Tải bản đầy đủ (.doc) (163 trang)

Phát triển nông nghiệp đồng bằngsông Cửu Long và tác động của nó đến củng cố khu vực phòng thủ tỉnh (thànhphố) trên địa bàn Quân khu 9 hiện na

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 163 trang )

5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sản xuất nông nghiệp, đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân và
diện mạo nông thôn nước ta đã và đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận
xã hội, các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ KT - XH ở các cấp, các ngành cả Trung ương và địa phương; nhất là
khi nước ta đã là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Bởi vì,
phát triển nông nghiệp không chỉ bảo đảm nhu cầu lương thực, thực phẩm cho
toàn xã hội; bảo đảm nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, là
một trong những mũi nhọn tạo ra nguồn hàng xuất khẩu đa dạng có khả năng
cạnh tranh trên thị trường thế giới trong thời kỳ hội nhập; thu hút nhiều việc làm
mới, tạo tiền đề vững chắc để đẩy mạnh phân công lao động theo ngành và lãnh
thổ…, mà còn là cơ sở và lực lượng để phát triển KT - XH bền vững, ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc và bảo vệ môi trường sinh thái [21, tr.124]. Đúng như quan điểm của Đảng ta
luôn nhấn mạnh: “Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông
dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng” [20, tr.191].
ĐBSCL là mảnh đất ngàn đời “sống chung với lũ”, nhưng mảnh đất này
được biết đến không chỉ là vựa lúa của Miền Nam, mà còn là vùng trọng điểm
lúa số một của cả nước, có nguồn thuỷ sản dồi dào nhất hiện nay. Nơi đây có
nhiều sông ngòi, kênh rạch, đất đai màu mỡ, cây trái tươi tốt, nước ngọt bốn
mùa, lắm cá, nhiều tôm, làm ra “hạt lúa, củ khoai” rất thuận lợi so với cả nước.
Hàng năm sản xuất khoảng 50% sản lượng lúa, 52% sản lượng thuỷ sản, cung
cấp 90% sản lượng gạo cho xuất khẩu. Sự phát triển nông nghiệp ĐBSCL nhất
định sẽ là một vùng đất “đi trước, về trước”, có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển KT - XH của các vùng khác và của đất nước. Vùng kinh tế đặc thù này, một
mặt có ý nghĩa chiến lược về kinh tế nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực cho cả
nước, mặt khác còn có ý nghĩa QP - AN đặc biệt. Trong quá khứ và hiện tại, ĐBSCL
có truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất, vùng biên giới trên bộ giáp Vương



6
quốc Campuchia và vùng biển rộng giáp hầu hết các nước ASEAN, có vị trí chiến lược
rất quan trọng cả về kinh tế - quốc phòng trong chiến lược phòng thủ chung của đất
nước - là tuyến đầu do lực lượng vũ trang QK9 đảm nhiệm, cả trên biên giới đất liền và
biên giới biển cực Nam của Tổ quốc.
Thấy rõ vị trí và tiềm năng to lớn của ĐBSCL, trong những năm gần đây,
Đảng và Nhà nước đã dành sự quan tâm đặc biệt, chỉ đạo và hỗ trợ trên nhiều
mặt nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát triển ở vùng này như tiến hành quy hoạch
tổng thể, đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi, giao thông, chinh phục vùng
Đồng Tháp Mười, khai thác tứ giác Long Xuyên, bán đảo Cà Mau, cải tạo chua
phèn vùng ngập mặn…Nhờ vậy, kinh tế của vùng đã có bước phát triển mạnh
mẽ, bộ mặt KT - XH ở nhiều địa phương đã có những thay đổi, đời sống nhân
dân được nâng lên rõ rệt, thế trận phòng thủ không ngừng được củng cố.
Tuy vậy, so với tiềm năng vốn có mà thiên nhiên đã ban tặng cho vùng
này thì nông nghiệp tuy có phát triển, nhưng không đều, phân hoá giàu nghèo
ngày càng sâu sắc, một số địa phương nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc, vùng kháng chiến cũ phát triển chậm, còn nhiều hộ nghèo; giá cả hàng
hoá nông phẩm không ổn định, ảnh hưởng đến đời sống nông dân, thực tiễn đang
vấp phải hiện trạng “nông nghiệp đi lên, nông dân đi xuống”, tác động tiêu cực đến
quân sự, QP - AN. Đặc biệt trong điều kiện mới, phát triển nông nghiệp ĐBSCL
đang đặt ra những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp tới củng cố KVPT trên địa bàn Quân
khu như: tổ chức xây dựng lực lượng, triển khai thế trận, huy động sức dân…. Chưa
có phương thức kết hợp chặt chẽ giữa qui hoạch phát triển KT - XH với QP - AN,
nhận thức nội dung, biện pháp củng cố KVPT chưa đầy đủ, chưa thật sự cơ bản và
đồng bộ [16, tr.7], đòi hỏi phải xử lý một cách khoa học thì mới đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Trong khi đó việc đánh giá, quản
lý, khai thác mọi tiềm năng trong phát triển nông nghiệp và mối tương tác của nó
đến củng cố KVPT tỉnh (thành phố) trên địa bàn QK9 hiện nay chưa thích ứng với
xu thế hội nhập, vẫn chưa thể hiện đầy đủ tầm chiến lược, chưa mang tính đột phá,

nhiều vấn đề chưa có lời giải đáp thoả đáng. Vì vậy, tiếp cận ở góc độ chuyên


7
ngành kinh tế chính trị, tác giả lựa chọn đề tài “Phát triển nông nghiệp đồng bằng
sông Cửu Long và tác động của nó đến củng cố khu vực phòng thủ tỉnh (thành
phố) trên địa bàn Quân khu 9 hiện nay” làm luận án tiến sỹ.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của phát triển nông
nghiệp ĐBSCL và tác động của nó đến củng cố KVPT tỉnh (thành phố) trên địa
bàn QK9. Trên cơ sở đó, xem xét những tác động của phát triển nông nghiệp
ĐBSCL, đề xuất những định hướng và giải pháp khả thi để phát huy tác động
tích cực của phát triển nông nghiệp ĐBSCL đối với củng cố KVPT tỉnh (thành
phố) trên địa bàn QK9 hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Thực hiện mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
- Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp
ĐBSCL và tác động của nó đến củng cố KVPT tỉnh (thành phố) trên địa bàn QK9.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp ĐBSCL và tác
động của nó đến củng cố KVPT tỉnh (thành phố) trên địa bàn QK9.
- Đề xuất định hướng và một số giải pháp nhằm phát huy tác động tích
cực của phát triển nông nghiệp ĐBSCL đối với củng cố KVPT tỉnh (thành phố)
trên địa bàn QK9 hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Sự phát triển nông nghiệp ĐBSCL (chủ yếu là lương thực
và thuỷ sản) và tác động của nó đến củng cố KVPT tỉnh (thành phố) trên địa bàn QK9.
* Phạm vi nghiên cứu: Khu vực 12 tỉnh, thành phố ĐBSCL: Cần Thơ,
Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang,
Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau (không kể tỉnh Long An thuộc địa bàn

Quân khu 7). Tập trung nghiên cứu sự tác động của phát triển nông nghiệp đến
củng cố KVPT trên địa bàn, nhất là sự tác động đó trên tuyến vành đai biên giới
Tây Nam (kể cả vành đai biên giới biển có liên quan).


8
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp nghiên cứu
của kinh tế chính trị Mác - Lênin, kinh tế học quân sự Mác - Lênin, cùng các
phương pháp phân tích, so sánh, thống kê…để làm sáng tỏ cả về mặt định tính
và định lượng những nội dung đề tài đề cập tới.
Mặt khác, đề tài bám sát các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; các
Nghị quyết của Đảng bộ 12 tỉnh, thành phố thuộc ĐBSCL và các Nghị quyết của
Đảng uỷ QK9. Đồng thời tác giả tham khảo các đề tài có liên quan của các nhà
khoa học trong và ngoài nước trên tinh thần vận dụng, kế thừa có chọn lọc.
5. Những đóng góp mới
- Làm rõ tính đặc thù của phát triển nông nghiệp ĐBSCL và vấn đề củng
cố KVPT trên địa bàn QK9 so với các vùng khác trong cả nước.
- Làm rõ sự tác động của phát triển nông nghiệp ĐBSCL (nhất là phát
triển nông nghiệp vành đai biên giới) đến củng cố KVPT trên địa bàn QK9 là
yêu cầu khách quan và chỉ ra nội dung tác động đó.
- Đề xuất những giải pháp thiết thực để phát huy tác động tích cực của
phát triển nông nghiệp ĐBSCL đến củng cố KVPT tỉnh (thành phố) trên địa bàn
QK9 hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn
Đề tài được thực hiện sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn
cho hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung và phát
triển nông nghiệp ĐBSCL nói riêng, có tính đến sự tác động của nó đến củng cố
KVPT tỉnh (thành phố) trên địa bàn QK9 trong giai đoạn hiện nay.

Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu và giảng dạy
môn kinh tế chính trị, kinh tế quân sự ở các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, luận án gồm 3 chương, (8 tiết), kết luận, danh mục
công trình đã được công bố của tác giả liên quan đến luận án, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.


9
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Những nghiên cứu về nông nghiệp ở một số nước có liên quan đến
đề tài
Trên thế giới, đã có nhiều tài liệu, công trình khoa học nghiên cứu luận
giải nhiều bài học quý khi đề cập đến kinh tế nông nghiệp, nông thôn và những
tác động cả tích cực và tiêu cực của nó đến nhiều vấn đề lớn như: tăng trưởng
kinh tế, ổn định đời sống chính trị xã hội, môi trường và tác động đến cả QP AN. Điển hình như Trung Quốc, trong quá trình cải cách thể chế kinh tế, cuộc
cải cách nông nghiệp là một lĩnh vực đột phá đầu tiên, được quan tâm nhất và
được coi là lĩnh vực thu được thành công nhiều nhất trong giai đoạn đầu khởi
xướng; nhưng càng về sau cũng bộc lộ nhiều hạn chế nhất, những vấn đề phức
tạp chủ yếu diễn ra ở nông thôn, nếu không giải quyết triệt để sẽ tác động đến sự
ổn định chính trị xã hội. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã chỉ rõ: “Trung Quốc có 1,3 tỷ
dân, đa số là người dân nông thôn, nông nghiệp và nông thôn không phát triển
được, đời sống của người nông dân không được cải thiện rõ rệt, chúng ta không
thể thực hiện được mục tiêu xây dựng xã hội khá giả, không thể thực hiện được
hiện đại hoá cả nước, không thể thực hiện được toàn dân cùng giàu có, không thể
giữ ổn định lâu dài được” [14, tr.7]. Vì vậy, trong những năm gần đây đã có
nhiều tài liệu nghiên cứu về vấn đề này như: Lục Học Nghệ (2007) với “Nông
nghiệp, nông thôn và nông dân Trung Quốc: biến đổi và phát triển”, Cốc
Nguyên Dương (2007) với “Tình trạng tam nông Trung Quốc: thành tựu, vấn đề

và thách thức”, Nguyễn Hoa Mai (2008) với “Trung Quốc: một số thách thức
trong thực hiện chính sách tam nông”… tập trung nhất là những“văn kiện số 1”
về chính sách của Đảng cộng sản Trung Quốc đối với nông nghiệp, nông dân,
nông thôn (thường được gọi là chính sách “tam nông” và từ năm 2004 đến năm
2009 đã có 11 văn kiện số 1 đề cập đến vấn đề này); trong đó định hướng nhiều
nội dung quan trọng như: Nhà nước đầu tư mạnh mẽ cho nông nghiệp, chú trọng


10
kết cấu hạ tầng, từng bước xây dựng nền “nông nghiệp điện tử”, coi trọng các
vấn đề chính sách, giáo dục, bảo hiểm nông thôn, làm tốt chức năng hệ thống
chính trị ở cơ sở (một nội dung quan trọng của KVPT).
Đặc biệt, tài liệu nghiên cứu của Trác-Vệ-Hoa với “lý luận và thực tiễn
cải cách và phát triển nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc 30 năm qua” đã phản
ánh rõ nét bức tranh phát triển của nông nghiệp, nông dân, nông thôn Trung
Quốc thời kỳ cải cách. Nội dung nghiên cứu này chỉ rõ: tiến trình lịch sử vĩ đại
cải cách, phát triển nông nghiệp, nông thôn trải qua bốn giai đoạn; năm thành
tựu chủ yếu và kinh nghiệm quan trọng trong cải cách, phát triển trong lĩnh vực
này; bốn định hướng mở ra cục diện mới trong cải cách, phát triển nông nghiệp,
nông thôn Trung Quốc. Trong hệ thống nội dung của công trình nghiên cứu này
(nhất là những định hướng mang tính đột phá), có ba điểm chắt lọc rất quan
trọng có liên quan đến đề tài nghiên cứu, cần tham khảo để vận dụng như là
những bài học, yêu cầu “cốt tử” trong phát triển nông nghiệp, đó là: phải coi
trọng cao độ an ninh lương thực quốc gia, đặt phát triển sản xuất lương thực vào
vị trí hàng đầu trong xây dựng nông nghiệp hiện đại, xác định rõ và thực hiện
mục tiêu phát triển lương thực, tăng cường chính sách nâng đỡ, huy động đầy đủ
tính tích cực trong nông dân trồng lương thực, địa phương nắm lương thực,
không ngừng tăng cường năng lực sản xuất tổng hợp; phải định hướng cho nông
dân xây dựng vững chắc tư tưởng chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa tập thể, CNXH,
hình thành tác phong xã hội tốt đẹp; phải coi sản xuất lương thực, nông dân tăng

thu nhập, bảo vệ đất canh tác, xử lý môi trường hài hoà, ổn định, liên hệ mật
thiết với quần chúng, giữ gìn nông thôn ổn định là những nội dung trong sát hạch
thành tích chính trị của ban lãnh đạo địa phương đặc biệt là cấp huyện (thị).
Gần đây, nghiên cứu của Nguyễn Xuân Cường (2009) với “Nông nghiệp
Trung Quốc chặng đường 60 năm” đã phân tích khá sâu sắc nền nông nghiệp
Trung Quốc trải qua những bước thử nghiệm quanh co, thăng trầm với hai giai
đoạn phát triển cơ bản: Từ 1949 – 1978 là thời kỳ nông nghiệp “nuôi” công


11
nghiệp, từ 1978 đến nay là thời kỳ giải phóng và phát triển sức sản xuất nông
nghiệp, nông thôn. Trên cơ sở phân tích những thành tựu, khó khăn trong quá
trình phát triển nông nghiệp 60 năm qua, nêu ra phương hướng phát triển nông
nghịêp của Trung Quốc trong thời gian tới, rút ra một số bài học cần nghiên
cứu vận dụng, đó là: nâng cao nhận thức và giải quyết vấn đề nông nghiệp phải
gắn chặt với việc giải quyết vấn đề ‘tam nông”; phối hợp giữa thị trường – Nhà
nước và xã hội để phát huy ưu thế của mỗi địa phương, kết hợp nguồn lực vùng
miền, nguồn lực trong và ngoài nước; tập trung giải quyết hài hoà quan hệ
thành thị - nông thôn, giải quyết những bức xúc của nông dân, đẩy mạnh phát
triển sự nghiệp xã hội nông thôn; chủ động hội nhập, tiếp thu các thành quả của
văn minh nhân loại và ứng phó kịp thời với những biến động thị trường nông
sản quốc tế.
Bên cạnh đó, tham khảo những nghiên cứu về phát triển nông nghiệp của
các nước ASEAN, những quốc gia có điều kiện tương đồng về nhiều mặt với
nước ta nói chung và ĐBSCL nói riêng về địa lý, khí hậu, trình độ phát triển
nông nghiệp, tập quán canh tác…cũng rất cần thiết. Chẳng hạn như: Vũ Tuyết
Loan (2008) với “ Thái Lan – quốc gia có nền nông nghiệp phát triển” khẳng
định việc xây dựng chiến lược toàn diện định hướng ngay từ đầu lấy xuất khẩu
hàng hoá nông sản làm mũi nhọn đột phá để tích luỹ vốn ban đầu cho công
nghiệp hoá ở Thái Lan đã thành công với vị thế là nước đứng đầu thế giới về

xuất khẩu gạo, là nước xuất khẩu thực phẩm mạnh nhất khu vực Đông – Nam Á
và đang tiến hành các chiến lược đột phá về phát triển nông nghiệp trong thời
gian tới; Đặng Kim Oanh (2008) với “Chính sách phát triển nông nghiệp của
Inđônêxia” khẳng định để vực dậy lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc
dân sau hai thập kỷ bị ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, khủng hoảng tiền tệ khu
vực, Nhà nước Inđônêxia đã tập trung vào xây dựng hệ thống chính sách để tăng
trưởng nông nghiệp hiệu quả và bền vững rất cần được tham khảo, đó là: thực
hiện an ninh lương thực được coi là chương trình hoạt động đặc biệt; đẩy mạnh


12
hoạt động thị trường một số đầu vào của nông nghiệp; đa dạng hoá việc phát
triển thị trường giống cây trồng và đầu tư mạnh vào hệ thống hợp tác xã. Hay
như nhiều tài liệu đều thống nhất khẳng định: việc ổn định và phát triển nhanh
chóng tình hình KT - XH sau thời kỳ đen tối của nạn diệt chủng ở Vương quốc
Campuchia chính là nhờ khai thác hiệu quả tiềm năng nông nghiệp, bảo đảm an
ninh lương thực bằng chính nội lực quốc gia, làm tiền đề để nhân dân định cư an
tâm sản xuất.
Tất cả những vấn đề nêu trên chính là những bài học bổ ích góp phần định
hướng phát triển nền nông nghiệp nước ta trong thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên, do
sự khác nhau về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, về chế độ chính trị xã hội, tính đặc thù của mỗi quốc gia; kể cả khác biệt về đường lối nghệ thuật,
chiến lược quân sự, nên đề tài chỉ có thể tham khảo kinh nghiệm, kế thừa từ
những bài học đó một số nhân tố đặc trưng, chứ không sao chép, ứng dụng một
cách máy móc vào điều kiện của nước ta, trong đó có vùng nông nghiệp ĐBSCL.
Hơn nữa, những nghiên cứu về phát triển nông nghiệp ở các nước nêu trên thường
chú trọng về các giải pháp kinh tế hướng đến sự tăng trưởng hiệu quả, bền vững
cho lĩnh vực này, nếu có đề cập ảnh hưởng đến tình hình KT - XH thì cũng rất
“nhạt”, thậm chí có xu hướng tách biệt khi nghiên cứu, nhất là vấn đề phức tạp,
nhạy cảm như lĩnh vực QP - AN.
2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài

Thứ nhất, trên phương diện chủ trương, chính sách, luật pháp: Đảng và
Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, đề án, chỉ thị quan trọng định hướng phát triển
KT - XH nói chung, phát triển nông nghiệp nói riêng phù hợp với yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Điểm
đột phá đầu tiên là bước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp theo tinh
thần chỉ thị 100-CT/TW (13-1-1981) của Ban Bí thư Trung ương về “Cải tiến
công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động
trong hợp tác xã nông nghiệp”; đây là bước tiến lớn trong nông nghiệp nước ta,


13
nhưng vẫn còn nhiều điều bất cập, nhất là vẫn còn xem nhẹ lợi ích của xã viên
trong việc thực hiện chế độ khoán dẫn đến tình hình xã viên trả lại ruộng khoán,
cùng với thiên tai liên tiếp xảy ra làm cho sản xuất giảm sút, nạn đói xuất hiện
vào năm 1987 và 1988. Để khắc phục tình hình này, cơ chế quản lý kinh tế nông
nghiệp được tiếp tục bổ sung và phát triển theo tinh thần nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị (4-1988) với các nội dung như: bảo đảm cho người nông dân nhận
khoán canh tác trên diện tích có qui mô thích hợp và ổn định trong khoảng 5
năm, khuyến khích xã viên đầu tư phát triển chăn nuôi, mua sắm các công cụ,
máy móc thúc đẩy sản xuất và phát triển kinh tế gia đình…Tháng 3 năm 1989 cơ
chế “khoán 10” lại được tiếp tục hoàn thiện một bước theo tinh thần Hội nghị lần
thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khoá VI, với chủ trương thanh toán và khoán
gọn đến hộ gia đình nông dân. Thực chất là đổi mới toàn diện cả về quan hệ sở
hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối trong hợp tác xã nông nghiệp, thừa
nhận vai trò chủ thể của kinh tế hộ gia đình và tôn trọng lợi ích của nông dân.
Đây là sự đổi mới vừa đòi hỏi quá trình, vừa đòi hỏi có tính bước ngoặt trong
nhận thức về cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp của Đảng ta. Nhìn lại chặng
đường hơn 20 năm đổi mới, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt
được thành tựu khá toàn diện và to lớn; tuy nhiên, những thành tựu đạt được
chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông

nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần,
sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất. Vì vậy,
Nghị quyết 26-NQ/T.Ư của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bảy khoá
X (tiến hành từ ngày 9 đến 17-7-2008) “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”
đã thể hiện bước tiến mới về nhận thức, trong đó đã phản ánh đầy đủ, sâu sắc
những thành tựu, hạn chế, quan điểm, mục tiêu, tám nhóm nhiệm vụ và giải pháp
chính như: xây dựng nền nông nghiệp toàn diện; xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH
nông thôn; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn; đổi mới
các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ ở nông thôn; nghiên cứu, chuyển giao,


14
ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực; đổi mới mạnh mẽ cơ
chế, chính sách; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát
huy sức mạnh cộng đồng; thực hiện tốt các nhiệm vụ cấp bách đến năm 2010;
Nghị quyết đã khẳng định:
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan
trọng để phát triển KT - XH bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm
bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo
vệ môi trường sinh thái của đất nước…Trong mối quan hệ mật thiết giữa
nông nghiệp, nông dân, nông thôn thì nông dân là chủ thể của quá trình
phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công
nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo qui hoạch là căn bản; phát triển
toàn diện, hiện đại hoá nông nghiệp là then chốt…Tiếp tục đẩy mạnh
thâm canh sản xuất lúa, nhất là ở ĐBSCL, đồng bằng sông Hồng. Đảm bảo
vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài là ưu tiên hàng
đầu trong phát triển nông nghiệp [21, tr.130].
Sự ra đời của Nghị quyết Trung ương 7 là rất kịp thời và đúng đắn, nó
xoá bỏ triệt để tư tưởng coi thường nông nghiệp, nông dân, nông thôn về mặt

tình cảm cũng như khoa học. Đặc biệt, xuất phát từ vị trí, vai trò rất quan trọng
của vùng ĐBSCL, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 21 về “Chiến lược phát triển
ĐBSCL” đề cập một cách toàn diện: cả về đánh giá tình hình, đề ra phương
hướng, nhiệm vụ và giải pháp đến năm 2010 trên các mặt phát triển kinh tế, phát
triển xã hội, QP - AN và đảm bảo nguồn vốn đầu tư; Nghị quyết đã nhấn mạnh:
phát triển nông nghiệp ĐBSCL xứng đáng là vùng trọng điểm số một của cả
nước, góp phần xây dựng ĐBSCL trở thành một vùng trọng điểm phát triển kinh
tế của cả nước với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, hiệu quả, bền vững, đồng thời
chú trọng đến các lĩnh vực khác trong đó có yêu cầu về củng cố vững chắc
KVPT. Đồng thời, ngày 17 tháng 02 năm 2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị


15
quyết 45 “Về xây dựng Thành phố Cần Thơ trong thời kỳ CNH, HĐH đất
nước”, đề cập tình hình hình xây dựng và phát triển thành phố, đề ra phương
hướng và nhiệm vụ phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2020 với các nội
dung: làm tốt công tác quy hoạch; tận dụng và phát huy tối đa lợi thế, tiềm
năng; phát triển nhanh kết cấu hạ tầng KT - XH và kiến trúc đô thị; chăm lo
phát triển con người; kết hợp chặt chẽ phát triển KT - XH với củng cố QP AN; củng cố hoạt động của hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở. Đặc biệt yêu cầu
xây dựng Cần Thơ thành trung tâm của ĐBSCL: vừa là đầu tàu kinh tế, vừa là
KVPT then chốt trên địa bàn QK9.
Cũng cần nhấn mạnh rằng: bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng đã có chủ
trương chuyển hướng chiến lược về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là, Đảng đã
chủ trương xây dựng tỉnh (thành phố) thành KVPT vững chắc theo kế hoạch của
Quân khu và cả nước. Vấn đề này luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Đảng uỷ Quân sự Trung ương,
Bộ Quốc phòng và cấp uỷ, chính quyền địa phương các tỉnh (thành phố) trong cả
nước; được nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu; đã có một số tài liệu có liên quan đến vấn đề này ở những góc
độ nghiên cứu khác nhau. Bao trùm nhất là Nghị quyết 02 Bộ Chính trị (khoá

VI), Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX) và Nghị quyết 28 Bộ Chính trị (khoá X)
đã xác định những vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc về nhiệm vụ quốc phòng
trong giai đoạn cách mạng mới, nhất thiết phải khẩn trương xây dựng tỉnh, thành
phố, quận, huyện thành KVPT vững chắc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Quán triệt tinh thần đó, nhiều công trình khoa học đã tích cực được
nghiên cứu, triển khai thực hiện như: Bộ Tổng tham mưu(1987) với “Xây dựng
tỉnh (thành phố) thành KVPT vững chắc để bảo vệ Tổ quốc”, lưu hành nội bộ,
tháng 10-1987. Học viện Quốc phòng (1988) với “xây dựng huyện thành KVPT
vững chắc”, Nxb QĐND, Hà Nội, tháng 8-1988. Bộ Quốc phòng (2004) với
“KVPT tỉnh, thành phố trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Giáo trình


16
giáo dục Quốc phòng, Chuyên đề 7, Tập 2, Nxb QĐND. Chính phủ (2005) với
“Báo cáo tổng kết 15 năm xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thành KVPT vững chắc (1989-2004”, Lưu hành nội bộ, Tháng 2-2005. Đảng uỷ
quân sự Trung ương (2008) với “Báo cáo tổng kết 20 năm xây dựng các tỉnh,
thành phố thành KVPT vững chắc theo Nghị quyết 02/NQ-TW của Bộ Chính trị
(khoá VI), Lưu hành nội bộ, Tháng 8-2008…Tất cả những tài liệu nêu trên đều
khẳng định xây dựng KVPT tỉnh (thành phố) là tất yếu khách quan làm cơ sở
cho phòng chống ‘diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ và chống chiến tranh xâm
lược của các thế lực thù địch, khẳng định những quan điểm, nội dung, yêu cầu,
nêu ra một số bài học kinh nghiệm quý báu về xây dựng KVPT như: xây dựng
KVPT là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn dân; xây dựng toàn diện cả
về chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, QP – AN, và phải được kết hợp chặt chẽ
với nhau, trong đó xây dựng về chính trị (cốt lõi là thế trận lòng dân) là nội dung
có tính chất quyết định đối với sự vững chắc của KVPT.
Đây là những tư liệu quý cho việc tiếp cận, vận dụng giải quyết những
vấn đề củng cố KVPT tỉnh (thành phố) trên địa bàn QK9. Mặc dù vậy, như trình
bày vừa nêu những chủ trương, chính sách, luật pháp thường mang giá trị định

hướng, chỉ đạo ở tầm vĩ mô, vẫn cần có sự nghiên cứu, bổ sung và nhất là phải
đưa ra được các giải pháp, kiến nghị cụ thể để hiện thực hoá các văn bản có tính
pháp lý trong đời sống thực tiễn.
Thứ hai, trên phương diện các đề tài nghiên cứu khoa học: Sau Nghị
quyết 10/NQ-TW của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam về : “Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” (1988), đã có rất nhiều
công trình khoa học đề cập trực tiếp đến phát triển nông nghiệp và mối quan hệ
giữa phát triển nông nghiệp với vai trò nông dân và diện mạo nông thôn nước ta
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Những công trình khoa học của các tác giả
như:


17
Trần Xuân Châu (2002) với “Đẩy nhanh phát triển nông nghiệp hàng hoá ở
Việt Nam hiện nay”, trong đó phân tích đặc trưng, vai trò, xu hướng phát triển nền
nông nghiệp hàng hoá ở nước ta trong tiến trình CNH, HĐH và trên cơ sở phân tích
những thời cơ, thách thức đã đưa ra những giải pháp nhằm đẩy nhanh phát triển
nông nghiệp hàng hoá nước ta trong điều kiện mới.
Đặng Kim Sơn (2008) với “nông nghiệp nông dân, nông thôn Việt Nam
hôm nay và mai sau” và “Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn trong quá trình công nghiệp hoá”, trong đó phân tích khá sâu sắc tình hình
nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trong những năm gần đây theo tinh
thần Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khoá X), đề xuất một số giải pháp về chính
sách; đồng thời trên cơ sở tổng hợp, phân tích vấn đề nông nghiệp, nông thôn trong
quá trình công nghiệp hoá của nhiều nước trên thế giới từ các nước châu Âu, Nhật
Bản đến Trung Quốc…đã nêu ra một số vấn đề có tính lý luận và thực tiễn trong
quá trình công nghiệp hoá ở nước ta và giải quyết những vấn đề cụ thể của nông
nghiệp, nông thôn.
Nguyễn Từ (2008) Với “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát
triển nông nghiệp Việt Nam”, trong đó đã phân tích những tác động một cách sâu

sắc trên nhiều mặt của hội nhập quốc tế vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt
Nam, chỉ ra những thuận lợi cần tận dụng và thách thức cần vượt qua với những
giải pháp thích hợp và tích cực.
Hoàng Ngọc Hoà (2008) với “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta”, trong đó tiến hành nghiên cứu, tổng kết,
góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước ta về nông nghiệp, nông dân, nông thôn để tìm ra nguyên nhân của
những thành công và hạn chế cũng như đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm
tiếp tục đưa nông nghiệp, nông dân, nông thôn phát triển lên trình độ mới. Những
công trình nghiên cứu trên do đặc điểm và phạm vi nghiên cứu chi phối, nên chỉ tập
trung giải quyết những vấn đề phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn một
cách thuần tuý mà không đề cập tới những tác động có liên quan đến QP – AN.


18
Xung quanh các công trình khoa học tiếp cận lĩnh vực nông nghiệp gắn với
QP – AN cũng đã có nhiều tác giả tiếp cận sâu sắc những vấn đề lý luận chung về
phạm trù, khái niệm, đặc trưng, vai trò của phát triển nông nghiệp hàng hoá, cũng
như tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau phản ánh sự kết hợp KT - XH với QP AN, phù hợp với đối tượng, phạm vi, nội dung nghiên cứu cụ thể như: Vũ Quang
Lộc (1985) với “Cải tạo xã hội chủ nghĩa nền nông nghiệp và củng cố quốc phòng
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” ; Lại Ngọc Hải (1991) với “ Sự
phát triển của quan hệ sản xuất trong nông nghiệp và tác động của nó đối với
củng cố quốc phòng trong chặng đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam”,
Lê Minh Vụ (1996) với “Phát triển kinh tế nông thôn hàng hoá và tác động của
nó đối với nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang ở Việt Nam hiện nay”…Qua tiếp
cận tìm những nét tương đồng qua các công trình khoa học, rất cần chú ý đến
Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Văn Bảy (2001) với “CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn đồng bằng Bắc bộ và tác động của nó đối với tăng cường sức
mạnh KVPT tỉnh, thành phố thuộc khu vực này”. Đây là công trình khoa học tiếp
cận mối tương tác giữa hai nhân tố CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và KVPT,

ngoài phần lý luận chung xoay quanh đối tượng nghiên cứu, trên cơ sở đánh giá
thực trạng, tác giả đã khẳng định sự tác động theo hai chiều hướng (thuận chiều và
không thuận chiều) của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đồng bằng Bắc bộ
đến tăng cường sức mạnh KVPT tỉnh, thành phố ở khu vực này. Từ đó đề xuất
những quan điểm cơ bản và các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn gắn với tăng cường sức mạnh KVPT. Tất cả những kiến
thức nêu trên cần tiếp thu, kế thừa có chọn lọc.Tuy nhiên, sự khác biệt về địa bàn,
đối tượng tác động, cách tiếp cận phụ thuộc rất nhiều vào chính kiến chủ quan;
hơn nữa lĩnh vực kinh tế (trong đó có kinh tế nông nghiệp) là vấn đề rộng lớn,
không ngừng vận động, phát triển, luôn đặt ra nhiều vấn đề mới, và do những điều
kiện khác nhau (cả khách quan lẫn chủ quan), cho nên chưa có bất kỳ công trình


19
khoa học nào đề cập trực diện đến phát triển nông nghiệp ĐBSCL và tác động của
nó đến củng cố KVPT tỉnh (thành phố) trên địa bàn QK9.
Thứ ba, trên phương diện loại hình các tài liệu, bài báo khoa học: Đã có
một khối lượng khá lớn các tài liệu, bài báo khoa học xoay quanh vấn đề vai trò
phát triển nông nghiệp đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điển hình
là nghiên cứu của Tô Huy Rứa với “nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong đổi
mới ở Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [64, tr.2], đã phản ánh bức
tranh toàn diện về lĩnh vực này trong những năm đổi mới. Tài liệu nghiên cứu
này nêu rõ: vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong tiến trình
cách mạng và trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay; định hướng cho
nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, phát
triển mạnh mẽ kinh tế thị trường và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Trong đó có mấy nội dung có thể tham khảo để vận dụng như là những bài học
“đắt giá” để phát triển nông nghiệp, đó là: phải nhận thức đúng mối quan hệ hữu
cơ giữa những đối tượng nông nghiệp, nông dân, nông thôn để xây dựng cơ sở
khoa học đề ra chính sách và giải pháp phát triển toàn diện; phải xem nông

nghiệp nước ta là ngành kinh tế có tầm quan trọng sống còn, có vị trí trọng yếu
trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân, đảm nhiệm an ninh lương thực cho quốc gia,
cung cấp cho xã hội nguồn lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu, cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất công nghiệp,
đồng thời là thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm cho công nghiệp và dịch vụ; công
bằng xã hội là một trong những mục tiêu quan trọng của phát triển, mục tiêu này
chưa được thực hiện đối với nông dân và cộng đồng xã hội nông thôn, nếu không
kịp thời có những điều chỉnh thì sẽ không thực hiện được những bảo đảm cho ổn
định xã hội để phát triển toàn diện và lâu dài; kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế
và dân chủ hoá là những nhân tố nổi bật nhất tác động vào đời sống KT - XH ở
nông thôn cả tích cực lẫn những hạn chế yếu kém, bất cập và những vấn đề phát
sinh, thậm chí có cả những vấn đề bức xúc.


20
Đáng chú ý hơn, nhiều tài liệu, bài báo khoa học đề cập trực tiếp đến phát
triển nông nghiệp ĐBSCL gắn với những đặc thù riêng và vai trò quan trọng của
nó đối với các mặt của đời sống xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu gắn bó, tâm huyết
với vùng đất này (trong đó có những người là cán bộ lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước) đã có tầm nhìn chiến lược phân tích sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của
phát triển nông nghiệp ĐBSCL đối với an ninh lương thực cả nước và khu vực
như: Võ Văn Kiệt, Nguyễn Tấn Dũng với “Tây Nam bộ tiến vào thế kỷ 21”;
Nguyễn Đình Đầu với “Nam bộ xưa và nay”; Võ Tòng Xuân với “Hướng đi
bảo đảm an ninh lương thực quốc gia ở ĐBSCL”; Võ Hùng Dũng với “Chiến
lược phát triển kinh tế ĐBSCL”…Rất nhiều chuyên gia kinh tế đều đồng tình
với nhận định tổng quát của Võ Văn Kiệt về vùng đất này: Đầu tư một đồng
vào nông nghiệp ở ĐBSCL sẽ sinh lợi gấp ba so với đầu tư cho vùng nông
nghiệp khác. Lấy cái lời của nơi này chia sẻ cho vùng khác là bài toán hiệu quả
nhất. Cho đến bây giờ, khi lương thực trở thành vấn nạn của thế giới, người ta
càng thấy đầu tư cho ĐBSCL như thế còn quá ít. Đồng thời các nhà nghiên cứu

đều nhấn mạnh: vùng đất này cũng đang đối mặt với nhiều vấn đề có liên quan
đến phát triển nông nghiệp nhanh, hiệu quả và bền vững như: hạ tầng giao
thông, tri thức, môi trường nước…Hơn nữa, trước đòi hỏi của quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói chung và ĐBSCL nói riêng đã
và đang đặt ra nhiều vấn đề mới có liên quan đến lĩnh vực này và những tác
động của nó đến củng cố KVPT tỉnh (thành phố) trên địa bàn QK9 cần được
nghiên cứu kỹ và có hệ thống hơn.
Tóm lại, phát triển nông nghiệp ở nước ta nói chung và ở ĐBSCL nói riêng
là vấn đề có ý nghĩa vừa cấp bách vừa lâu dài. Từ trước đến nay đã có nhiều nghị
quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước định hướng cả tầm vĩ mô
và vi mô cho từng vùng (đặc biệt là ĐBSCL); đồng thời nhiều công trình khoa
học của nhiều tác giả đã nghiên cứu ở các góc độ, phương diện khác nhau đã
được công bố rộng rãi qua các ấn phẩm nghiên cứu, hội thảo khoa học, đăng tải


21
trên các tạp chí, các báo của Trung ương, ngành và địa phương. Các công trình,
tài liệu nghiên cứu khá toàn diện, tiếp cận và chú trọng dưới nhiều góc độ: hoặc
là lý luận chung hoặc là kinh tế kỹ thuật hoặc là từng khía cạnh, từng địa bàn có
tính đặc thù. Riêng phát triển nông nghiệp ĐBSCL với tính chất là một vùng
kinh tế nông nghiệp đặc trưng đã có nhiều nhà nghiên cứu, các tác giả đầy tâm
huyết luận giải ở những khía cạnh, phạm vi khác nhau, chủ đích bàn nhiều về
tăng trưởng nông nghiệp, ít quan tâm sự tương tác của nó đến các yếu tố khác,
nhất là tác động đến KVPT, nếu có cũng chỉ là gợi mở những giải pháp tình thế.
Do đó, có thể khẳng định: từ trước đến nay chưa có một công trình nào nghiên
cứu về “Phát triển nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long và tác động của nó
đến củng cố khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) trên địa bàn Quân khu 9 hiện
nay” tiếp cận ở góc độ chuyên ngành kinh tế chính trị với tư cách là một công
trình khoa học độc lập, đề cập một cách trực tiếp, hệ thống và đầy đủ. Cho nên,
đề tài này được tác giả nghiên cứu trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của

nhiều nhà khoa học đi trước, những chính kiến của những người am hiểu và tâm
huyết vùng đồng bằng sông nước Miền Tây, song không trùng lắp với bất kỳ một
công trình khoa học nào đã được công bố trước đây.


22
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ ĐẾN CỦNG CỐ KHU VỰC PHÒNG THỦ TỈNH (THÀNH PHỐ)
TRÊN ĐỊA BÀN QUÂN KHU 9
1.1. Phát triển nông nghiệp nước ta và phát triển nông nghiệp đồng
bằng sông Cửu Long
1.1.1.Quan niệm về phát triển nông nghiệp nước ta ngày nay
Các nhà kinh điển Mác - Lênin và Hồ Chí Minh đã đề cập đến sự phát
triển nông nghiệp, chứng minh tầm quan trọng của lĩnh vực này - một trong
những ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội - có vai trò to lớn đối với
sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia. Lý luận về phát triển nông nghiệp
được Mác - Ăngghen đúc kết từ việc nghiên cứu nông nghiệp phương Tây và
cả phương Đông nêu rõ ở phần địa tô tư bản chủ nghĩa, giá cả của ruộng đất,
quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản chủ nghĩa trong bộ Tư Bản. C.Mác nói:
Khu vực cuối cùng và tinh lực tự nhiên của sức lao động đang ẩn náu và
được tàng trữ làm kho dự trữ để đổi mới nguồn sinh lực của các dân tộc là ở
chính ngay nông thôn [49, tr.533]. Còn V.I.Lênin, khi nghiên cứu chủ nghĩa
tư bản ở Nga đã phân tích tình hình cụ thể và tìm con đường riêng đưa nông
nghiệp, nông dân nước Nga đi lên CNXH. Trong Cương lĩnh ruộng đất của
Đảng dân chủ - xã hội, V.I.Lênin khẳng định: “Không thể phát triển nông
nghiệp nước Nga theo con đường “đại điền trang kiểu Phổ” vì đó là kiểu
phát triển kém hiệu quả, mà phải là kiểu “một chủ trại tự do” [40, tr.182].
Đối với nước ta, từ khi xây dựng CNXH ở Miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã vận dụng sáng tạo quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể Việt Nam. Theo Người, ở nước ta vấn đề sản xuất nông nghiệp,
bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân chiếm một vị trí đặc biệt trong tiến
trình đi lên CNXH. Người đã nhấn mạnh:


23
Nước ta là một nước nông nghiệp giống như Trung Quốc, Triều Tiên. Muốn
phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy phát triển nông
nghiệp làm gốc, làm chính. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ
sở để phát triển công nghiệp vì nông nghiệp ngoài đảm bảo an toàn lương thực
quốc gia còn cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp và tiêu thụ
hàng hoá của công nghiệp làm ra…phải cải tạo và phát triển nông nghiệp để
tạo điều kiện cho việc công nghiệp hoá nước nhà [51, tr.7].
Đây là cơ sở lý luận quí báu để Đảng ta ngày càng nhận thức đúng đắn hơn
vị trí, vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn và có định hướng
chiến lược để khai thác mọi tiềm năng lĩnh vực này góp phần thực hiện thắng lợi
đường lối CNH, HĐH.
Ngày nay, đặc điểm lớn nhất của thời đại là vấn đề toàn cầu hoá kinh tế và
sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ. Hai đặc điểm
này chi phối trực tiếp đối với tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới trên
tất cả các mặt, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Nông nghiệp nước ta ngày nay
khi hội nhập kinh tế quốc tế, coi như từ giã “cái ao nhỏ ở làng để đi ra biển cả”
chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội, nhưng cũng lắm nguy cơ, thách thức.
Do đó, trong lý luận và chỉ đạo hoạt động thực tiễn ở nước ta ngày nay
cần thống nhất quan niệm: Nông nghiệp theo nghĩa rộng chứa đựng đầy đủ các
đặc điểm kinh tế tự nhiên, kinh tế - kỹ thuật và KT – XH của nó. Vì vậy, nghiên
cứu vấn đề phát triển nông nghiệp là nghiên cứu quá trình vận động của cả nông,
ngư, lâm nghiệp, dịch vụ tổng hợp, gắn với xu thế hội nhập, với đời sống thực tế của
người nông dân và diện mạo xã hội nông thôn (tức là luôn tiếp cận ở trạng thái

“động” cả ba mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng xã
hội nông thôn). Tiếp cận này sẽ khắc phục được tình hình trước đây khi bàn về phát
triển nông nghiệp (cả trong lý luận cũng như trong thực tiễn) thông thường quan niệm
chỉ dừng lại ở khía cạnh nội hàm hẹp - tức là thường nhấn mạnh các yếu tố chủ yếu
như: lương thực, chăn nuôi…ít chú ý đến một cơ cấu nông nghiệp hoàn chỉnh, xem xét
phát triển nông nghiệp thường ở trạng thái “tĩnh”, trong xu thế nội tại, khép kín, chú ý


24
nhiều về mặt lượng; quan niệm phát triển nông nghiệp đơn thuần chỉ là lĩnh vực kinh
tế. Tiếp cận mới sẽ hình thành lối tư duy về phát triển nông nghiệp trên cơ sở xem xét
toàn diện, đặt nó trong trạng thái “động”, ở xu thế mở, chú trọng nhiều hơn về chất
lượng tăng trưởng và gắn chặt chẽ phát triển nông nghiệp trong tổng thể đời sống xã hội.
Với cách tiếp cận này, nhìn ở góc độ kinh tế chính trị, nội hàm của phát triển
nông nghiệp ở nước ta ngày nay được thể hiện với các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, phát triển nông nghiệp với việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
toàn diện. Đây là yêu cầu khách quan có nghĩa sống còn đối với bất kỳ lĩnh vực
kinh tế nào trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Bởi vì chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp gắn chặt với tăng trưởng kinh tế nội bộ ngành. Thực tiễn trong
một thời gian dài với quan niệm tiếp cận phát triển nông nghiệp theo nghĩa hẹp
(hầu như chỉ nhấn mạnh lương thực), cho nên hầu hết các vùng, miền ở nước ta
không khai thác triệt đễ tiềm năng riêng, sẵn có (dĩ nhiên còn nhiều nguyên nhân
khách quan khác như: đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài, thực hiện
cơ chế nông nghiệp một thời gian dài không phù hợp…), làm cho sản xuất lúa
gạo có lúc không đủ ăn; còn chăn nuôi, trồng rừng, cây ăn trái và đánh bắt thuỷ,
hải sản hầu như là những yếu tố “phụ trợ” trong sản xuất nông nghiệp. Kể cả sau
hơn 20 năm đổi mới, tuy nông nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng tăng
trưởng có dấu hiệu chững lại và phát triển chưa vững chắc. Điển hình như vùng
ĐBSCL - được mệnh danh là một trong ba đồng bằng lớn nhất và phì nhiêu nông
nghiệp nhất thế giới – nơi có đến 35% giá trị sản xuất nông nghiệp, 66% giá trị

sản xuất thuỷ sản, hơn 50% diện tích và 65% sản lượng cả nước về cây trái ăn
quả và cây có múi [13, tr.32] ; nhưng theo các chuyên gia đánh giá: cho đến nay
kinh tế nông nghiệp vùng đất này vẫn đang ở dưới mức tiềm năng! Vì vậy hiện
nay, yêu cầu trước tiên của sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp ở nước ta là phải
tuân thủ quy luật kinh tế thị trường, nhất là phải chuyển dịch đồng bộ các nguồn
lực từ nơi có lợi suất thấp đến nơi có lợi suất cao; sự dịch chuyển phải góp phần
xoá dần lối sản xuất manh mún, lạc hậu, thay vào đó là ngày càng tập trung cao,


25
ứng dụng công nghệ tiên tiến; phải tận dụng tốt các điều kiện, môi trường để
việc chuyển dịch cơ cấu diễn ra thuận lợi. Kinh nghiệm của Thái Lan: từ những
năm 1960 họ đã sớm nhận ra con đường công nghiệp hoá phải được thực hiện dựa
chủ yếu vào nền nông nghiệp có cơ cấu hoàn chỉnh, xác định buổi đầu phát triển
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phải xuất phát từ thế mạnh nông nghiệp. Cho nên kế
hoạch phát triển nông nghiệp 5 năm lần lượt, kế tiếp nhau ra đời với những mục
tiêu đặt ra rất cụ thể có tính khả thi cao, và không có gì bất ngờ khi đến thập niên 80
của thế kỷ XX, Thái Lan đã có đủ tiền đề vật chất cần thiết gặt hái được chủ yếu từ
nông nghiệp để đưa đất nước đứng vào hàng ngũ “những nền kinh tế mới công
nghiệp hoá” với mục tiêu trở thành con rồng thứ 5 của châu Á, đứng thứ 2 ở Đông Nam Á (sau Xin-ga-po).
Phân tích điều này để thấy rằng: khi đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp toàn diện sẽ tạo lập đồng bộ các yếu tố cho tăng trưởng bền vững, trong đó
các yếu tố như: chất lượng sản phẩm, thị trường, bảo hiểm nông nghiệp được xem
trọng. Đây lại là các yếu tố tiên quyết để các nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư,
mà dòng đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta rất hạn chế (theo
Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết: riêng năm 2007 vừa
qua, dòng vốn FDI chảy vào nước ta đã đạt mức kỷ lục với tổng số vốn đầu tư
đăng ký đạt gần 18 tỷ USD, trong đó công nghiệp và xây dựng chiếm 60,1%, dịch
vụ chiếm 34,4%, còn nông -lâm - ngư nghiệp chỉ có 5,4%!) Hơn nữa, việc đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp còn là cơ sở khoa học để định hình những

kế hoạch ngắn hạn, trung hạn 5 năm, 10 năm, trước hết tập trung cho các vùng
kinh tế nông nghiệp trọng điểm như: ĐBSCL, đồng bằng sông Hồng để nông
nghiệp nước nhà xứng đáng với vai trò đã, đang và sẽ tiếp tục là điều kiện, nền
tảng vững chắc cho sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai, phát triển nông nghiệp theo hướng mở, coi trọng năng suất, chất
lượng tăng trưởng. Nước ta tiến hành CNH, HĐH trong điều kiện hội nhập sâu
vào nền kinh tế thế giới, bùng nổ của khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hoá


26
ngày càng mở rộng. Bởi vậy, không thể tiếp tục duy trì một nền nông nghiệp phát
triển khép kín, tăng trưởng theo chiều rộng mà ngược lại, vấn đề phát triển nông
nghiệp phải được ưu tiên và chủ động giải quyết theo hướng mở - nhìn ở trạng
thái “động” cả về: phạm vi, tính chất, cơ cấu, hình thức sở hữu…nhằm thích ứng
nhanh và phản ứng linh hoạt trong mọi biến đổi của thị trường trong và ngoài
nước – đồng thời, coi trọng năng suất, chất lượng: thực chất là quan tâm hàng đầu
đến tay nghề lao động, sắp xếp hợp lý trong sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học,
công nghệ; quan tâm đến tăng trưởng theo chiều sâu, hướng vào các sản phẩm có
giá trị gia tăng cao từ sản phẩm nông nghiệp.
Thực tiễn nước ta sau khi gia nhập WTO, khu vực nông thôn (72% số dân
sống ở nông thôn và 70% lao động làm nghề nông nghiệp) là đối tượng dễ bị tổn
thương nhất bởi sự tác động của các yếu tố có tính chất quy luật của nền kinh tế
thị trường và các yếu tố bất lợi khác. Sức ép của giá cả bấp bênh, thiên tai, dịch
bệnh…gây ra cho ngành nông nghiệp đã lấy đi sự dành dụm của người nông dân
rất nhiều so với mất mát, tổn thất chung của toàn xã hội. Hơn nữa, xét từ nhân tố
nội lực, một bộ phận nông dân chưa thoát ly hẳn được lối tư duy bao cấp, sản
xuất nhỏ lẻ, manh mún; sản phẩm thất thoát trong và sau thu hoạch cao (khoảng
10 - 13%) và năng lực cạnh tranh thấp; chưa khai thác, phát huy có hiệu quả mọi
nguồn lực và thế mạnh của từng địa phương, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao. Do đó, tăng trưởng của kinh tế nước ta phụ thuộc chủ yếu vào gia tăng các

yếu tố đầu vào, phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của kết cấu hạ tầng, còn sản
phẩm có hàm lượng trí tuệ và sáng tạo cao rất ít. Năng suất lao động đóng góp vào
tăng trưởng kinh tế chưa cao, ước tính khoảng 20% vào tăng trưởng GDP, trong
khi đó Thái Lan là 35%, Philippin là 41%, Indonexia là 43%. Càng hội nhập, nước
ta càng bộc lộ một sự thật là thiếu trầm trọng lao động có tay nghề, trình độ cao.
Đơn cử, một tập đoàn kinh tế cần tuyển dụng 1.000 lao động, họ đã tiến hành thử
việc 2.000 người. Thế nhưng, chỉ có 68 ứng viên đáp ứng đủ yêu cầu về trình độ,
tay nghề, ngoại ngữ. Trình độ nguồn nhân lực đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự


27
khẳng định thương hiệu của các doanh nghiệp [84, tr.28]. Đó là thực trạng ở lĩnh
vực công nghiệp, còn ở lĩnh vực nông nghiệp, thanh niên thất nghiệp từ độ tuổi
15-29 lên tới 77%. Điều này nói lên nguồn nhân lực ở lĩnh vực này còn thấp kém
hơn là một điều hiển nhiên.
Nêu lên vấn đề này để khẳng định rằng: chỉ khi nào phát triển theo xu
hướng mở, chú trọng về năng suất, chất lượng sản phẩm thì khu vực nông nghiệp
mới được hưởng lợi từ hội nhập, từ thành tựu của khoa học - công nghệ; trong đó
vai trò chính vẫn là “bốn nhà”: nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông
dân. Hy vọng rằng trong tương lai không xa cuộc cách mạng về nông nghiệp có
giá trị cao hoà chung dòng chảy của kinh tế toàn cầu sẽ góp phần bảo đảm vị thế
nước ta đủ sức “bơi” ra biển lớn.
Thứ ba, Phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn gắn với thị
trường hội nhập. Đây là nguyên lý có tính qui luật, bởi từ khi bắt tay xây
dựng CNXH ở Nga (trước đây), V.I.Lênin đã từng khẳng định: “chính sự trao
đổi là một sự khuyến khích, thúc đẩy đối với nông dân…và điểm chủ yếu là
phải làm cho tiểu dân một sự khuyến khích, kích thích, một sự thúc đẩy trong
hoạt động kinh doanh của chúng ta” [41, tr.296], và thật ra, kinh tế thị trường
là sản phẩm của văn minh nhân loại được phát triển tới trình độ cao dưới chủ
nghĩa tư bản nhưng tự bản thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ

nghĩa tư bản. Thực tiễn cải cách ở Trung Quốc, đổi mới ở nước ta đã chứng
minh đầy sức thuyết phục về việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện
xây dựng CNXH, nhằm mục đích giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước
cải thiện đời sống nhân dân. Đây là mô hình chưa có tiền lệ trong lịch sử,
nhưng đã và đang được khẳng định đầy sức thuyết phục.
Phát triển nông nghiệp gắn chặt với nền kinh tế thị trường hội nhập thực
chất là mọi hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp phải tuân thủ và bám sát các
qui luật thị trường như qui luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh…Hay nói cách
khác, trong sản xuất nông nghiệp, trồng cây gì? Nuôi con gì? Chế biến ra sao?


28
phải luôn bám sát nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước, được thị trường
chấp nhận và tính toán hiệu quả cụ thể, nhất là những mặt hàng hoá nông phẩm
chủ lực ở nước ta như: gạo, trái cây, tôm, cá ở ĐBSCL, cà phê Tây Nguyên, chè
Tây Bắc…phải biết khai thác triệt để lợi thế so sánh trong cơ chế thị trường,
không chỉ cung cấp đầy đủ trong nước mà còn luôn chủ động trong hội nhập
kinh tế thế giới bằng nguồn xuất khẩu dồi dào với ngày càng có nhiều thương
hiệu có chất lượng được ưa chuộng. Điều này được chứng minh rất rõ là từ sau
đổi mới, Đảng và Chính phủ luôn nhất quán chủ trương thực hiện tự do hoá lưu
thông, mua bán các sản phẩm nông nghiệp và các loại vật tư, kỹ thuật nông
nghiệp trên địa bàn cả nước. Xoá bỏ tình trạng chia cắt thị trường theo địa bàn
hành chính, xoá bỏ việc “ngăn sông, cấm chợ” của thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá
tập trung. Giá cả nông sản từ chỗ do Nhà nước quy định một cách chủ quan, áp
đặt và nhiều giá, đã được chuyển sang cơ chế một giá, do người mua và người
bán thoả thuận trên thị trường. Mặt khác, để hạn chế những tác động bất lợi của
thị trường, nhất là khi có biến động lớn về giá nông sản trên thị trường thế giới
đối với nông dân, Nhà nước chủ trương sẽ can thiệp một cách tích cực để giúp
họ giữ vững sản xuất và đảm bảo đời sống. Nhà nước thực hiện chính sách mua
nông sản của nông dân theo giá thoả thuận trên thị trường, không ép buộc nông

dân phải bán nông sản cho Nhà nước như trước. Đồng thời để khuyến khích
nông dân đi vào sản xuất hàng hoá, Nhà nước còn chủ trương miễn, giảm thuế
cho họ, nhất là nông dân ở những nơi mới khai hoang, các vùng núi cao, vùng
sâu, vùng xa, vùng gặp nhiều khó khăn do thiên tai gây ra…Chính vì vậy mà chỉ
trong một thời gian ngắn, nông nghiệp nước ta đã có bước chuyển biến rất nhanh
chóng, là một trong những “điểm sáng” của thế giới về phát triển nông nghiệp
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, phát triển nông nghiệp gắn với phát triển hài hoà mọi mặt đời
sống xã hội. Điều này khẳng định: phát triển nông nghiệp ngày nay không đơn
thuần là kinh tế, mà còn là vấn đề xã hội, chính trị, gắn kết với toàn bộ quá trình
chuyển đổi và phát triển KT - XH ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


29
Dấu ấn phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng ở nước ta
sau hơn 20 năm đổi mới là rất ấn tượng; nhưng điều quan trọng đáng lưu tâm là
nếu xét theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế vì con người, vì sự công bằng xã hội –
điều cốt lõi của bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa - thì thật đáng lo ngại: mức
chênh lệch giàu nghèo ở nước ta (năm 2006 là 8,4 lần) còn cao hơn một số nước,
kể cả những nước đã qua nhiều năm phát triển tư bản chủ nghĩa (Mỹ năm 2000
là 8,4 lần, Thái Lan năm 2000 là 7,7 lần, Hàn Quốc năm 2003 là 5,2 lần, Đức
năm 2000 là 4,3 lần…) [54, tr.17]. Do đó, nếu theo đà này dù phát triển nông
nghiệp đến đâu cũng không có ý nghĩa gì cả, thậm chí có tác động trái chiều. Vì
vậy, phát triển nông nghiệp ở nước ta trong thời kỳ hội nhập, bất luận lý do gì
cũng phải tính đến các yếu tố khác, trước hết là vấn đề nông dân, nông thôn. Đây
là một đòi hỏi bức bách có ý nghĩa sống còn của một chế độ chính trị - xã hội
cần sự nhận thức đồng thuận của tất cả mọi chủ thể.
Phát triển nông nghiệp phải tạo điều kiện thu hút lao động, việc làm, nâng
cao thu nhập của dân cư nông thôn. Cần có sự phối hợp, tổ chức thực hiện nhiều
biện pháp đồng bộ để phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ nông thôn, thu hút

đầu tư và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động trong khu vực này. Đặc biệt, các
chính sách an sinh xã hội phải được người nông dân có khả năng tiếp cận ngày
một tốt hơn. Đây vừa là yêu cầu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa là
đạo lý của dân tộc Việt Nam. Hơn nữa, phát triển nông nghiệp phải là “cú hích”
để xây dựng nông thôn mới gắn với những tiêu chí cụ thể, phù hợp với đặc thù
của từng vùng miền; chú trọng xây dựng nông thôn mới với việc giải quyết kịp
thời các vấn đề bức xúc ở nông thôn, nhất là bảo đảm công bằng, dân chủ, công
khai, minh bạch khi chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp, cần xử lý thoả
đáng mối quan hệ giữa nhà đầu tư và nông dân có đất chuyển mục đích sử dụng,
trên cơ sở bảo đảm lợi ích lâu dài, đồng thời bảo đảm an ninh lương thực cũng
như sự phát triển KT - XH của khu vực và đất nước. Ngoài ra, phát triển nông
nghiệp ngày nay phải có tư duy chiến lược phát triển bền vững và thân thiện với


×