Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Chăm pa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.45 KB, 14 trang )

Chăm pa

Chăm pa
Bởi:
Wiki Pedia

Lịch sử
Nhà nước của người Chăm
Lịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính:
* Các di tích còn lại bao gồm các công trình đền tháp xây bằng gạch còn nguyên vẹn
cũng như đã bị phá hủy và cả các công trình chạm khắc đá.
* Các văn bản còn lại bằng tiếng Chăm và tiếng Phạn trên các bia và bề mặt các công
trình bằng đá
* Các sách sử của Việt Nam và Trung Quốc, các văn bản ngoại giao, và các văn bản
khác liên quan còn lại.
Vương quốc Chăm Pa không phải là một quốc gia có thể chế chính trị "Trung ương tập
quyền" mà là một dạng nhà nước liên bang gồm tộc người Chăm chiếm đa số và một
số tộc người nhỏ hơn ở vùng núi Tây Nguyên. Có những nguồn tài liệu cho biết Chăm
Pa có thể được kết hợp từ bốn tiểu quốc là Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga.
Mỗi Tiểu quốc đều có thể chế chính trị theo hình thức tự trị và có quyền ly khai khỏi
liên bang để xây dựng quốc gia riêng độc lập. Vương quốc Chăm Pa đã trải qua nhiều
triều đại với nhiều lần dời đô từ Bắc vào Nam và ngược lại.
Dân tộc chính của Chăm Pa là tộc người Chăm được chia thành hai nhóm: Chăm ở phía
Bắc và Chăm ở phía Nam. Nhóm Nam Chăm thuộc bộ tộc Cau (Kramuta Vanusa) và
Nhóm Bắc Chăm thuộc bộ tộc Dừa (Naeikela Vanusa). Hai bộ tộc này vừa liên minh
với nhau, vừa cạnh tranh nhau quyền đứng đầu Vương quốc Chăm Pa.
Thời tiền sử
Người dân Chăm Pa có nguồn gốc Malayo-Polynesian di cư đến đất liền Đông Nam Á
từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ thứ 1 và thứ 2 trước Công nguyên.
Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển
đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở Sarawak, Đông Malaysia.


1/14


Chăm pa

Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi nền văn hóa Đông Sơn
cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ
yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian).
Văn hóa Sa Huỳnh
Bài chi tiết: Văn hóa Sa Huỳnh
Văn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven biển miền
Trung Việt Nam. Năm 1909, đã phát hiện khoảng 200 lọ được chôn ở Sa Huỳnh, một
làng ven biển ở nam Quảng Ngãi. Từ đó đến nay đã phát hiện được rất nhiều hiện vật
ở khoảng 50 địa điểm khảo cổ. Sa Huỳnh có đặc điểm văn hóa thời đại Đồng Thau rất
đặc trưng với phong cách riêng thể hiện qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức.
Việc định tuổi theo phương pháp phóng xạ carbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời
với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Người
Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt nam từ khoảng năm 200
sau công nguyên. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và
chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy
người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các
hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất
khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh.
Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines
cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và
đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa
Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng.
Lâm Ấp
Bài chi tiết: Lâm Ấp
Theo sử liệu Trung Quốc, Vương quốc cổ Chăm Pa đã được biết đến đầu tiên với sự

ra đời và tồn tại của Vương triều Sinhapura hay còn gọi là Vương quốc Lâm Ấp mà vị
vua đầu tiên là Khu Liên, bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc khởi
nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội
Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công. Vào
thế kỷ 4, từ nước láng giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu
nền văn minh Ấn Độ. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt đầu có các văn bản
mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để
ghi lại tiếng nói của người Chăm.
Vị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là Bhadravarman, cai trị từ năm 349 đến 361 ở
kinh đô Kandapurpura thuộc Huế ngày nay. Tại thánh địa Mỹ Sơn, vua Bhadravarman
đã xây dựng nên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara, cái tên là sự kết hợp giữa tên

2/14


Chăm pa

của nhà vua và tên của thần Shiva, vị thần của các thần trong Ấn Độ giáo. Việc thờ vua
như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn
trong các thế kỷ sau đó.
Vào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang nhà Đường và
xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc. Các tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái
chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756 sau Công nguyên. Vào
cuối thời kỳ này, sử sách Trung Quốc vẫn ghi Chăm Pa là Lâm Âp, tuy nhiên, những cái
tên như vậy đã được người Chăm sử dụng muộn nhất là từ năm 629, và người Khmer đã
dùng muộn nhất là từ năm 657.
Hoàn Vương
Bài chi tiết: Hoàn Vương
Vào năm 757, trung tâm chính trị của Chăm Pa đã chuyển từ Trà Kiệu xuống khu vực
Panduranga và Kauthara, với kinh đô Virapura gần Phan Rang ngày nay và thánh địa

tôn giáo ở quanh quần thể đền tháp là Tháp Po Nagar ở Nha Trang ngày nay nơi để thờ
nữ thần đất Yan Po Nagar. Năm 774, người Java đã phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po
Nagar, và mang đi tượng Shiva. Vua Chăm là Satyavarman đã đuổi theo quân giặc và
đánh bại chúng trong một trận thủy chiến. Năm 781, Satyavarman đã dựng bia tại Po
Nagar, tuyên bố đã chiến thắng và kiểm soát toàn bộ khu vực và đã dựng lại đền. Năm
787, người Java tấn công kinh đô Virapura và đốt phá đền thờ Shiva ở gần Panduranga.
Chiêm Thành
Bài chi tiết: Chiêm Thành
Năm 875, vua Indravarman II đã xây dựng nên triều đại mới ở Indrapura (làng Đồng
Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay). Indravarman là vị vua Chăm đầu
tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của
Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để thờ bồ tát Lokesvara. Các
vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ thứ 9
và thứ 10. Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Chăm Pa kết thúc năm 925, bắt đầu nhường
bước với sự phục hồi của đạo thờ thần Siva, với sự chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở
về Siva giáo vào khoảng thế kỷ thứ 10, trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển
từ Đồng Dương trở về Mỹ Sơn, đây là thời kỳ văn minh Chăm Pa đạt đến đỉnh cao. Các
yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau này chính là ở vị trí lý tưởng
nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên có chiến tranh với các nước
láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Chân Lạp ở phía tây Nam. Các cuộc chiến tranh
với Chân Lạp đã dẫn tới có hai giai đoạn Chăm Pa thuộc sự cai trị của người Khmer, đó
là các giai đoạn 1145–1149 và giai đoạn 1190-1220, tiếp đó là cuộc chiến thành công
chống lại đạo quân xâm lược của đế quốc Nguyên Mông vào năm 1283 do tướng Sogetu

3/14


Chăm pa

cầm đầu. Tuy nhiên dấu ấn mạnh nhất vẫn là các cuộc chiến tranh với Đại Việt, không

như các cuộc chiến với Chân Lạp và Trung Quốc, những cuộc chiến tranh với người
Việt đã làm vương quốc Chăm Pa lần lượt mất lãnh thổ và dần suy yếu dẫn tới sụp đổ.
Năm 938 người Việt đã giành được độc lập từ tay người Trung Quốc. Năm 982, vua Lê
Hoàn của Đại Cồ Việt mở cuộc nam chinh đầu tiên, quân Đại Việt đã đánh chiếm và
tàn phá kinh đô Indrapura, giết vua Parameshvaravarman. Họ mang về nước rất nhiều
nhạc công và vũ công Chăm, chính những người này về sau đã ảnh hưởng đến sự phát
triển nghệ thuật của Đại Việt. Do hậu quả để lại của việc tàn phá, người Chăm đã rời bỏ
Indrapura vào khoảng năm 1000. Trung tâm của Chăm Pa được chuyển xuống Vijaya ở
phía nam nằm trên đất tỉnh Bình Định ngày nay mà người Việt bắt đầu gọi là Đồ Bàn
hoặc Chà Bàn. Trong 5 thế kỷ tiếp theo giữa Chăm Pa và Đại Việt đã xảy ra rất nhiều
các cuộc chiến tranh, Chăm Pa đã chịu các đợt tấn công của Đại Việt năm 1021, 1026,
1044. Tiếp đó, vào năm 1069 quân Việt tấn công Chăm Pa. Vua Rudravarman bị bắt
làm tù binh và sau đó đã đổi ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính ở phía bắc gần biên
giới với Đại Việt để lấy tự do. Vào năm 1307 khi quan hệ giữa Cham Pa và Đại Việt
tương đối tốt đẹp, vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), đã nhượng hai châu Ô, Lý ở
phía bắc cho Đại Việt làm của hồi môn để cưới công chúa Huyền Trân nhà Trần. Sau sự
kiện này, Chăm Pa chỉ còn lại lãnh thổ từ đèo Hải Vân trở vào.
Vị vua hùng mạnh cuối cùng của người Chăm là Che Bonguar (Chế Bồng Nga) lên ngôi
năm 1360, từ năm 1371 đến 1389, ông tổ chức nhiều cuộc tấn công ra Thăng Long kinh
đô của Đại Việt, ông đã bị chết trong lần tấn công cuối cùng năm 1389 và một vị tướng
của ông là La Ngai (La Khải) rút về Vijaya và lên ngôi thay thế. Sau thời kỳ Chế Bồng
Nga, đến lượt Chăm Pa liên tục bị các vương triều Đại Việt tấn công và bị mất dần lãnh
thổ. Sau các cuộc tấn công vào các năm 1402 và 1446, tới năm 1471 vua Lê Thánh Tông
chỉ huy tấn công Chăm Pa, phá hủy kinh đô Vijaya, vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và
chết trên đường chở về Thăng Long. Lê Thánh Tông đã sát nhập các địa khu Amaravati
và Vijaya và lập nên thừa tuyên Quảng Nam.
Theo sử sách Việt Nam, sau khi mất vùng Vijaya, một tướng Chăm là Bô Trì Trì chạy
vào nam chiếm vùng Panduranga xưng làm vua của người Chăm xin nộp cống xưng
thần với Đại Việt. Vua Lê Thánh Tông cũng phong vương cho tiểu vương xứ Kauthara
(Hoa Anh) tức là vùng đất tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay và nước Nam Bàn (sau

này là hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá mà ngày nay là đất các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và
Đăk Lăk tức miền đất Tây Nguyên). Chính thất bại này đã dẫn đến việc người Chăm lần
đầu tiên di cư với số lượng lớn sang Campuchia và Malacca.
Panduranga-Chăm Pa
Bài chi tiết: Panduranga-Chăm Pa và Thuận Thành trấn

4/14


Chăm pa

Phần đất còn lại của vương quốc Chăm Pa từ sau năm 1471 mà sách sử người Việt gọi
là Chiêm Thành chỉ từ đèo Cù Mông, Phú Yên ngày nay trở về Nam gồm hai địa khu
Kauthara và Panduranga. Năm 1594 vua Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp
Sultan xứ Johor để tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca.
Tuy nhiên các cuộc tấn công từ chúa Nguyễn cai trị xứ Đàng Trong của Đại Việt vào các
năm 1611 và 1653 đã dẫn tới Chăm Pa mất luôn vùng Kauthara. Tới năm 1693, tướng
Nguyễn Hữu Cảnh tấn công vào Panduranga, bắt vua Po Sout đưa về Phú Xuân và đưa
em trai của Po Sout là Po Saktiray Da Patih (Kế Bà Tử) lên làm vua, Panduranga được
đổi thành Thuận Thành Trấn và vua Chăm được gọi là Trấn Vương cai trị Thuận Thành
Trấn với sự giám sát chặt chẽ của các quan lại của chúa Nguyễn. Chế độ tự trị này được
duy trì cho đến tận năm 1832 qua các đời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và thời kỳ đầu
triều đại nhà Nguyễn. Tuy nhiên, các đời chúa Chăm sau Po Saktiray Da Patih không
còn duy trì được mối quan hệ trực tiếp với các chúa Nguyễn và mọi công việc của Thuận
Thành Trấn được tiến hành thông qua phủ Bình Thuận.
Năm 1832 người Chăm lại nổi dậy chống lại vua Minh Mạng nhân dịp có cuộc khởi
nghĩa Lê Văn Khôi ở phía Nam nhưng không thành công. Chính quyền tự trị hạn chế
của người Chăm chấm dứt tồn tại vào năm 1832, khi Hoàng đế Minh Mạng đổi Thuận
Thành thành phủ Ninh Thuận và đặt quan lại cai trị trực tiếp. Lịch sử vương quốc Chăm
Pa chính thức dừng lại ở đây.

Lịch sử miền đất Tây Nguyên ngày nay sau khi tách khỏi lịch sử Chăm Pa vào năm
1471 còn chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu. Mối quan hệ lịch sử giữa Chăm
Pa (trước thời Lê), Nam Bàn (thời Lê) và hai nước Thủy Xá, Hóa Xá (thời Nguyễn) còn
chưa được chứng minh. Tuy nhiên theo Cương mục thì vua Lê Thánh Tông phong cho
dòng dõi chúa Chăm Pa làm Nam Bàn quốc vương và đất đai Nam Bàn chính là đất phụ
thuộc Chăm Pa xưa (trước thời Lê) và vào thời Nguyễn đấy chính là đất của hai nước
Thủy Xá và Hỏa Xá (tức Tây Nguyên ngày nay). Sau khi Chăm Pa bị sát nhập hoàn toàn
vào Việt Nam thì hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá tức miền đất Tây Nguyên ngày nay vẫn
giữ được độc lập nhưng trở thành phiên thuộc của nhà Nguyễn cho đến thời Pháp thuộc.
Địa lý
Cương vực
Đại Việt
Chăm Pa
Đế quốc Khmer
Từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 15, lãnh thổ của vương quốc Chăm Pa có nhiều biến
động về biên giới phía bắc với Đại Việt. Lãnh thổ Chăm Pa ban đầu là vùng mà ngày

5/14


Chăm pa

nay bao gồm các tỉnh từ Quảng Bình, Quảng Trị cho đến Ninh Thuận, Bình Thuận. Đến
năm 1069, vua Rudravarman (Chế Củ) của Chăm Pa đã nhượng ba châu Địa Lý (Lệ
Ninh, Quảng Bình ngày nay), Ma Linh (Bến Hải, Quảng Trị ngày nay) và Bố Chính
(các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình ngày nay) cho vua Lý
Thánh Tông của Đại Việt và lãnh thổ Chăm Pa chỉ còn từ Thừa Thiên - Huế ngày nay
trở xuống.Đến năm 1306, vua Jayasimhavarman III (Chế Mân) nhượng hai châu Ô, Lý
cho nhà Trần. Nhà Trần đổi hai châu này thành hai châu Thuận và châu Hóa nay là vùng
từ Thừa Thiên – Huế cho đến Đà Nẵng. Đến năm 1471, vua Lê Thánh Tông sau khi

đánh bại quân Chiêm và sáp nhập phần lớn lãnh thổ Chiêm đã xác lập lãnh thổ Chiêm
chỉ bao gồm các tỉnh Phú Yên – Khánh Hòa và Ninh Thuận – Bình Thuận ngày nay.
Về phía Tây, tuy lãnh thổ Chăm Pa bao gồm cả Tây Nguyên và đôi khi còn mở rộng
sang tận Lào ngày nay, nhưng người Chăm vẫn duy trì lối sống của những người đi biển
với các hoạt động thương mại đường biển, và chỉ định cư ở khu vực đồng bằng ven biển
miền Trung Việt Nam. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông tách phần đất thuộc Tây Nguyên
ngày nay thành nước Nam Bàn và từ đây miền đất này không còn thuộc cương vực của
Chăm Pa.
Các địa khu
Vương quốc Chăm Pa trong lịch sử bao gồm bốn địa khu với tên gọi xuất phát từ lịch sử
Ấn Độ. Vị trí và lãnh thổ của các khu vực này như sau:
* Amaravati: Nay là thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi. Địa khu này
có hai trung tâm là thành phố Indrapura nằm ở khu vực Đồng Dương, thuộc địa phận
huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam và thành phố Simhapura nằm ở Trà Kiệu huyện
Duy Xuyên, Quảng Nam ngày nay. Và thánh địa Mỹ Sơn nằm ở cách Trà Kiệu khoảng
25km về hướng tây nam, nơi vẫn còn nhiều di tích đền tháp của người Chăm. Địa khu
này lúc mở rộng nhất bao gồm các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, và Thừa Thiên–Huế
ngày nay.
* Vijaya: Thủ phủ cũng là thành phố cùng tên Vijaya mà trong sách sử của người Việt
gọi là Chà Bàn (thời Lê) mà sách sử Việt viết nhầm thành Đồ Bàn nằm ở gần Qui Nhơn
thuộc tỉnh Bình Định ngày nay. Địa khu này là toàn bộ khu vực tỉnh Bình Định ngày
nay.
* Kauthara: Thủ phủ là thành phố Kauthara, nay là Nha Trang thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Địa khu này bao gồm hai tỉnh mà ngày nay là Khánh Hòa và Phú Yên
* Panduranga: Thủ phủ là thành phố Panduranga ngày nay là thị xã Phan Rang thuộc
tỉnh Ninh Thuận. Địa khu này bao gồm hai tỉnh mà ngày nay là Ninh Thuận và Bình
Thuận. Panduranga là lãnh thổ Chăm Pa cuối cùng bị Đại Việt sáp nhập. Dưới thời các
chúa Nguyễn cũng như đầu thời Nguyễn được gọi là Thuận Thành.

6/14



Chăm pa

Văn hóa nghệ thuật
Văn hóa Ấn Độ, Campuchia và Java đều có ảnh hưởng đến văn hóa Chăm Pa. Từ thế kỷ
thứ 4 vương quốc Phù Nam ở Campuchia và miền Nam Việt Nam ngày nay đã truyền
bá văn minh Ấn Độ vào xã hội Chăm. Tiếng Phạn trở thành ngôn ngữ học thuật, và Ấn
giáo, đặc biệt là Si-va giáo, trở thành quốc giáo. Từ thế kỷ thứ 10, các thương nhân Ả
Rập đã mang tôn giáo và văn hóa đạo Hồi vào khu vực. Chăm Pa có vai trò trung chuyển
quan trọng trên con đường hồ tiêu từ vịnh Pec-xich tới miền Nam Trung quốc và sau này
là con đường thương mại trên biển của người Ả Rập, xuất phát từ bán đảo Đông Dương
- nơi xuất khẩu trầm hương. Mặc dù giữa Chăm Pa và đế quốc Khmer luôn có chiến
tranh, nhưng thương mại và văn hóa vẫn được giao lưu về cả hai phía. Hoàng gia của
hai vương quốc cũng thường xuyên lấy lẫn nhau. Chăm Pa còn có quan hệ thương mại
và văn hóa với các đế quốc hùng mạnh trên biển như Srivijaya và sau này với Majapahit
trên bán đảo Mã Lai.
Tôn giáo, tín ngưỡng
Trước khi bị vua Lê Thánh Tông chinh phục năm 1471, tôn giáo chính của người Chăm
là Ấn độ giáo, và nền văn hóa Chăm cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn minh Ấn Độ.
Ấn độ giáo ở Chăm Pa chủ yếu là Si-va giáo, tức là đạo thờ thần Shiva, và có ảnh hưởng
của các yếu tố tôn giáo bản địa như thờ nữ thần Đất Yan Po Nagar. Biểu tượng chính
của tôn giáo Si-va của người Chăm là linga, mukhalinga, jatalinga, linga chia tầng và
kosa.
* Linga (hay còn gọi là lingam) là một cột trụ có hình dương vật đại diện cho Shiva.
Các vua Chăm thường xuyên dựng và cúng các linga bằng đá để thờ ở trung tâm các đền
tháp của hoàng gia. Tên mà vua Chăm đặt cho một linga sẽ bao gồm tên của nhà vua và
đuôi "-esvara," tức là Shiva
* Mukhalinga là một linga mà trên đó có vẽ hoặc chạm hình ảnh Shiva dưới dạng hình
người hay hình khuôn mặt.

* Jatalinga là một linga mà trên đó chạm phong cách điển hình của Shiva là kiểu tóc búi.
* Linga phân tầng là một cột linga chia làm ba phần đại diện cho ba thể (trimurti) của
thượng đế trong Ấn giáo: phần dưới cùng, là một khối hình lập phương, tượng trưng cho
Brahma; phần ở giữa, là một hình lăng trụ tám mặt, đại diện cho Vishnu; và phần trên
cùng, có hình tròn, đại diện cho Shiva.
* Kosa là một khối kim loại hình trụ được sử dụng để che phủ cho linga. Việc hiến tế
một kosa để trang trí cho linga là một nét đặc trung độc đáo của đạo Si-va của người
Chăm. Các vua Chăm thường đặt tên cho các kosa đặc biệt cũng theo cách họ tự đặt tên
cho các linga.

7/14


Chăm pa

Việc Ấn giáo là một tôn giáo chiếm ưu thế của người Chăm bị gián đoạn từ thế kỷ 9 đến
thế kỷ 10 khi triều đại Indrapura (Đồng Dương ở tỉnh Quảng Nam ngày nay) theo Phật
giáo Đại thừa. Phong cách nghệ thuật Phật giáo Chăm Pa thời Đồng Dương được công
nhận là một trong những phong cách độc đáo.
Trong thế kỷ thứ 10 và các thế kỷ sau, Ấn Độ giáo lại trở thành tôn giáo chính của Chăm
Pa. Một số nơi vẫn còn lưu giữ những công trình tôn giáo và cũng là các công trình kiến
trúc và nghệ thuật của thời kỳ này như Mỹ Sơn, Khương Mỹ, Trà Kiệu, Chánh Lộ và
Tháp Mẫm.
Hồi giáo bắt đầu xâm nhập vào Chăm Pa từ sau thế kỷ thứ 10, nhưng chỉ sau năm 1471
thì ảnh hưởng của Hồi giáo mới rõ nét. Vào thế kỷ thứ 17 thì hoàng gia Chăm đã theo
đạo Hồi và cũng từ đó phần lớn người Chăm bắt đầu theo đạo này, và khi vùng đất này bị
sáp nhập vào Việt Nam thì phần lớn người Chăm ở đây đã theo đạo Hồi. Phần lớn người
Chăm đều là người Hồi giáo và cũng giống như người Java ở Indonesia, họ còn chịu
nhiều ảnh hưởng của Ấn giáo. Các văn bản của Indonesia còn ghi lại câu chuyện công
chúa Darawati, một công chúa Chăm đã ảnh hưởng đến chồng là Kertawijaya, người cai

trị đời thứ bảy của Majapahit, tượng tự như câu chuyện với Parameshwara, người đã cải
đạo Hồi cho hoàng gia Majapahit. Ngôi mộ của Putri Champa (công chúa Chăm) vẫn
còn thấy ở Trowulan, nơi xưa kia là thủ đô của Majapahit.
Kiến trúc, điêu khắc
Bài chi tiết: Các phong cách nghệ thuật Chăm Pa và Phong cách nghệ thuật các tháp
Chăm
Kiến trúc Chăm Pa đươc phân tích qua các tháp Chăm thờ các vị thần Ấn Độ giáo và
các vị vua Chăm được hóa thần còn sót lại cũng như dấu tích của các tòa thành cổ, tu
viện phật giáo thời Indrapura. Về phong cách kiến trúc điêu khắc các tháp được các nhà
nghiên cứu thường chia ra làm nhiều thời kỳ, mỗi một thời kỳ có những thay đổi khác
nhau, dấu dấn riêng biệt của người Chăm là kỹ thuật làm gạch kết dính để xây tháp và
chạm trổ trên đá.
Cùng với nền điêu khắc của người Khmer và người Java, nền điêu khắc Chăm Pa là
một trong ba nền điêu khắc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ đạt tới tầm cỡ thế giới. Tuy ảnh
hưởng nhiều từ nền điêu khắc Ấn Độ, Java và Khmer nhưng điêu khăc Chăm Pa vẫn có
những tính độc đáo riêng. Xu thế hướng tới tượng tròn của hầu như tất cả các hình chạm
khắc dưới dạng phù điêu, trong điêu khắc Chăm Pa rất ít có khung cảnh chung mà nhấn
mạnh vào từng hình tượng, ví dụ như bức phù điêu tiên nữ Apsara đang múa được tìm
thấy ở Trà Kiệu thể hiện bàn tay to, cánh tay cong. Chính vì thế nghệ thuật điêu khắc
của Chăm Pa mang tính ấn tượng nhiều hơn là tả thực, tính ấn tượng có thể nói là đặc
điểm quan trọng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật điêu khắc cổ Chăm Pa.

8/14


Chăm pa

Chữ viết, bia ký
Văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng vào Chăm Pa từ những thời kỳ đầu, dẫn tới các trước tác
về luật pháp, chính trị xã hội đều có mặt ở Chăm Pa, được các vua chúa Chăm áp dụng

và ưa thích. Chữ bắc Phạn (Sanskrit) đã được người Chăm tiếp thu từ những thế kỷ đầu
công nguyên, các chữ viết trên bia Võ Cạnh ở thế kỷ 3 với cách viết rất gần với kiểu viết
của các bia ký vùng Amaravati ở Nam Ấn Độ, tuy nhiên chữ viết của Chăm Pa trong
hơn 10 thế kỷ tồn tại của mình cũng liên tục thay đổi tương ứng với những thời kỳ ảnh
hưởng từ các vùng khác nhau ở Ấn Độ, từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 8, chữ Phạn ở Chăm Pa
có dạng tự vuông của vùng bắc Ấn, nhưng từ thế kỷ 9 trở đi chữ Phạn ở Chăm Pa lại có
dạng tự tròn của vùng nam Ấn, có thể nhận định Chăm Pa là quốc gia đầu tiên có chữ
viết sớm nhất Đông Nam Á. Xuất phát từ dạng tự của chữ Phạn, người Chăm đã bỏ các
phụ ghi âm vốn không có trong tiếng Chăm và một số ký hiệu mới được bổ sung thành
một dạng chữ Phạn-Champa, theo các nhà nghiên cứu tiếng Chăm có 65 ký hiệu và 24
chân ngữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo (Akhar Thrah) của Ấn Độ.
Theo thống kê của các học giả người Pháp vào năm 1923, số bia ký Chăm đã được biết
là 170, tất cả các bia ký Chăm đều được khắc lên đá thành những tấm bia to và đẹp và
một số bia ký khác được khắc lên tường của các tháp Chăm. Các văn bia cổ Chăm Pa là
những văn bản gần như duy nhất thể hiện ý tưởng của các vị vua và triều đình, trong số
123 bia ký có thể hiểu được nội dung thì 92 bia nói về Siva giáo, 5 bia về thần Brahma,
3 bia về thần Visnu, 7 bia về đức Phật và 21 bia không rõ về về tính tôn giáo.

Văn học, ghi chép
Do chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Ấn Độ cho nên ý nghĩa văn chương được thể
hiện trong các bia ký, các tác giả bia ký cố gắng dùng lời lẽ văn hoa, nhiều điển tích và
ẩn dụ của văn học Ấn Độ để thể hiện ý tưởng của mình, vì thế mà văn bia Chăm Pa là
một mảng quan trọng nhất của văn học Chăm Pa, các bia ký Chăm Pa bằng chữ Phạn
được viết chủ yếu theo những thể thơ của Ấn Độ, văn học Ấn Độ qua hình thức truyền
khẩu trong dân gian chắc cũng có mặt ở Chăm Pa, điều này được thế hiện qua việc
người Chăm dựng đền thờ Rsi Valmiki, người được coi là tác giả của sử thi Ramayana
cũng như các bức phù điêu thể hiện các nhân vật có trong sử thi Ramayana như chàng
Rama, nàng Sita. Ngoài bộ sử thi Ramayana, các bộ sử thi khác của Ấn Độ cũng được
phổ biến ở Chăm Pa như bộ Mahabharata và thậm chí là truyện ngụ ngôn Ấn Độ qua bộ
Bhagavata.

Theo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc)
đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này
của ông là Ying-yai Sheng-lan - Doanh Nhai Thắng Lãm, thì văn bản ghi chép trong xã
hội Chăm Pa thời kỳ này được miêu tả:

9/14


Chăm pa

Về việc viết chữ, họ không có giấy hay bút, họ dùng da dê kéo mỏng hay vỏ cây hun
khói đen, và họ gấp nó lại thành hình một quyển kinh sách, với phấn trắng, họ viết chữ
để ghi lại thành tài liệu lữu trữ.
Âm nhạc, ca múa
Âm nhạc và ca múa có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm,
ở các tín ngưỡng như lễ tết Kate, lễ cầu đảo, lễ mở cửa tháp. Việc dùng các hình thức
nhạc cụ tùy thuộc vào tính chất các buổi lễ và các hình thức sinh hoạt khác nhau. Trống
Branung và trống Kynang là loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ của người Chăm. Trong
nhạc cụ hơi, chiếc kèn Saranai có vị trí đặc biệt. Múa là loại hình nghệ thuật gắn bó với
người Chăm như hình với bóng rất phong phú và độc đáo, người Chăm có các điệu múa
khác nhau như: múa sinh hoạt, múa tôn giáo, múa tập thể, múa độc diễn, múa đạo cụ và
múa bóng.

Tổ chức xã hội
Cho đến nay, các công trình nghiên cứu dân tộc học và điền dã cũng như tổng quan các
nghiên cứu về xã hội nguời Chăm đều tập trung vào người Chăm hiện đại. Đến nay chưa
có một công trình nghiên cứu lịch sử nào, nhất là các công trình dựa trên khảo cứu văn
bia hay văn tịch cổ của người Chăm cho ra các kết luận khách quan có chứng cứ về xã
hội Chăm Pa cổ, tuy nhiên từ những sử liệu, bia ký rời rạc chúng ta có thể điểm được
một số yếu tố trong tổ chức xã hội Chăm Pa.

Luật pháp
Các bia ký và các tác phẩm điêu khắc không thể hiện cho thấy bất kỳ một thiết chế luật
pháp nào, tuy nhiên qua ghi chép của Mã Đoan tới đây vào đầu thế kỷ 15 có thể cho
chúng ta thấy một phần nào về luật pháp của Chăm Pa thời kỳ đó:
Về các tội bị trừng phạt tại xứ sở này:
* Đối với các tội nhẹ, họ dùng việc đánh vào lưng bằng một sợi mây.
* Đối với các tội nặng, họ cắt mũi.
* Đối với tội cướp, họ chặt tay.
* Đối với tội ngoại tình, đàn ông và đàn bà bị khắc lên mặt sao cho thành vết sẹo.
* Đối với các tội nghiệm trọng nhất, họ lấy một thanh gỗ cứng, vót nhọn đầu cọc, đặt
cọc đó trên một khúc gỗ trông tựa như một một chiếc thuyền nhỏ, khúc gỗ này họ đặt

10/14


Chăm pa

trên dòng nướcc và họ bắt tội nhân ngồi trên mũi nhọn cọc gỗ, cọc gỗ này thò ra từ cửa
miệng và tội nhân bị chết, và rồi thi thể bị bỏ trên dòng nước để cảnh cáo công chúng.
Hệ thống đẳng cấp
Một số nghiên cứu dựa trên nền văn hóa Ấn hóa của người Chăm đều trình bày xã hội
dưới dạng các đẳng cấp (caste) trong kinh Vệ Đà trước khi đi vào khảo cứu các di tích
văn hóa nghệ thuật Chăm Pa còn lại. Theo đó, xã hội Vệ Đà có bốn đẳng cấp, đứng đầu
là đẳng cấp giáo sĩ Brahman chuyên về thờ cúng, tiếp theo là đẳng cấp Ksatria tức chiến
binh có nhiệm vụ bảo vệ các đẳng cấp kia. Các học giả hiện đại theo xu hướng nghiên
cứu thực chứng đã tỏ ra dè dặt hơn và không đề cập gì từ phương diện nghiên cứu sử
học, nhất là từ các tài liệu văn bia về cơ cấu xã hội của Chăm Pa cổ. Các sự kiện lịch
sử, như việc Lưu Kế Tông, một người Việt chứ không phải người Chăm làm vua Chăm
Pa cho dù chỉ có ba năm (983-986) rồi bị người Chăm đoạt lại vương vị cũng chứng tỏ
cơ cấu xã hội Chăm Pa cổ phức tạp hơn trong kinh Vệ Đà nhiều. Tóm lại, việc xem xã

hội Chăm Pa cổ là xã hội Vệ Đà với bốn đẳng cấp như ở Ấn Độ cổ (hay năm đẳng cấp
với đẳng cấp thứ năm là ngoại nhân) cần được nhìn nhận rất thận trọng vì chưa có công
trình nghiên cứu nào từ cứ liệu văn khắc Chăm cổ chứng minh.
Chế độ mẫu hệ
Nhiều học giả trong nước trên cơ sở nghiên cứu chế độ mẫu hệ vẫn còn tồn tại của người
Chăm hiện nay và trên cơ sở nghiên cứu cụ thể các cặp linga-yoni, đặc biệt là linga phân
tầng, cả linga phân làm ba tầng thể trimutri (ba thể của Thượng Đế) và hai tầng (linga và
yoni - âm và dương) được đặt trên bệ đá hình vuông có khe để nước chảy thoát ra chính
là yoni được đặt bên dưới linga, thì cho rằng ở xã hội Chăm cổ vai trò của người phụ nữ
trong xã hội cũng rất to lớn. Tuy nhiên, cũng giống như ở trên, đấy mới chỉ là một suy
luận chứ chưa có các tài liệu văn bia chứng minh và chưa có công trình nghiên cứu lịch
sử dựa trên các văn khắc Chăm cổ nào đề cập đến việc này.

Thể chế chính trị
Nền quân chủ
Bài chi tiết: Vua Chăm Pa
Vương quốc Chăm Pa bị diệt vong, di tích để lại cũng như những ghi chép từ sử liệu
không đủ để xác định tất cả các đời vua và các thông tin chi tiết về năm cai trị của tất
cả các vua. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào nhiều nguồn tài liệu, trong đó có cả các bia
khảo cổ, di tích của người Chăm, tới nay xác định được khoảng 10 triều đại với gần 100
vị vua Chăm Pa.

11/14


Chăm pa

Một số vua Chăm Pa được gọi tên phiên âm theo tiếng Hán, theo cách gọi của các thư
tịch cổ của Việt Nam và Trung Quốc. Một số vị có tên Chăm được phục hồi qua đối
chiếu tên bằng tiếng Phạn và tiếng Hán, như Cambhuvarman tức Phạm Phan Chí hoặc

Kandharpadjarma tức Phạm Đầu Lê..., do được xuất hiện trong cả bi ký Chăm và thư
tịch Hán.
Hệ thống Mandala
Các học giả hiện đại quan niệm thể chế chính trị và hành chính của vương quốc Chăm Pa
theo hai thuyết đối lập nhau. Mặc dù các học giả đều thống nhất việc vương quốc Chăm
Pa bị chia nhỏ thành bốn địa khu (Panduranga, Kauthara, Amaravati, Vijaya ) chạy từ
Nam lên Bắc dọc theo bờ biển Việt Nam ngày nay và được thống nhất bởi ngôn ngữ,
văn hóa và di sản chung. Tuy nhiên, các học giả không thống nhất việc các địa khu này
có cùng thuộc một thực thể chính trị đơn nhất, hay là các địa khu này hoàn toàn độc lập
với nhau như là các tiểu quốc. Nhiều tác giả quan niệm Chăm Pa là một liên bang bao
gồm nhiều tiểu quốc, tuy có chính quyền trung ương thống nhất nhưng các tiểu vương
hoàn toàn tự quyết cai trị tiểu quốc của mình. Một thực tế là không phải lúc nào các tài
liệu lịch sử cũng phong phú đối với mỗi địa khu ở tất cả các giai đoạn. Ví dụ, vào thế kỷ
thứ 10, tài liệu về Indrapura rất phong phú trong khi ở thế kỷ thứ 12 lại rất giàu tài liệu
về Vijaya; còn sau thế kỷ thứ 15, tài liệu về Panduranga rất phong phú. Một số học giả
xem việc biến động của các tài liệu lịch sử trên là phản ánh việc di dời của thủ đô Chăm
Pa và quan niệm Chăm Pa nếu không phải là một thể chế chính trị đơn nhất thì cũng là
một liên bang các tiểu quốc và việc tài liệu phong phú chính minh chứng cho điều này
là thủ đô của Chăm Pa. Các học giả nhận thấy, thế kỷ thứ 10 tài liệu về Indrapura rất
phong phú, có lẽ xuất phát từ lý do đây là thủ đô của Chăm Pa. Các học giả khác không
nhất trí như vậy và cho rằng Chăm Pa chưa bao giờ là một quốc gia thống nhất và không
cho rằng việc giàu cứ liệu ở một giai đoạn lịch sử là cơ sở để cho rằng đó là thủ đô của
quốc gia thống nhất.

Kinh tế
Trong khi có nhiều công trình nghiên cứu về đời sống, hoạt động kinh tế và cơ cấu,
tổ chức và các mặt khác nhau của người Chăm hiện đại thì chưa có những công trình
nghiên cứu như vậy cho vương quốc Chăm Pa cổ. Lý do cũng thật dễ nhận thấy vì những
gì thuộc về thượng tầng kiến trúc là những thứ khó còn lại với thời gian và sử liệu về
một vương quốc có thời đã dựng nền những đền tháp rực rỡ chạy dài suốt ven biển miền

Trung Việt nam ngày nay cũng chỉ còn qua các phế tích.
Qua các công trình nghiên cứu lịch sử, các tác giả cho rằng nền kinh tế Chăm Pa xưa
chủ yếu dựa vào các hoạt động nông nghiệp, sản xuất đồ thủ công và thương mại. Các
dầu vết còn lại ở miền Trung Việt Nam của những hệ thống thủy lợi phức tạp và những
giống lúa có chất lượng cao đặc trưng riêng của miền Trung được xem là các bằng chứng
của một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đã phát triển cao.
12/14


Chăm pa

Vương quốc Chăm Pa xưa có được vị trí thuận lợi cho sự phát triển thương mại đường
biển. Các cảng biển của vương quốc là những điểm trung chuyển giao lưu hàng hóa
quốc tế cũng như để xuất khẩu các sản phẩm chủ yếu từ khai thác rừng ở miền thượng
của các đồng bằng ven biển và Tây Nguyên. Từ thế kỷ thứ 10, các cảng của Chăm Pa
đã được biết đến như là những thương cảng quan trọng trên Biển Đông, nằm trên hành
trình thương mại đường biển giữa phương Đông và phương Tây vẫn được gọi là "Con
đường tơ lụa trên biển". Các sản phẩm xuất cảng của Chăm Pa là sản phẩm của sản xuất
đồ thủ công như các đồ gốm sứ, đất nung và cả các sản phẩm khai thác miền rừng như
sừng tê, ngà voi, và đặc biệt là trầm hương, và cả của hoạt động khai thác tổ yến trên
các đảo ngoài khơi.
Về phương tiện thanh toán trong giao dịch thương mại, Theo ghi chép của Mã Đoan
một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của ông là Ying-yai Sheng-lan
- Doanh Nhai Thắng Lãm, thì giao dịch thời kỳ này được miêu tả:
Trong giao dịch mua bán, họ hiện dùng vàng nhạt màu, non tuổi, có độ ròng bẩy mười
phần trăm, hoặc họ dùng bạc.

Dân tộc dân cư
Người Chăm trong thời vương quốc Chăm Pa lịch sử bao gồm hai bộ tộc chính là bộ
tộc Dừa (Narikelavamsa) và Cau (Kramukavamsa). Bộ tộc Dừa sống ở Amaravati và

Vijaya trong khi bộ tộc Cau sống ở Kauthara và Pandaranga. Hai bộ tộc có những cách
sinh hoạt và trang phục khác nhau và có nhiều lợi ích xung đột dẫn đến tranh chấp thậm
chí chiến tranh. Nhưng trong lịch sử vương quốc Chăm Pa các mối xung đột này thường
được giải quyết để duy trì sự thống nhất của đất nước thông qua hôn nhân.
Bên cạnh người Chăm, chủ nhân vương quốc Chăm Pa xưa còn có cả các tộc người
thiểu số gốc Nam Đảo và Mon-Khmer và ở phía Bắc Chăm Pa còn có cả người Việt.
Thánh địa Mỹ Sơn
Tháp Po Nagar ở Nha Trang
Rất nhiều tháp cổ của người Chăm vẫn còn ở miền Trung Việt Nam. Một điển hình về
kiến trúc là thánh địa Mỹ Sơn gần Hội An. Thánh địa Mỹ Sơn bị bom Mỹ hủy hoại nặng
nề trong chiến tranh nhưng đã được phục chế lại sau chiến tranh từ thập niên 1980 với
những đóng góp to lớn của kiến trúc sư Ba Lan Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997).
Năm 1999, thánh địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Ngoài ra còn có các di tích tháp Chăm nổi tiếng ở miền Trung vẫn được cộng đồng
người Chăm hiện nay sử dụng để thờ tự như:

13/14


Chăm pa

* Tháp Po Nagar (Khánh Hòa)
* Tháp Po Klaung Garai (Ninh Thuận)
* Tháp Po Rome (Ninh Thuận)
* Tháp Po Sha Inư (Bình Thuận)
Các hiện vật điêu khắc Chăm phong phú nhất có tại Bảo tàng Chăm Đà Nẵng (trước đây
là "Musée Henri Parmentier") ở thành phố biển Đà Nẵng. Viện bảo tàng được thành lập
từ năm 1915 bởi học giả người Pháp và đến nay vẫn được xem là một trong những bảo
tàng lớn ở Đông Nam Á. Các hiện vật Chăm cũng có mặt tại các viện bảo tàng khác
như:

* Bảo tàng Mỹ thuật, Hà nội
* Bảo tàng Lịch sử, Hà nội
* Bảo tàng Mỹ thuật, TP HCM
* Bảo tàng Lịch sử, TP HCM
* Bảo tàng Guimet, Paris

14/14



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×