
một hệ thống các giá trị, truyền thống thị hiếu thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên
đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình”.
.


Văn hóa là một hệ thống hữu cơ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người, loài người sáng tạo, tích lũy thông qua hoạt động thực tiễn trong suốt quá
trình lịch sử của mình. Con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên và văn hóa

là sản phẩm đặc sắc nhất của con người. Có thể nói văn hóa là sự hóa thân của
đời sống, nó thấm vào mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nó xuyên suốt cơ
thể xã hội, nó biểu hiện trình độ người, trình độ xã hội, văn minh quốc gia, văn
minh nhân loại.
Mỗi dân tộc dù ở trình độ văn minh cao hay thấp đều có những văn hóa
truyền thống đặc trưng riêng của mình. Hệ thống giá trị đó chính là sự kết tinh
tất cả những gì tốt đẹp nhất được chắt lọc qua nhiều thời đại lịch sử để tạo nên
bản sắc riêng của một dân tộc. Giá trị văn hóa truyền thống đó được truyền lại
cho thế hệ sau và trở thành một động lực nội sinh để phát triển đất nước.
Vậy, văn hóa truyền thống là gì? Theo giáo sư Trần Văn Giàu: “Giá trị
truyền thống được hiểu là những cái tốt, bởi vì những cái tốt mới được gọi là giá
trị. Thậm chí không phải bất cứ cái gì tốt đều được gọi là giá trị; mà phải là cái
tốt cơ bản, phổ biến, có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức, cho sự hướng dẫn
nhận định, đánh giá và dẫn dắt hành động của một dân tộc thì mới mang đầy đủ
ý nghĩa của khái niệm “giá trị truyền thống”. GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm cho
rằng: “Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những kinh
nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích lũy và tái tạo
trong cộng đồng người qua không gian và được cố định hóa dưới dạng những
phong tục tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…”.
Một khái niệm khác: “Nền văn hóa được truyền lại được gọi là truyền
thống văn hóa. Như vậy, nó phản ánh được những thành tựu co n người, tích tập
được trong quá trình tìm hiểu, thực hiện và truyền bá ý nghĩa sâu lắng nhất của
cuộc sống. Đó chính là truyền thống theo nghĩa hài hòa của nó như là một hiện
thân của trí tuệ” .Theo TS. Trần Nguyên Việt thì: “Theo đó, có thể coi truyền
thống là một bộ phận tương đối ổn định của ý thức xã hội, được lặp đi lặp lại
trong suốt tiến trình hình thành và phát triển của các nền văn hóa tinh thần và
.


vật chất, là một giá trị nhất định đối với từng nhóm người, từng giai cấp, cộng

đồng và xã hội nói chung” . Như vậy, có thể khái quát văn hóa truyền thống có
những tính chất cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tính giá trị. Cũng như văn hóa nói chung, văn hóa truyền
thống mang tính giá trị. Văn hóa truyền thống trở thành một bộ phận thiết yếu
của cuộc sống và góp phần phát triển cuộc sống. Văn hóa truyền thống mang
tính giá trị bởi vì nó là chuẩn mực, là thước đo cho hành vi đạo đức, cho những
quan hệ ứng xử giữa người và người trong một cộng đồng, một giai cấp, một
quốc gia, một dân tộc nhất định. Giá trị văn hóa truyền thống của một dân tộc
là những nguyên lý đạo đức lớn mà con người trong một nước thuộc các thời
đại, các giai đoạn lịch sử đều dựa vào để phân biệt phải trái, đúng, sai để định
hướng cho các hoạt động vì mục đích xây dựng cuộc sống tự do và tiến bộ của
dân tộc đó.
Thứ hai, tính lưu truyền. Văn hóa ra đời, phát triển trong suốt chiều dài
lịch sử của dân tộc. Những giá trị của nó được chuyển giao tiếp nối, qua nhiều
thế hệ và giá trị văn hóa truyền thống đó được giữ gìn phát huy lên một tầm cao
mới. Qua hàng nghìn năm lịch sử, các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam
như chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân văn, ý thức cộng đồng được lưu truyền
phát triển tạo thành một hệ giá trị mới của dân tộc Việt Nam.
Thứ ba, tính ổn định. Những giá trị của văn hóa truyền thống được gạn
lọc, khẳng định qua nhiều thế hệ, nó trở thành cái chân, cái thiện, cái mỹ được
lịch sử thừa nhận. Nó là một trong những hệ giá trị của văn hóa dân tộc, một
thành tố ổn định của ý thức xã hội. Văn hóa truyền thống trở thành những khuôn
mẫu được cố định hóa dưới dạng nghệ thuật, phong tục tập quán, nghi lễ, dư
luận xã hội, pháp luật…Ở Việt Nam đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, truyền
thống “lá lành đùm lá rách” trở thành những giá trị ổn định. Nó là những thước
đo, khuôn mẫu đánh giá nhân cách con người, hành vi của mỗi cá nhân và cả
cộng đồng xã hội.Như vậy, tính giá trị, tính ổn định và tính lưu truyền đã tạo nên
dáng vẻ riêng của văn hóa truyền thống Việt Nam. Trong những cuộc đụng đầu
.



lịch sử với những kẻ thù hung bạo nhất, dân tộc ta tìm thấy sức mạnh vĩ đại
trong những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam. Giữa truyền thống và truyền
thống văn hóa có mối quan hệ thống nhất nhưng không đồng nhất. Truyền thống
mang trong nó tính hai mặt. Một mặt, truyền thống góp phần suy tôn, giữ gìn
những gì quý giá, là cốt cách, là nền tảng cho sự phát triển của cộng đồng dân
tộc, ở góc độ này truyền thống mang những giá trị tích cực, là chỗ dựa không
thể thiếu của dân tộc trên con đường đi đến tương lai. Mặt khác, truyền thống
còn là nơi dung dưỡng duy trì, làm sống lại mặt bảo thủ lạc hậu khi điều kiện và
hoàn cảnh đã thay đổi. Mặt này góp phần kìm hãm, níu kéo làm chậm trễ sự phát
triển của một quốc gia dân tộc. Như vậy, văn hóa truyền thống là một bộ phận
của truyền thống, là mặt tích cực, mặt giá trị của truyền thống.Vì vậy, khi nói
đến văn hóa truyền thống là nói đến những truyền thống đã được lịch sử đánh
giá, khẳng định ý nghĩa tích cực của chúng đối với cộng đồng trong mộtgiai
đoạn lịch sử nhất định. Đồng thời, khi xem xét đánh giá truyền thống và các giá
trị văn hóa truyền thống cần phải có quan điểm biện chứng, quan điểm lịch sử cụ
thể nghĩa là phải đặt chúng trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định
của cả quá khứ và hiện tại.
2. Quan niệm về mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển văn hóa truyền
thống Việt Nam với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam luôn luôn gắn liền với
quá trình bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống dân tộc. Trong lịch sử bảo
tồn và phát triển văn hóa truyền thống dân tộc, Việt Nam luôn luôn thể hiện bản
lĩnh vững vàng trước sự du nhập của những trào lưu văn hóa ngoại lai.
Hiện nay, xu thế mở cửa, giao lưu, hội nhập văn hóa ngày càng trở nên
sâu rộng, bản lĩnh văn hóa Việt Nam đang phái đối mặt trực tiếp với những
thách thức lớn, liên quan đến sự sống còn của dân tộc. Trong việc xử lý mối
quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc với
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế có ý nghĩa to lớn. Điều trước tiên là cần phân tích bối cảnh toàn cầu hóa và

.


hội nhập quốc tế có liên quan như thế nào đến việc xử lý mối quan hệ giữa bảo
tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại. Điều đáng chú ý là trong quá trình toàn cầu hóa, các nước phát
triển đang muốn áp đặt các giá trị văn hóa của rmình cho toàn thế giới. Cơ hội
mà toản cầu hóa đem lại cho các nước khác nhau không phải như nhau. Điều đó
có nghĩa là toàn cầu hóa sẽ đem lại cho các nước nghèo, đang phát triển nhiều
thách thức hơn so với cơ hội. Đứng về khía cạnh văn hóa, toàn cầu hóa mang lại
hai bất lợi cho Việt Nam: Những sản phẩm và dịch vụ văn hóa của chúng ta rất
khó thâm nhập vào thị trường của các nước phát triển và không thể cạnh tranh
nổi với các sản phẩm và dịch vụ văn hóa của các nước phát triển; Toàn cầu hóa
có nguy cơ đe dọa làm mất bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong suốt quá trình lịch sử, văn hóa Việt Nam không những không bị
mất bản sắc, mà còn tiếp thu, hoàn thiện thêm bởi các nền văn hóa nước ngoài,
cả phương Đông và phương Tây. Mặc dù vậy, không có gì bảo đảm được rằng
Việt Nam sẽ không đánh mất bản sắc của mình trước toàn cầu hóa hiện nay, nếu
như mỗi người, mỗi cơ quan, tổ chức không có những hành động cần thiết. Tuy
nhiên, nói tới thách thức đó không có nghĩa là chúng ta đóng cửa lại, từ bỏ con
đường hội nhập với thế giới. Trong thời đại ngày nay, nếu nước nào đóng cửa thì
tất yếu sẽ bị cô lập và bật ra khỏi quỹ đạo phát triển của thế giới, mà ngược lại
phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế và xử lý tốt mối quan hệ giữa bảo
tồn và phát triển giá trị văn hóa truyền thống dân tộc với tiếp thu văn hóa thế
giới. Muốn xử lý tốt mối quan hệ đó, chúng ta phải tạo ra được một bản lĩnh
vững vàng của một nền văn hóa bao gồm tổng hợp những nhân tố thể hiện cốt
cách, khí phách, tư chất và sức mạnh khẳng định bản sắc dân tộc trước tác động
của các nền văn hóa khác trong giao lưu, hội nhập.
Một nền văn hóa thiếu bản lĩnh dễ bị đánh mất bản sắc dân tộc và khó mà
bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc và lại càng khó lựa

chọn, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Bản sắc là hồn dân tộc và do vậy mất
bản sắc văn hóa dân tộc chẳng khác nào một người không còn thần sắc, không
.


đủ bản lĩnh vững vàng để chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Ở đây,
chủ thể phải biết ứng xử hài hòa để văn hóa Việt Nam không cự tuyệt các giá trị
văn hóa bên ngoài theo lối cực đoan, mà sẵn sàng tiếp thu một cách có nguyên
tắc, không đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Xử lý tốt mối quan hệ giữa bảo
tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt nam với tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại là nhằm mục đích xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, bởi vì việc bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống chính là
để làm cho văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, còn tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại chính là để xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại và cũng góp phần
trở thành tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó cũng là sự kết hợp chính sách đối nội
với chính sách đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực trong lĩnh vực văn hóa.
Trong lịch sử dân tộc, Việt Nam chưa bao giờ có cơ hội tiếp thu những giá
trị từ nhiều nền văn hóa như bây giờ, nhưng cũng chưa bao giờ chứa đựng nhiều
nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc như hiện nay. Do vậy, khi xử lý mối
quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc với
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phải kết hợp được giữa tính nguyên tắc với
tính linh hoạt, nghĩa là việc bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống
dân tộc phải trên cơ sở chủ động tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ,
tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới. Muốn phát triển vững chắc,
ngoài yếu tố mang tính quyết định là dựa vào nội lực, tức là bảo tồn và phát triển
hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, thì đồng thời phải quan tâm chú trọng
đến nhân tố ngoại lực, tức là tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Việc giao lưu
văn hóa, hợp tác quốc tế là một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển văn
hóa Việt Nam. Thông qua giao lưu và hợp tác văn hóa mà Việt Nam tiếp thu,
nắm bắt được những thành tựu văn minh, những tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Mở rộng giao lưu văn hóa, hợp tác quốc tế, Việt Nam có điều kiện để phát huy
lợi thế so sánh của mình, đánh giá được đúng mình và nhận thức được thế giới
xung quanh để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, những tiến bộ của thế giới
nhằm mục tiêu phát triển văn hóa Việt Nam. Lênin đã từng nói phải dùng cả hai
.


tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài. Hợp tác, giao lưu văn hóa được tiến
hành trên cơ sở độc lập, tự chủ thực sự của quốc gia dân tộc. Ngày nay, trong
quan hệ giao lưu văn hóa, các nước phải thực hiện theo nguyên tắc: tôn trọng
độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước
khác, bình đẳng và cùng có lợi, tự chủ, tự quyết. Nguyên tắc này là cơ sở trong
giao lưu văn hóa giữa các nước.
Trong văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bên cạnh những yếu tố
vốn kế thừa từ truyền thống văn hóa dân tộc, cũng có những yếu tố tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Chính nhờ sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc làm cho
nhiều giá trị của bản sắc dân tộc ta được khẳng định, đồng thời qua đó chúng ta
học hỏi, tiếp thu, bổ xung thêm nhiều giá trị mới, làm cho bản sắc văn hóa dân
tộc phong phú, đa dạng hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
hiện nay, Việt Nam chủ động giao lưu văn hóa và phát huy những lợi thế so sánh
của mình, giới thiệu với thế giới những tiềm năng, thành tựu văn hóa, những
hình ảnh về đất nước, về con người Việt Nam, đồng thời vừa là điều kiện để Việt
Nam có thể tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhận loại làm phong phú , đa dạng và
hoàn thiện hơn nền văn hóa Việt Nam. Mở cửa giao lưu văn hóa, hợp tác với bên
ngoài sẽ đón nhận, chọn lọc, tiếp thu nhiều cái tốt, cái tích cực, nhưng cũng phải
đối mặt với không ít cái xấu, cái tiêu cực. Tuy nhiên, không vì lo sợ cái xấu, cái
tiêu cực để rồi chúng ta đóng cửa, sống biệt lập. Cách làm như vậy không những
kìm hãm sự phát triển mà còn không khẳng định được bản sắc dân tộc, không
phát huy được sức mạnh nội sinh, không loại bỏ được yếu tố mang tính lạc hậu,
bảo thủ. Bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc phải đi liền

với chống lạc hậu, lỗi thời trong văn hóa tư tưởng, phong tục tập quán, lề thối
cũ.
Trong truyền thống văn hóa dân tộc có những đặc điểm mang tính tích
cực của thời điểm này, nhưng ở thời điểm khác lại không còn phù hợp, có những
nội dung được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác , song cũng có những yếu
tố trở nên lỗi thời, không còn phù hợp cần được gạt bỏ. Truyền thống văn hóa
.


dân tộc cần luôn luôn được phát huy, bổ sung, thay thế, hoàn thiện cho phù hợp
với yêu cầu của thực tiễn cuộc sống. Muốn phát huy, bổ sung, thay thế, hoàn
thiện văn hóa truyền thống dân tộc có thể tiến hành bằng nhiều con đường,
nhưng trong đó không thể thiếu con đường tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Xử lý mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phải kết hợp với việc giải
quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với chủ động, tích cực hợp tác quốc
tế. Độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là những nội dung hết
sức quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc ta.
Xử lý vấn đề này và vấn đề về mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa
phải xử lý đồng thời, có kết hợp với nhau. Nếu chỉ chú trọng một trong hai mặt
đó thì đều không có lợi cho sự phát triển kinh tế, chính trị và văn hóa của chúng
ta. Về hai mối quan hệ này đang còn những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho
rằng càng mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, trong đó có giao lưu, hợp tác văn
hóa, tiếp thu tinh hoa nhân loại thì càng khó khăn cho việc bảo vệ nền độc lập,
tự chủ, giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc. Ý kiến này có cái nhìn
khá nặng nề, cứng nhắc, bi quan về việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Ý kiến khác lại cho rằng chủ động , tích cực
hội nhập quốc tế, tiếp thu mạnh tinh hoa văn hóa nhân loại không có ảnh hưởng
tiêu cực gì đến vấn đề độc lập, tự chủ, bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa

truyền thống dân tộc. Cách nhìn này phiến diện, chủ quan, không thấy hết những
khó khăn, phức tạp trong hợp tác hội nhập, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa.
Độc lập, tự chủ, bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân
tộc và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
nhân loại có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan
hệ này thì độc lập, tự chủ, bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống
dân tộc là cái quyết định, là cơ sở vững chắc để mở rộng hợp tác, giao lưu quốc
tế có hiệu quả, và ngược lại chính việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, biết
.


tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trên cơ sở những nguyên tắc nhất định là
điều kiện quan trọng để phát triển, củng cố và giữ gìn độc lập, tự chủ quốc gia
và bảo tồn, phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Xử lý hài hòa
những mối quan hệ này sẽ giúp nước ta phát huy được tiềm năng lợi thế so sánh
của mình, vừa tranh thủ được các điều kiện, các nguồn lực bên ngoài đề phát
triển.
II. GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ BẢN SẮCVĂN HOÁ
TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRONG XU THẾ TOÀN CẦU HOÁ
1. Giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trước tác động của xu thế
toàn cầu hoá hiện nay
Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức, toàn
cầu hoá đã trở thành xu thế khách quan, có tác động mạnh mẽ không chỉ trong
lĩnh vực kinh tế, mà còn ở các lĩnh vực chính trị, xã hội và văn hoá. Nghị quyết
Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Toàn cầu hoá kinh
tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế
này... vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu
tranh”(1). Đến Đại hội lần thứ X Đảng ta nhận định: “ Toàn cầu hóa kinh tế tạo
ra cơ hội nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn,
thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”


(2)

. Trước sự

phát triển của tình hình mới trên thế giơi, Đại hội Đảng lần thứ XI nhấn mạnh: “
Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu
hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất
phức tạp”(3).
Thật vậy, trong bối cảnh quốc tế hiện thời, toàn cầu hoá không chỉ mang
lại thời cơ lớn, mà còn tạo ra những thách thức không nhỏ đối với tất cả các
quốc gia, đặc biệt là với các nước đang phát triển trong trào lưu hội nhập quốc
tế. Toàn cầu hoá đang đặt chúng ta trước những thách thức lớn trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực văn hoá. Đảng và nhân dân Việt Nam
nhận thức sâu sắc rằng, đối với một nước đang phát triển như nước ta thì thách
.


thức nhiều hơn là thời cơ, khó khăn nhiều hơn thuận lợi. Trong xu thế toàn cầu
hoá hiện nay, văn hoá Việt Nam có cơ hội hội nhập và giao lưu với các nền văn
hoá khác của thế giới để làm giàu và khẳng định bản sắc của mình. Song, hơn
lúc nào hết, đây cũng là giai đoạn mà các giá trị văn hoá truyền thống của dân
tộc phải đối diện với những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá. Hội nhập quốc
tế đang là một nhu cầu khách quan; nó đòi hỏi chúng ta phải mở cửa, giao lưu
với cộng đồng thế giới để đón nhận và tiếp thu những giá trị mới, tiến bộ của
nhân loại. Tuy nhiên, một dân tộc nào đó sẽ không còn là chính mình nếu đánh
mất bản sắc văn hoá dân tộc. Theo đó, hội nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc là những nhu cầu tất yếu, khách quan để một dân tộc có thể tồn tại
và phát triển trong xu thế toàn cầu hoá. Hội nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc là hai mặt thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, đối với

Việt Nam, việc nhận thức rõ vấn đề này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống dân tộc nói riêng
và phát triển đất nước nói chung.
Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và tham gia hội nhập
quốc tế đã tạo cho nền kinh tế Việt Nam có được bước phát triển đáng kể, đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện, có mặt được nâng cao và
điều này đã có tác động tích cực đối với việc bảo đảm sự ổn định chính trị - xã
hội. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là, toàn cầu hoá ngày nay đang chịu sự chi phối,
trước hết là của sức mạnh kinh tế của các nước tư bản phát triển, đặc biệt là Mỹ.
Xét từ phương diện văn hoá, toàn cầu hoá đang tác động mạnh mẽ tới những giá
trị truyền thống tốt đẹp – cái làm nên bản sắc văn hoá riêng của tất cả các dân
tộc, trong đó có dân tộc Việt Nam. Sự tác động này là rất phức tạp, một mặt, nó
tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc hình thành và phát triển những giá trị văn
hoá mới; mặt khác, nó chứa đựng nguy cơ phá vỡ hoặc làm băng hoại những giá
trị văn hoá truyền thống đã được tích tụ và tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc.
Thật vậy, những mặt trái, những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá đã và
đang làm chao đảo nhiều giá trị tinh thần nói chung, nhân cách con người nói
.


riêng. Đặc biệt, một số giá trị đạo đức tốt đẹp, thiêng liêng… vốn có vị trí quan
trọng trong hệ giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam đang có nguy
cơ bị mai một và tha hoá. Chẳng hạn, lối sống tình nghĩa, đậm chất nhân văn
kiểu “thương người như thể thương thân”, “một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”…
vốn là một trong những giá trị đạo đức truyền thống của nền văn hóa làng xã
Việt Nam đã từng tồn tại hàng ngàn năm nay đang bị mai một, mờ nhạt dần. Ở
không ít nơi, cả thành thị lẫn nông thôn, một bộ phận dân cư đã chịu ảnh hưởng
của lối sống ích kỷ, hẹp hòi, lấy lối sống theo kiểu “đèn nhà ai nấy rạng” thay
cho lối sống rất “con người” trước đây. Không phải ngẫu nhiên mà có ý kiến cho
rằng, đạo đức ở một bộ phận nhân dân, đặc biệt là ở tầng lớp thanh, thiếu niên

đang có xu hướng "trượt dốc". Đây thực sự là những tín hiệu “báo động đỏ”
trong đời sống đạo đức ở nước ta hiện nay.
Một hệ quả khác mà toàn cầu hoá kinh tế mang lại là thị trường hàng hoá
với số lượng lớn, chủng loại đa dạng và giá rẻ… Sự thâm nhập tràn lan các loại
hàng hoá đa dạng đã tác động mạnh và làm thay đổi tâm lý, nhân cách và lối
sống của không ít người trong xã hội. Nó vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
con người, vừa kích thích tâm lý tiêu dùng trong mọi tầng lớp xã hội, tạo điều
kiện để hình thành lối sống hưởng thụ, xã hội tiêu dùng. Chính điều này đã làm
cho một bộ phận không nhỏ trong nhân dân, nhất là tầng lớp thanh niên có tâm
lý coi trọng các giá trị vật chất, xem nhẹ các giá trị tinh thần và dẫn đến sự hình
thành lối sống hưởng thụ, thực dụng, xa hoa lãng phí, xa lạ với lối sống giản dị,
tiết kiệm – những phẩm chất truyền thống quý báu của con người Việt Nam.
Cùng với sự xuất hiện của lối sống chạy theo những giá trị vật chất là sự nảy
sinh tâm lý hướng ngoại, thích dùng hàng ngoại, coi thường các sản phẩm do
chính chúng ta sản xuất, kể cả hàng hoá có chất lượng cao. Điều này không chỉ
kìm hãm sự phát triển của các ngành sản xuất trong nền kinh tế nước ta, mà còn
tác động một cách tiêu cực đến tư duy và lối sống của nhân dân.
Trong lĩnh vực văn hoá, toàn cầu hoá đang đặt ra những thách thức lớn
đối với yêu cầu giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Thực tế cho thấy, trong thời
.


gian qua, một bộ phận không nhỏ trong nhân dân, đặc biệt là ở tầng lớp thanh,
thiếu niên đã có những biểu hiện coi nhẹ hoặc không quan tâm đến các giá trị
văn hoá truyền thống của dân tộc, chạy theo lối sống, tâm lý, thị hiếu không lành
mạnh, xa lạ với con người Việt Nam. Điều nguy hiểm là "tệ sùng bái nước
ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng,
cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít
trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ
thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma tuý,

mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng" (1) . Sự xuống cấp nghiêm trọng về
mặt đạo đức, lối sống thực dụng lấy đồng tiền làm mục đích của một bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân đang đe doạ, thậm chí làm xói mòn những giá trị
đạo đức truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam. Ma lực khủng khiếp của
đồng tiền có nguy cơ làm méo mó quan hệ thân ái, tình nghĩa trước đây giữa con
người với con người không chỉ ngoài xã hội, mà ngay cả trong gia đình. Trong
cuộc sống, không ít trường hợp vì sự cám dỗ của đồng tiền mà người ta sẵn sàng
bán rẻ nhân phẩm, tiếp tay cho các tệ nạn. Có nhiều kẻ dùng tiền để chạy chức,
chạy quyền và… cả chạy án. Đồng tiền đã làm không ít người trở nên hư hỏng,
làm đảo lộn nhiều giá trị trong quan hệ gia đình vốn có nền nếp từ lâu đời. Thật là
xót xa khi phải chứng kiến cảnh vì vật chất, tiền bạc mà con cái hành hung cha
mẹ, anh em từ bỏ nhau, vợ chồng chia ly... Chính sự rối loạn này trong quan hệ
gia đình đã góp phần làm cho cái ác, cái bất lương có điều kiện phát triển. Những
thói hư tật xấu đó lây lan trong xã hội, hay như người ta thường nói: "bụi đời" bắt
nguồn từ "bụi nhà".
Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học, công nghệ hiện đại, đặc biệt là
công nghệ thông tin trong bối cảnh toàn cầu hoá đã tạo ra những cơ hội, trở
thành cầu nối cho các quốc gia, dân tộc mở rộng giao tiếp, sự hiểu biết và xích lại
gần nhau hơn. Chính nhờ cơ hội này mà nền văn hóa Việt Nam có điều kiện thuận
lợi để giao lưu rộng rãi với nhiều nền văn hóa khác trên thế giới. Thông qua đó, con
.


người Việt Nam có điều kiện học tập, tiếp thu những giá trị, tinh hoa văn hoá của
các dân tộc để làm phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc mình.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, trong quá trình mở cửa, hội nhập quốc
tế, những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc đang phải đối diện với nhiều thử
thách. Trong số những sản phẩm văn hóa bên ngoài được du nhập vào Việt Nam
bằng nhiều con đường khác nhau, nhiều sản phẩm có giá trị, phù hợp với văn
hoá truyền thống của dân tộc, nhưng cũng có không ít sản phẩm chứa đựng nội

dung độc hại, không phù hợp. Trong một vài thập kỷ gần đây, những lối sống xa
lạ, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc đã xuất hiện trong đời sống xã hội, từ
thành phố cho đến những vùng nông thôn. Một bộ phận đáng kể lớp trẻ ưa
chuộng, thậm chí sùng bái phong cách văn hóa, văn nghệ phương Tây. Họ không
thích hoặc thờ ơ với các bản nhạc, bài ca cách mạng, không quan tâm đến các
hình thức nghệ thuật, các dòng dân ca truyền thống; trái lại, tán dương và cổ vũ
cho những bài hát có nhịp điệu mạnh, như: Rock, Ráp hoặc những bài hát có
nội dung nhạt nhẽo. Cùng với sự phát triển của các phương tiện thông tin đại
chúng, hàng ngày, hàng giờ, trên các mạng thông tin toàn cầu liên tục truyền các
hình ảnh, tin tức, ấn phẩm độc hại, không phù hợp với truyền thống văn hóa dân
tộc. Chính điều này đã góp phần hình thành ở một bộ phận thanh, thiếu niên lối
sống buông thả, bạo lực, tình dục,... xa lạ, trái ngược với những giá trị nhân văn
lâu đời của dân tộc, những giá trị đã tạo nên bản sắc văn hóa và đạo đức truyền
thống của con người Việt Nam. Thực tế cho thấy, tình trạng tội phạm hình sự ở
Việt Nam trong thời gian vừa qua đã gia tăng đến mức nghiêm trọng cả về số
lượng lẫn tính chất nguy hại so với trước đó. Một số tội danh mới và rất nguy
hiểm đã xuất hiện, như khủng bố cá nhân, tống tiền, bắt cóc trẻ em, buôn bán
phụ nữ, buôn bán chất ma tuý, môi giới mại dâm... Đặc biệt, số phụ nữ phạm tội
và các vụ phạm tội do lứa tuổi vị thành niên thực hiện có chiều hướng gia tăng.
Từ thực trạng đã phân tích trên đây, có thể khẳng định rằng, xu thế toàn
cầu hoá đang tác động đến những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt
Nam cả theo hướng tích cực lẫn tiêu cực. Một mặt, nó góp phần nâng cao trình
.


độ tư duy khoa học của xã hội công nghiệp, thể hiện ở việc phổ biến các giá trị
văn hóa công nghệ, văn hóa thông tin cùng các hoạt động và loại hình văn hóa
mới phục vụ cho việc nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân và qua đó, góp
phần làm giàu thêm, phong phú thêm các giá trị văn hoá Việt Nam truyền
thống. Mặt khác, nó cũng đang đặt ra trước dân tộc ta những thách thức lớn

trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống. Về phương
diện này, có thể nói, thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là làm thế nào để nền
văn hóa dân tộc vừa có thể tiếp thu được các giá trị thời đại, tinh hoa văn hoá
nhân loại, vừa có thể giữ được bản sắc dân tộc vốn có; tiếp tục phát triển trong
sự giao lưu với cộng đồng thế giới mà không bị hoà tan, không bị nhấn chìm vào
các nền văn hóa khác hoặc trở thành “cái bóng mờ” của dân tộc khác, nền văn
hoá khác.
Theo đó, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay là một yêu cầu tất yếu, một nhiệm vụ nặng
nề, cấp bách và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với chúng ta. Kinh nghiệm
của nhiều nước, cũng như của chính chúng ta đã chỉ ra rằng, không thể đánh đổi
bằng mọi giá để có được sự tăng trưởng về kinh tế, cũng không thể để cho bản
sắc văn hóa dân tộc bị mai một. Để tiếp tục phát triển và khẳng định mình trong
quá trình toàn cầu hoá, ngoài nỗ lực tăng trưởng kinh tế, một trong những nhiệm
vụ hết sức quan trọng của chúng ta là phải xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đúng như Đảng ta đã khẳng định,
"Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường
dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng
xã - Tổ quốc; lòng nhân ái; khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần
cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối
sống... Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong hình thức biểu hiện mang
tính dân tộc độc đáo"(1). Chính nhờ sức mạnh của những giá trị truyền thống đó
.


mà dân tộc ta đã vượt qua biết bao thử thách khắc nghiệt, chiến thắng thiên tai,
địch hoạ để tồn tại và phát triển được như ngày nay. Giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa của dân tộc trước hết là bảo vệ, kế thừa và phát triển những giá trị tinh

thần cao đẹp đó.
Trong suốt lịch sử phát triển của dân tộc cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, các giá trị truyền thống của Việt Nam đã có một nội dung và vị thế ổn
định. Sự ổn định đó được quy định trực tiếp bởi tinh thần dân tộc với nòng cốt là
tinh thần yêu nước đặc trưng của Việt Nam, nhưng sâu xa hơn và căn bản hơn
nó được quy định bởi cơ sở kinh tế – xã hội đặc thù của dân tộc. Với cuộc đụng
đầu giữa hai nền văn hoá Đông – Tây hồi đầu thế kỷ XX, các giá trị truyền
thống của Việt Nam đã trải qua những biến động sâu sắc và căn bản. Nói đến giá
trị truyền thống Việt Nam là nói đến một hệ giá trị đa dạng tổng hợp và hỗn
dung các giá trị văn hoá bản địa, Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo. Trong đó, sợi
chỉ đỏ xuyên suốt, xâu nối và liên kết các giá trị đó thành một chỉnh thể đa diện
là tinh thần dân tộc, là lòng yêu nước hết sức đặc trưng của Việt Nam. Trong đó
Nho giáo, theo thời gian như chiếc áo khoác mỗi ngày mỗi rộng trùm lên các giá
trị khác khiến cho mọi giá trị truyền thống được cố định, được trình bày theo
hình thức của Nho giáo cho đến khi bị nhà cầm quyền Pháp cáo chung. Vì thế
nhiề sự lầm tưởng, đồng nhất các giá trị khác với Nho giáo đã xảy ra.
Với sức công phá của nền văn minh kỹ thuật – công nghiệp, sự trợ giúp của nhà
nước bảo hộ Pháp với việc chấm dứt nền giáo dục khoa cử Việt Nam vào thập
niên thứ hai thế kỷ XX và sức chinh phục mạnh mẽ của các học thuyết phương
Tây tràn vào Việt Nam… đã tạo ra xu hướng Tây hoá ngày càng rộng rãi trong
đời sống dân tộc. Do vậy, tình hình tư tưởng khi đó là hết sức phức tạp và thực
tế đã có một cuộc đấu tranh tư tưởng xung quanh vấn đề giá trị diễn ra vào thời
kỳ này.
Tuy nhiên, lịch sử Việt Nam hiện đại vẫn phát triển một cách không bình
thường do quy luật của chiến tranh chi phối khiến cho mọi hệ giá trị cũ cũng
phải biến đổi phù hợp với quy luật đó. Vì vậy, hệ giá trị thống nhất truyền thống
.


với hiện đại mà Đảng Cộng Sản đề ra phần nào bị quy luật thời chiến biến đổi.

Xét một cách công bằng, hệ giá trị này với nòng cốt là tinh thần yêu nước được
phát huy đến tột bật kết hợp với các giá trị lý tưởng của Chủ Nghĩa Xã Hội đã
hoàn thành xuất sắt vai trò là chuẩn mực tinh thần của toà thể nhân dân Việt
Nam thời kỳ này. Nhưng với sự chấm dứt của chiến tranh và sự khởi đầu của
thời kỳ mới xây dựng và phát triển đất nước sau hơn 100 năm bị mất độc lập
hoặc bị chia rẽ, hệ giá trị thời chiến tranh đã trở nên bất cập trước nhiệm vị lịch
sử mới của dân tộc, tất yếu hệ giá trị phải biến đổi và tìm ra vị thế của nó rong
bối cảnh mới – bối cảnh toàn cầu hoá.
2. Một số giải pháp nhằm góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống ở nước ta hiện nay
2.1 Chủ động đón nhận thách thức của toàn cầu hoá để hội nhập với
thế giới.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam đã nhiều lần gặp thách thức, có thách thức
từ phía thiên nhiên: hạn hán, bão lụt…, có thách thức từ phía xã hội: nạn ngoại
xâm, các cuộc cát cứ chia rẽ đất nước… và nhiều lần dân tộc ta đã vượt qua nhờ
đó mà giữ gìn được sự sinh tồn và phát triển. Tất cả sự thành công hay thất bại
đều có ý nghĩa của một bài học đối với thách thức – xu thế toàn cầu hoá hiện
nay và nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc, các giá trị truyền thống dân tộc, trở
thành cái bóng mờ của người khác là do xu thế này gây nên. Xu thế toàn cầu hoá
hiện nay buộc dân tộc ta phải tham gia vào các công việc chung của thế giới mà
đối tượng phải đối phó không phải là một, mà là nhiều phía, nhiều thành phần,
nhiều mức độ khách nhau. Xu thế này còn đưa dân tộc ta vào cuộc đấu tranh
quyết liệt vừa có tính khu vực, vừa có tính toàn cầu, trong khi thế và lực của ta
chưa đủ, nhưng không được thua chỉ có thể và phải thắng. Bài học lịch sử đã dạy
cho dân tộc ta một cách nhìn, một thái độ và một việc làm thích hợp. Đó là xem
toàn cầu hoá như một xu thế khách quan, xu thế đó vừa tạo ra thời cơ vừa có
nguy cơ do vậy dám đương đầu , chủ động đón nhận và phấn đấu để có nhiều cơ
hội, nhiều dịp may, ít nguy cơ, ít rủi ro. Không lúc nào bằng lúc này, dân tộc ta
.



phải kiên cường, phải thông minh, linh hoạt và sáng tạo. Hơn 10 năm nay đảng
và nhà nước ta đã thực hiện đường lối mở cửa, hội nhập, tham gia liên doanh,
liên kết kinh tế, kêu gọi đầu tư, tạo thông thoáng để thu hút đầu tư, thực hiện đa
phương, đa dạng hoá quan hệ quốc tế… Cần phải khẳng định các việc làm đó và
còn phải phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện hơn nữa. Thực tế trong mấy năm vừa
qua nhiều thành tựu về văn hoá của thế giới, nhất là văn hoá đương đại do sự đa
dạng và mới mẻ thường chinh phục được nhiều người, đặt biệt là thế hệ trẻ.
Nhưng Việt Nam khác với nhiều nước chúng ta không thể thay thế các giá trị
truyền thống đã làm nên bản sắc văn hoá Việt Nam, bản lĩnh dân tộc Việt Nam:
tinh thần yêu nước, tính cộng đồng, lòng nhân ái, lối sống thanh bạch, cần cù,
giản dị… Và mặc dù các luồng văn hóa tư tưởng bên ngoài vào Việt Nam theo
nhiều hướng, nhiều kênh, nên chúng ta cần cảnh giác vì về đại thể các luồng văn
hoá tư tưởng ấy mang hai loại: giá trị và phản giá trị và chúng ta chỉ có thể chấp
nhận cái giá trị và bài trừ cái phản giá trị. Toàn cầu hoá như một dòng nước lớn
đang lan truyền khắp mọi miền đất của hành tinh. Đứng trong đó thì phải bơi
theo nó, có bản lĩnh sẽ không sợ chết chìm, có sự thông minh sẽ sáng tạo sẽ
trạnh thủ được nhiều sơ hội, tránh được khỏi nhiều nguy cơ. Giá trị truyền thống
và giá trị hiện đại của dân tộc có thể qua đây mà được giữ gìn, nâng cao và
phong phú hơn nữa.
2.2 Tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử và truyền thống cách
mạng của dân tộc cho các thế hệ trẻ.
Một thực tế không thể phủ nhận là sự phát triển rộng khắp của các
phương tiện nghe, nhìn hiện đại như hiện nay và ở một mức độ nào đó, là sự
không kiểm soát nổi nhiều nội dung mà các phương tiện đó chuyển tải, ít nhiều
đã ảnh hưởng đến việc nhận thức các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và
tuyên truyền lối sống phương Tây. Không ít người đã bị những lợi ích vật chất
cám dỗ, làm tha hoá, biến chất, chạy theo lối sống hưởng thụ, mà hầu như không
quan tâm đến truyền thống văn hóa dân tộc, đến lối sống truyền thống của người
Việt Nam. Do vậy, cần phải tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng,

.


truyền thống lịch sử nhằm vun đắp và phát huy niềm tự hào dân tộc cho nhân
dân, đặc biệt là cho lớp trẻ – những người chủ tương lai của đất nước, hướng họ
đến với các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc - cội nguồn tạo nên bản sắc
văn hóa, cốt cách và sức mạnh của con người Việt Nam.
2.3 Giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống phải luôn gắn liền với
tăng cường giáo dục pháp luật.
Như chúng ta đều biết, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
việc điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Cùng với đạo đức, pháp luật
xã hội chủ nghĩa hướng con người tới hệ giá trị chân - thiện – mỹ, trừng trị và
ngăn chặn cái ác, cái xấu nhằm làm lành mạnh hoá xã hội. Do vậy, cần phải giáo
dục ý thức pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thanh niên, học
sinh, sinh viên; giúp họ tránh được những hành vi phạm pháp và trở thành
những công dân sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
2.4 Xác lập bản lĩnh văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập
quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hoá, hiện nay, chúng ta đang có những cơ hội, điều
kiện thuận lợi để tiếp nhận các giá trị, tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm làm giàu
thêm, phong phú thêm các giá trị văn hóa của dân tộc mình. Nhưng, như đã nói
ở trên, toàn cầu hoá không chỉ tạo ra những cơ hội, điều kiện thuận lợi, mà còn
đặt ra vô vàn thách thức, khó khăn đối với mọi quốc gia, dân tộc. Để tồn tại và
phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá, về phương diện văn hoá, chúng ta cần
tiếp cận các giá trị văn hoá của nhân loại để hiện đại hoá nền văn hoá dân tộc,
nhưng cũng cần phải giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống để không đánh
mất bản thân mình; hơn nữa, phải biến các giá trị đó thành sức mạnh nội sinh
nâng đất nước ta lên tầm cao mới. Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc. Chính vì
vậy, chúng ta cần phải xác lập được bản lĩnh văn hóa Việt Nam trong xu thế toàn
cầu hoá hiện nay để làm giàu thêm, phong phú thêm nội dung các giá trị truyền

thống nhằm tạo nên nền tảng văn hoá tinh thần cho sự phát triển bền vững của
đất nước.
.


KẾT LUẬN
Với bề dày truyền thống lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước,
ông cha ta đã viết nên những trang sử vẻ vang trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước, tạo lập nên nét văn hóa đặc sắc riêng của dân tộc. Nhiệm vụ giữ gìn
và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống đã từng được đặt ra và sau mỗi giai
đoạn thử thách đó, chúng ta lại có được những bài học kinh nghiệm quý báu.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước xu thế toàn cầu hoá như một cơ hội để phát
huy các giá trị truyền thống, đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với việc
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Với truyền thống vẻ vang của dân tộc, với
đường lối, chính sách phát triển đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chúng ta có cơ sở để tin tưởng vào bản lĩnh và thắng lợi của nhân dân Việt
Nam trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá
trình toàn cầu hoá hiện nay.

Tài liệu tham khảo
1. Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, H,1998.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII. Nxb CTQG, H, 1998.
.


3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb CTQG, H, 2006
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb CTQG-ST, H, 2011

5. Lê Hữu Nghĩa, Lê Ngọc Tòng, Toàn cầu hoá - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb CTQG, H, 2004.

.



×