Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Ngân sách Nhà nớc trong hệ thống tài chính trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nớc ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.54 KB, 30 trang )

Phần I: Phần mở đầu.
I. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong các xã hội hiện đại, Nhà nớc luôn có chức năng nhiệm vụ nhiều mặt nh
chức năng quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức năng trấn át và các
nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ xã hội. Để thực hiện đợc chức năng, nhiệm vụ đó
thì Nhà nớc cần phải có một lợng của cải nhất định, đó chính là cơ sở vật chất
cho Nhà nớc tồn tại và hoạt động; đó chính là Ngân sách Nhà nớc(NSNN). Vì
vậy, nhận thức đúng đắn và đầy đủ bản chất, chức năng cũng nh vai trò của
NSNN sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nớc.
Nớc ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, từ cơ chế tập trung bao
cấp sang cơ chế thị trờng có sự điều tiết của Nhà nớc kéo theo sự đổi mới căn
bản trong hoạt động tài chính nói chung, và hoạt động thu chi NSNN nói riêng.
Vì thế, xây dựng nền tài chính tự chủ, vững mạnh là yêu cầu cơ bản và cấp bách
trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nớc ta hiện nay, trong đó NSNN
giữ vai trò chủ đạo trong nền tài chính quốc gia.
II. Lí do chọn đề tài:
Chính sách tài chính với các công cụ của nó, trong đó có Ngân sách Nhà nớc
có vai trò quan trọng trong bảo đảm cơ sở để thực hiện thành công chiến lợc phát
triên kinh tế với tốc độ nhanh và bền vững trong điều kiện chủ đông hôi nhập và
an toàn. Việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện NSNN có ý nghĩa quan trọng trong
tiến trình đổi mới nền kinh tế. Vói ý nghĩa đó trong bài viết vày tôi xin đề cập
một số vấn đề cơ bản về "Ngân sách Nhà nớc trong hệ thống tài chính trong
quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nớc ta". Bài viết gồm 02 phần :
A. Bản chất và vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
B. Ngân sách Nhà nớc trong quá trình chuyển đổi kinh tế ở nớc ta.
Tuy nhiên, NSNN là một vấn đè mang tính vĩ mô, với trình độ hiểu biết cũng
nh trình độ lý luận có hạn, bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết.
Rất mong thầy cô và các bạn giúp đỡ để bài viết đợc hoàn thiện hơn.
Tôi xin chan thành cảm ơn !


1


Phần II: Phần nội dung.
A. Bản chất và vai trò của Ngân sách Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
I. Bản chất của Ngân sách Nhà nớc:
1. Ngân sách Nhà nớc với t cách là một phạm trù kinh tế:
1.1. Khái niệm ngân sách Nhà nớc:
Ngân sách Nhà nớc là khâu tài chính đợc hình thành sớm nhất, nó ra đời, tồn
tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ thống quản lí Nhà nớc và sự phát
triển của kinh tế hàng hoá, tiền tệ.
Thuật ngữ ngân sách bắt nguồn từ tiếng Anh "Budget" có nghĩa là cái ví, cái
xắc. Tuy nhiên, trong đời sống kinh tế, thuật ngữ này đã thoat ly ý nghĩa ban đầu
và mang nội dung hoàn toàn mới. Cho đến nay, thuật ngữ "ngân sách Nhà nớc"
đợc sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Song, quan
niệm về ngân sách Nhà nớc thì lại cha thống nhất. Trên thực tế, ngời ta đã đa ra
nhiều định nghĩa vè ngân sách Nhà nớc không giống nhau tuỳ theo quan điểm
của ngời định nghĩa thuộc các trờng phái kinh tế khác nhau, hoặc tuỳ theo mục
đích nghiên cứu khác nhau.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế cổ điển, ngân sách Nhà nớc là một văn
kiện tài chính, mô tả các khoản thu và chi của chính phủ, đợc thiết lập hàng năm.
Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đa ra nhiều định nghĩa khác nhau về ngân
sách Nhà nớc. Các nhà kinh tes Nga cho rằng: Ngân sách Nhà nớc là bảng liệt kê
các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của Nhà nớc.
Luật Ngân sách Nhà nớc đã đợc nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá IX, kì họp thứ 9 thông qua ngày 20-3-1996 cũng có ghi: Ngân sách Nhà nớc là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nớc trong dự toán đã đợc cơ quan Nhà
nớc có thẩm quyền quyết định và đợc thực hiện trong một năm để đảm bảo thực
hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nớc.
Chúng ta không xem xét các điểm khác biệt giữa các định nghĩa này mà tìm ra

điểm chung để thấy đợc một số điểm đặc trng của ngân sách Nhà nớc nh sau:
Thứ nhất, ngan sách Nhà nớc là một bảng liệt kê, trong đó dự kiến và cho phép
thực hiện các khoản thu chi bằng tiền của chủ thể kinh tế Nhà nớc.
Thứ hai, ngân sách Nhà nớc tồn tại trong một khoản thời gian nhất định thờng
là một năm.
Song điểm khác biệt của các khoản thu chi ngân sách Nhà nớc không giống
nh các khoản thu chi của ngân sách doanh nhiệp, gia đình, cá nhân. . . Thu chi
ngân sách Nhà nớc có tính chất bắt buộc, luôn đợc thực hiện bằng pháp luật và
2


do luật quy định ( về thu có các luật về thuế và các văn bản luật khác, về chi có
các tiêu chuẩn định mức ).
1.2. Bản chất ngân sách Nhà nớc:
Về bản chất kinh tế:
Mọi hoạt động của ngân sách Nhà nớc đều là hoạt động phân phối các nguồng
tài nguyên quốc gia ( phân phối lần đầu và tái phân phối ). Và vì vậy, về nội
dung kinh tế ngân sách Nhà nớc thể hiện các mối quan hệ kinh tế trong phân
phối. Đó là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa một bên là Nhà nớc với một bên là
các tổ chức kinh tế, xã hội.
Ngân sách Nhà nớc thực hiện các hoạt động phân phối thông qua các khoản
đóng góp theo nghĩa vụ hoặc tự nguyện của mỗi thành viên dới các hình thức nh
thuế, phí . . . ; hình thành nên quỹ ngân sách Nhà nớc sau đó tái phân phối các
khoản thu nay thông qua các khoản cấp phát của Nhà nớc cho các nhu cầu tiêu
dùng, đầu t phát triển kinh tế.
Trong quá trình phân phối, vấn đề cần giải quyết giữa các đối tợng tham gia
( các chủ thể kinh tế ) chính là vấn đề lợi ích kinh tế. Vì vậy, quan hệ giữa ngân
sách Nhà nớc và các thành viên trong xã hội cũng chính là quan hệ kinh tế. Việc
phân phối các nguồn tài chính để hình thành nguồn thu của Nhà nớc, dù thực
hiện dới hình thức nào thực chất cũng chính là quá trình giải quyết quyền lợi

kinh tế giữa Nhà nớc và các thành viên trong xã hội với kết quả là các nguồn tài
chính đợc phân chia thành hai phần: phần nộp vào ngân sách Nhà nớc và phần để
lại cho các thành viên của xã hội. Tới lợt mình, phần đã nôp vào ngân sách Nhà
nớc sẽ tiếp tục đợc phân phối lại, thể hiện qua các khoản cấp phát từ ngân sách
Nhà nớc cho các mục đích tiêu dùng và đầu t.
Với quyền lực tối cao Nhà nớc có thể sử dụng các công cụ sẵn có ( kinh tế,
hành chính, vũ lực ) để bắt buộc các thành viên trong xã hội cung cấp cho mình
các nguồn tài chính cần thiết. Song, trên thực tế , quyền lực đó phải có giới hạn
và giới hạn hợp lý nhất chính là giải quyết hài hoà ích lợi kinh tế giữa nhà nớc và
xã hội.Khi tham gia vào hoạt đọng tái phân phối này của ngân sách Nhà nớc,
mọi thành viên trong xã hội đều có lợi; và mục tiêu kinh tế của ngân sách Nhà nớc cũng là đem lại phúc lợi lớn hơn cho các thành viên.
Tóm lại, ngân sách Nhà nớc là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nớc
và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nớc huy động và sử dụng các nguồn lực
tài chính nhămg bảo đảm yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý và điều hành
nền kinh tế xã hội của mình.
Về phơng diện pháp lý:

3


Ngân sách Nhà nớc là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi bằng tièn của Nhà
nớc trong một thời gian nhất định, thờng là một năm. Đạo luật này đợc cơ quan
lập pháp của quốc gia đó ban hành.
Hoạt động của ngân sách Nhà nớc không hề mang tính chất tự phát hoặc nằm
ngoìa sự kiểm soát của Nhà nớc, mà luôn bị ràng buộc bởi những quy định bên
trong hết sức chặt chẽ, cụ thể. Các khoản thu ngân sách Nhà nớc phàn lớn đều
mang tính chất cỡng bức ( bắt buộc ), còn các khoản chi lại mang tính chất cấp
phát ( không hoàn lại trực tiếp ). Nội dung này xuất phát từ quyền lực của Nhà nớc và nhu cầu về tài chính để thực hiện các chức năng quản lý và điều hành nền
kinh tế xã hội.
Bất kỳ một Nhà nớc nào cũng đều có quyền lập pháp. Do nhu cầu chi tiêu của

mình, Nhà nớc đã sử dụng quyền để quy định hệ thống pháp luật tài chính và
thuế khoá, nắt mọi cá nhân và pháp nhân phải nộp một phần thu nhập của mình
chi Nhà nớc với t cách một chủ thẻ kinh tế thực hiện nghiã vụ với Nhà nớc. Tính
chất cỡng bức của các khoản thu ngân sách không hề mang ý nghĩa tiêu cực, bởi
lẽ đây là sự cần thiết. Mọi đối tợng nộp thuế đều ý thức đợc nghĩa vụ của mình
trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Nhà nớc và quốc gia. Đồng thời,
họ cũng ý thức đợc vai trò quan trọng của Nhà nớc trong quá trình sử dụng các
nguồn tài chính nhằm thực hiện các chức năng về kinh tế xã hội đã đợc giao phó.
Về tính chất xã hội:
Ngân sách Nhà nớc luôn luôn là một công cụ kinh tế của Nhà nớc, nhằm phục
vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nớc.
Ngân sách Nhà nớc gắn liền với các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nớc; đồng
thời là phơng tiện vật chát cần thiết để hệ thông chính quyền Nhà nớc thực hiện
đợc nhiệm vụ của mình.
2. Ngân sách Nhà nớc với t cách là một bộ phận quan trọng trong hệ thống
tài chính quốc gia:
Hệ thống tài chính là tổng thể của các bộ phận khác nhau trong một cơ cấu tài
chính, mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau nhng
có mối liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy định nhất định. Các bộ phận
trong hệ thống tài chính hoạt động trên các lĩnh vực:
+ Tạo ra các nguồn lực tài chính.
+ Thu hút các nguồn tài chính.
+ Chu chuyển các nguồn tài chính ( dẫn vốn ).
Vai trò chung của hệ thống tài chính là bảo đảm nhu cầu về vốn cho phát triển
kinh tế-xã hội.

4


Cấu trúc của hệ thống tài chính bao gồm các tụ điểm vốn và các bộ phận dẫn

vốn đợc thể hiện theo sơ đồ. Trong đó :
+ Các tụ điểm vốn là bộ phận mà ở đó các nguồn tài chính đợc tạo ra, đồng
thời cũng là nơi thu hút trở lại các nguồn vốn tuy nhiên ở mức độ và phạm vi
khác nhau. Bao gồm:
Ngân sách Nhà nớc.
Tài chính doanh nghiệp.
Tài chính dân c và các tổ chức xã hội.
Tài chính đối ngoại.
+ Các bô phân dẫn vốn thực hiện chức năng truyền dẫn vốn giữa các tụ điểm
vốn trong hệ thống tài chính. Bao gồm :
Thị trờng tài chính.
Các tổ chức trung gian tài chính.
Ngân sách
Nhà nớc.

Thị trờng tài chính

các tổ chức tài
chính
trung gian.

Tài chính đối
ngoại.

Tài chính dân
c và các tổ
chức xã hội.

5



Trong đó , ngân sách Nhà nớc là bộ phận đợc đánh giá là có vai trò đặc biệt
quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm nhu cầu về vốn cho phát triển kinh
tế xã hội.
Thứ nhất, với một nguồn thu ổn định hàng năm thông qua thuế, tiếp nhận viện
trợ hoặc vay vốn nớc ngoài, có thể nói tiềm lực kinh tế của ngân sách Nhà nớc là
rất lớn. Việc cấp phát vốn ngan sách Nhà nớc cho các bộ phận khác nhau của hệ
thống tài chính sẽ làm tăng nguồn vốn ở các tụ điểm nhận vốn, tăng khả năng
đầu t và phát triển kinh tế của các bộ phận này.
Thứ hai, ngân sách Nhà nớc là phơng tiện vật chất cần thiết và quan trọng để
hệ thống chính quyền Nhà nớc thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của mình,
Nếu nh mục tiêu theo đuổi của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, của các
hộ dân c là tối đa hoá lợi ích thì chính phủ lại mong muốn tối đa hoá phúc lợi xã
hội . Chính điều này đã tạo nen vai trò quan trọng của ngân sách Nhà nớc khong
chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong các lĩnh vực xã hội khác. Trong điều kiện
kinh tế thị trờng, ngân sách Nhà nớc có vai trò to lớn trong việc điều tiết vĩ mô
nền kinh tế xã hội sao cho mang lại phúc lợi lớn nhất cho mọi ngời. Thông qua
các hoạt động thu chi của mình, ngân sách Nhà nớc đã điều tiết lợi ích giữa các
tầng lớp dân c, định hớng và thúc đẩy phát triển kinh tế.
II. Vai trò của ngân sách Nhà nớc:
Vai trò tất yếu của ngân sách Nhà nớc ở mọi thời đại và trong mọi mô hình
kinh tế, là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội. Vai trò này, về mặt chi
tiết có thẻ đề cập ở nhiều nội dung và những biểu hiện đa dạng rất khác nhau,
song trên góc độ tổng hợp, có thể khái quát trên ba khía cạnh sau:
1.Vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế nhằm kích thích sự tăng tr ởng kinh
tế:
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cùng với việc Nhà nớc can thiệp trực tiếp
vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vai trò của ngân sách Nhà nớc trong việc
điều chỉnh các hoạt động trở nên hết sức thụ động. Ngân sách Nhà nớc gần nh
chỉ là một cái túi đựng sổ thu để rồi thực hiện việc bao cấp tràn lan cho các hoạt

động sản xuất kinh doanh thông qua cấp vốn cố định, vốn lu động, cấp bù lỗ, bù
giá, bù lơng. Trong điều kiện đó, hiệu quả của các khoản thu, chi ngân sách Nhà
nớc không đợc coi trọng là tất yếu, tác động của ngân sách Nhà nớc đến các hoạt
động kinh tế nhằm điều chỉnh các hoạt động đó và thúc đẩy sự tăng trởng kinh tế
là hết sc hạn chế.
Chuyển sang cơ chế thị trờng, trong lĩnh vc kinh tế, Nhà nớc định hớng việc
hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và
chống độc quyền. Điều dó đợc thực hiện thông qua các chính sách thuế và chính
sách chi tiêu của ngân sách Nhà nớc để vừa kích thích vừa gây sc ép với các

6


doanh nghiệp, nhằm kích thích sự tăng trởng kinh tế. Với các ngành kinh tế u
tiên phát triển, Nhà nớc có thể tạo điều kiện bằng cấchps dụng một chính sách
thuế thu nhập công ty hợp lý. Với các ngành kinh tế còn non trẻ, Nhà nớc thực
hiện bảo hộ sản xuất trong nớc bằng hàng rào thuế nhập khẩu để tao điều kiện
cho các doanh nghiệp có thời gian cải tiến, nâng cao trình độ tránh bị lấn át bởi
hàng nhập khảu nớc ngoài. Với nguồn lực kinh tế to lớn, Nhà nớc sẽ đầu t vào
những vùng kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa, những vùng mà nếu chờ sự đầu
t của t nhân thì sẽ rát khó khai thác. Xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu t phát triển,
định hớng sản xuất ở các vùng khác nhau phục vụ cho chiến lợc phát triển kinh
tế chung của đất nớc.
Ngân sách Nhà nứoc đóng một vai trò quan trọng trong việc phân bổ nguồn lực
trong xã hội. Trong một nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, các
nguồn lực trong nền kinh tế đợc phân bổ bởi tác động của hai cơ chế: Cơ chế thị
trờng và cơ chế điều tiết của Nhà nớc. Việc phân bổ nguồn lực dới tác động của
cơ chế thị trờngthông qua sự vận động của các quy luật kinh tế thị trờng và các
công cụ kinh tế thị trờng nh giá cả, lãi suất. . . Nói chung, việc phân bổ nguồn
lực theo cơ chế thị truờng là việc phân bổ mang tính kinh tế thờng đạt đợc hiệu

quả ở tầm vĩ mô. Tuy nhiên, xét ở tầm vi mô không phải lúc nào việc phân bổ
nguồn lực theo cơ chế thị trờng đều đạt đợc hiẹu quả nh mong muốn, thâm chí
có thể làm lãng phí nguồn lực xã hội. Để khắc phục những mặt hạn chế của việc
phân bổ nguồn lực do cơ ché thị trờng tạo ra cần có sự can thiệp cảu nhà nớc ở
những mức độ nhất định. Khác với sự can thiệp của Nhà nớc trong nền kinh tế kế
hoạch hoa tập trung, sự can thiệp của Nhà nớc vào việc phân bổ nguồn lực trong
nề kinh tế thị trờng là sự can thiệp mang tính gián tiếp bằng việc sử dụng các
công cụ kinh tế tài chính là chủ yếu. Một trong những công cụ đó là ngân sách
Nhà nớc. Thông qua các biện pháp thu chi ngân sách Nhà nớc, Nhà nớc thực
hiện việc bổ sung phân bổ nguồn lực củaơn chế thị trờng ở nhũng lĩnh vực mà
việc phân bổ theo cơ chế thị trờng tỏ ra không hiệu quả hoặc không thể thực hiện
đợc.
2.Vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội:
Trong thời kì kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tính chất bao cấp tràn lan trong
mọi lĩnh vực kinh tế xã hội đã hạn chế đáng kể vai trò của ngân sách Nhà nớc
trong việc giải quyết các vấn đè xã hội. Trong thời kì này, mọi sự u tiên, u đãi
của Nhà nớc đều dành cho khu vực Nhà nớc. Những chế độ bao cấp về nhà ở,
cung cấp lơng thực, thực phẩm, hàng tiêu dùngvới giá thấp. . . đã gây tâm lý
sùng bái biên chế Nhà nớc, tâm lý trông chờ, ỷ lạivà Nhà nớc. Điều đó một phần
làm giảm hiệu quả công tác, hiệu quả tiển vốn, mặt khác vừa tác động ngợc
chiều tới việc đảm bảo công bằng xã hội. Bên cạnh đó, sự bao cấp tràn lan cho
các hạt động có tích chất xã hội, song lại thiếu sự tính toán hợp lý về phạm vi,
mức độ và hiệu quả của nó cũng dẫn tới những hạn chế trong việc thực hiện các
mục tiêu xã hội.

7


Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, sự tồn tại và hoạt động có hiệu quả
của bộ máy Nhà nớc, lực lợng quân đội, công an, sự phát triển các hoạt động xã

hội, y tế, văn hoá có ý nghĩa quyết định. Việc thực hiện các nhiệm vụ này, về cơ
bản, thuộc về nhà nớc và không chỉ vì mục tiêu lợi nhuận. Việc sử dụng những
dịch vụ kể trên đợc phân chia giữa những ngời tiêu dùng, nhng nguồn tài trợ để
thực hiện các nhiệm vụ đó lại đợc cấp phát từ ngân sách Nhà nớc. Nh vậy, trong
việc thực hiện các nhiệm vụ có tính chất chung toàn xã hội, ngân sách Nhà nớc
có vai trò quang trọng hàng đầu. Bên cạnh đó, cùng với việc thực hiện các nhiệm
vụ có tính chất chung toàn xã hội, hàng năm chính phủ vẫn đực biệt quan tâm
đến tầng lớp dân c có thu nhập thấp. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó thông
qua các loại trợ giúp trực tiếp đợc giành cho những ngời có thu nhập thấp hoặc
co hoàn cảnh khó khăn nh chi về trợ cấp xã hội; các loại trợ giúp gián tiếp dới
hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu ( lơng thực, điện, nớc . . . ), các
khoản chi phí để thực hiện các chính sách dân số, chính sách việc làm, các chơng trình quốc gialớn về chống mù chữ, chống dịch bệnh, các chi phí cho việc
cung cấp các hàng hoá khuyến dụng, hàng hoá công cộng. . .
Bên cạnh các khonả chi ngân sách cho việc thực hiện các vấn đề xã hội, thuế
cũng đợc sử dụng để thực hiện vai trò tái phân phối thu nhập, đảm bảo công
bằng xã hội. Việc kết hợp giữa thuế trực thu và thuế gián thu, một mặt vừ tăng cờng các khoản thu cho ngân sách Nhà nớc, mặt khác vừa nhằm điều tiết thu nhập
của tầng lớp có thu nhập cao, điều tiết tiêu dùng, bảo đảm thu nhập hợp lý giữa
các tầng lớp ngời lao động. Nh vậy ngân sách Nhà nớc còn có chức năng tái
phân phối thu nhập. Cũng nh việc phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trờngcó sự quản lý của Nhà nớc, việc phân phối thu nhập cũng đợc thực hiện bởi
hai cơ ché là cơ chế thị trờng và cơ chế của Nhà nớc. Phân phối thu nhập theo cơ
chế thị trờng ngời a thờng gọi là việc phân phối mang tính kinh tế. Nghĩa là việc
phân phối chủ yếu dựa vào khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào cua các chủ
thể trong nền kinh tế nh lao động, tiền vốn, khoa học công nghệ . . . Do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan không phải mọi thành viên trong xã hội
đều có khả năng các yếu tố đầu vào nh nhau, nên cũng không có đợc cơ hội đợc
hởng thu nhập nh nhau, tạo ra những hố ngăn cách giàu nghèo càng lớn. Khi hố
ngăn cách giàu nghèo càng sâu có thể dẫn đến nhũng bất lợi cho quá trình phát
triển kinh tế xã hội của đất nớc, thậm chí có thể dẫn đến xung đột chính trị làm
mất ổn định quốc gia. Chính vì vậy, trong quá trình phát triển quốc gia, Chính
phủ của các nớc đều quan tâm đến vấn đề tía phân phối thu nhập, mục đích là

hạn chế bớt sự ngăn cách giàu nghèo làm cho nguồn thu nhập của xã hội đợc sử
dụng hiệu quả hơn.
3. Vai trò điều tiết trong lĩnh vực thị trờng góp phần ổn định thị trờng giá
cả , chống lạm phát:
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, sự đơn điệu về chế độ sở hữu với hai hình
thức quốc doanh và tập thể đã dẫn đến sự phát triẻn yếu ớt của các quan hệ thị trờng. Bên cạnh đó, cơ chế kinh tế chỉ huy ( bằng các mệnh lệnh hành chính ) với
8


việc Nhà nớc quyết định gia cả của các hàng hoá và dịch vụ, chỉ định nơi cung
cấp vật t, tiêu thụ sản phẩm. . . cũng đã làm các quan hệ thị truờng kém phát
triển. Trong cơ chế đó, sự vậm động của gia cả, chi phí thoát ly khỏi quan hệ
cung cầu, của thị truờng, sự biến động ấy đợc che đậy bởi sự bao cấp của Nhà nớc. Trong điều kiện đó, vai trò của ngân sách Nhà nớc đối với các quan hệ thị
truờng là điều tất yếu.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trờng, giá cả chủ yếu dựa vào quan hệ cung
cầu hàng hoá trên thị trờng. Do đó để ổn định giá cả, chính phủ có thể tác động
vào cung hoặc cầu hàng hoá trên thị trờng. Sự tác động này không chỉ đợc thực
hiên thông qua thuế mà còn dợc thực hiện qua chính sách chi tiêu của ngân sách
Nhà nớc. Bằn nguồn cấp phát của chi tiêu ngân sách hằng năm, các quĩ dự trữ
Nhà nớc về hàng hoá và tài chính đợc hình thành. Trong trờng hợp thị trờng có
nhiều biến động, thị truờng lên quá cao, hoặc xuống quá thấp, nhờ lực lợng dự
trữ hàng hoá và tiền , chính phủ có thể điều hoà quan hệ cung cầu hàng hoá, vật
t để bình ổn giá cả trên thị trờng, bảo vê quyền lợi ngời tiêu dùng và bảo vệ sản
xuất. Chính phủ cũng có thể dung ngân sách Nhà nớc nhằm khống chế và đẩy lùi
nạn lạm phát một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện chính sách thắt chặt
ngân sách, nghĩa là cắt giảm các khoản chi tiêu ngân sách, chống tình trạng bao
cấp, lãng phí trong chi tiêu, đồng thời có thể tăng thuế tiêu dùng để hạn chế cầu,
mặt khác có thể giảm thuế đối với đầu t, kích thích sản xuất, phát triển để tăng
cung. Ngoài ra chính phủ còn có thể phát hành các công cụ nợ để vay nhân dân
nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách Nàh nớc, góp phần làm giảm tốc độ lạn phát

trong nền kinh tế quốc dân.
III. Ngân sách Nhà nớc - công cụ tài chính vĩ mô của Nhà nớc trong quản lý
và điều tiết kinh tế:
Chính sách tài khóa là hệ thống các giải pháp đợc thể chế hoá nhằm điều chỉnh
thu nhập và chi tiêu chính phủ để hớng nền kinh tế vào sản lợng và việc làm
mong muốn. Trong ngắn hạn ( 1, 2 năm ), những chính sách này điều tiết sản lợng thực tế, lạm phát, thất nghiệp nhằm ổn định nền kinh tế. Trong dài hạn,
chúng có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế thúc đẩy tăng trởng kinh tế lâu dài.
Chính sách tài khoá có hai công cụ chủ yếu là thuế và chi tiêu chính phủ. Do đó
vấn đề cơ bản của chính sách tài khoá là giải quyết mối quan hệ tơng quan giữa
thu và chi ngân sách.
1. Chính sách tài khoá lý thuyết:
Khi nền kinh tế ở xa mức sản lợng tiềm năng, thì Nhà nớc có thể sử dụng chính
sách tài khoá để đa nó về mức sản lợng tiềm năng.J.M Keynes coi chính sách tài

9


khoá là chính sách trung tâm trong quá trình điều chỉnh nền kinh tế của Nhà nớc.
Về mặt lý thuyết có hai hớng vận dung chính sách tài khoá nh sau :
Khi nề kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, thất nghiệp cao, tổng cầu giảm ở
mức thấp, các hãng không tăng đầu t, dân c không tăng tiêu dùng. Để tăng thu
nhập, tăng tổng cầu AD, nhà nớc cần tăng chi tiêu, giảm thuế để tăng tổng chi
của xã hội. Thông qua tác động của mô hình số nhân mà khuyếch đại vào mức
tăng sản lợng, đẩy nó tiến gần đến mức sản lợng tiềm năng.
Khi nền kinh tế ở trạng thái quá nóng, lạm phát tăng lên, AD ở mức cao, Nhà
nớc phải giảm chi tiêu, tăng thuế làm cho mức chi tiêu chung của nền kinh tế
giảm xuống để sản lợng của nền kinh tế trở lại mức tiềm năng, lạm phát sẽ
chững lại .
Cùng với chính sách tiền tệ thị thuế vsf chi tiêu chính phủ là công cụ quan trọng
để Nhà nớc có thể can thiệp vào nền kinh tế, nhng đây là sự can thiệp gián tiếp

tuân theo và thông qua các quy luật kinh tế khách quan của nền kinh tế thị trờng.
2. Một số vấn đề lý luận về ngân sách Nhà nớc:
Ta kí hiệu Các khoản tiền mà Nhà nớc nhận đợc là thu nhập của Nhà nớc T
Các khoản chi tiêu của Nhà nớc là G.
B là hiệu gia thu và chi ngân sách ( cán cân ngân sách ) ta có công thức sau:
B= T - G
Vấn đề cơ bản của ngân sách Nhà nớc là giải quyết mối quan hệ giữa thu ( T ) và
chi tiêu ( G ). Tuy theo so sánh gia thu và chi ta có các trạng thái sau:
+ B > 0 Thặng d ngân sách hay thu ngân sách lớn hơn chi ngân sách .T > G
+ B = 0 Cân bằng ngân sách hay thu ngân sách lớn hơn chi ngân sách . T =
G
+ B < 0 Thâm hụt ngân sách hay thu ngân sách nhỏ hơn chi ngân sách . T <
G
Khi nghiên cứu về vấn đề ngân sách Nhà nớc, nhiều nhà kinh tế đã đặt ra những
câu hỏi mà đến bây giờ vẫn còn là những vấn đề tranh luận.
2.1. Có nhất thiết phải để ngân sách Nhà nớc ở trạng thái cân bằng hay
không ?
Một số nhà kinh tế cho rằng, khi điều chỉnh các khoản thu và chi ngân sách,
Nhà nớc cần thực hiện chính sách "cân bằng ngân sách". Theo quy tắc này, Nhà
nớc không đợc phép chi tiêu hơn số tiền mà nó nhận đợc. Tuy nhiên, hầu hết các
nhà kinh tế phản đối quy tắc đòi hỏi Nhà nớc phải cân bằng ngân sách của mình
một cách nghiêm ngặt. Bởi nếu nh ngân sách cân bằng nhng các khoản thu, chi
năm sau không nhiều hơn năm trớc chứng tỏ nền kinh tế không phát triển đi lên
vì vậy nếu giữ ngân sách cân bằng thì phải là cân bằng trong trạng thái động.
Hơn nữa, đôi khi thâm hụt hoặc thặng d ngân sách lại trở nên cần thiết.

10


Thứ nhất, quy tắc "cân bằng ngân sách" thủ tiêu năng lực tự ổn định của hệ

thống thuế và các khoản chuyển giao thu nhập nhằm ổn định nền kinh tế. Khi
nền kinh tế rơi vào suy thoái, các khoản thuế và chuyển giao thu nhập ( tính trên
cơ sở thu nhập ) tự động thay đổi dù tỉ lệ của chúng không đổi; cụ thể là thuế
giảm, chuyển giao thu nhập tăng khi thu nhập giảm. Các phản ứng ứng tự động
góp phần ổn định nền kinh tế này lại làm cho ngân sách bị thâm hụt. Trong khi
đó, quy tắc "ngân sách cân bằng" nhiêm ngặt đòi hỏi Nhà nớc phải tăng thuế hay
cắt giảm chi tiêu vào thời kì suy thoái ; hoạt động này tiếp tục làm tổng cầu giảm
sút hơn nữa, kết quả là suy thoái ngày càng tăng.
Thứ hai, Ngời ta có thể sử dụng thâm hụt để chuyển gánh nặng thuế từ thế hệ
hiện tại cho thế hệ tơng lai. Một số nhà kinh tế lập luận rằng, nếu thế hệ hiện tại
phải phát đọng chiến tranh để bảo vệ độc lập, tự do cho tổ quốcthì các thế hệ tơng lai sẽ có lợi. Để buộc ngời hởng thụ tơng lai phải trả một phần chi phí, thế
hệ hiện tại có thể tài trợ cho chiến tranh bằng cách cháp nhận thâm hụt ngân
sách. Nhà nớc có thể trả lại số nợ trong chiến tranh bằng cách đánh thuế vào thế
hệ tiếp theo.
Những nguyên nhân này làm cho hầu hết các nhà kinh tế phủ nhậnn quy tắc
"cân bằng ngân sách" nghiêm ngặt.
2.2. Thâm hụt ngân sách và các biện pháp khắc phục:
Để lợng hoá thâm hụt ngân sách, các nhà kinh tế chia thâm hụt ngân sách ra
làm ba loại:
- Thâm hụt thực tế, tức là thâm hụt ngân sách xảy ra khi số chi thực tế vợt số thu
thực tế trong một thời kỳ nhất định.
- Thâm hụt cơ cấu, là thâm hụt ngân sách xảy ra khi nền kinh tế hoạt động ở mức
sản lợng tiềm năng.
- Thâm hụt chu kỳ, tức là thâm hụt ngan sách bị động do trạng thái chu kỳ của
nền kinh tế gây ra. Nó bằng hiệu số giữa thâm hụt thực tế và thâm hụt cơ cấu.
Thâm hụt ngân sách xảy ra khi Nhà nớc tăng chi tiêu, kết quả là cung vốn vay
giảm, lãi suất tăng dẫn đến hiện tuợng tháo lui đầu t, làm giảm tốc độ tăng trởng
của nền kinh tế. Nhà nớc cần có biện pháp kịp thời khắc phục thâm hụt. Nguyên
tắc cơ bản là "tăng thu, giảm chi", song không phải nền kinh tế nào cũng áp
dụng đợc biện pháp này. Khi các giải pháp tăng thu, giảm chi không khắc phục

đợc thâm hụt, thì Nhà nớc phải sử dung giải pháp tài trợ cho thâm hụt. Có bốn
giải pháp tài trợ là :
Thứ nhất, là vay tiền ngân hàng ( in thêm tiền ). Thế mạnh của giải pháp này là
tài trợ kịp thời cho các khoản thâm thủng của ngân sách, tạo điều kiện thuận lợi
cho bộ máy tài chính vận hành bình thờng, giải toả những ngng trệ trong bộ máy
Nhà nớc. Song, giải pháp này sẽ dẫn đến hậu quả nan giải là lạm phát cao, giá cả
tăng, làm giảm sức mua của đồng tiền và làm đời sống dân c giảm sút khi lợng
tiêng trong lu thông tăng. Đông tiền giảm sức mua làm giảm khả năng tài trợ cho
ngân sách. Bởi khi giá cả tăng, Nhà nớc phải chi tiêu nhiều hơn cho những tiêu
11


dùng không đổi, điều đó buộc Nhà nớc lại phải in thêm tiền; cứ nh vậy, nền kinh
tế sẽ rơi vào khủng hoảng tiền tệ.
Thứ hai, là sử dụng dự trữ ngoại tệ. Giải pháp này có hiệu lực rất mạnh, giúp bù
đắp kịp thời cho thâm thủng ngân sáchvà ảnh hởng tiêu cực của nó đến nề kinh
tế không tức thời. Sông không phải nớc nào cũng có luợng dự trữ ngoại tệ lớn.
Nếu lợng dự trữ ngoại tệ bị rút ra thấp hơn mức tối thiểu ( tơng đơng với giá trị
bốn tháng nhập khẩu ) sẽ dẫn đến nguy cơ phá giá đông bản tệ, uy tín của đồng
tiền quốc gia trên thị trờng quốc tế giảm. Và đặc biệt không thẻ ứng phó với
những sự cố trong nên kinh tế, lúc đó t nhân sẽ chuyển vốn ra nớc ngoài, hiện tợng thoái lui đầu t và suy thoái sẽ xảy ra.
Thứ ba, là vay nợ nớc ngoài. Giải pháp này đã từng là nguồn tài trợ phổ biến và
quan trọng của các nớc bị lệ thuộc. Song, giải pháp này cũng có giới hạn và chỉ
là giải pháp tình thế. Nếu một nớc thờng xuyên vay nợ để tài trợ cho thâm thủng
ngân sách sẽ vấp phải những đối sách hạn chế của các chủ nợ làm cho các khoản
vay không đủ lợng, do đó không hiệu quả. Mặt quan trọng hơn là nợ chồng chất
dẫn đến thu nhập quốc dân hàng năm không đủ trả nợ nớc ngoài, tất yếu bị lệ
thuộc về kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị.
Thứ t, là vay nợ trong nớc. Giải pháp này có u thế la huy động đợc các nguồn
nội lực đê khắc phục nguồn thâm thủng ngân sách. Nhà nớc vay nợ nhân dân

thông qua hinh thức phát hành trái phiếu. Song, nó gây ra không ít hiệu ứng phụ,
tác động xấu vào nền kinh tế nh: làm giảm khối lợng tín dụng cho đầu t, làm lãi
suất tăng, làm khu vực t nhân đi vay nợ nớc ngoài. . .
Trong thực tế, nên áp dung đồng thời và linh hoạt các biện pháp trên để phát huy
đuợc những u điểm của mỗi phơng pháp, nhanh chóng giải quyết thâm hụt ngân
sách, ổn định và phát triển kinh tế.
2.3. Thặng d ngân sách:
Thặng d ngân sách lại có tác động hoàn toàn ngợc lại so với trờng hợp thâm
hụt ngân sách. Mức thặng d ngan sách, hay tiết kiệm chính phủ làm tăng tiết
kiệm quốc dân , tăng cung vốn vay; kết quả là lãi suất giảm và khuyến khích đầu
t, làm tăng tốc độ tăng trởng kinh tế. Nh vậy rõ ràng là thặng d ngân sách Nhà nớc có lợi cho tăng trởng kinh tế hơn so với thâm hụt ngân sách. Đây là điều mà
các nhà kinh tế đều thống nhất. Nhng việc làm gì với khoản thặng d này thì còn
nhiều tranh cãi. Một số nhà hoạch định chính sách cho rằng nên duy trì thặng d;
một số khác lại cho rằng nên thủ tiêu nó bằng cách tăng chi tiêu hay cắt giảm
thuế.
Các nhà kinh tế ủng hộ duy trì thặng d lập luận rằng; việc sử dụng phần thặng d
để hoàn trả một số khoản nợ chính phủ sẽ khuyến khích đầu t t nhân và tăng trởng kinh tế.
12


Các nhà kinh tế ủng hộ việc thủ tiêu thặng d ngân sách cho rằng; cắt giảm thuế,
thuế suất thấp hơn sẽ làm biến dạng các hoạt đọng kinh tế ít hơn, làm quá trình
phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn; hoặc thặng d cần đợc sử dụng để tăng chi tiêu
của chính phủvào cơ sở hạ tầng và giáo dục, bởi vì theo họ lợi suất của đầu t
công cộng vào các lĩnh vực đó cao hơn lợi suất bình quân của t nhân.
Chính sách đúng phụ thuộc vào quan điểm về giá trị của đầu t t nhân và đầu t
công cộng, cùng mức độ biến dạng do thuế gây ra.
B. Ngân sách Nhà nớc trong quá trình chuyển đổi kinh tế ở nớc ta:
I. Những vấn đề chung về ngân sách Nhà nớc:
1. Thu ngân sách Nhà nớc:

Xét về mặt nội dung, thu ngân sách Nhà nớc chứa đựng các quan hệ phân phối
nảy sinh trong quá trình Nhà nớc dùng quyền lực chính trị để tập trung một bộ
phận tổng sản phẩm quốc dân để hình thành quỹ tiền tệ tạp trung của Nhà nớc.
Nh vậy thu ngân sách Nhà nớc là toàn bộ các khoản tiền thu đợc tập trung vào
tay Nhà nowcs để hình thành nên quỹ ngân sách. Thu của ngân sách Nhà nớc đợc tập trung từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó nguồn thu chủ yếu là từ thu
nhập quốc dân. Giữa thu nhập quốc dân và thu NSNN có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Tăng thu nhập quốc dân là cơ sở để tăng thu ngân sách và quá trình
huy động thu nhập quốc dân vào ngân sách cũng có những tác động kích thích
tăng thu nhập quốc dân.
Thu ngân sách Nhà nớc bao gồm:
- Thuế, phí, lệ phí do cá nhân và tổ chức nộp theo quy định của pháp luật.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nớc:
+ Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân.
+ Các khoản viện trợ.
+ Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
+ Các khoản do Nhà nớc vay( trong và ngoài nớc )
Trong đó thuế là nguồn thu chủ yếu của ngan sách Nhà nớc ta.
Thuế là khoản đóng góp theo quy định của pháp luật mà Nhà nớc bắt buộc mọi
tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ nộp cho Ngân sách Nhà nớc. Thuế có tính cỡng
chế và pháp lý cao. Thuế còn là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực
tiếp. Khác với các khoản vay, Nhà nớc thu thuế từ các tổ chức kinh tế và các cá
nhân nhng không phải hoàn trả trực tiếp cho ngời nộp thuế sau một khoảng thời
gian với một khoản tiền mà họ đã nộp vào NSNN. Số tiền thu thuế đợc Nhà nớc
sử dụng cho các chi tiêu công cộng, phục vụ cho nhu cầu của Nhà nớc và của
mọi cá nhân trong xã hội. Mọi cá nhân, ngời nộp it, ngời nộp nhiều, đều bình
đẳng trong việc nhận lại các phúc lợi công cộng từ phía Nhà nớc

13



Thuế còn là công cụ để Nhà nớc tham gia vào điều tiết kinh tế vĩ mô. Băng hệ
thống thuế , Nhà nớc quy định đánh thuế hoặc không đánh thuế, đánh thuế với
thuế suất cao hoặc đánh thuế với thuế suất thấp vào các ngành nghề, các mặt
hàng cụ thể. Thông qua đó mà tác động và làm thay đổi mối quan hệ giữa cung
và cầu trên thị trờng, nhằm góp phần thực hiện điều tiết vĩ mô.
Thuế là công cụ để điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội. Trong nền
kinh tế thị trờng thì sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân c ngày càng
cao, vấn đề này iên quan đến đạo đức và công bằng xã hội. Sự mất cân bằng
đosex đợc hoà bằng các chính sách thuếcủa Nhà nớc.
Hệ thống thuế hiện hành ở nớc ta bao gồm:
Thứ nhất, thuế giá trị gia tăng ( thuế VAT )
Thuế VAT là một loại thuế gián thu. Ngời nộp thuế là các tổ chức, cá nhân
kinh doanhcó doanh thu thuộc các ngành nghề, các hình thức hoạt động có địa
điểm cố định hay lu động, hạot động thờng xuyên hay không thờng xuyên trên
lãnh thổ Việt Nam. Căn cứ để tính thuế VAT là : Giá trị gia tăng phát sinh trong
kỳ nộp thuế và thuế suát.
Đây là nguồn thu quan trong nhất của ngân sách Nhà nớc.
Thứ hai, thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là thuế gián thu, đánh vào giá trị một số hàng hoá sản
xuất và lu thông trong nớc hoặc nhập khẩu.Thuế tiêu thụ đặc biệt ở nớc ta tập
trung vào một số mặt hàngnh: Rợu, bia, thuốc lá, bài lá, vàng mã, xăng dầu các
loại, hàng điện tử cao cấp, ô tô, xe máy. Tuỳ tng loại hàng hoá mà có thuế suất
khác nhau. Ngời nộp thuế tiêu thụ đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
và nhập khẩu các hàng hoá trong dạng tiêu thụ đặc biệt.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là nguồn thu lớn của ngân sách Nhà nớc, có taqcs dụng
điều tiết những ngời có thu nhập cao và hạn chế tiêu dùng những hàng hoá độc
hại cho con ngời.
Thứ ba, thuế thu nhập doanh nghiệp.
Đây là loại thuế trực thu, đánh vào lợi nhuận kinh doanh của các doanh nghiệp
sản xuất thuộc các thành phần sản xuất. Đối tợng đánh thuế là lợi nhuận thực tế

thu đợc trong kinh doanh. Ngời nộp thuế là các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc
tất cả các ngành nghề của các thành phần kinh tế.
Thứ t, thuế xuát, nhập khẩu.
Đối tợng của thuế xuất khẩu, nhập khẩu là hàng hoá đợc phép xuất khẩu, nhập
khảu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam. Thuế suất của hàng hoá nhập khẩu, xuất
khẩu gồm thuế suất thông thờng và thuế suất u đãi. Ngoài ra còn có u đãi miễn
thuế, nhằm khuyến khích suất khảu hàng trong nớc cần xuất và nhập những hàng
thiết yếu.
Thuế suất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế quan trọng trong chính sách
mở cửa với bên ngoài, đồng thời là vũ khí để bảo vệ kinh tế trong nớc và là một
nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nớc.
Thứ năm, thuế sử dụng đất nông nghiệp.

14


Thuế sử dụng đất nông nghiệp là thúe trực thu, thu theo dạng đất nông nghiệp
do các tổ chức và cá nhân sử dụng vào sản xuất nông nghiệp. Ngời sử dụng đất
nông nghiệp là ngời nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Thuế sử dụng đất nông nghiệp thể hiện quan điểm khoan sc dân, giảm nhệ sự
đóng góp của nông dân cho Nhà nớc, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phat triển
phù hợp với kinh tế thị trờng, góp phần sử dụng có hệu quả đất nông nghiệp,
công bằng , hợp lý trong việc sử dụng đất nông nghiệp giữa các miền, các địa phơng, góp phần cải thiện đời sống nông dân.
Thứ sáu, thuế thu nhập đối với ngời có thu nhập cao.
Thuế thu nhập là thuế trực thu đánh vào thu nhập thờng xuyên và không thờng
xuyên của ngời đợc hởng thu nhạp cao. Ngời nộp thuế là công dân việt Nam và
ngời nớc ngoài c trú tại Việt Nam có thu nhập cao. Thuế suất áp dụng theo thuế
luỹ tiến.
Thuế thu nhập dần dần trở thành nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nớc,
bao quát đợc nguồn thu nhập của công dân góp phần giải quyết công bằng xã hội

trong phân phối, điều tiết thu nhập.
Thứ bảy, thuế tài nguyên .
Thuế tài nguyên là thuế đánh vào ngời khai thác tài nguyên quốc gia. Ngời nộp
thuế tài nguyên là nguời khai thác tất cả các tài nguyên quốc gia bao gồm:
khoáng sản, sản phẩm rừng tự nhiên, cá và các loại thuỷ sản tự nhiên khác. Căn
cứ tính thuế tài nguyên là số lợng tài nguyên khai thác, giá tính thuế đơn vị tài
nguyên và thuế suát.
Thuế tài nguyên có vai trò quan trọng trong khuyến khích, bảo vệ, khia thác,
sử dụng tài nguyên tiết kiệm, có hiệy quả cao, đông thời là nguồn thu quan trọng
cho ngân sách Nhà
nớc.
Bên cạnh thuế, phí và lệ phí cũng là một nguồn thu quan trong mang tính chất
bắt buộc nhng có tích chất đối giá, nghĩa là lệ phí thực chấtlà một khoản tiền mà
dân chúng bỏ ra trả cho Nhà nớc khi họ hởng thụ những dịch vụ do Nhà nớc
cung cấp, đó là những hang hoá công cộng có tích chất giới hạn và hàng hoá
công cộng có thể định giá nh lệ phí qua cầu, lệ phí công chứng giấy tờ, xác nhận,
cấp visa. . .
Ngoài các khoản thuế, lệ phí, NSNN còn có những khoản vay; đối tợng vay có
thể là dân c, Ngân hàng và bằng cách phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu
chính phủ. Hoặc các khoản vay, viện trợ từ nớc ngoài, vay chính phủ các nớc
hoặc các tổ chức quốc tế. Khi vay cần cân đối gia những lợi ích của các khoản
vay và chi phí của chúng cũng nh xem xét khả năng hoàn trả. . .
2. Chi tiêu ngân sách Nhà nớc:

15


Chi NSNN thể hiện qua các quan hệ tiền tệ hình thành trong quá trình phân
phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm trang trải cho các chi phí bộ máy Nhà nớc và
thực hiện các chức năng kinh tê-xã hội mà Nhà nớc đảm nhận theo những

nguyên tắc nhất định.
Theo chức năng nhiệm vụ của Nhà nớc, nội dung chi tiêu ngân sách Nhà nớc
bao gồm:
- Chi về kinh tế: Chi cho đầu t vốn cố định và vốn lu động cho các doanh nghiệp
Nhà nớc, góp cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết
có sự tham gia của Nhà nớc; chi đầu t xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng
kinh tế-xã hội; chi cho quỹ phát triển các chơng trình, dự án phát triển kinh tế,
chi cho sự nghiệp kinh tế, chi cho dự trữ Nhà nớc.
- Chi về văn hoá xã hội: chi cho các sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn
hoá, thông tin, thể dục thể thao,sự nghiệp khoa hoc, công nghệ và môi trờng, cac
sự nghiệp khác; chi cho các chơng trình quốc gia; cho hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã
hội; trợ cấp cho các đối tợng chính sách xã hội; tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã
hội-nghề nghiệp.
- Chi cho bộ máy Nhà nớc: chi cho hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ,
Hội đồng nhân dan và uỷ ban nhân dân các cấp, các cơ quan hành chính các cấp,
toà án và viẹn kiểm sát các cấp.
- Chi cho quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
- Chi trả nợ nớc ngoài.
- Chi viện trợ nớc ngaòi.
- Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính.
- Chi khác.
Theo tính chất kinh tế, chi NSNN đợc chia ra các nội dung sau đây.
+ Chi thờng xuyên:
Là những khoản chi không óc trong khu vực đầu t và có tính chất thờng xuyên
để tài trợ cho hoạt động của các cơ quan Nhà nớc nhằm duy trì "đời sống quốc
gia". Về nguyên tắc, các khoản chi này phải đợc tài trợ bằng các khoản tiền
không mang tính chất hoàn trả của NSNN.
+ Chi đầu t phát triển:
Là tất cả các chi phí làm tăng thêm tài sản quốc gia.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu của tất cả các Nhà nớc hiện đại. Để đạt

đợc sự phát triển, chính phủ phải hoạch định đợc chiến lợc phát triển đúng đắn,
phù hợp và cần phải có vốn đầu t của Nhà nớc. Đối tợng đầu t của Nhà nớc thờng
là những công trình thuộc kết cấu hạ tầng, các ngành kinh tế mũi nhọn và những
công trình kinh tế mà không thể dựa vào đầu t t nhân, nhng những hoạt động của
chúng là cần thiết cho xã hội.
3. Tổ chức hệ thống và phân cấp ngân sách Nhà nớc:
Ngân sách Nhà nớc đợc quản lý và điều hành theo luật Ngân sách Nhà nớc đợc
Quốc hội Cộng hoà xã hội chu nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30-3-1996.

16


Ngân sách Nhà nớc đợc quản lý và điều hành theo chế độ kế hoạch hoá thống
nhất từ trung ơng đến cơ sở. Mọi sự thu chi của Ngân sách Nhà nớc đều đợc thể
hiện qua kế hoạch thống nhất từ trung ơng đến sơ sở. Kế hoạch ngân sách do
Quốc hội thông qua hàng năm.
Thực hiện phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nớc phù hợp với sự phân cấp hành
chính. Theo đó ngân sách Nhà nớc đợc chia làm bốn cấp:
- Cấp trung ơng;
- Cấp tỉnh ( thành phố trực thuộc trung ơng);
- Cấp huyện ( quận );
- Cấp xã ( phờng ).
Tuy nhiên việc phan công, phân cấp quản lý ngân sách Nhà nớc là phân công,
phân cấp quản lý theo nhiệm vụ, kế hoạch thu, chi ngân sách cho các cấp trên cơ
sở chế độ thống nhất, kế hoạch thống nhất. Phân công phân cấp không phải là
phân chia ngân sách.
Phân cấp quản lý ngân sách Nhà nớc là xác định phạm vi, quyền hạn, trách
nhiệm của các cấp ngan sách trong việc quản lý thu, chi từng cấp, thực hiện theo
chức năng nhiệm vụ quản lý của Nhà nớc ở từng cấp dựa trên cơ sở thống nhất về
pháp luật, về chính sách, về kế hoạch kinh tế-xã hội nhằm bảo đảm thực hiện

chính sách thu, chi ngân sách Nhà nớc, sử dụng hợp lý các nhu cầu phát triển
kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, đề cao trách nhiệm và khuyến khích tính
chủ động, sáng tạocủa chính quỳen địa phơng trong việc quản lý chặt chẽ, tiết
kiẹm và hiệu quả, nâng cao khả năng tạo vốn trong quá trình thực thi ngân sách
Nhà nớc.
II. Thực trạng thu chi Ngân sách Nhà nớc ta những năm gần đây:
1. Những thành tựu đã đạt đợc của hoạt đông ngân sách Nhà nớc trong năm
2003:
1.1. Thành tựu:
Kế hoạch tài chính 5 năm 2001-2005 đã thực hiện đợc một nửa, toàn ngành tài
chính nói chung đã thu đợc những thành tựu đáng kể. Toàn ngành đã vợt qua
nhiều khó khăn và thách thức, tiếp tục sự nghiệp đổi mới và đã đạt đợc một số
kết quả có ý nghĩa quan trọng. Hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật, tài chính
có nhiều đổi mới, tiến bộ góp phần tạo môi trờng và thị trờng thuận lợi hơn để
giải phóng sức sản xuất xã hội, cổ vũ cho các thành phần kinh tế, các tầng lớp
nhân dân tích cực thực hành tiết kiệm tăng tích luỹ cho đầu t, tạo thêm nhiều
việc làm để xoá đói, giảm nghèo, tăng thu nhập cho chính mình , cho gia đình
mình và tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Nhờ đó đã góp phần tạo động
lực mạnh mẽ để nền kinh tế nớc ta tiếp tục duy trì và đạt tốc độ tăng trởng khá
cao ( bình quân 3 năm là 7,1% ), huy động thêm nhiều nguồn nội lực và ngoại
lực để tăng đầu t xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng kinh tê-xã hội, thúc đẩy mạnh

17


việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết các vấn đề phát triển xã hội, cải cách
tiền lơng và đảm bảo an ninh quốc phòng.
Đóng góp không nhỏ trong sự thành công ấy là những hoạt động thu, chi
NSNN đợc thực hiện một cách có hiệu quả. Năm 2003, dự toán thu ngân sách
Nhà nớc do ngành tài chính đảm nhiệm ớc đạt 132.500 tỷ đồng; vợt 7,1% so với

dự toán quốc hội giao; tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trớc; đạt tỷ lệ động viên
21,7% GDP; trở thành năm thứ sáu liên tục thực hiện vợt thu. Nhờ nguồn thu
NSNN tăng khá, nên không những đảm bảo chi theo dự toán dợc giao mà còn
tăng bổ sung nguồn ngân sách gần 10000 tỷ đồng để thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng.
Kết quả cụ thể là:
- Về thu NSNN:
Tổng thu ngân sách Nhà nớc ớc tính đạt 106,1% dự toán cả năm; đây là năm
thứ sáu liên tục vợt dự toán do Quốc hội đề ra. Vợt thu không phải do có thêm
thuế mới hay nâng thuế suất, tría lại một số khoản thu còn đợc miễn giảm nh
thuế sử dụng đất nông nghiệp, một số khoản phí và lệ phí khác, đặc biệt là thuế
nhập khẩu. . . Điều này chứng tỏ tăng trởng kinh tế đạt khá, công tác hành thu đã
bám sát sự tăng lên của sản xuất kinh doanh, bám sát dự toán đề ra, rà soát để
tìm các khoản thu, đặc biệt là chống thất thoát thu có hiệu quả.
Năm 2003 so với năm 2002, tổng thu ngân sách Nhà nớc ớc tăng 11,3%. Một
số khoản thu lớn còn tăng với tốc độ cao hơn, nh thu từ doanh nghiệp có vốn đầu
t nớc ngoài tăng tới 30%, thu từ công thuowng nghiệp và dịch vụ ngoài quốc
doanh tăng 28,5%, thu từ doanh nghiệp Nhà nớc tăng 17,9%. . .
Do tốc độ tăng thu đạt khá, nên tỷ lệ giữa tổng thu ngân sách so với GDP vẫn
đạt khonảg 21,9%, tuy cha bằng tỷ lệ 22,2% của năm 2002, nhng đã cao hơn tỷ
lệ trong các năm trớc đó ( năm 2001 đạt 21,6%, năm 2000 đạt 20,5%, năm 1999
đạt 19,6% . . . ). Điều đó chứng tỏ, một mặt đã tích cực tận thu, mặt khác vẫn
thực hiện chính sách khoan th sức dân, nuôi dỡng nguồn thu- một chủ trơng có
tính chiến lợc về thu, chi ngân sách Nhà nớc.
Cơ cấu thu ngân sách đã có những chuyển biến tích cực hơn các năm trớc,
ngày càng phù hợp với độ mở cửa ngày một tăng lên của nền kinh tế, phản ánh
trực tiếp hơn hiệu quả của kinh tế trong nớc và sẽ không bị hụt hẫng khi thực
hiện cam kết theo hiệp định đã kí với khu vực ASEAN, với Mỹ, cũng nh chuẩn
bị gia nhập Tổ chức thơng mại thế giới ( WTO ). Theo ớc tính ban đầu, tỷ trong
các khoản thu từ hàng nhập khẩu, thu từ dầu thô. . . những khoản thu không trực

tiếp phản ánh hiệu quả sản xuất ở trong nớc và ảnh hởng đến ngời tiêu dùng đã
giảm từ 49,5% trong các năm 2001,2002 xuống còn 47,9% trong năm 2003.
Trong đó tỷ trọng thu từ dầu thô đã giảm xuống từ 25,9% trong năm 2000,
25,5% trong năm 2001, 21,6% trong năm 2002 và ớc còn 20,5% trong năm
2003; điều này phản ánh nguồn thu từ việc xuất khẩu tài nguyên ngày một giảm,
trong khi tổng thu tăng 11,3% thì thu từ dầu thô chỉ tăng 1,6%. Thu từ xuất nhập
khẩu chỉ tăng 10,4% cũng thấp hơn tốc độ tăng của tổng thu.. Tỷ trọng trong
tổng th của nội địa những khoản thu phản ánh trực tiếp hiệu quả sản xuất trong
18


nớc đã tăng từ 50,5% trong các năm 2001,2002 lên 52,8% trong năm 2003. Tất
cả những điều này phản ánh cơ cấu thu ngân sách ngày càng có những thay đổi
tích cực. Cơ cấu thu ngân sách đã chuyển biến theo chiều hớng tích cực: Tỷ
trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN đã tăng từ 50,7% năm 2001 lên 52,6%
năm 2003; thu từ hoạt động xuất nhập khảu, từ dầu thô giảm từ 47,4% năm 2001
xuống 45,9% năm 2003. Đến năm 2003 đã có 26 tỉnh, thành phố có quy mô thu
NSNN trên địa bàn đạt mức trên 500 tỷ đồng.
Đặc biệt, năm qua Bộ tài chính đã tiến hành phát hành công trái giáo dục trên
địa bàn toàn quốc với tổng số tiền thu đợc là 2.580 tỷ đồng. Đây là lân đầu tiên
nớc ta phát hành công trái giáo dục nhằm huy đông vốn để hhõ trợ các tỉnh miền
núi, Tây nguyên và các tỉnh khó khăn. Ngày 15/10/2003, phát hành trái phiéu
Chính phủ đợt I/2003, nhằm huy động sự đóng góp của toàn dân để đầu t, xây
dựng một số công trình giao thông, thuỷ lợi quan trọng của đất nớc . Đây là một
chủ trơng lớn và dài hạn của Đảng và Nhà nớc trong việc huy động vốn phục vụ
phát triển kinh tế-xã hội.
-Về chi NSNN:
Chi ngân sách Nhà nớc cũng đạt kết quả tích cực tren cả hai mặt. Một mặt, nhờ
thu vợt dự toán 7,1% mà chi ngân sách cũng đã vợt 6,1% so với dự toán đợc
duyệt và tỷ lệ vợt dự toán của tổng chi thấp hơn tổng thu nên đã tăng tính chủ

động, rỉ ro, tăng kết d, giảm bội chi.
Mặt khác, năm 2003 so với năm 2002, tổng chi tăng 14,1%, cao hơn tốc độ
tăng 11,3% của tổng thu, phù hợp với chủ trơng kích cầu đầu t và tiêu dùng của
chính phủ. Chi ngân sách cho đầu t phát triên đạt 106,85 dự toán và tăng 6,7% so
với năm 2002, đều cao hơn các chỉ số của chi thờng xuyên ( tơng ứng đạt
104,9% và tăng 4,9% ); chi cho đầu t phát triển chiếm khoảng 28% tổng chi, cha
kể công trái, trái phiếu mới huy động để đầu t.
Một số khoản chi lớn và quan trọng trong chi thờng xuyên đã đạt khá so với dự
toán và tăng khá so với năm 2002; chi cho thể dục thể thao đạt 232,7% tăng tới
60,7%; chi cho giáo dục và đào tạo đạt 102,8% và tăng 12%; chi cho y tế đạt
106,5% và tăng 12,3%; chi cho sự nghiệp kinh tế đạt 103,9% và tăng 5,7%.
Có thể nói, nguồn lực tà chính Nhà nớc đã đáp ứng đợc yêu cầu giải quyết
những vấn đề bức xúc của nền kinh tế và xã hội. Trong khi chi thờng xuyên của
NSNN giảm dần qua các năm, thì một số nhiệm vụ chi quan trọng đã thực hiện
đạt và vợt chỉ tiêu đề ra; chi cho giáo dục đào tạo tăng từ 15,8% tổng chi NSNN
năm 2001 lên mức dự kiến 18% từ năm 2003; chi cho khoa học công nghệ , sự
nghiệp y tế, văn hoá, xã hội trong tổng chi NSNN tăng nhanh qua các năm; trong
khi các nhu cầu cho hoạt động quản lý hành chính Nhà nớc, quốc phòng, an ninh
đều đợc đảm bảo.
-Về quản lý ngân sách Nhà nớc;
Năm 2003 so với 2002, mặc dù tổng chi tăng cao hơn tổng thu, nhng bội chi
ngân sách vẫn đợc kìm chế không vợt quá 5%GDP mà Quốc hội đã cho phép và
thấp hơn tỷ lệ 5,4% của năm 2001 và tỷ lẹ 5,2% của năm 2002; đó cũng là mức
an toàn và kiểm soát đựoc.
Nguồn bù đắp bội chi có tới 75% là bằng nguồn vay trong nớc, còn chỉ có 25%
bằng nguồn vay nớc ngoài. Các chỉ số trên cho thấy, một mặt là không dùng con
19


đơng phát hành vì phát hành thờng gắn với lạm phát, mặt khác nếu đi vay thì đi

vay trong nớc.
Năm 2003 cung cấp nhiều bài học kinh nghiệm vè thu, chi ngân sách, từ việc
xây dựng chính sách đến phân cấp trách nhiệm trong quản lý ngân sách, trong
việc tận thu và chống thất thu. . . Đặc biệt, ngày 10/11/2003, Quốc hội đã thông
qua nghị quyết về phân bổ ngân sách Nhà nớc năm 2004. Đây là lần đầu tiên
Quốc hội lựa chọn phơng án phân bổ ngân sách Nhà nớc, phơng án sẽ tạo điều
kiện để phát triển kinh tế-xã hội, tăng nhanh nguồn thu ngân sách với các tỉnh
thành thuộc vùng kinh tế trọng điểm; đông thời tăng hỗ trợ đối với những địa phơng khó khăn, nhát là các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, miền Trung để
thúc đẩy chuyển dịch kinh tế, tăng nguồn thu. . .
1.2. Nguyên nhân:
Năm 2003, mặc dù phát triên trong điều kiện phức tạp và khó lờng nh chiến
tranh Irắc, dich bệnh SARS, hạn hán lũ lụt ở nhiều nơi. . . nhng kinh tế nớc ta
vãn đạt mức tăng trởng cao. Tổng sản phẩm trong nớc (GDP) tăng 7,24% so với
năm 2002; đây là mức tăng cao nhất trong 6 năm qua kể từ năm 1998. Với kết
quả này, các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực đã đánh giá cao sự phát triển
kinh tế của Việt Nam, kinh tế Việt Nam đã lấy lại đợc đà tăng trởng và chất lợng
ngày càng vững chắc.
Sự phát triển của nền kinh tế đã tạo ra một nguồn thu dồi dào hơn cho NSNN
cũng nh yêu cầu mở rộng chi tiêu đầu t phát triển kinh tế của NSNN. Để đáp ứng
những nhu cầu đó ngành tài chính nói chung và hệ thống thu-chi NSNN nói
riêng đã có nhiều chuyển đổi lớn lao về mọi mặt nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ mới của hệ thống tài chính nhà nớc phù hợp với nền kinh tế thị trờng định hớng XHCH ở nớc ta. Những điểm đáng chú ý nhất là những tiến bộ trên các lĩnh
vực:
- Xây dựng nền tảng pháp luật của hệ thống các sắc thuế hiện đại;
- Đổi mới tổ chức hệ thống bộ máy thu thuế Nhà nớc;
- Xây dựng nền tảng pháp luật NSNN;
- Đổi mới phơng thức quản lý, hình thành bộ máy quản lý quỹ NSNN trực
thuộc bộ tài chính, độc lập với Ngân hàng Nhà nớc;
- Xác lập và củng cố vị trí tài chính công.
Năm 2003 tiếp tục đóng góp một phần quan trọng vào sự đổi mới đó của hoạt

động thu, chi NSNN.
+ Thu NSNN: Cải cách thuế bớc hai, Nhà nớc ban hành luật thuế giá trị gia tăng,
thuế thu nhập doanh nghiệp là hai loại thuế cơ bảngiúp cho hệ thống chính sách
thuế của Việt Nam tơng đối đồng bô và đầy đủ. Qua 4 năm thực hiện, vừa qua
Quốc hội tiếp tục sửa đổi, bổ sung thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế thu nhập doanh nghiệp thi hành từ 1.1.2004, phù hợp với mục tiêu đề ra là
khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện cho hội nhập, thúc đẩy cạnh tranh mà vẫn
bảo đảm mức động viên cho NSNN. Cải cách thuế bớc 2 đạt nhièu kết quả tích
cực, khuyến khích đầu t phát triển sản xuất kinh doanh, tăng tích luỹ của doanh
nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thực hiện lộ trình hội nhập kinh tế khu vực và

20


thế giới, nhng vẫn bảo đảm tỷ lệ động viên và nguồn thu nagỳ càng lớn hơn vào
NSNN.
Chính sách thuế đã trở thành đòn bẩy kinh tế, thúc đẩy các doanh nghiệp sắp
xếp, đổi mới, đua tài làm ăn chân chính trên cùng một mặt bằng pháp luật. Quá
trình thực hiện các hiệp định đa phơng và song phơng theo lộ trình hội nhập kinh
tế , khiến cho nguồn thu thuế nhập khẩu ngày càng giảm, nhng do các doanh
nghiệp trong nớc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, cho nên số thu nội địa
ngày càng cao. Đông thời với cải cách chính sách, các ngành thuế và hải quan bớc đầu đẩy mạnh cải cách hành chính, cải tiến thủ tục theo hớng đơn giản, minh
bạch hơn, giảm dần và tiến tới xoá bỏ phiền hà đối với ngòi nộp thuế và các nhà
xuất nhập khẩu. Đặc biệt tính chủ động, tự giác của các tổ chức, cá nhân trong
thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nớc ngày càng đợc nâng cao.
+ Chi NSNN:
Quản lý NSNN có chuyển biến về chất, đợc cơ cấu lại, hớng tới sự cân đối tích
cực và ổn định, thu hẹp mạnh sự bao cấp cho doanh nghiệp, tăng chi cho đầu t
phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-kĩ thuật cũng nh phát triển sự nghiệp giáo dục,
đào tạo, y tế, bảo đảm an ninh quốc phòng. . . Hệ thống NSNN gồm bốn cấp nhng là một chỉnh thể thống nhât, đợc điều hành theo nguyên tắc công khai, minh

bạch, nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của Quốc hội và Hội đông nhân dân
các cấp. Trong gần ba năm qua, tốc độ tăng chi thờng xuyên của NSNN giảm
dần nhng vẫn bảo đảm nguồn để tăng tiền lơng, đông thời bội chi thực tế NSNN
đều ở dới mức độ cho phép là 5%. Trong đầu t phát triển, NSNN đã tập trung vào
những công trình trọng điểm tạo tièn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đóng vai
trò mở đờng, thu hút , dẫn dắt đầu t của các doanh nghiẹp và dân c cũng nh xã
hội hoá một số mặt cần thiết và có thể trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo, y tế, văn
hoá, thể thao. . .
Trong công tác thanh tra, giám sát tài chính đã xiết chặt kỉ cơng, kỷ kuật quản
lý chi tiêu NSNN, góp phần tạo chuyển biến tích cực trong thực hành tiết kiệm,
chông tham ô, lãng phí.
Cơ cấu thu, chi ngân sách cũng rất tiến bộ với tỷ lệ thu nội địa ngày càng cao,
mức huy động vào ngân sách ngày càng tăng, bội chi giữ ở mức cho phép ( dới
5% ), từ đó làm cho nền tài chính quốc gia phát triên theo hớng ngày càng lành
mạnh, ổn định hơn. Nguồn lực tài chính vững chắc là cơ sở để Nhà nớc tiến hành
cải cách tiền lơng và giải quyết các chính sách xã hội khác.
2. Những hạn chế và những thách thức:
2.1. Những hạn chế:
Nhìn chung có thể thấy rõ là , hiện tại quy mô nền kinh tế nớc ta còn nhỏ ( 40
tỷ úD/ 80 triệu dân ), thậm chí giá trị sản xuất toàn quốc cha bằng một tập đoàn
kinh tế thế giới. Trong khi , các cơ chế, chính sách phát triển và nuôi dỡng nguồn
thu còn hạn chế thì đầu t Nhà nớc lại dàn trải , hiệu quả thấp, quản lý ngân sách
lơi lỏng, gây lãng phí làm cho cán cân tài chính quốc gia mất cân đối, không
vững chắc, càng thiếu tự tin khi hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
21


- Về thu ngân sách Nhà nớc:
Mặc dù kết quả thu ngân sách hàng năm đều vợt dự toán và có nhịp tăng nhanh
(10%) , song nguồn thu ngân sách còn nhỏ bé( hiện nay chỉ mới xấp xỉ 10 tỷ

USD) và cha vững chắc trong cơ chế do cơ cấu thu từ dầu thô và thu từ hoạt động
xuất nhập khẩu còn chiếm tỷ trọng lớn ( gần 50% tổng thu ) mà hai khoản này
lại phụ thuộc vào giá cả thị trờng quốc tế, chủ trơng và chính sách của Nhà nớc.
Sự phụ thuộc này sẽ dẫn đến nguồn thu bị giảm sút khi thuế suất nhập khẩu bị
cắt giảm theo cam kết hội nhập hoặc giá dầu thô trên thị trờng thế giới bị giảm
sút. Tỷ trong thu từ kinh tế Nhà nớc có xu hớng giảm từ 22,4% năm 2000 xuống
còn 22,2% năm 2001, và 20,7% năm 2002; năm 2003 đã nhích lên đạt khoảng
21,9%, nhng thấp xa so với tỷ trọng của khu vực này trong GDP(38%). Thu ngân
sách chủ yếu là tiền thuế do toàn dân đống góp.
Tình trạng thất thu ngân sách vẫn còn phổ biến và nghiêm trọng do tình trạng
buôn lậu, gian lận thơng mại, kinh doanh trốn thuế hoặc khấu trừ thuế. . . thu về
thuế đất đai cha tốt. Thu ngân sách nhìn chung cha tơng xứng với tiềm năng của
nền kinh tế. Tình trạng nợ đọng thuế tuy đã giảm nhng vẫn còn lớn.
Việc nghiên cứu đề xuất các chính sách vẫn cha khai thác, bao quát hết các
nguồn thu phát sinh trong nền kinh tế, đặc biệt là các biệ pháp hành thu cha đợc
nghiên cứu, quy định đầy đủ, đồng bộ và tơng xứng.
Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm về thuế đã đợc đẩy
mạnh một bớc song cha đặt đúng tầm, cha phù hợp với thực trạng của nớc ta là
trình độ dân trí thấp, trách nhiệm pháp lý cha cao.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, hớng dẫn chính sách thuế mới khởi động , cha
đáp ứng yeu cầu để nâng cao sự hiểu biết, tính tự giác trong việc chấp hành các
chính sách thuế của Nhà nớc.
Trình độ cán bộ thuế đã đựoc nâng lên một bớc song so với yêu cầu thì còn bất
cập. Trình đọ nghiệp vụ và kinh nghiệm quản lý thuế của đại bộ phận cán bộ
thuế ngoài quốc doanh, nhất là cấp chi cục, đội thuế xã phờng còn thấp.
- Về chi ngân sách:
Tình trạng lãng phí, thất thoát trong chi ngân sách, đặc biệt là chi trong đầu t
phát triển diễn ra khá phổ biến và nghiêm trọng; tỷ trong chi đền bù giải phóng
mặt bằng ngày một lớn, làm cho lợng đầu t tuy tăng khá nhng số thực vào công
trình không tăng tơng ứng, hiệu quả đầu t thấp. Vấn đề đặc biệt cấp bách là việc

bố trí ngân sách dàn trải, nhất là trong đầu t XDCB. Ngay trong năm 2003 có tới
10600 công trình đợc bố trí vốn ( tăng 25000 công trình so với năm 2002 ) trong
đó nhóm A chỉ có 89 dự án, nhóm B có 1500 dự án, nhóm C có tới gần 9000 dự
án. Việc bố trí vốn hàng năm phải u tiên cho những công trình chuyển tiếp nhng
vẫn bố trí thêm nhiều công trình mới, khiến cho công trình nào cũng dở dang tạo
cơ sở thất thoát vốn và hiệu quả vốn đầu t chậm phát huy.
Do những hậu quả còn để lại của cơ chế cũ, trong hoạt đôngchi NSNN còn
mang nặng tính chất "xin-cho", t tởng bao cấp, tâm lý ỷ lại cáp trên còn lớn; vấn
đề này càng nghiêm trọng hơn khi tình trang thất thoát vốn diẽn ra rất nhức nhối.

22


2.2. Những thách thức:
Năm nay, thực hiện các luật thuế mới đã đợc Quốc hội bổ sung, sửa đổi, các
luật thuế và pháp lệnh ban hành đặt ra nhiệm vụ phải thực hiện tốt đẻ chúng phát
huy hiệu quả nhằm khuyến khích tăng trởng kinh tế, khuyến khích phát triển các
thành phần kinh tế trong và ngoài nớc, khuyến khích tăng gia sản xuất, xây dựng
và phát triển kinh tế hộ gia đình, các hợp tác xã. . . vì vậy mức động viên bằng
công cụ thuế, thuế suất nói chung giảm theo hớng mở rộng, u đãi và giảm thuế,
giảm phí. .. .
Trong lĩnh vực thu NSNN, với việc cam kết cắt giảm tất cả các dòng của biểu
thuế xuất, thuế nhập khẩu xuống mức thấp hơn nhiều so với hiện nay sẽ làm
giảm đáng kể nguồn thu từ bộ phận đóng góp lớn này. Mức thuế suất trung bình
của biểu thuế nhập khẩu của các nớc phát triển trong WTO là 3,8% còn đối với
các nớc đang phát triển là 12,3%. Theo dự báo của bộ tài chính, các cam kết cắt
giảm thuế của Việt Nam sẽ làm giảm nguồn thu NSNN khoảng 160-170 triệu
USD, tức khoảng 2,2% tổng thu NSNN/năm
Một vấn đề thuộc về chính sách tài chính mang tính nguyên lý và đã trở thành
xu thế chung trên thế giới hiện nay là giảm mức thuế suất nhng mức động viên

vẫn tăng lên. Theo tinh thần đó, thời gian qua Việt Nam đã ban hành, bổ sung và
sửa đổi hệ thống thuế bằng cách cắt giảm rất nhiều thuế suát của các sắc thuế. Ví
dụ : Đối với thuế gián thu là thuế giá trị gia tăng , đã giảm mức thuế suất từ 20%
xuống còn 10% và 5%. Thuế tiêu thụ đặc biệt , điển hình là thuế TTĐB đối với ô
tô cũng giảm thuế suất từ 100% xuống 80%. Đối với thuế trực thu, cũng giảm tơng tự nh vậy. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) giảm từ 32% xuống còn
28%; đồng thời bỏ thuế thu nhập bổ sung, bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nớc
ngoài; tăng mức khởi điểm phải chịu thuế thu nhập. Tất cả những cải cách thuế
nay nằm trong chiến lợc mở cửa, tạo sự công bằng thông thoáng khi nền kinh tế
hội nhập vào khu vực và thế giới song lại lam giảm đáng kể nguồn thu ngân sách
Nhà nớc yêu cầu phải thay đổi cơ cấu thu NSNN, tăng thu trong nớc và thu từ
lĩnh vực sản xuất.
Khi nguồn thu bị thu hẹp thì sẽ đặt ra những thách thức cho chi tiêu NSNN.
Những vấn đề còn tồn tại trong những năm qua trong cơ chế chi NSNN sẽ đặt ra
những thách thức lớn trong việc giải quyết; trong đó vấn đề về đầu t phat triển
kém hiệu quả, tâm lý trông chờ, ỷ lại . . . là những vấn đề cấp bách nhất cần đợc
giải quyết.
3. Phơng hớng và các giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác tài chính,
nâng cao hiệu quả thu, chi Ngân sách Nhà nớc:
Dự toán NSNN năm 2004 đã đợc Quốc hội quyết định, với dự toán thu ngân
sách là 149.320 tỷ đồng, tăng 12,7% so với ớc đạt thực hiện năm 2003, mức
động viên bằng 21,5% GDP; dự toán chi NSNN là 187.670 tỷ đồng, tăng 18,1%
so với dự toán 2003.

23


D toán thu, chi NSNN năm 2004 là yêu cầu rất cao, đòi hỏi phải thống nhất
trong nhận thức và hành động. Để thực hiện đợc nhiệm vụ đó đông thời góp phần
vào việc tăng cờng vai trò của NSNN trong nền kinh tế Việt Nam trong dài hạn
cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau đây:

Về thu NSNN :
Các bộ , ngành, địa phơng và đơn vị tổ chức triển khai thực hiện tốt Luật
NSNN ( sửa đổi ) và các văn bản hớng dẫn Luật ngay từ khâu quyết định, đảm
bảo sự thống nhất, đúng quy định trong tổ chức thực hiện.
Triển khai thực hiện ngay từ đầu năm Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật thuế GTGT, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế TTĐB, luật
thuế TNDN đã đợc Quốc hội thông qua. Năm 2004 phải tạo ra đợc sự tiến bộ
một bớc về lành mạnh hoá cơ cấu thu NSNN, phấn đấu tăng tỷ trọng là tốc độ
các khoản thu nội địa từ nền kinh tế, nâng dần tỷ trọng thuế trực thu. Đồng thời
thực hiện các biện pháp tích cực quản lý thu ngân sách, bảo đảm thu đúng, thu
đủ, thu kịp thời theo quy định của pháp luật; kiên quyết xử lý các truờng hợp vi
phạm, thu hồi khoản thu bị chiếm dụng. Phấn đấu thực hiện hoàn thành và hoàn
thành vợt mức dự toán thu NSNN năm 2004 đợc giao.
Để đảm bảo tỷ lệ động viên vào NSNN thông qua thuế, phí và lệ phí đạt
khoảng 21-22%GDP vào năm 2004 thì cần phấn đấu nâng cao tỷ trọng và chất lợng các khoản thu nội địa từ nền kinh tế với tốc độ tăng thu đạt trên 16%/năm và
thu từ hải quan khoảng từ 10-12%/năm. Nâng tỷ trọng thuế trực thu nhất là thuế
TNDN, thuế thu nhập của ngời có thu nhập cao bằng cách mở rộng diẹn chịu
thuế thu nhập cá nhân, ban hành một số sắc thuế mới nh thuế tài sản. . . thực
hiện nguyên tắc bảo đảm công bằng nghĩa vụ thuế đối với các thành phần kinh
tế.
Còn về chiến lợc lâu dài, hoạt động thu NSNN cần tập trung chủ yếu vào các
giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách về thuế, hải quan theo hớng
bám sát các mục tiêu chiến lợc dài hạn và lộ trình đã đề ra, bảo đảm công khai,
minh bạch, hạn chế tới mức thấp nhất việc thờng xuyên phải sửa đổi, bổ sung,
nhất là trong việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh; ban hành đầy đủ, kịp thời,
đồng bộ các văn bản hớng dẫn để khắc phục những khó khăn, vớng mắc trong
việc thi hành luật, pháp lệnh.
Việc xây dựng cơ chế, chính sách mới về thuế, hải quan phải chú trọng công
tác tổng kết, đánh giá cơ chế đã thực hiện, kinh nghiệm của các nớc trong khu

vực và trên thế giới, tham khảo ý kiến rộng rãi của các cấp, các ngành và nhân
dân; đồng thời phải dự báo đợc điều kiện thực hiện và các tác động của chính
sách mới vào cuộc sống, bảo đảm tính khả thi cao, dễ thực hiẹn, dễ quản lý.
Thú hai, đẩy mạnh cải cách hành chính và công nghệ quản lý, tiếp tục đơn giản
hoa thủ tục hành chính thuế và hải quan theo hớng:
- Đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ đối tợng nộp thuế để nâng cao hơn tính tự giác
trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
24


- Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học vào các khâu quản lý.
- Khuyến khích mạnh mẽ xã hội hoá công tác t vấn pháp luật, dịch vụ kê khai
thuế.
- Thờng xuyên duy trì công tác thanh tra, kiểm tra về thuế, kiểm tra sau thông
quan, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
Thú ba, kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ, công chức. Đây
là một nội dung quan trọng vì trong mọi chính sách yếu tố con ngời cũng đóng
vai trò quyết định.
Đối với các tỉnh trọng điểm thu, cần có cơ chế thúc đẩy, khơi tạo nguồn thu để
địa phơng chủ động hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ; đồng thời có cơ chế hỗ
trợ về nguồn lực đầu t nh thực hiện thởng vợt thu theo tỷ lệ tối đa; hỗ trợ đầu t
thêm bằng các nguồn vợt thu của ngân sách Trung ơng, u tiên các nguồn ODA...
cho các địa phơng này để đẩy mạnh đầu t, phát triển.
Đối với những tỉnh có tiềm năng và thế mạnh nhng do ngân sách khó khăn nên
chậm chuyển đổi cơ cấu kinh tế, Trung ơng cần có cơ chế hỗ trợ các khu công
nghiệp, các vùng chuyên canh sản xuất lớn... ở địa phơng chuyển đổi cơ cấu kinh
tế góp phần tăng nguồn thu trên địa bàn.
Về chi NSNN :
Phải tiếp tục đổi mới, tập trung cơ cấu lại chi NSNN theo hớng tích cực hơn,
tiếp tục u tiên chi đầu t phát triển, tập trung nhanh hơn cho đầu t cơ sở hạ tầng

kinh tế-xã hội, nhất là các cơ sở đào tạo, giáo dục, công nghệ. Tăng đầu t để giải
quyết sớm vấn đề xoá đói, giảm nghèo; tăng đầu t cho sản xuất thông qua hỗ trợ
lãi suất đầu t, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là cơ cấu nông nghiệp; chú
trọng tăng chi giáo dục đào tạo; y tế văn hoá và chi phí phát triển sự nghiệp kinh
tế-xã hội. Đối với ngân sách địa phơng, phấn đấu tăng số địa phơngcó tỷ lệ điều
tiết về NSNN, giảm tỷ lệ bổ sung cân đối từ NSNN trong tổng chi ngân sách địa
phơng.
Trong năm 2004 và những năm tiếp theo tiếp tục tập trung cơ cấu lại chi ngân
sách theo hớng: tiếp tục u tiên chi đầu t phát triển, tập trung nhiều hơn cho đầu t
cơ sở hạ tầng vật chất KTXH ( trong đó chi GD-ĐT đạt 17,1% tổng chi NSNN,
KH-CN đạt 2% tổng chi NSNN, tăng chi y tế 10%, VH-TT 18,7% so với năm
2003); đảm bảo ngan sách thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội vung núi,
vùng dân tộc khó khăn theo các chơng trình của chính phủ.
Phân bổ và tổ chức cấp phát chi NSNN phải tập trung thực hiện các mục tiêu
tăng trởng và chuyên dịch cơ cấu kinh tế với nhịp độ cao và bền vững; giải quyết
tôt các yêu cầu để tạo chuyển biên mạnh và phát huy nhân tố nguồn lực con ng ời, ổn định chính trị xã hội.
+ Chi đầu t xây dựng cơ bản
Xem xét, rà soát lại các chơng trình dự án đầu t bằng nguồn NSNN, bố trí đầu
t tập trung có trong điểm, theo đúng kế hoạch. Nâng cao vai trò chủ động của cơ
quan tài chính trong công tác thẩm định các dự án. Xoá bỏ hẳn cơ chế "xin 25


×