Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Tiểu luận Tế bào gốc và những ứng dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 37 trang )

Tế bào gốc và những ứng dụng

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ
-----š›&š›-----

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài:
TẾ BÀO GỐC VÀ NHỮNG ỨNG DỤNG

GVHD:

GS.TS NGÔ ĐẮC CHỨNG

HỌC VIÊN:

LÊ KHÁNH VŨ

LỚP:

LL & PP DẠY HỌC SINH HỌC K24

Huế, Tháng 01 năm 2016
GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

1


Tế bào gốc và những ứng dụng



MỤC LỤC

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

2


Tế bào gốc và những ứng dụng

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

3


Tế bào gốc và những ứng dụng

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Như chúng ta đã biết, sự sống bắt đầu từ tế bào gốc (stem cell). Nói như vậy có
nghĩa là tế bào gốc là mầm sống của một cơ thể.
Năm 1950, các nhà khoa học đã phát hiện về sự tồn tại của tế bào gốc trong cơ
thể chúng ta, thông qua quá trình tiến hành thí nghiệm với tuỷ xương [35].
Kể từ khi phát hiện cho đến ngày nay, tế bào gốc được xem là niềm hi vọng cho
y học hiện đại, là chiếc chìa khoá vàng mở ra cánh cửa hướng tới những phương pháp
chữa trị cho nhiều bệnh nhân mắc những căn bệnh hiểm nghèo.

Đã có rất nhiều tác giả trong nước và trên thế giới tập trung nghiên cứu về tế
bào gốc nhằm tìm ra những ứng dụng tính hiệu quả, đặc biệt là trong việc chữa trị các
bệnh nan y mà hiện nay chưa có phương pháp chữa trị. Ngay cả trong lĩnh vực thẩm
mỹ, người ta cũng đã dựa vào khả năng tái tạo và tự phân hoá của nhiều loại tế bào
trong cơ thể để chăm sóc sắc đẹp.
Vậy tế bào gốc là gì? Đặc điểm của nó ra sao? Nó có nguồn gốc từ đâu…? Để
trả lời cho những câu hỏi đó, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Tìm hiểu về tế bào gốc và
những ứng dụng của nó ” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. MỤC ĐÍCH
- Tìm hiểu về đặc điểm, nguồn gốc và ứng dụng của tế bào gốc.
- Tìm hiểu về những vấn đề ngoài ứng dụng của tế bào gốc.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thu thập, nghiên cứu các tài liệu, sách báo và các trang web có liên quan đến tế
bào gốc.

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

4


Tế bào gốc và những ứng dụng

PHẦN II. NỘI DUNG
1. KHÁI QUÁT VỀ TẾ BÀO GỐC
1.1.Khái niệm tế bào gốc
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về tế bào gốc. Chúng ta có thể hiểu về tế bào
gốc thông qua một số khái niệm sau:
Tế bào gốc là tế bào có khả năng phát triển thành nhiều loại tế bào khác nhau

trong cơ thể. Là một công cụ trong "hệ thống sửa chữa" của cơ thể, khi được đưa vào
các bộ phận khác nhau, tế bào gốc có thể phân chia không giới hạn để lấp đầy những
thiếu hụt tế bào của bộ phận đó chừng nào cơ thể còn sống. Tế bào gốc có thể trở
thành tế bào cơ, hồng huyết cầu, tế bào não [5].
Tế bào gốc là những tế bào không chuyên hóa có khả năng phân chia nhiều lần
và biệt hóa thành các tế bào chuyên hóa khác [6].
Tế bào gốc là những tế bào cơ sở cho tất cả các cơ quan, mô, và tế bào
trong cơ thể. Chúng giống như một con chip vi tính còn trắng, có thể được đặt chương
trình để thực hiện một nhiệm vụ nào đó [1].
Tế bào gốc là loại tế bào tương đối nguyên thuỷ, có khả năng phân chia nhanh
chóng để tạo thành các tế bào có chức năng đặc trưng [3].
Tế bào gốc là tế bào còn non trẻ, có khả năng tự thay mới mình và biệt hoá
thành các tế bào chuyên biệt khác để tạo nên các mô, cơ quan khác nhau của cơ thể và
thay thế cho các tế bào ở các mô, cơ quan bị mất đi do già và chết tự nhiên hoặc bị tổn
thương vì các nguyên nhân khác nhau [19].
Chúng ta có thể hiểu một cách tổng quát nhất như sau:
Tế bào gốc là những tế bào chưa biệt hoá và chúng có khả năng biệt hoá thành
các kiểu tế bào chức năng, điều này cho phép chúng có vai trò như hệ thống sữa chữa
mô, tạo những tế bào khác hoạt động bình thường trong cơ thể sinh vật [2].
1.2. Đặc điểm của tế bào gốc [7]
1.2.1. Tế bào gốc là tế bào không bị biệt hoá ( không chuyên dụng)
Một đặc điểm cơ bản của tế bào gốc là nó không chứa một cấu trúc mô đặc biệt
nào nên nó cũng không thực hiện một chức năng chuyên dụng nào. Một tế bào gốc
không thể phối hợp với các tế bào gần đó để lưu thông máu trong cơ thể (như tế bào
cơ tim); nó không thể mang các phân tử ôxy trong dòng máu (như hồng huyết cầu); nó
không thể đốt cháy điện hóa học giúp cơ thể có thể di chuyển, nói năng (như tế bào
GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24


5


Tế bào gốc và những ứng dụng
thần kinh). Tuy nhiên, các tế bào gốc không chuyên dụng này lại có thể biến đổi thành
các tế bào chuyên dụng như tế bào cơ tim, tế bào máu, tế bào não...
1.2.2. Tế bào gốc có thể tự phân chia và tái tạo trong thời gian dài
Không giống như tế bào cơ, tế bào máu hay tế bào não - không thể tự tái tạo, tế
bào gốc có thể tự tái tạo và tái tạo nhiều lần. Trong các phòng thí nghiệm, một lượng
tế bào gốc tương đối có thể tái tạo thành hàng triệu tế bào gốc khác trong thời gian vài
tháng. Nếu sau một quá trình tái tạo, tế bào gốc vẫn là tế bào không chuyên dụng, có
thể coi là tế bào mẹ, thì nó lại tiếp tục tái tạo thành các tế bào mới. Các điều kiện để
duy trì tế bào gốc như tế bào không chuyên dụng là mối quan tâm lớn của các nhà
khoa học. Để làm sáng tỏ điều này, các nhà khoa học đã mất rất nhiều năm để nghiên
cứu trong phòng thí nghiệm.
1.2.3. Tế bào gốc có thể biến đổi thành tế bào chuyên dụng
Khi tế bào gốc biến đổi thành tế bào chuyên dụng, quá trình này được gọi là sự
phân ly. Hiện các nhà khoa học vẫn đang đi những bước đầu tiên tìm hiểu những yếu
tố bên trong và bên ngoài quá trình này. Yếu tố bên trong được kiểm soát bởi gen của
tế bào nằm trên các chuỗi ADN, có khả năng mang tải thông tin về cấu trúc và chức
năng của tế bào. Các yếu tố bên ngoài là các hóa chất do các tế bào khác kiểm soát, là
sự tương tác với các tế bào khác và một số phân tử trong môi trường vi mô.
Cho đến nay còn rất nhiều câu hỏi đặt ra cho quá trình phân ly của tế bào gốc.
Ví dụ như, các yếu tố bên trong và bên ngoài quá trình phân ly của tất cả các loại tế
bào gốc có giống nhau không? Có thể nêu ra các yếu tố thúc đẩy sự phân ly của tế bào
gốc thành tế bào chuyên dụng không? Đáp án còn đang ở phía trước.
Những đặc tính độc nhất vô nhị này là yếu tố hứa hẹn, khiến tế bào gốc trở
thành nguồn cung cấp tế bào, nhằm điều trị các chứng bệnh như chứng mất trí nhớ,
ung thư, bệnh Parkinson, tiểu đường loại 1, chấn thương cột sống, đột quỵ, bỏng, bệnh
tim, viêm khớp xương mãn tính và viêm khớp dạng thấp. Ngày nay, các mô hay cơ

quan bị bệnh, bị hủy hoại đều được thay thế từ người hiến tặng. Về cơ bản, số lượng
người cần cấy ghép vượt xa số lượng bộ phận thay thế sẵn có. Tế bào gốc chính là
nguồn tiềm năng cung cấp các tế bào và mô có thể được ứng dụng trong điều trị nhiều
căn bệnh, do tế bào gốc có thể tự phục hồi và tạo ra các tế bào chuyên biệt.
Nhờ bởi chính đặc tính này của tế bào gốc khiến các nhà khoa học say mê
nghiên cứu hầu tìm kiếm các biện pháp điều trị y học nhằm thay thế các tế bào bị hủy
hoại hoặc thương tổn.
2. PHÂN LOẠI TẾ BÀO GỐC [2],[6],[7].
GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

6


Tế bào gốc và những ứng dụng
2.1. Dựa vào tiềm năng biệt hóa
2.1.1. Tế bào gốc toàn năng (Totipotent stem cells)
Tế bào gố toàn năng hay tế bào gốc tổng năng là loại tế bào gốc có khả năng
biệt hóa cho ra tất cả các loại tế bào chuyên hóa của bất kì một mô nào trong cơ thể.
Loại tế bào này phát triển sau khi trứng được thụ tinh khoảng 3-4 ngày, chúng hiện
diện ở phôi dâu (morula). Nếu các chuyên gia tách một trong các tế bào này và cấy
vào tử cung của người phụ nữ thành công. Tế bào tổng năng này sẽ phát triển thành
một thai nhi.Ví dụ: hợp tử, các tế bào gốc phôi sớm (16 tế bào).
2.1.2. Tế bào gốc vạn năng (Pluripotent stem cells)
Tế bào gốc vạn năng có khả năng biệt hóa thành các tế bào hiện diện trong 3 lá
phôi. Tế bào có thể hình thành nên bất cứ loại tế bào nào trong cơ thể (trên 200 loại)
gồm các tế bào có các chức năng chuyên biệt. Tuy nhiên, chúng không có khả năng để
phát triển thành một hữu thể như là tế bào gốc tổng năng (Totipotent Stem Cells )Ví
dụ: Tế bào gốc phôi tìm thấy ở phôi bào (từ 5 đến 14 ngày)- tế bào nội tại của phôi

bào (Inner Cell Mass – ICM).
2.1.3. Tế bào gốc đa năng (Multipotent stem cells)
Tế bào gốc đa năng có khả năng biệt hóa thành các tế bào có quan hệ thân
thuộc. Chẳng hạn như: tế bào gốc tạo máu biệt hóa thành hồng cầu, bạch cầu, tiểu
cầu. Tuy nhiên nó còn được sử dụng để chỉ những tế bào gốc thu nhận từ cơ thể
trưởng thành.
2.1.4. Tế bào gốc đơn năng (Unipotent stem cells)
Tế bào gốc đơn năng chỉ có thể tạo ra một loại tế bào chuyên hóa. Ví dụ: tế bào gốc
da cho ra các tế bào biểu mô da, tế bào gốc ruột chỉ cho ra dòng tế bào biểu mô ruột...
Ngoài ra còn có các loại tế bào gốc khác như tế bào gốc vài tiềm
năng(oligopotent), Hai tiềm năng (bipotent)... có khả năng biệt hóa thành một vài hoặc
2 loại tế bào.
2.2. Dựa vào vị trí thu nhận
2.2.1. Tế bào gốc phôi (Embryonic stem cells-ES)
2.2.1.1. Nguồn gốc[2],[6]
Tế bào gốc phôi được thu nhận từ giai đoạn phôi nang( blastocyst). Chúng là
khối tế bào bên trong, còn gọi là lớp sinh khối bên trong( Inner mass cell-ICM) của
phôi ở giai đoạn phôi bào (4-5 ngày sau thụ tinh)
GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

7


Tế bào gốc và những ứng dụng
Khối tế bào IMC

Hình 1. Phôi nang
(Nguồn: />2.2.1.2. Đặc điểm [2],[6]


Hình 2. Sự biệt hoá của tế bào gốc phôi
(Nguồn: xuanbichvietnam.wordpress.com)
- ES mang các đặc điểm cơ bản của tế bào gốc: không chuyên hóa, tự tái sinh,
khả năng biệt hóa.
- ES là tế bào gốc vạn năng (Pluripotent stem cells): có khả năng phân chia vô
hạn trong nuôi cấy và biệt hoá thành các tế bào khác nhau ở tất cả 3 lá phôi. Từ các tế
GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

8


Tế bào gốc và những ứng dụng
bào ở 3 lá phôi sẽ biệt hóa thành các tế bào thực hiện chức năng chuyên hóa thuộc các
mô khác nhau
2.2.1.3. Sự phát triển của ES trong môi trường in vitro [6]

Hình 3. Diễn biến quá trình thụ tinh và làm tổ của phôi
(Nguồn: www.giaoducsuckhoe.net)
Sau khi trứng được thụ tinh trong môi trường invitro, các sự kiện diễn ra như sau:
- Sau 24 – 25h, hợp tử tiến hành phân chia lần đầu tiên tạo thành 2 tế bào. Sau
40 – 50h là 4 tế bào. Sau 72h tạo thành 8 tế bào. Và sau 4 ngày tạo thành một phôi
gồm 16 tế bào (phôi dâu). Đến ngày thứ 5 – 6 tạo thành một phôi bào blastocyst
- Ở người, blastocyst ngày thứ 5 có khoảng 200 – 250 tế bào. Trong đó chỉ có
khoảng 30 – 34 tế bào ICM
Các IMC được tách khỏi phôi bào và nuôi cấy trong môi trường thích hợp sẽ
phát triển tạo thành các quần thể ES
Bề mặt đĩa nuôi cấy ES được bao phủ lớp tế bào gốc da của chuột (mouse

fibroblast cells) đã bị mất khả năng phân chia. Vai trò của lớp tế bào này là vừa tạo
màng dính giúp ES bám vào, vừa cung cấp chất dinh dưỡng cho các ES phát triển. Vì
thế lớp tế bào này con được gọi là tầng nuôi dưỡng (feeder layer)
Nếu lớp màng nuôi cấy (feeder layer) bị lấy đi, các ES có cơ hội tập hợp lại
thành cụm theo không gian 3 chiều (embryoid bodies), chúng sẽ tự động thực hiện quá
trình biệt hóa
9
GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng
Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24


Tế bào gốc và những ứng dụng
Để điều khiển được quá trình biệt hóa của các ES, các nhà khoa học phải thực
hiện các biện pháp: thay đôi các chất hóa học trong môi trường nuôi cấy, thay đổi bề
mặt nuôi cấy, sửa đổi tế bào bằng cách chèn các gen đặc biệt vào...
2.2.2. Tế bào gốc trưởng thành( adult stem cells -AS)
2.2.2.1 Khái quát về tế bào gốc trưởng thành [2],[7]
Tế bào gốc trưởng thành là những tế bào chưa biệt hoá trong một mô hay cơ
quan, có thể tự làm mới và biệt hoá thành các tế bào chuyên hoá về chức năng của mô
hay cơ quan [2].

Hình 4. Tế bào gốc đa năng
(Nguồn: diendanykhoa.com/showthread)
Nguồn gốc của tế bào gốc trưởng thành trong các mô hiện nay vẫn chưa được
biết đến cụ thể [2].
Vai trò cơ bản của các tế bào gốc trưởng thành là duy trì và sửa chữa các mô,
cơ quan mà chúng hiện diện ở đó bằng cách tạo ra các tế bào thay thế những vùng bị
phá hủy hay thương tổn. Chẳng hạn như: các tế bào gốc máu Hematopoietic stem cells
tạo ra tế bào hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu...; các tế bào gốc da tạo ra các tế bào da, tế
bào gốc thần kinh tạo ra tế bào thần kinh, tế bào gốc ruột tạo tế bào ruột...

Việc nghiên cứu và thử nghiệm trên tế bào gốc trưởng thành, gần đây đã gây
được nhiều sự chú ý. Các nhà khoa học phát hiện sự hiện diện của tế bào gốc trưởng
GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

10


Tế bào gốc và những ứng dụng
thành ở nhiều mô, so với những gì mà họ hiểu biết trước đây. Ví dụ, tế bào gốc máu
thông thường chỉ sản xuất các loại tế bào máu khác nhau. Tuy nhiên nghiên cứu gần
đây lại cho thấy một số tế bào gốc trưởng thành có thể dễ dàng thích nghi hơn so với
các quan niệm trước đây. Tế bào gốc trưởng thành tách từ chuột (trưởng thành) có thể
phát triển thành tế bào da, cơ và gan. Phát hiện này khiến các nhà khoa học đặt ra câu
hỏi liệu tế bào gốc trưởng thành có thể được sử dụng để cấy ghép hay không. Mặc dù
kết quả vẫn chưa được chứng minh cũng như chưa được thực hiện với tế bào người.
Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn đang nỗ lực tìm kiếm một phương pháp kích thích tế
bào gốc trưởng thành, hay thậm chí là những loại tế bào trưởng thành khác, để chúng
trở nên linh hoạt hơn. Nếu thành công, phương pháp sẽ cung cấp thêm một nguồn tế
bào gốc chưa biệt hóa.
Hơn nữa, gần đây một giả thuyết về “sự biệt hóa tế bào gốc” đưa ra luận điểm
rằng, một số tế bào gốc trưởng thành có thể có tiềm năng tạo ra các loại tế bào khác,
nhiều hơn những gì mọi người vẫn nghĩ trước đây. Điều này có nghĩa là tế bào gốc
trong tủy xương, ban đầu được cho là những tế bào chỉ tạo ra máu, có thể góp phần
vào việc tái sinh về sự hư hại của gan, thận, tim, phổi và các cơ quan bị hủy hoại khác.
Nếu có thể kiểm soát quá trình biệt hóa của tế bào gốc trưởng thành trong phòng thí
nghiệm, những tế bào này có thể trở thành nền tảng cho những liệu pháp điều trị nhiều
căn bệnh nan y.
Trong những năm vừa qua, việc nghiên cứu trong lãnh vực tế bào gốc trưởng

thành đã phát triển vượt bực. Tế bào gốc trưởng thành có thể được phục hồi bởi các
mô lấy từ bệnh nhân, nuôi dưỡng trong các dĩa cấy và kích thích để phát triển thành
nhiều loại tế bào trưởng thành. Việc sử dụng tế bào gốc cho phương pháp trị liệu, thay
vì dùng tế bào gốc phôi, có nhiều thuận lợi và mang một ý nghĩa quan trọng đối với
lãnh vực khoa học, luân lý và chính trị.
Tạo tế bào gốc từ chính mô của bệnh nhân có thể loại bỏ hoàn toàn vấn đề hệ
thống miễn nhiễm (miễn dịch) không chấp nhận.
Tế bào gốc trưởng thành không gây ra khối u ác quái (teratomas).Ứng dụng tế
bào gốc trưởng thành trong điều trị gặp phải rất ít những vấn đề về luân lý và cũng
hoàn toàn tránh được những tranh luận nóng bỏng về chính trị, liên quan đến việc sử
dụng phôi người.

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

11


Tế bào gốc và những ứng dụng

Hình 5. Ứng dụng tế bào gốc trưởng thành để điều trị các bệnh nan y
(Nguồn: tvvn.org/forum/showwiki.php)
Mặc dù lĩnh vực này đặc biệt hấp dẫn, nhưng nó cũng gây nhiều tranh cãi
trong cộng đồng khoa học và đồng thời cần có thêm nhiều nghiên cứu bổ sung kỹ
lưỡng để hiểu được toàn bộ tiềm năng của tế bào gốc trưởng thành, đặc biệt là so
với tế bào gốc phôi.
2.2.2.2. Bằng chứng về sự hiện diện của tế bào gốc trưởng thành
Nhìn chung có ba phương pháp để xác định một tế bào nào đó có phải là tế bào
gốc truởng thành hay không và tế bào này biệt hoá thành tế bào nào:

Các tế bào cần xác định sẽ được đánh dấu in vivo (trong mô sống) và theo dõi
kiểu tế bào nào mà cuối cùng chúng có thể biệt hoá thành.
Tế bào cần khảo cứu được thu nhận, nuôi, đánh dấu và cấy lại vào cơ thể một
động vật khác để xác định sự phục hồi quần thể mô nguồn gốc của chúng.
Các tế bào cần khảo cứu được thu nhận, nuôi, thao tác và phát triển in vitro, sau
đó thêm vào môi trường nuôi nhân tố tăng trưởng(Growth fato-GF), hay chuyển gen
vào tế bào, sau đó theo dõi sự biệt hoá của chúng.
2.2.2.3. Những thuộc tính của tế bào gốc trưởng thành.
Sự lắp đặt chiến lược: Khi sự di cư của tế bào xảy ra trong một mô, các tế bào
gốc là những tế bào bắt đầu của dòng (cell flux) di cư này. Một cách đặc biệt nơi dòng
tế bào di chuyển không theo một hướng nhất định,chẳng hạn biểu bì, các tế bào gốc
nằm tại một đầu của khoảng tế bào(cell escalator) trong lớp cơ bản( bấl layer), với các
nhánh di chuyển toả ra ở bề mặt. Điều này có ý nghĩa nếu một quần thể tế bào gốc
được lưư trữ ở mô, chúng luôn có vị trí thích hợp có thể đạt được mục tiêu trên.

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

12


Tế bào gốc và những ứng dụng
Sự tự làm mới: Tế bào gốc trong bất kì mô nào cũng là một quần thể có khả
năng tự làm mới. Để đạt được điều này, mỗi tế bào gốc sẽ phân chia thành một tế bào
gốc thay thế và một tế bào gọi là tế bào TAC(transit amplifying cell)do sự phân chia
không đồng đều( asymmetric cell division). Bằng cách này, số lượng tế bào gốc được
giữ hằng định
Số lượng ít: Tế bào gốc chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong tổng số tế bào của mô hay
cơ thể.Chẳng hạn: Trong ruột non của chuột, có thể chỉ có từ 4-5 tế bào gốc / quần thể

250 tế bào( Marshman và cs, 2002); trong cơ xương, các tế bào vệ tinh (satellite cell)
chỉ chiếm chừng 5% tất cả tế bào . Trong tuỷ xương, quần thể tế bào gốc tạo máu
cũng hiếm với mật độ thường gặp là 1/10.000 tế bào trong các tế bào tuỷ xương khác
Chưa chuyên hoá: Trong hầu hết các mô, các tế bào gốc không có sự chuyên
hoá chức năng như các con cháu mà chúng tạo ra.
Ít phân chia: Các TBG có chu kì phân chia chậm. Theo mục đích luận thì dường
như chúng rất khôn ngoan, chúng cố gắng hạn chế sự phân chia của mình. Bởi vì sự
tổng hợp AND trong mỗi lần phân chia sẽ có khả năng xảy ra lỗi. Do đó, trong nhiều
mô, các tế bào gốc phân chia ít thường xuyên hơn các tế bào TAC.
Quần thể phụ.Vì rất quan trọng với cơ thể, nên không ngạc nhiên rằng tế bào
gốc có những cấu trúc bơm trên màng rất hiệu quả, giúp bảo vệ không cho chất độc
hại tràn vào nội bào. Người ta gọi là quần thể phụ hay quần thể cạnh bên( side
population-SP) , những tế bào SP này có những đặc điểm tế bào gốc, không có kiểu
hình chuyên biệt của một dòng tế bào biệt hoá nào
Duy trì tính toàn vẹn của bộ gen: Ngoài thuộc tính không phân chia thường
xuyên, các tế bào gốc còn có chiến lược duy trì tính toàn vẹn bộ gen.
Một số pphân tử được biểu hiện bởi các tế bào gốc chuyên biệt. Những marker
này có vẻ liên quan đến việc duy trì " tính gốc" đảm bảo sự phát triển lâu dài, bám
dính vào ổ tế bào gốc.
Tính mềm dẻo Thuật ngữ " tính mềm dẻo" đề cập một tế bào gốc từ một mô
trưởng thành có thể phát sinh thành loại tế bào chuyên hoá chức năng của những
mô khác.

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

13



Tế bào gốc và những ứng dụng

Hình 6. Một số bằng chứng tính mềm dẻo tế bào gốc trưởng thành
(Nguồn: Hình 6.9 trang 397 – Công nghệ sinh học trên người và
động vật – Phan Kim Ngọc, Phạm Văn Phúc)
2.2.3. Tế bào mầm - embryonic germ cells (EG) [2], [6]

Hình 7. Nguồn gốc tế bào mầm
(Nguồn: Bacsi.top1.vn/huyet-hoc)

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

14


Tế bào gốc và những ứng dụng
Tế bào mầm có nguồn gốc từ mào sinh dục (vị trí là tiền thân của cơ quan sinh
dục sau này) của phôi phát triển 8 tuần tuổi. Tế bào mầm về sau sẽ tạo thành giao tử
trong cơ thể trưởng thành.
Tế bào mầm thực chất là tế bào gốc vạn năng có thể tạo thành dẫn xuất của 3 lá
phôi trong môi trường nuôi cấy. Từ đó tạo tạo ra hầu hết các loại tế bào trong cơ thể.
Ngoài sự khác nhau về nguồn gốc, EG khác ES ở sự phát triển trong môi trường
in vitro:
+ ES dường như phát triển không giới hạn trong môi trường nuôi cấy. Trong
vòng 2 năm có thể có đến 300 – 450 lần gấp đôi.
+ EG trong vòng 2 năm tối đa chỉ có khoảng 70 – 80 lần gấp đôi
Tuy nhiên, khi cấy ghép các ES vào cơ thể có thể phát sinh các khối u còn EG
thì không

2.2.4. Tế bào gốc ung thư – cancer stem cells ( CS) [2],[6]
Trong những năm gần đây các nhà khoa học đã nghiên cứu và cho rằng nguồn
gốc của căn bệnh ung thư quái ác chính là các tế bào gốc ung thư. CS được phát hiện
lần đầu tiên vào năm 1997 trong một nghiên cứu về bệnh bệch cầu bởi John Dick và
cộng sự tại trường đại học Toronto
Có thể hiểu một cách đơn giản CS là các tế bào đóng vai trò quan trọng trong
sự tăng trưởng của khối u và chúng có khả năng khởi phát một khối u. CS có những
đặc điểm giống với tế bào gốc. Tuy nhiên, một tế bào gốc bình thường có khả năng
kiểm soát sự phân chia, còn CS thì không. Chính vì thế, tuy CS thường chiếm tỷ lệ rất
ít trong khối u nhưng lại có trách nhiệm chính trong sự tăng trưởng của khối u.

Hình 8. Tế bào gốc ung thư

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

15


Tế bào gốc và những ứng dụng
Một tế bào gốc bình thường trong một mô khi tiến hành phân chia sẽ tạo thành
1 tế bào gốc và 1 tế bào tiền thân (progenitor cell). Tế bào tiền thân là tế bào bị mất
khả năng phân chia và có thể biệt hóa thành các tế bào chuyên hóa. Như vậy trong một
mô bình thường, số tế bào gốc sẽ không thay đổi.
Tuy nhiên, CS lại mất khả năng kiểm soát sự phân chia đó. Chúng có thể phân
chia bình thường hoặc bất thường. Trong 1 lần phân chia từ 1 CS có thể tạo thành 2
CS giống chúng. Điều đó giải thích tại sao các khối u thường tăng nhanh kích thước,
và trong khối u thường có các tế bào biệt hóa thuộc các mô khác nhau như: lông, tóc,
biểu mô....

Nguồn gốc CS vẫn chưa được hiểu rõ. Hai yếu tố quan trọng để xác định nguồn
gốc của CS là :
- Những đột biến cần thiết để một tế bào trở thành tế bào ung thư.
- Một tế bào gốc bình thường cần phải khắc phục sự kiềm hãm về di truyền nào
trong việc thực hiện khả năng tự làm mới và khả năng tăng sinh vô hạn.
CS có thể hình thành từ quá trình tự làm mới của tế bào gốc thường hoặc các tế
bào tiền thân (progenitor) bị đột biến có khả năng tự làm mới. Tuy nhiên, thuyết tế bào
gốc ung thư xuất thân từ tế bào gốc bình thường thích hợp hơn cả
Các nghiên cứu về CS đã phần nào giải thích được cơ chế gây bệnh và trả lời
được câu hỏi tại sao bệnh có thể tái phát sau khi điều trị. Các CS có cơ chế bảo vệ và
lẫn trốn, đồng thời chúng còn có khả năng chịu đựng phóng xạ và hoá trị liệu. Do đó,
hầu hết các phương pháp điều trị ung thư hiện nay khó có thể “nhổ cỏ tận gốc” các tế
bào này. CS đóng vai trò chính trong quá trình di căn ung thư, chúng có liên kết lỏng
lẻo trong khối u và có thể di chuyển tự do trong máu.
Các thành công trong nghiên cứu ung thư thông qua CS đã mở ra nhiều triển
vọng trong phương pháp trị liệu: phương pháp phân biệt chức năng các quần thể tế
bào trong khối u, phương pháp nhận diện và kiểm tra các liệu pháp kháng ung thư trực
tiếp trên khối u.
3. CÁC NGUỒN TẾ BÀO GỐC HIỆN NAY

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

16


Tế bào gốc và những ứng dụng
3.1.Tạo tế bào gốc từ phôi người [17], [31]
Tất cả chúng ta đều khởi đầu sự sống từ một tế bào duy nhất, gọi là hợp tử, hình

thành sau quá trình thụ tinh. Hợp tử phân chia tạo thành hai tế bào; mỗi một tế bào
trong đó lại phân chia và cứ tiếp diễn như vậy. Chẳng mấy chốc, khoảng 5 ngày sau
khi thụ tinh, hợp tử có dạng một quả bóng rỗng, với khoảng 150 tế bào được gọi là
phôi bào (blastocyst). Phôi bào thậm chí còn nhỏ hơn một hạt cát, bao gồm 2 nhóm tế
bào: nguyên bào nuôi phôi (trophoblast) và khối tế bào nội tại trong phôi bào. Tế bào
gốc phôi là những tế bào hình thành nên khối tế bào nội tại (inner cell mass). Do tế
bào gốc phôi có thể hình thành, nên bất cứ loại tế bào nào trong cơ thể người trưởng
thành nên nó còn được coi là tế bào gốc toàn năng (pluripotent stem cell).
Việc tìm ra tế bào gốc từ phôi người của các nhà khoa học Hàn Quốc được
xem như một bước tiến lớn mở ra triển vọng phát triển các mô thay thế của chính
người bệnh để chữa trị nhiều căn bệnh hiểm nghèo như tổn thương tủy sống, tiểu
đường, rối loạn miễn dịch di truyền...
3.2. Tế bào gốc từ trứng chưa thụ tinh [17], [31]
Theo một nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Proceedings of the National
Academy of Sciences (Mỹ), các trứng chưa được thụ tinh có thể sẽ là một nguồn cung
các tế bào gốc phục vụ chữa bệnh trong tương lai. Điều này, nếu trở thành hiện thực sẽ giúp giới khoa học tránh được các vấn đề về đạo đức gặp phải như khi sử dụng các
tế bào gốc phôi ở người.
Với bước tiến y học quan trọng này, trong tương lai, nếu một người phụ nữ cần
cấy ghép để trị bệnh, như bệnh tiểu đường hay chấn thương cột sống, thì người đó có
thể cung cấp trứng cho các chuyên gia để tạo ra mô cấy ghép mà không sợ bị đào thải
bởi cơ thể người phụ nữ đó.
3.3.Tế bào gốc ở tủy xương [2],[6]
Vào thập niên 60, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng ở tủy xương của người
chứa ít nhất 2 loại tế bào gốc. Loại thứ nhất là Hematopoietic stem cell (tế bào gốc tạo
máu), loại thứ hai là Stromal stem cell . Vai trò biệt hóa của các tế bào gốc ở tủy
xương thể hiện ở những điểm sau: - Hematopoietic stem cell có khả năng biệt hóa tạo
thành các tế bào máu: hồng cầu, lympho B, lympho T, tế bào giết tự nhiên,
neutrophils, basophils, eosinophils, monocytes, đại thực bào, và tiểu cầu.
Stromal stem cell biệt hóa thành nhiều loại tế bào khác nhau: tế bào xương
(osteocyte), tế bào sụn (chondrocyte), tế bào mỡ (adipocyte), và các tế bào của mô liên kết.

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

17


Tế bào gốc và những ứng dụng
Ngoài ra, Hematopoietic stem cell có thể biệt hóa thành: 3 loại tế bào não bộ
(neurons, oligodendrocytes, và astrocytes), tế bào cơ vân, tế bào cơ tim và tế bào gan.
Khả năng đó gọi là “tính mềm dẻo” plasticity

Hình 9. Tế bào gốc ở tuỷ xương
(Nguồn: xuanbichvietnam.wordpress.com)
Việc phát hiện ra “tính mềm dẻo” của tế bào gốc trưởng thành là một bước tiến
quan trọng trong nghiên cứu và điều trị các bệnh liên quan đến thương tổn mô. Lúc
đó, con người có thể điều khiển khả năng biệt hóa này để thay thế và sửa chữa các mô
bệnh bằng tế bào gốc trưởng thành của các mô khỏe mạnh.
3.4. Nguồn tế bào gốc từ nước ối thai phụ [8],[9]
Các nhà khoa học Mỹ (Bs AnthonyAtala và các đồng nghiệp thuộc Đại Học Y
Khoa Wake Forest ) nghiên cứu kiểm chứng kéo dài 7 năm đã phát hiện một nguồn
cung cấp tế bào gốc dồi dào từ màng ối của thai phụ, có thể dùng để tái tạo các loại
mô khác nhau như cơ, xương, mỡ, mạch máu, thần kinh và gan.
Các tế bào gốc này được lấy từ màng ối của thai phụ, do đó tránh được việc
phải phá hủy phôi thai, một hành động vẫn đang gây nhiều tranh cãi. Phát hiện này
GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

18



Tế bào gốc và những ứng dụng
đã tạo cơ hội cho việc đẩy mạnh nghiên cứu tế bào gốc phục vụ công tác chữa bệnh
cho người
Bs Simon Hoerstrup thuôc Đại Học Zurich đã từng trình bày kết quả khảo cứu,
November 2006, lấy tế bào gốc từ nước đầu ối tạo van tim. Cần 6 tuần lễ để tạo van
tim từ tế bào gốc nước đầu ối. Dùng tế bào gốc nước đầu ối tạo van tim bào thai để trị
tật bẩm sinh van tim. Thử nghiệm cho biết van tim hoạt động bình thường. Lấy tế bào
gốc từ nước đầu ối tạo van tim tốt hơn van tim nhân tạo hay van tim lấy từ tử thi. Tế
bào gốc từ nước đầu ối có thể tồn trữ đông lạnh và chính bệnh nhân có thể dùng được
sau này nếu lỡ cần tế bào gốc điều trị những bệnh khác.
3.5. Tế bào gốc từ dây cuống rốn
Màng dây rốn, một thứ "phụ phẩm" thường được bỏ đi trong mỗi ca sinh nở,
là một tổ chức mô lớn với chiều dài khoảng 50 cm, có mật độ TBG tập trung rất lớn,
lại rất trẻ (chỉ 9 tháng tuổi) và sạch. Việc tình cờ phát hiện ra nguồn tế bào này của
Tiến sĩ Phan Toàn Thắng có ý nghĩa to lớn đối với ngành công nghệ TBG, có thể ví
như việc tìm ra mỏ kim cương vô tận có chất lượng cao.

Hình 10. Tế bào gốc từ dây rốn
(Nguồn:

)

Từ sợi dây rốn, tiến sĩ Phan Toàn Thắng đã tạo ra một công nghệ khiến cả thế
giới phải thèm: Sản xuất tế bào gốc. Từ đó, có thể chữa lành các vết thương do bỏng,
tiểu đường, loét do phóng xạ cũng như chăm sóc sắc đẹp
3.6. Máu kinh nguyệt phụ nữ-nguồn tế bào gốc mới [10]
Theo một nghiên cứu mang tính đột phá, các chuyên gia ở Mỹ đã phát hiện
trong trong những tế bào làm dày thành tử cung trong chu kỳ kinh nguyệt có chứa một

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

19


Tế bào gốc và những ứng dụng
loại tế bào gốc mới, được gọi là “tế bào tái tạo màng trong tử cung” (Endometrial
Regenerative Cells – ERC).
Theo nhóm nghiên cứu, tế bào ERC có khả năng phát triển thành ít nhất 9 loại
tế bào khác nhau, trong đó có tim, gan và phổi. Chúng có thể được sử dụng trong điều
trị và thay thế những tế bào già cỗi hoặc bị hư hại.
ERC có thể được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm với qui mô lớn, có khả năng
sao chép 70 lần trong một khoảng thời gian rất ngắn. Tốc độ tái tạo này nhanh hơn rất
nhiều so với những tế bào được lấy từ máu dây rốn và tủy xương.
Không chỉ có tốc độ sao chép rất cao trong một chu kỳ khoảng 20 giờ, mà ERC
còn tạo ra những nhân tố phát triển ở mức gần 100.000 lần cao hơn những tế bào gốc
lấy từ máu dây rốn.
Theo nhóm nghiên cứu, chỉ 5 ml máu kinh nguyệt được lấy từ một người phụ
nữ khoẻ mạnh cũng cung cấp đủ lượng tế bào gốc để sản xuất tế bào tim sau 2 tuần
nuôi cấy.
3.7. Răng - nguồn tế bào gốc mới [11], [12]
Tế bào gốc từ răng sữa:
Với kỹ thuật hiện nay, giới khoa học có thể cô lập 2 loại tế bào gốc. Tế bào gốc
lấy từ phôi người, có thể phát triển thành mọi loại tế bào trong cơ thể song vấp phải sự
phản đối của không ít người. Loại tế bào gốc thứ hai lấy từ cơ thể người trưởng thành,
tránh được sự phản đối song có ít khả năng hơn so với loại thứ nhất. Hiện chúng ta đã
có thêm một nguồn tế bào gốc từ răng sữa của trẻ em, dễ tiếp cận hơn.Chúng có thể
giúp bác sĩ nha khoa điều trị răng bị tổn thương và thậm chí là chữa tổn thương thần

kinh hoặc các căn bệnh thoái hoá.
Lấy tế bào gốc từ mầm răng khôn:
Trong nghiên cứu mới đây của Nhật Bản, tế bào gốc lấy từ mầm răng có thể nhanh
chóng phát triển thành mô gan hoặc xương.
Nhóm nghiên cứu đã phát hiện rằng mầm răng có thể chuyển thành tế bào
xương, thần kinh hoặc gan bằng cách kích thích mầm răng bằng hoócmôn
Các nhà khoa học Nhật Bản cho biết mầm răng biến mất khi răng được tạo
thành, nhưng mầm răng khôn vẫn ở trong xương hàm cho đến khi con người lên 10 –
16 tuổi.
Phương pháp mới này mang lại hy vọng cho việc phát triển những loại thuốc
phục hồi dùng mầm răng khôn của người thu được trong điều trị chỉnh răng.
20
GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng
Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24


Tế bào gốc và những ứng dụng
3.8. Tái tạo da thành tế bào gốc
Các nhà khoa học Nhật và Mỹ đã khám phá ra 1 kĩ thuật mới biến tế bào da
thành tế bào gốc. Hai nhóm nghiên cứu gia đã miêu tả sự thành công, chính là họ có
thể biến tế bào da thành tế bào gốc tương tự tế bào gốc phôi, mà ko sử dụng đến hoặc
huỷ đi phôi người.
Thực hiện điều này chỉ cần cấy 4 gen vào tế bào da, các gen này sẽ tái cấu trúc
các NST trong tế bào da biến tế bào da thành tế bào gốc là tế bào có khả năng phát
triển vô tân và sinh sản thành các tế bào khác.
Tuy nhiên phương pháp này của các nhà khoa học Mỹ và Nhật Bản phải sử
dụng các virus để chuyển bốn protein cần thiết nhằm kích hoạt tế bào. Các protein này
sẽ tái cấu trúc các nhiễm sắc thể trong tế bào da, biến tế bào da thành tế bào gốc.
Song theo nhà khoa học Nagy, việc sử dụng các virus có thể phá hỏng cấu trúc di
truyền ADN trong tế bào và gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho bệnh nhân như

ung thư nếu 4 protein có đặc tính rất mạnh nói trên không liên kết với nhau
Một công trình nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học tại Bệnh viện Mount
Sinai ở Toronto (Canada) và Trung tâm Y học Tái sinh ở Edinburgh (Anh) đã tìm ra
một phương pháp mới tạo tế bào gốc từ các tế bào da của người trưởng thànhPhương
pháp này có thể loại bỏ những rủi ro của pương pháp trên, nhóm chuyên gia của Nagy
đã sử dụng một đoạn ADN của một loài sâu ăn bắp cải để vận chuyển những protein
cần thiết trong quá trình biến đổi tế bào da thành tế bào gốc.
3.9. Tinh hoàn_một nguồn tế bào gốc quan trọng [14]
"Đàn ông có thể có một nguồn tế bào gốc đầy tiềm năng nằm giữa… 2 chân của
họ!". Các nhà khoa học Mỹ vừa phát hiện, tinh hoàn có thể là nguồn tế bào gốc trưởng
thành rất dồi dào, các tế bào gốc này giúp cho nam giới chống lại bệnh tật hoặc là tái
tạo lại các cơ quan hư hỏng, tạo ra tế bào não, bắp thịt, máu... Hứa hẹn nhiều ứng
dụng trong y khoa về sau.
3.10. Tóc là nguồn cung cấp tế bào gốc [15]

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

21


Tế bào gốc và những ứng dụng
Các nhà khoa học Mỹ vừa tìm ra một nguồn cung cấp tế bào gốc rất tốt: đó là
những nang tóc. Đặc điểm mọc rất nhanh và thay mới liên tục của tóc làm cho nó trở
thành nguồn sản xuất tế bào gốc lý tưởng cho việc trị liệu.
Nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Viện hàn lâm khoa học Mỹ cho thấy
những tế bào thần kinh có thể phát triển từ những tế bào gốc của nang tóc (những tế
bào nang tóc được sản sinh từ những tế bào gốc có trong những lỗ li ti ở nang tóc).
Các nhà nghiên cứu thuộc ĐH Pennsylvania tin rằng những tế bào gốc này có

thể được sử dụng để chữa bệnh hói đầu. Bác sĩ Yasuyuki Amoh thuộc ĐH California ở
San Diego còn cho biết tế bào gốc từ nang tóc cũng có thể giúp chữa trị các rối loạn
thần kinh.
3.11. Nang lông_nguồn tế bào gốc dồi dào [16]
Đã có bằng chứng cho thấy nang lông là một nguồn tế bào gốc dồi dào có thể
được sử dụng để hình thành các mạch máu hay mô da.

Hình 11. Tế bào gốc nang lông
(Nguồn: www.moh.gov.vn/homebyt/vn)
3.12. Lấy tế bào gốc từ tử thi

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

22


Tế bào gốc và những ứng dụng
Với việc phân tách và nuôi trồng thành công tế bào não từ cơ thể người đã chết,
một ngày nào đó, rất có thể các nhà khoa học sẽ chữa chạy thành công những khuyết
tật của bộ não do chứng đột quỵ hoặc bệnh Parkinson gây ra. Mặt khác, người ta sẽ
không phải lấy mô của phôi làm nguồn cung cấp tế bào gốc.
Tạp chí Nature, số ra ngày2/5/2007, đã công bố thành tựu của một nhóm nghiên
cứu thuộc Viện Salk, California (Mỹ) - kỹ thuật lấy tế bào gốc từ tử thi.
Khởi đầu, nhóm khoa học tách mô khỏi thi thể một cậu bé 11 tuổi và một phụ
nữ 27 tuổi, ngâm những mô này lần lượt vào một số dung dịch khác nhau. Nhờ quá
trình này, mô sản sinh ra tế bào não chưa trưởng thành. Họ đã sử dụng kỹ thuật tương
tự để xử lý thành công mô tách từ 23 tử thi thuộc các nhóm tuổi khác nhau, từ 11 tuần
đến 72 tuổi, mắc bệnh về thần kinh, thậm chí cả ở người đã chết được 2 ngày.

Những tế bào não thu được đều có khả năng phát triển, phân chia và hình thành tế bào
thần kinh chuyên biệt. Mô của người trẻ hơn cho tế bào khỏe hơn
4. NHỮNG ỨNG DỤNG CỦA TẾ BÀO GỐC [6],[18],[19],[20],[21]
4.1.Nghiên cứu chức năng của hệ gen
Chức năng hệ gen của các động vật có vú có thể được nghiên cứu thông qua
việc chuyển các gen cần nghiên cứu vào ES của chuột. Các tính trạng do gen đó qui
định sẽ được biểu hiện ở con chuột chuyển gen và con cháu của nó.
4.2. Nghiên cứu các quá trình sinh học
Thông qua việc nghiên cứu tế bào gốc có thể hiểu một cách rõ ràng quá trình
phát sinh cá thể và sự phát triển của các tế bào ung thư.
4.3 Liệu pháp tế bào gốc
Phần lớn bệnh tật ở người đều xuất phát từ nguyên nhân các tế bào của chúng ta
ngưng hoạt động hay không làm việc theo đúng chức năng của chúng, hoặc do bởi các
mô bị hủy hoại. Để thay thể các mô, cơ quan không còn hoạt động, người ta sử dụng
biện pháp cấy ghép. Tuy nhiên, phương pháp này gặp phải những rào cản lớn như:
nguồn cơ quan, mô cấy ghép có hạn, đặo đức, pháp luật, vấn đề đào thải sau cây
ghép...Vì thế, sử dụng tế bào gốc để điều trị các bệnh trên là một giải pháp tối ưu.
Nhờ việc phát hiện các chuyển đổi gen của tế bào gốc mà nhiều chỉ định điều trị
mới đang được thử nghiệm với các bệnh nan y, lão suy như:
Hệ thần kinh trung ương: Các bệnh do lão hóa như Parkinson, Alzheimer,
chứng múa giật Huntington, các thương tổn ở tủy sống.
GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

23


Tế bào gốc và những ứng dụng
Gan: Xơ gan, viêm gan, suy yếu biến dưỡng.

Tuyến tụy: Bệnh tiểu đường.
Cơ: Chứng loạn dưỡng, nhồi máu cơ tim.
Xương - sụn - mỡ: Bệnh hoại xương, tổn thương xương, ghép cơ quan.
Võng mạc: Thoái hóa võng mạc.
Da: Bỏng, hoại tử
Hô hấp: Bệnh nhầy nhớt.
Hệ miễn nhiễm: Bệnh ung thư
4.4. Cấy ghép tế bào gốc điều trị nhiễm HIV [22]
Việc cấy ghép tủy xương đã làm giảm lượng virus HIV trong bệnh nhân nhiễm
HIV về mức 0 là kết quả của 1 ca ghép vào cuối năm 2008. Vì kết quả này chỉ tiến
hành trên 1 bệnh nhân nên chưa công bố chính thức trong các tạp chí chuyên ngành.
Một nhân nhiễm HIV (bệnh AIDS) cấy ghép tủy xương để điều trị bệnh ung thư
bạch cầu leukemia. Người cho tủy xương để ghép là một người khỏe mạnh có khả
năng kháng HIV tự nhiên. Ở người này, protein CCR5, một protein cần thiết cho virus
chui vào tế bào, bị đột biến. Kết quả rất đáng ngạc nhiên, sau khi cấy ghép bệnh nhân
không còn phải dùng thuốc HIV lẫn thuốc điều trị leukemia. Sau 20 tháng cấy ghép,
bệnh trên không những hết bệnh leukemia và còn hết cả nhiễm HIV (ở mức không
phát hiện bằng chứng có sự hiện diện HIV trong máu ngoại vi).
Nhiều người cho rằng không thể kết luận việc cấy ghép tế bào gốc tủy xương
trên là điều trị HIV bởi vì chỉ tiến hành trên một người và liệu có chăng virus HIV còn
tồn tại trong các mô mà không tồn tại trong máu ngoại vi (nơi mà bác sĩ lấy mẫu xét
nghiệm).
Tuy vậy, từ kết quả này vẫn mang lại cho nhiều người nhiều hứa hẹn về một
liệu pháp điều trị HIV trong tương lai.
4.5. Trị điếc bằng tế bào gốc [22]
Một nhóm nhà nghiên cứu người Anh vừa có bước tiến đầu tiên dẫn đến việc
điều trị bệnh điếc bằng tế bào gốc được phát triển trong phòng thí nghiệm. Trong cuộc
nghiên cứu của mình, các nhà khoa học đã sử dụng tế bào gốc lấy từ tai trong của
người để tạo ra phiên bản ban đầu của các loại tế bào đóng vai trò quan trọng trong
việc nghe.

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

24


Tế bào gốc và những ứng dụng
Các cuộc thí nghiệm cho thấy khoảng 56% tế bào tạo ra thể hiện tính năng điện
và vật lý của tế bào lông rung cảm giác – loại tế bào ở bên trong tai, dùng các sợi tiêm
mao nhỏ xíu để biến sóng âm thành xung điện thần kinh. Những tế bào khác cho thấy
đặc tính của neuron thính giác, tức những tế bào thần kinh truyền thông điệp nghe
được đến não. Theo báo Telegraph (Anh), các nhà khoa học hy vọng những cuộc
nghiên cứu sau này sẽ giúp tạo ra các tế bào có đầy đủ chức năng được dùng để điều
trị chứng khiếm thính.
4.6. Trị liệu bệnh tim bằng kỹ thuật tế bào gốc
Phương pháp:
- Trích lấy tế bào từ máu bệnh nhân
- Nuôi trong một môi trường thích hợp, biến chúng thành hàng triệu tiền tế bào
mạch máu
- Đưa vào tim bệnh nhân các tiền tế bào, các tế bào này sẽ hình thành nên các tế
bào cơ tim, các tế bào động mạch

Hình 12. Trị liệu bệnh tim bằng kỹ thuật tế bào gốc
(Nguồn: www.khoahoc.com.vn)
4.7. Ghép tế bào gốc trị bệnh ung thư [32]
[32
Năm 1995, ca ghép tủy xương đầu tiên ở Việt Nam đã được BV Truyền máu và
Huyết học TP.HCM thực hiện cho bệnh nhân D.L.B. (Đồng Nai) bị ung thư bạch cầu
mạn dòng tủy. Đến nay, sau 15 năm, bệnh nhân này vẫn sống khỏe mạnh, lấy vợ và có

hai con.

GVHD: GS.TS Ngô Đắc Chứng

Học viên: Lê Khánh Vũ - K 24

25


×