Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 70 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG.
1.1.1

Khái niệm

Danh từ tín dụng xuất phát từ gốc La tinh Creditum, có nghĩa là một sự tin
tưởng tín nhiệm lẫn nhau, hay nói cách khác đó là lòng tin.
Tín dụng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng số vốn đó
sẽ được hoàn lại vào một thời điểm xác định trong tương lai. Có thể định nghĩa
quan hệ tín dụng một cách đầy đủ như sau: Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng
tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật ) từ người sở hữu
sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị
lớn hơn giá trị ban đầu.
Tín dụng cũng có thể được hiểu là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng
hóa ) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác ) và bên đi
vay ( cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác ), trong đó bên cho vay chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa
thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô diều kiện vốn gốc và lãi cho bên
cho vay khi đến hạn thanh toán.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về tín dụng nhưng tựu chung lại đều
có 3 nội dung hay đặc trưng sau:
- Thứ nhất: là quan hệ chuyển nhượng một lượng giá trị mang tính chất tạm


thời. Đối tượng của sự chuyển nhượng có thể là tiền tệ hoặc hiện vật. Tính chất
tạm thời của sự chuyển nhượng đề cập đến thời gian sử dụng lượng giá trị đó. Nó
Nguyễn Hữu Hiếu

3

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

là kết quả của sự thỏa thuận giữa các đối tác tham gia quá trình chuyển nhượng
để đảm bảo sự phù hợp giữa thời gian nhàn rỗi và thời gian cần sử dụng lượng
giá trị đó. Sự thiếu phù hợp của thời gian chuyển nhượng này có thể ảnh hưởng
đến quyền lợi tài chính và hoạt động kinh doanh của cả hai bên và dẫn đến
những rủi ro, những nguy cơ phá hủy quan hệ tín dụng. Thực chất trong quan hệ
tín dụng chỉ có sự chuyển nhượng quyền sử dụng lượng giá trị tạm thời nhàn rỗi
trong một khoảng thời gian nhất định mà không có sự thay đổi quyền sở hữu đối
với lượng giá trị đó.
- Thứ hai: tính hoàn trả. Lượng vốn được chuyển nhượng phải được hoàn
trả đúng hạn cả về thời gian và về giá trị bao gồm hai bộ phận: gốc và lãi. Phần
lãi đảm bảo cho lượng giá trị hoàn trả lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Sự chênh
lệch này là giá trả cho quyền sử dụng vốn tạm thời. Nói cách khác, nó là giá trả
cho sự hy sinh quyền sử dụng vốn hiện tại của người sở hữu vì thế nó phải đủ
hấp dẫn để người sở hữu có thể sẵn sàng hy sinh quyền sử dụng đó.
- Thứ ba: quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người đi vay và
người cho vay. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín
dụng. Người cho vay tin tưởng rằng vốn sẽ được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn.

Người đi vay cũng tin tưởng vào khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay. Sự
gặp gỡ giữa người đi vay và người cho vay về điểm này sẽ là điều kiện hình
thành quan hệ tín dụng. Cơ sở cua sự tin tưởng này có thể do uy tín của người đi
vay, do giá trị tài sản bảo đảm và do sự bảo lãnh của người thứ ba.
Cơ sở khách quan của sự ra đời quan hệ tín dụng là: cùng một lúc có những
chủ thể kinh tế tạm thời dư thừa một khoản vốn, trong khi các chủ thể kinh tế
khác lại có nhu cầu cần bổ sung vốn. Hành vi tín dụng như vậy có thể được diễn
ra trực tiếp giữa bên thừa vốn cần đầu tư với bên cần vốn để sử dụng. Nhưng
trên thực tế hai bên này khó có thể phù hợp được với nhau về quy mô, về thời
gian, không gian; hoặc nếu có thể phù hợp được thì phải tốn nhiều chi phí. Do
đó, xuất hiện một bên thứ ba đứng ra tập trung được vốn của số đông những
Nguyễn Hữu Hiếu

4

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

người tạm thời dư thừa vốn, cần đầu tư kiếm lãi, sau đó đem số vốn này phân
phối cho những chủ thể kinh tế thiếu hụt, có nhu cầu về vốn dưới hình thức cho
vay, cho thuê tài chính. Bên thứ ba đó chính là các tổ chức tín dụng, trong đó chủ
yếu nhất là các ngân hàng thương mại – các trung gian chủ yếu trên thị trường tài
chính. Và hình thức tín dụng của các ngân hàng thương mại này được gọi là tín
dụng ngân hàng.
1.1.2


Vai trò của tín dụng ngân hàng.

a. Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội
Vai trò quan trọng nhất của tín dụng là cung ứng vốn một cách kịp thời cho
các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội. Nhờ đó mà các
chủ thể này có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
Một hệ thống các hình thức tín dụng đa dạng không những thỏa mãn nhu
cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn
tín dụng trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các chi phí
nguồn vốn cho các chủ thể kinh doanh.
Nhờ có tín dụng ngân hàng và các hình thức tín dụng sẽ tạo sự chủ động cho
các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh khi nó
không phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân. Điều này
giúp cho các nhà sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng
lực sản xuất cảu xã hội.
Các nguồn tín dụng được cung ứng luôn đi kèm với các điều kiện tín dụng
để hạn chế rủi ro và với áp lực phải trả cả gốc và lãi vay buộc người đi vay phải
quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn, đến khai thác có hiệu quả tiềm năng
kinh tế trong hoạt động kinh doanh.
b. Tín dụng là kênh chuyển tải tác động của Nhà nước đến các mục
tiêu vĩ mô

Nguyễn Hữu Hiếu

5

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp


Học viện Ngân hàng

Các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế bao gồm ổn định giá cả, tăng trưởng
kinh tế và tạo công ăn việc làm. Tín dụng trở thành một công cụ quan trọng để
Nhà nước thực hiện các mục tiêu vĩ mô này. Thông qua việc thay đổi và điều
chỉnh các điều kiện tín dụng, Nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc
chuyển hướng vận động của nguồn vốn tín dụng, nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng
cầu và tổng cung của nền kinh tế cả về quy mô và kết cấu, đồng thời cũng ảnh
hưởng tới các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân bằng cuối cùng giữa tổng cung
và tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ cho phép đạt được các mục
tiêu vĩ mô cần thiết.
c. Tín dụng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội
Thông qua các hình thức tín dụng ưu đãi như tín dụng cho người nghèo với
lãi suất thấp, tín dụng đối với các đối tượng chính sách khác,… sẽ góp phần nâng
cao điều kiện sống và tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế của các đối tượng này.
Khi sử dụng vốn tín dụng ưu đãi, các đối tượng chính sách này buộc phải quan
tâm đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo hoàn trả đúng thời hạn, kết hợp với
các ưu đãi có được, điều kiện tài chính của họ sẽ được cải thiện, từng bước dần
có thể độc lập với nguồn vốn tài trợ. Đó chính là mục đích chính của việc sử
dụng phương thức tài trợ các mục tiêu chính sách bằng con đường tín dụng.
1.2 RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1 Khái niệm
Rủi ro rín dụng là những khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi ngân
hàng cấp tín dụng.
Hiểu theo một cách khác thì rủi ro tín dụng là những thiệt hại, mất mát mà
ngân hàng gánh chịu do người vay vốn hay người sử dụng vốn không trả đúng
hạn, không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng tín dụng vì bất kể ly
do gì.


Nguyễn Hữu Hiếu

6

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

1.2.2 Phân loại rủ ro tín dụng
Căn cứ vào khả năng khách hàng không trả nợ cho ngân hàng trên khía cạnh
bản chất của sự không trả nợ, ta có thể phân chia rủi ro tín dụng thành hai loại là
rủi ro đọng vốn và rủi ro mất vốn.
1.2.2.1 Rủi ro đọng vốn
Đó là rủi ro khi khách hàng sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng bao
gồm vốn gốc và/ hoặc lãi vay. Sự sai hẹn này là do trễ hạn, khách hàng không có
khả năng hoàn trả đúng hạn làm cho các khoản cho vay của ngân hàng bị bất
động hóa.
1.2.2.2 Rủi ro mất vốn
Đó là rủi ro khi khách hàng sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng bao
gồm vốn gốc và/hoặc lãi vay. Sự sai hẹn này là do không thanh toán, khách hàng
không trả một phần hoặc toàn bộ khoản tín dụng.
1.2.3 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
1.2.3.1 Đối với nền kinh tê
Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung
gian tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ
chức, các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở

hữu những khoản cho vay vẫn là quyền sở hữu của những người gửi tiền vào
ngân hàng. Bởi vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu
thiệt mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng.
Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và
các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì
người gửi tiền ở các ngân hàng hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở
các ngân hàng, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng
gặp phải rủi ro hay phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản suất kinh doanh của
doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó
Nguyễn Hữu Hiếu

7

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ
nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất
nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến
nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền
kinh tế khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính
châu Á (1997) và mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã làm rung
chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát
triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh
tế các nước có liên quan.
1.2.3.2 Đối với ngân hàng

Rủi ro tín dụng là những thiệt hại, mất mát về mặt tài chính mà ngân hàng
phải gánh chịu liên quan tới việc người vay vốn không trả đúng hạn hay không
thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng. Nói như vậy hàm y rủi ro
tín dụng có ảnh hưởng lớn tới tình hình tài chính của ngân hàng.
Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và
lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi
đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi, lợi nhuận
của ngân hàng bị giảm sút, kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng cũng bị ảnh
hưởng. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng
kinh doanh không có hiệu quả.
Nếu một khoản vay nào đó bị mất khả năng thu hồi thì ngân hàng phải sử
dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng mực nào
đấy, ngân hàng không có đủ vốn để trả cho người gửi tiền thì ngân hàng sẽ rơi
vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ gặp rủi ro thanh
khoản. Và kết quả làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút,
uy tín, sức cạnh tranh giảm. Kết quả kinh doanh của ngân hàng ngày càng xấu có
thể dẫn ngân hàng đến thua lỗ hoặc đưa đến bờ vực của sự phá sản nếu không có
biện pháp xử ly, khắc phục kịp thời.
Nguyễn Hữu Hiếu

8

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

Nói tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau:

nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay,
nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn
đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục
được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói
chung và hệ thống ngân hàng nói riêng.
1.2.4 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Trong quan hệ tín dụng, có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và
người đi vay. Nhưng người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không
gian cụ thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định gọi là
môi trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín
dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên
nhân khách quan. Rủi ro tín dụng xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay
gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan.
1.2.4.1 Nguyên nhân khách quan
• Môi trường tự nhiên:
Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới hoạt động sản
xuất kinh doanh, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam còn phụ thuộc
quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp, công nghiệp phục vụ nông nghiệp và thủ
công nghiệp,…
Điều kiện tự nhiên là yếu tố khó dự báo, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt
hại lớn nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Vì vậy khi có thiên tai, dịch họa
xảy ra, khách hàng của ngân hàng sẽ có nguy cơ tổn thất lớn, nguồn thu bị ảnh
hưởng…điều đó đồng nghĩa với việc ngân hàng cùng gánh chịu rủi ro với khách
hàng của mình. Rủi ro do những diễn biến bất lợi của môi trường tự nhiên là loại
rủi ro bất khả kháng và khi nó xảy ra thường đem lại thiệt hại lớn cho các đơn vị
kinh doanh và cho các ngân hàng tài trợ.

Nguyễn Hữu Hiếu

9


Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

• Môi trường pháp ly:
Kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh tiền tệ đặc biệt, có tác động
to lớn tới toàn bộ nền kinh tế. Bởi vậy nó đòi hỏi phải được điều chỉnh bởi pháp
luật và chịu sự kiểm soát khắt khe của các cơ quan quản ly Nhà nước. Sự bất lợi
của môi trường pháp ly, sự kém hiệu quả của cơ quan quản ly các cấp trong việc
triển khai các quy định của luật pháp sẽ đẩy ngân hàng vào điều kiện kinh doanh
tín dụng với nhiều rủi ro.
Trong nền kinh tế thị trường, việc các yếu tố pháp ly không phù hợp với yêu
cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động của nền kinh tế đó không thể
tiến hành trôi chảy được. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập một môi trường pháp ly
cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh
tế cao. Bất cứ sự không tương xứng của pháp luật nói riêng và môi trường pháp
ly nói chung đều có thể đẩy các đơn vị kinh doanh gặp rủi ro trong khi tham gia
các quan hệ tài chính,…và quan hệ tín dụng của ngân hàng cũng không thể tránh
khỏi các rủi ro mà có thể dẫn tới tổn hại nghiêm trọng.
Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát của NHNN còn chưa hiệu quả. Bên cạnh
những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo
an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Thanh tra ngân
hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử ly vụ việc đã phát sinh, ít có
khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro, vi phạm.
• Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng đến sức mạnh tài chính của người đi vay

và thiệt hại hay thành công của người cho vay. Sự hưng thịnh hay suy thoái của
chu kỳ kinh doanh cũng ảnh hưởng tới lợi nhuận của người đi vay và do vậy tạo
niềm tin hay gây nên nỗi lo lắng cho người đi vay tiền. Khi nền kinh tế ở giai
đoạn hưng thịnh, người vay hoạt động kinh doanh tốt hơn, các nhân tố tài chính
là an toàn hơn, do đó rủi ro tín dụng giảm. Trong giai đoạn khủng hoảng, tình

Nguyễn Hữu Hiếu

10

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

hình kinh doanh của người vay bị giảm sút do chậm thu hồi các khoản phải thu,
do sức mua giảm, hàng tồn kho tăng lên,…như vậy kéo theo đó là sự suy giảm
của các chỉ tiêu tài chính – các nhân tố đảm bảo cho sự an toàn của khoản tín
dụng ngân hàng, khả năng thanh toán các khoản nợ bị yếu đi, rủi ro tín dụng tăng
lên với ngân hàng.
Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia
tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh
nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy
cơ thua lỗ.
Bên cạnh đó phải kể tới sự thiếu quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách bất
hợp ly vào một số ngành kinh tế khiến cho các ngành này có sự phát triển quá
nóng. Bong bóng kinh tế hay sự tăng trưởng giả tạo, tăng trưởng không bền vững
trong các ngành này do đó sẽ tăng lên, rủi ro tín dụng sẽ tăng lên đối với ngân

hàng nào có tỷ trọng tín dụng cao ở ngành đó và thiếu cơ chế quản ly đúng đắn.
• Môi trường thông tin:
Sẽ là rất suôn sẽ và an toàn nếu trong các giao dịch tín dụng các bên tham
gia đều có thông tin và hiểu biết đầy đủ về nhau. Song một thực tế tồn tại là: môt
bên thường không biết tất cả những gì cần biết về bên kia, hoặc những thông tin
có được lại không liên tục và có độ tin cậy không cao. Sự không cân xứng về
thông tin như vậy trong nhiều trường hợp đã đặt các ngân hàng vào tình trạng
đưa ra phán quyết tín dụng trong điều kiện thông tin không hoàn hảo, gây rủi ro
cho ngân hàng.
Tất cả các nguyên nhân khách quan trên nếu không được dự báo, có biện
pháp phòng ngừa kịp thời sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường kinh doanh
của cả ngân hàng lẫn khách hàng. Khi khách hàng gặp phải rủi ro do nguyên
nhân khách quan gây nên, họ không còn đủ khả năng thực hiện cam kết trong
quan hệ tín dụng với ngân hàng thì việc tốt nhất ngân hàng có thể làm là giúp đỡ,

Nguyễn Hữu Hiếu

11

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

hỗ trợ khách hàng để họ khôi phục lại hoạt động kinh doanh tạo nguồn trả nợ
cho ngân hàng.
1.2.4.2 Nguyên nhân chủ quan
a. Nguyên nhân từ phía khách hàng vay

• Sử dụng vốn sai mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, không
đúng phương án, mục đích xin vay, hiệu quả kinh doanh không được phát huy
triệt để nên khi đến hạn không trả được nợ cho ngân hàng.
• Khách hàng vay vốn không có thiện chí trả nợ, trây ỳ không trả nợ hoặc
cố tình lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng.
• Do sự yếu kém trong kinh doanh. Tính toán các phương án kinh doanh,
hoạch định ngân quỹ không chính xác, không dự tính hết các khoản chi tiêu dẫn
đến xác định sai thu nhập trả nợ ngân hàng.
• Sản xuất kinh doanh của khách hàng không thuận lợi do những thay đổi
bất ngờ ngoài y muốn tác động xấu đến kinh doanh, mang lại rủi ro cho họ, làm
xấu đi tình hình tài chính của các chủ thể vay vốn. Rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của khách hàng sẽ ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng.
b. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Trước hết phải nói đến các ngân hàng còn thiếu một chính sách tín dụng
nhất quán, chính sách tín dụng ở đây phải bao gồm định hướng chung cho việc
cho vay, chế độ tín dụng ngắn, trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm tiền
vay, danh mục lựa chọn khách hàng trong từng giai đoạn,….Nguyên nhân gây ra
rủi ro tín dụng từ phía ngân hàng có thể kể đến các nguyên nhân cơ bản dưới
đây:
• Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để
phân tích và đánh giá khách hàng,…dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của

Nguyễn Hữu Hiếu

12

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp


Học viện Ngân hàng

phương án xin vay, hoặc xác định thời hạn cho vay và trả nợ không phù hơp với
phương án kinh doanh của khách hàng.
• Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên không
phát hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích.
• Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm
bảo chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
• Chạy theo số lượng ( hoặc theo kế hoạch ) mà sao lãng việc coi trọng
chất lượng khoản vay, quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương
án kinh doanh của khách hàng.
• Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản ly rủi ro, quản
ly hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản
phẩm địa phương khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong từng
thời kỳ.
• Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng
chưa đủ tầm và vấn đề quản ly sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa
đáng.
• Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng, việc chạy theo quy mô, bỏ qua các
tiêu chuẩn, điều kiện cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng khoản vay.
c. Nguyên nhân từ phía các bảo đảm tín dụng:
• Giá cả các tài sản bảo đảm biến động theo chiều hướng bất lợi, dẫn đến
trường hợp giá trị thị trường của tài sản bảo đảm giảm, không đủ bù đắp cho các
khoản tín dụng khi xảy ra rủi ro. Sự biến động các tài sản bảo đảm còn phụ thuộc
vào đặc tính của tài sản và thị trường giao dịch các tài sản này.
• Khó định giá các tài sản dùng làm bảo đảm tín dụng, điều này có thể do
đặc tính của tài sản, do tài sản không phổ biến trên thị trường hay do giá trị tài

Nguyễn Hữu Hiếu


13

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

sản biến động nhanh trên thị trường,…có thể dẫn đến tình trạng định giá tài sản
quá cao.
• Tính khả mại của tài sản thấp, có nghĩa là tài sản gặp trở ngại khi tham
gia thị trường. Điều này sẽ gây rủi ro cho ngân hàng bởi khi khoản tín dụng gặp
rủi ro thì có thể việc phát mại tài sản bảo đảm không giúp thu hồi được giá trị
khoản cho vay.
• Tài sản bảo đảm gặp các tranh chấp về pháp ly như các tranh chấp về
giao dịch bảo đảm,…hoặc thiếu cơ sở pháp ly cho việc xử ly tài sản bảo đảm.
1.2.5 Các chỉ số đánh giá rủi ro tín dụng
1.2.5.1 Tình hình nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã
quá hạn.
Theo một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không
hoàn trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ.
Nợ quá hạn là một thước đo quan trọng nhất đánh giá sự lành mạnh thể chế,
đánh giá rủi ro của ngân hàng trong việc cung ứng dịch vụ tín dụng. Nó tác động
tới tất cả các hoạt động của chính của ngân hàng. Nợ quá hạn xuất hiện làm
chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các tổ chức tín dụng, làm giảm
hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận, giảm hiệu quả kinh doanh. Đồng thời làm
giảm khả năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng, giảm uy tín và khả năng cạnh

tranh của ngân hàng.
Để đảm bảo quản ly chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia theo
thời hạn thành các nhóm sau:
- Nợ quá hạn dưới 90 ngày – Nợ cần chú y.
- Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày – Nợ dưới tiêu chuẩn.
Nguyễn Hữu Hiếu

14

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

- Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày – Nợ nghi ngờ.
- Nợ quá hạn trên 361 ngày – Nợ có khả năng mất vốn.
Số dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = ------------------------Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì rủi ro của ngân hàng càng tăng.
Số khách hàng quá hạn
Tỷ lệ khách hàng có nợ quá hạn = ------------------------------------Tổng số khách hàng có dư nợ
Tỷ lệ khách hàng có nợ quá hạn càng thấp càng tốt, nó thể hiện chính sách
tín dụng cũng như khả năng quản ly rủi ro của ngân hàng. Nếu tỷ lệ khách hàng
có nợ quá hạn thấp hơn tỷ lệ nợ quá hạn, thì dường như các khoản cho vay lớn
có vấn đề nhiều hơn các khoản cho vay món nhỏ.
Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho phép dư nợ quá hạn của
các Ngân hàng thương mại không được vượt quá 5%, nghĩa là trong 100 đồng

vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng.
* Nợ quá hạn theo khả năng thu hồi: chia làm 2 loại: Nợ quá hạn có khả
năng thu hồi và Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi.
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là những khoản nợ quá hạn nhưng thời
gian quá hạn ngắn và y thức trả nợ của khách hàng được đánh giá là tốt.
NQH có khả năng thu hồi
Tỷ lệ NQH có khả năng thu hồi = ----------------------------------Tổng NQH

Nguyễn Hữu Hiếu

15

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: là mức độ cao hơn của nợ quá hạn
có khả năng thu hồi, thông thường nó là nợ loại 5 – nợ có khả năng mất vốn,
gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị
quá hạn hoặc đã quá hạn.
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử ly.

Tổng dư nợ loại 5
Tỷ lệ NQH không có khả năng thu hồi = --------------------------Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi càng cao, rủi ro càng thấp. Và ngược
lại, tỷ lệ nợ quá hạn không có khả năng thu hồi càng cao, rủi ro càng cao.
* Nợ quá hạn theo mức độ bảo đảm: gồm 2 loại: nợ quá hạn có tài sản bảo
đảm và nợ quá hạn không có tài sản bảo đảm.
NQH có TSBĐ
Tỷ lệ NQH có TSBĐ = -------------------------Tổng nợ quá hạn
NQH không có TSBĐ
Tỷ lệ NQH không có TSBĐ = -------------------------------Tổng nợ quá hạn

Nguyễn Hữu Hiếu

16

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

Đối với một khoản vay, tài sản bảo đảm có y nghĩa quan trọng. Nó vừa tạo
áp lực buộc người vay vốn phải tuân thủ các điều kiện vay vốn, tạo sức ép cho
họ sử dụng vốn hiệu quả, trả nợ gốc và lãi đầy đủ. Nó còn là nguồn thu hồi, đảm
bảo an toàn cho các khoản vay khi khách hàng không thanh toán các khoản nợ.
Tỷ lệ nợ quá hạn có tài sản bảo đảm càng cao thì mức độ rủi ro của ngân hàng
càng thấp. Ngược lại, tỷ lệ nợ quá hạn không có tài sản bảo đảm càng cao thì
ngân hàng càng chịu nhiều rủi ro.
1.2.5.2 Tình hình nợ xấu

Nợ xấu là các khoản nợ mang đặc trưng cơ bản sau:
+ Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các
cam kết này đã hết hạn.
+ Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến
có khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
+ Tài sản bảo đảm được đánh giá là giá trị phát mãi không đủ trang trải nợ
gốc và lãi.
+ Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất 90 ngày.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu của tổ chức tín dụng bao gồm các
nhóm nợ sau:
- Nhóm nợ loại 3 – nợ dưới tiêu chuẩn.
- Nhóm nợ loại 4 – nợ nghi ngờ.
- Nhóm nợ loại 5 – nợ có khả năng mất vốn.
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = --------------------Tổng dư nợ

Nguyễn Hữu Hiếu

17

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

Số khách hàng có nợ xấu
Tỷ lệ khách hàng có nợ xấu = ----------------------------------Tổng số khách hàng có dư nợ
Thông qua tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ và tỷ lệ khách hàng có nợ xấu có thể

thấy mức độ rủi ro của ngân hàng, cũng như đánh giá được chất lượng tín dụng
và hoạt động tín dụng của ngân hàng. Các chỉ tiêu này càng cao cho thấy chất
lượng tín dụng càng kém và hoạt động tín dụng của ngân hàng càng rủi ro.
Theo quy định hiện nay của NHNN thì tỷ lệ nợ xấu của các tổ chức tín dụng
không được vượt quá 3%.
1.2.5.3 Tình hình rủi ro mất vốn.
Dự phòng RRTD được trích lập
Tỷ lệ dự phòng RRTD = ---------------------------------------Dư nợ cho kỳ báo cáo

Mất vốn đã xóa cho kỳ báo cáo
Tỷ lệ mất vốn = ----------------------------------------Dư nợ trung bình cho kỳ báo cáo
Tỷ lệ dự phòng RRTD đánh giá sự chủ động của ngân hàng trong việc
phòng ngừa rủi ro tổn thất do những khoản tín dụng mang lại. Tỷ lệ này phải ở
mức hợp ly. Nếu tỷ lệ này thấp quá, dự phòng của ngân hàng trích chưa đủ, rủi
ro gia tăng. Nếu tỷ lệ này quá cao ngân hàng sẽ an toàn hơn nhưng nó sẽ ảnh
hưởng tới khả mở rộng tín dụng và lợi nhuận của ngân hàng. Hiện tỷ lệ này nên
ở mức 5%.

Nguyễn Hữu Hiếu

18

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

Tỷ lệ mất vốn phản ánh mức tổn thất vốn tín dụng của ngân hàng trong kỳ.

Tỷ lệ này càng thấp càng tốt. Hiện nay theo quy định, tỷ lệ này không được vượt
quá 2%.
1.2.5.4 Khả năng bù đắp rủi ro
Dự phòng RRTD được trích lập
Hệ số bù đắp các khoản CV bị mất = ------------------------------------------Dư nợ bị thất thoát

Dự phòng RRTD được trích lập
Hệ số khả năng bù đắp RRTD = -----------------------------------------Nợ quá hạn khó đòi
Các hệ số này đánh giá khả năng của tổ chức tín dụng trong việc bù đắp các
khoản tín dụng có rủi ro bằng cách trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng.
Các hệ số này càng thấp càng tốt.
1.2.6 Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng.
1.2.6.1 Dấu hiệu từ phía khách hàng.
a. Dấu hiệu tài chính:
- Sự gia tăng không cân dối về tỷ lệ nợ thường xuyên.
- Tiền mặt giảm.
- Giá trị tuyệt đối và tương đối của các khoản phải thu tăng một cách đột
biến.
- Các chỉ số thanh khoản cho thấy dấu hiệu giảm sút.
- Những thay đổi nhanh chóng của tài sản cố định.
- Các khoản dự phòng tăng mạnh.
Nguyễn Hữu Hiếu

19

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp


Học viện Ngân hàng

- Gia tăng sự mất cân dối của các khoản nợ ngắn hạn.
- Các khoản nợ dài hạn tăng đáng kể và/ hoặc chiếm tỷ lệ lớn.
- Thời gian thu hồi nợ trung bình tăng lên.
- Xuất hiện các điều kiện gia hạn nợ vay ngân hàng hoặc khách hàng.
- Hàng tồn kho tăng lên đáng kể.
- Doanh số bán hàng giảm hoặc doanh số bán hàng tăng nhưng lãi giảm
hoặc không có lãi.
- Những thay đổi về tỷ lệ lãi gộp và lãi ròng trên doanh số bán.
- Chi phí quản ly tăng cao không cân xứng so với mức tăng của doanh thu
bán hàng.
- Xuất hiện lỗ từ hoạt động kinh doanh.
- Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh âm và/ hoặc có kết quả âm
từ chu kỳ kinh doanh.
- Không hạch toán đúng tài sản cố định.
- Số khách hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh toán của các con nợ được
kéo dài.
- Các vòng quay hoạt động cho thấy sự suy yếu.
b. Dấu hiệu phi tài chính:
• Dấu hiệu liên quan đến ngân hàng:
- Giảm sút mạnh số dư tiền gửi.
- Công nợ gia tăng.
- Mức độ vay thường xuyên.
- Yêu cầu khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
- Chấp nhận sử dụng nguồn tài trợ lãi suất cao.
Nguyễn Hữu Hiếu

20


Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

- Chậm thanh toán nợ gốc và lãi cho ngân hàng.
• Dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật và thương mại:
- Khó khăn trong phát triển sản phẩm mới, hoặc không có sản phẩm thay
thế.
- Việc thay thế những máy móc lỗi thời diễn ra chậm chạp, kém hiệu quả
trong việc duy trì và bảo hành máy móc thiết bị.
- Thay đổi về phạm vi kinh doanh: mở rộng kinh doanh ở các ngành mà
doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm.
- Mất mát quyền phân phối hay cung cấp sản phẩm.
- Giá trị của các đơn đặt hàng hoặc hợp đồng mua bán thay đổi đáng kể mà
có thể dẫn đến mất cân bằng năng lực sản xuất hiện hành.
- Khách hàng trả lại hàng hóa do chất lượng không đảm bảo.
- Sản phẩm có tính thời vụ cao.
- Có biểu hiện cắt giảm chi phí.
• Dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản ly với khách hàng:
- Có sự thay đổi về cơ cấu nhân sự trong hệ thống quản trị.
- Xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống diều hành.
- Ít kinh nghiệm, xuất hiện nhiều hành dộng nhất thời.
- Thuyên chuyển nhân viên quá thường xuyên.
- Tranh chấp trong quá trình quản ly.
- Chi phí quản ly bất hợp ly: tập trung quá mức chi phí như thiết bị văn
phòng rất hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền, Ban giám đốc có cuộc
sống xa hoa, lẫn lộn giữa chi phí kinh doanh và tài chính cá nhân.


Nguyễn Hữu Hiếu

21

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

- Quản ly có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những người
quản ly không thuộc gia đình, cho thành viên của gia đình chưa được đào
tạo, huấn luyện đầy đủ đản đương vị trí then chốt.
• Dấu hiệu về xử ly thông tin tài chính:
- Sự gia tăng tỷ lệ không cân đối nợ.
- Chuẩn bị số liệu tài chính không đủ, trì hoãn nộp báo cáo.
- Cố tình làm đẹp bảng cân đối tài sản bằng tài sản vô hình.
- Kế hoạch sử dụng vốn và trả nợ không rõ ràng.
1.2.6.2 Dấu hiệu từ phía ngân hàng
- Quy trình cho vay không được tuân thủ đúng quy định của ngân hàng.
- Cán bộ tín dụng có mối quan hệ đặc biệt bất bình thường với khách hàng.
- Các cấp quản ly trong ngân hàng thiếu sự giám sát quản ly sát sao.
- Bỏ qua vấn đề phát hành séc quá số dư, không coi đó là một tín hiệu của
vấn đề tài chính chủ yếu từ người di vay.
- Không kiểm tra tài sản kinh doanh của người đi vay.
- Cho vay dựa vào giá trị sổ sách của doanh nghiệp, không kiểm toán và xác
minh báo cáo tài chính của người đi vay.
- Không thể thu thập hoặc bỏ qua những báo cáo của bộ phận thông tin tín

dụng hoặc những nguồn tham khảo tín dụng khác.
- Không thể đánh giá chính xác/ đánh giá quá cao/ không quản ly hợp ly tài
sản thế chấp khi tình trạng suy giảm trở nên không thể cứu vãn.
- Giải ngân trước khi hoàn thiện hồ sơ tín dụng.
- Cho vay nhưng không có tài sản bảo đảm thích đáng.

Nguyễn Hữu Hiếu

22

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

- Không phân tích/ thiếu sự phân tích chính xác khả năng trả nợ của người
vay.
- Cán bộ tín dụng không kiểm tra tình trạng khoản vay thường xuyên.
1.2.6.3 Các dấu hiệu khác
- Cơ chế chính sách thay đổi ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh
doanh của khách hàng vay vốn. Đặc biệt là sự tác động của các chính sách
thuế, điều kiện thành lập và hoạt động.
- Giá cả thị trường thay đổi làm ảnh hưởng trực tiếp đến đầu vào, đầu ra của
sản phẩm mà khoản vay đó đầu tư.
- Tỷ giá, lãi suất thị trường thay đổi; thị hiếu của khách hàng thay đổi ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn.
1.2.7 Một số kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng trên thế giới
a. Quản trị rủi ro thông qua hoàn thiện cơ cấu tổ chức

• Kinh nghiệm của Ngân hàng Rabobank (Ngân hàng lớn nhất Hà Lan):
Thiết lập bộ phận quản ly rủi ro chuyên trách và phân loại quản ly rủi ro. Có
thể phân loại quản ly rủi ro theo 02 nhóm:
- Quản ly rủi ro về chính sách liên quan đến rủi ro lãi suất, thanh khoản, thị
trường, tiền tệ và hoạt động đồng thời về rủi ro tín dụng ở mức độ dư nợ.
- Quản ly rủi ro tín dụng về quản ly rủi ro ở cấp độ khách hàng cá nhân.
• Kinh nghiệm của các Ngân hàng Thái Lan:
- Thứ nhất: họ tách bạch, phân công rõ chức năng các bộ phận và tuân thủ
các khâu trong quy trình giải quyết các khoản cho vay: tiếp xúc khách hàng,
phân tích tín dụng, thẩm định tín dụng, đánh giá rủi ro, quyết định cho vay,
thủ tục giấy tờ hợp đồng, đánh giá chất lượng, xem xét lại các khoản vay.

Nguyễn Hữu Hiếu

23

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

- Thứ hai: tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề có tính nguyên tắc trong tín
dụng, không chỉ quan tâm đến tài sản bảo đảm của khách hàng mà còn quan
tâm đến tư cách, hiệu quả kinh doanh, mục đích vay, khả năng trả nợ, thực
trạng tài chính,….
- Thứ ba: tiến hành cho điểm khách hàng để quyết định cho vay.
- Thứ tư: tuân thủ quyền phán quyết tín dụng. Theo đó, họ quy định việc
quyết định tín dụng theo mức tăng dần: mức phán quyết của một người, một

nhóm người hay hội đồng quản trị.
- Thứ năm: giám sát khoản vay sau giải ngân bằng cách thu thập thông tin
về khách hàng, thường xuyên giám sát và đánh giá xếp loại khách hàng
b. Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp trích lập dự phòng.
Trích lập dự phòng là biện pháp hữu hiệu để quản trị rủi ro do tổn thất tín
dụng. Việc trích lập dự phòng phải căn cứ vào thực tế trả nợ vay thay vì căn cứ
vào khả năng trả nợ trong quá khứ của khách hàng.
- Hồng Kông: xếp loại rủi ro cho khách hàng và trích lập dự phòng rủi ro
tương ứng.
- Hàn Quốc: các nguyên tắc dự phòng phân lập theo loại tín dụng.
- Columbia: dự phòng cho tín dụng tiêu dùng, thương mại, cầm cố thế chấp
và tín dụng nhỏ theo thời hạn khoản vay từ 1 - 18 tháng.
c. Quản trị rủi ro bằng cách đặt ra hạn mức cho vay.
Biện pháp sử dụng là đặt ra các hạn mức cho vay dựa trên vốn tự có của
ngân hàng đối với khách hàng riêng lẻ hay nhóm khách hàng vay:
- Hồng Kông: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 25% vốn tự có của
ngân hàng.

Nguyễn Hữu Hiếu

24

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

- Hàn Quốc: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 20% vốn tự có của

ngân hàng và giới hạn cho vay nhóm khách hàng ở mức 25% vốn tự có của
ngân hàng.
- Singapore, Thái Lan: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 25% vốn
tự có của ngân hàng.
- Columbia: giới hạn cho vay ở mức 40% giá trị ròng của khách hàng vay.
d. Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp kiểm tra, giám sát
Kiểm tra giám sát là các hoạt động thường xuyên được thực hiện trước khi
cho vay, trong và sau khi cho vay.
- Hồng Kông: sử dụng mô hình CAMEL ( Capital – Vốn, Assets – Tài sản,
Manager – quản ly, Earnings – thu nhập, Liquidity – thanh khoản )để đánh
giá.
- Hàn Quốc: sử dụng mô hình CAMELS ( Capital, Assets, Manager,
Earnings, Liquidity, Stress testing – thử nghiệm chịu đựng cực điểm).
- Singapore: kiểm tra trong quá trình phát vay, báo cáo hàng tháng và hàng
quy.
- Thái Lan: kiểm tra trong quá trình phát vay và sau khi cho vay, giám sát
hệ số đủ vốn dự báo, có hệ thống báo cáo định kỳ.
- Columbia: kiểm tra trong quá trình phát vay, kiểm tra bởi Ủy ban giám sát
ngân hàng.
e. Quản trị rủi ro bằng biện pháp quản trị hệ thống thông tin tín dụng.
Tổ chức tốt hệ thống thông tin tín dụng sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác thẩm
định khách hàng vay, giúp hạn chế phòng ngừa rủi ro ngay từ khâu thẩm định hồ
sơ vay:
- Singapore: Hiệp hội Ngân hàng tổ chức và quản ly thông tin tín dụng từ
các thành viên, hỗ trợ thông tin về các khoản tín dụng lớn.
Nguyễn Hữu Hiếu

25

Lớp: NHD – K8



Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng

- Thái Lan: Cục thông tin tín dụng được quản ly bởi công ty tư nhân, tất cả
các Ngân hàng báo cáo thông tin về cục, sau đó Cục thông tin kết xuất báo
cáo về khách hàng vay và lịch sử trả nợ vay hàng tháng, không cung cấp
thông tin thẩm định tín dụng.
- Columbia: Ngân hàng báo cáo các khoản vay cho cơ quan giám sát theo
định kỳ hàng tháng. Sau đó thông tin về giá trị khoản vay, lãi suất vay, chất
lượng khoản vay và tư cách khách hàng vay sẽ được tập hợp lại.
- Hàn Quốc: xây dựng hệ thống thông tin tín dụng CIMS lấy nguồn từ hơn
10000 tổ chức có liên quan đến hoạt động tài chính – ngân hàng, các thông
tin tài chính đều được thông qua những tiêu chuẩn nhất định và được kiểm
chứng độc lập bởi Hội đồng thông tin tín dụng gồm thành viên là các Ngân
hàng thương mại, công ty bảo hiểm, công ty thẻ tín dụng cá nhân và các
định chế tài chính khác.

Nguyễn Hữu Hiếu

26

Lớp: NHD – K8


Khóa luận tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng


CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG
BIDV QUANG TRUNG

2.1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG BIDV
QUANG TRUNG
Chi nhánh BIDV Quang Trung được hình thành và bắt đầu đi vào hoạt động
từ tháng 04/2005 trên cơ sở nâng cấp Phòng Giao dịch Quang Trung - Sở giao
dịch 1, nhằm khai thác triệt để thế mạnh của một đơn vị BIDV trên địa bàn trú
đóng của Sở giao dịch trước đây. Địa chỉ trụ sở chính tại 53 Quang Trung Hà
Nội. Tài sản ban đầu khi mới thành lập là nguồn huy động vốn 1.300 tỷ và nguồn
nhân lực 65 cán bộ được điều động từ Hội sở chính và Sở giao dịch.
Xác định phương hướng phát triển theo mô hình của một ngân hàng hiện
đại, là đơn vị cung cấp các dịch vụ ngân hàng bán lẻ và phục vụ đối tượng khách
hàng khu vực dân doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp đang
trong lộ trình cổ phần hoá, Chi nhánh Quang Trung đã nỗ lực không ngừng trong
việc tiếp cận và tìm kiếm khách hàng, tích cực thực hiện công tác phát triển
nguồn nhân lực, mở rộng và phát triển mạng lưới, nghiên cứu các sản phẩm dịch
vụ mới... nhằm nâng cao khả năng hoạt động của chi nhánh và đáp ứng tối đa các
nhu cầu của các đối tượng khách hàng thuộc khối bán lẻ.
Cuối năm 2008, chi nhánh Quang Trung đã đạt được số dư huy động vốn
xấp xỉ 6000 tỷ, dư nợ cho vay gần 2300 tỷ, Thu dịch vụ ròng trong năm 2008 đạt
24 tỷ đồng. Số cán bộ tại chi nhánh đạt 178 với mô hình tổ chức ngày càng được
hoàn thiện: gồm 14 phòng và 1 tổ nghiệp vụ. Đặc biệt, chi nhánh Quang Trung là
chi nhánh đầu tiên đã có mô hình tổ Marketing chuyên trách, Tổ chứng khoán và
Ban phát triển mạng lưới bán chuyên trách phục vụ cho những nhiệm vụ đặc thù
Nguyễn Hữu Hiếu


27

Lớp: NHD – K8


×