Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.8 KB, 25 trang )

Tiểu Luận:“Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất
hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời
không phải trong lưu thông”
PHẦN MỞ ĐẦU
Quá trình học tập và nghiên cứu Bộ Tư Bản của C.Mác chính là nghiên
cứu về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và
trao đổi thích ứng với phương thức ấy. Trong xã hội tư bản lúc bấy giờ, phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự phát triển cao của sản xuất hàng hóa không
chỉ về lượng, mà còn về chất so với các phương thức sản xuất trước đó; ngoài
lượng hàng hóa khổng lồ mà nó tạo ra, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
còn làm xuất hiện loại hàng hóa mới- đó là hàng hóa sức lao động. Và khi sức
lao động trở thành hàng hóa thì tiền tệ mang hình thái tư bản và gắn liền với đó
là sự xuất hiện quan hệ giữa nhà tư bản và người công nhân làm thuê. Bản chất


mối quan hệ này thể hiện ở chỗ nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư do người
công nhân làm thuê tạo ra. Giá trị thặng dư là nguồn gốc hình thành thu nhập
của nhà tư bản và tập đoàn trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trọng
tâm học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác- một trong những phát minh vĩ đại
nhất của chủ nghĩa Mác- xoay quanh vấn đề “hòn đá tảng” này trong học thuyết
kinh tế của chủ nghĩa Mác về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Bắt đầu
từ sản xuất hàng hóa trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ hàng hóa và tiền tệ,
C.Mác đã chỉ ra cho chúng ta thấy được quá trình sản xuất hàng hóa phát triển
để tiền tệ chuyển hóa thành Tư bản phải thông qua quá trình lưu thông. Lưu
thông hàng hóa là khởi điểm của tư bản. Sản xuất hành hóa và lưu thông hàng
hóa phát triển là quá trình sản xuất xã hội tạo ra giá trị thặng dư cho nhà Tư bản,
đó chính là tiền đề lịch sử của sự xuất hiện của Tư bản.

1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu.
Ở quyển 1 của bộ Tư bản, C.Mác tập trung nghiên cứu quá trình sản
xuất tư bản chủ nghĩa, tập trung nghiên cứu về mối quan hệ hàng hóa và tiền tệ,
thông qua đó làm rõ vai trò của lưu thông trong quá trình sản xuất tư bản chủ


nghĩa. Trong phần thứ nhất của quyển này, Mác đã nghiên cứu những vấn đề
chung nhất của sản xuất hàng hóa, vấn đề này chỉ được phát triển đầy đủ nhất
trên cơ sở của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sản xuất tư bản chủ
nghĩa là giai đoạn phát triển cao của sản xuất hàng hóa, lưu thông hàng hóa là
điểm xuất phát của tư bản. Cái tiền đề lịch sử cho tư bản ra đời là nền sản xuất
hàng hóa và lưu thông hàng hóa đã phát triển.

Mác nghiên cứu lưu thông của tư bản bắt đầu từ công thức chung của tư
bản: T – H – T’ ở phần thứ hai, giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của
tư bản và rút ra kết luận tư bản vừa sinh ra trong quá trình lưu thông, lại vừa
không thể sinh ra trong quá trình lưu thông. Từ việc giải quyết mâu thuẫn đó, đã
xuất hiện trên thị trường hàng hóa một loại hàng mới là sức lao động, nhà tư
bản mua hàng hóa này và tiêu dùng nó, đã tạo ra giá trị thặng dư.
Đây là phần quan trọng và có tính chất quyết định trong bộ Tư bản, vì ở
đây Mác đặt cơ sở cho học thuyết giá trị thặng dư của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là một trong nhưng nội dung
nghiên cứu khó, đòi hỏi có sự nghiên cứu kỹ để tìm ra quá trình sự chuyển hóa
của tiền thành tư bản và sức lao động trở thành hàng hóa và từ mẫu thuẫn chung

của tư bản nắm chắc được quá trình lưu thông của tư bản và quá trình sản xuất
ra giá trị thặng. Giá trị thặng dư, phần giá trị do lao động của công nhân làm
thuê sáng tạo ra ngoài sức lao động và bị nhà tư bản chiếm không do bóc lột sức
lao động. Giá trị thặng dư do lao động không công của người công nhân làm
thuê sáng tạo ra là nguồn gốc làm giầu của các giai cấp các nhà tư bản.
Chính vì vậy, công việc tập trung bình luận để làm rõ vấn đề này là giúp
choviệc nghiên cứu Bộ Tư bản một cách hệ thống. Đây là tiền đề để tiếp tục
nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn Bộ Tư bản, qua đó hiểu sâu sắc hơn những
quy luật kinh tế, nguyên lý kinh tế dưới góc độ khoa học.


3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu.

Luận giải làm rõ sự chuyển hóa của tiền thành tư bản. Thông qua vai trò
của lưu thông hàng hóa và chức năng mới của tiền, nội dung tiểu luận phân tích
sự giống và khác nhau giữa lưu thông hàng hóa giản đơn và lưu thông hàng hóa
tư bản. Thông qua cách tiếp cận này, nhận thức được sự vận động của tiền với
tư cách là tư bản trong công thức chung của tư bản.
Phân tích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Thông qua các ví
dụ, giả định chứng minh của Mác, nội dung luận giải làm rõ tư bản không thể
sinh ra trong quá trình lưu thông, nhưng lại sinh ra trong quá trình lưu thông.
Qua nghiên cứu, bình luận kết luận của C.Mác: “Tư bản không thể xuất
hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải
xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”. Nội dung
rút ra một số ý nghĩa thực tiễn trong quá trình phát triển sản xuất và trao đổi

hàng hóa ở nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Nội dung tiểu luận tập trung phân tích bình luận kết luận của Mác: “Tư
bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài
lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu
thông”. Đây là kết luận về mâu thuẫn của công thức chung của tư bản, ở trang
249, chương II, phần II trong tác phẩm: C.Mác và Ph. Ăng-ghen, toàn tập, tập
23.
Phương pháp nghiên cứu:
Nội dung sử dụng phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị đó là:
phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp lôgíc thống nhất với lịch sử.

Trên cơ sở kết hợp với phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phân tích và tổng
hợp, diễn dịch và quy nạp, phương pháp hệ thống.


5. Kết cấu của nội dung tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung tiểu
luận bao gồm ba mục chính.

QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT VÀ LƯU THÔNG
CỦA TIỀN TỆ VÀ HÀNG HÓA
1. Một số khái niệm cơ bản



Qua nghiên cứu, chúng ta đều biết rằng, đối tượng nghiên cứu của Bộ tư
bản là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, những quan hệ sản xuất, phân
phối, trao đổi gắn liền với phương thức sản xuất ấy. Thế nhưng lại được Mác
bắt đầu nghiên cứu từ hàng hóa, vì hàng hóa là tế bào kinh tế của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, sản phẩm được tạo ra trong phương thức sản xuất
này phổ biến mang hình thái hàng hóa, trong hàng hóa chứa đựng những mầm
mống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người thông qua trao đổi mua – bán với nhau. Hàng hóa có hai nhân tố cơ
bản là giá trị sử dụng và giá trị, sở dĩ hàng hóa có hai nhân tố này là do lao động
sản xuất ra nó có tính chất hai mặt đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.

C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó, và làm rõ mặt chất và
mặt lượng của giá trị. Từ đó, C.Mác đã nghiên cứu và làm rõ các hình thái biểu
hiện của giá trị mà giai đoạn phát triển cao là sự ra đời của tiền tệ.
Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho
tất cả hàng hóa, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hóa. Tiền là hình thức biểu hiện giá trị của hàng hoá, nó
phục vụ cho sự vận động của hàng hoá.
Trong lưu thông, tiền với tư cách là tư bản, vận động theo công thức T –
H – T’, đã tạo ra một giá trị tăng thêm cho nhà tư bản, C.Mác gọi đó là giá trị
thặng dư.
Giá trị thặng dư đó là giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động bị nhà tư
bản chiếm không. Còn tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc

lột sức lao động của công nhân làm thuê.
Tư bản không phải là vật mà là quan hệ xã hội, đây là quan hệ chủ yếu
trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là quan hệ xã hội giữa giai cấp tư
sản với giai cấp công nhân, nhà tư bản bóc lột công nhân làm thuê.
Tư bản, với tư cách là giá trị tự tăng thêm, không những bao hàm các
quan hệ giai cấp, không những bao hàm một tính chất xã hội nhất định dựa trên
sự tồn tại của lao động dưới hình thức lao động làm thuê. Tư bản là một sự vận


động, là một quá trình tuần hoàn tiến hành qua những giai đoạn khác nhau… Vì
thế người ta chỉ có thể hiểu tư bản như là một sự vận động, chứ không phải là
một vật đứng yên.(C. Mác)[4, 185]

Trong nội dung này, chúng ta không đi nghiên cứu làm cách nào để tạo
ra tư bản, mà là thông qua quá trình lưu thông, cụ thể là sự vận động của công
thức chung của tư bản T – H – T’, chúng xác định xem tư bản được tạo ra ở đâu
và cái gì đã tạo ra nó. Đó là giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư
bản.
2. Sự chuyển hóa của tiền thành tư bản.
2.1. Vai trò của lưu thông hàng hóa
Lưu thông hàng hóa là khởi điểm của tư bản. Sản xuất hàng hóa là một
nền lưu thông hàng hóa phát triển, thương mại, đó là những tiền đề lịch sử của
sự xuất hiện của tư bản. Thương mại thế giới và thị trường thế giới trong thế kỷ
XVI đã mở ra trang sử cận đại của tư bản.[1, 221]
Lưu thông hàng hóa là điểm xuất phát của tư bản không những về mặt

lịch sử mà cả về mặt lý luận. Không có lưu thông hàng hóa phát triển thì không
thể có phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mác phân tích lưu thông của tư
bản bắt đầu từ công thức chung của tư bản đó là T – H – T.
2.2. Tiền với tư cách là tư bản
Nếu chúng ta gạt sang một bên cái nội dung vật thể của lưu thông hàng hóa,
sự trao đổi các giá trị sử dụng khác nhau, và chỉ xét tới những hình thái kinh tế do
quá trình đó đẻ ra, thì chúng ta sẽ thấy rằng tiền là sản phẩm cuối cùng của quá trình
ấy. Sản phẩm cuối cùng ấy của lưu thông hàng hóa là hình thái biểu hiện đầu tiên
của tư bản.[1, 221]
Vậy, ở đây, chúng ta sẽ xem xét tiền với tư cách là tư bản.
Mác viết: Xét về mặt lịch sử thì đâu đâu tư bản cũng đối lập với sở
hữu ruộng đất, trước tiên là dưới hình thái tiền, với tư cách là tài sản b ằng

tiền, là tư bản của thương nhân và tư bản cho vay nặng lãi. Nhưng cũng
không cần phải nhìn ngược trở lại lịch sử phát sinh của tư bản để thấy được


rằng tiền là hình thái biểu hiện đầu tiên của tư bản. Lịch sử ấy hàng ngày đang
diễn ra trước mắt chúng ta. Khi mới xuất hiện lần đầu tiên trên vũ đài, tức là
trên thị trường, thị trường hàng hóa, thị trường lao động, hay thị trường tiền tệ,
thì mỗi một tư bản bao giờ cũng xuất hiện dưới dạng tiền, số tiền này phải được
chuyển hóa thành tư bản thông qua những quá trình nhất định.[1, 222]
Trong sự vận động đặc biệt, tiền trở thành tư bản khác với sự vận động
của nó trong lưu thông hàng hóa giản đơn.
Tiền với tư cách là tiền và tiền với tư cách là tư bản lúc đầu chỉ khác

nhau về hình thái lưu thông không giống nhau mà thôi.[1, 222]
Tiền với tư cách là tiền, trong lưu thông hàng hóa vận động theo công
thức H – T – H, nghĩa là bán một hàng hóa này để mua một hàng hóa khác.
Còn tiền với tư cách là tư bản, trong lưu thông hàng hóa vận động theo
công thức T – H – T, nghĩa là mua để bán. Trong sự vận động của chúng, những
đồng tiền đi theo vòng lưu thông cuối cùng này đều được chuyển hóa thành tư
bản, trở thành tư bản, và do mục đích của chúng cũng đã là tư bản rồi.[1, 222]
Hình thái lưu thông của tiền trong hai công thức trên, một mặt, cùng
phản ánh những quan hệ kinh tế hàng hóa nói chung nên chúng có điểm giống
nhau như: trải qua hai giai đoạn đối lập nhau (mua và bán), có hai yếu tố đối
diện nhau (hàng hóa và tiền tệ), và điều biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người
mua và người bán. Mặt khác, do phản ánh những quan hệ xã hội khác nhau của

kinh tế hàng hóa nên giữa hai vòng chu chuyển có sự khác nhau:
Một là, trình tự đảo ngược của hai giai đoạn đối lập của lưu thông, với
điểm mở đầu và điểm kết thúc.
Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng việc bán và kết thúc bằng
việc mua, còn lưu thông của tiền với tư cách là tư bản thì bắt đầu bằng việc mua
và kết thúc bằng việc bán…điểm mở đầu và điểm kết thúc của cuộc vận động là
hàng hóa, còn ở dưới là tiền. Trong hình thái thứ nhất, tiền đóng vai trò trung
gian trong suốt cả quá trình, còn trong hình thái thứ hai, ngược lại, đó là hàng
hóa.[1, 224]


Hai là, mục đích, trong công thức H – T – H, giá trị sử dụng là mục đích

cuối cùng. Còn trong công thức T – H – T, nhà tư bản đưa tiền vào lưu thông
không phải là “chi tiêu hẳn”, mà là số tiền “ứng trước”. Đến khi kết thúc quá
trình lưu thông, nhà tư bản không những thu về số tiền đã bỏ ra ban đầu, mà còn
cộng vào một khoản tiền tăng thêm. Mác gọi số tiền tăng thêm đó là giá trị
thặng dư.
Mác viết: Kết quả là người ta rút trong lưu thông ra nhiều tiền hơn là số đã
bỏ vào lúc ban đầu. Bông mua với giá 100 p. xt. chẳng hạn, lại được bán lại với giá
100 + 10 p. xt., hay 110 p. xt.. Vì vậy, hình thái đầy đủ của quá trình đó là T – H – T’,
trong đó T’ = T + ∆T, nghĩa là bằng số tiền ứng ra lúc ban đầu cộng với một số tăng
thêm nào đó. Số tăng thêm đó, hay số dư so với giá trị lúc ban đầu, tôi gọi là giá trị
thặng dư.[1, 227]
Như vậy là giá trị được ứng ra lúc ban đầu không những được bảo tồn

trong lưu thông, mà còn thay đổi đại lượng của nó, còn cộng thêm một giá trị
thặng dư, hay là đã tự tăng thêm giá trị. Chính sự vận động ấy đã biến giá trị đó
thành tư bản.[1, 228]
Ba là, giới hạn của sự vận động.
Lưu thông của tiền theo công thức H – T – H là có giới hạn. Lưu thông
hàng hóa giản đơn, bán để mua, là phương tiện để đạt tới mục đích cuối cùng
nằm ở ngoài lưu thông, - tức là để chiếm hữu những giá trị sử dụng, để thỏa
mãn nhu cầu.[1, 229]
Còn lưu thông tiền theo công thức T – H – T’ là không có giới hạn. Lưu
thông của tiền với tư cách là tư bản là một mục đích tự nó, bởi vì việc làm tăng
giá trị chỉ tồn tại ở bên trong sự vận động không ngừng được tái diễn đó mà
thôi. Vì vậy, sự vận động của tư bản là không có giới hạn.[1, 229]

Với tư cách là đại biểu có ý thức của sự vận động đó, người chủ tiền trở
thành nhà tư bản. Con người của hắn, hay nói cho đúng hơn, cái túi tiền của hắn, là
điểm xuất phát và điểm quay về của tiền. Nội dung khách quan của sự lưu thông đó
- tức là việc làm tăng thêm giá trị - là mục đích chủ quan của hắn.[1, 230]


Vì vậy, không bao giờ được coi giá trị sử dụng là mục đích trực tiếp của
nhà tư bản. Mục đích của hắn cũng không phải là thu được một lợi nhuận cá
biệt, mà là sự vận động không biết mệt mỏi của lợi nhuận.[1, 231]
Trong lưu thông T – H – T, cả hàng hóa lẫn tiền đều hoạt động như là
những phương thức tồn tại khác nhau của bản thân giá trị: tiền - với tư cách là
một phương thức tồn tại chung của giá trị, hàng hóa - với tư cách là một phương

thức tồn tại đặc biệt, có thể nói là phương thức tồn tại ngụy trang của giá trị.
Giá trị luôn luôn chuyển từ hình thái này qua hình thái khác, nhưng không bao
giờ mất đi trong cuộc vận động ấy, và như vậy là nó biến thành một chủ thể tự
động. Nếu ta cố định những hình thái biểu hiện đặc biệt mà một giá trị đang
tăng lên lần lượt mang lấy trong vòng đời của nó, thì chúng ta sẽ đi đến những
định nghĩa như sau: tư bản là tiền, tư bản là hàng hóa. Nhưng trên thực tế, ở đây
giá trị đã trở thành chủ thể của một quá trình, trong đó, khi không ngừng đổi
hình thái tiền lấy hình thái hàng hóa và ngược lại, thì giá trị ấy tự nó cũng thay
đổi đại lượng của nó, tự nó với tư cách là giá trị thặng dư đẩy nó ra khỏi chính
nó với tư cách là giá trị ban đầu, tức là tự tăng lên.[1, 232]
Tiền là điểm xuất phát và là điểm kết thúc của mọi quá trình làm tăng
giá trị. Trước đây nó là 100 p. xt., bây giờ nó là 110 p. xt., v.v.,.[1, 233]

Như vậy là giá trị trở thành giá trị tự vận động, thành những đồng
tiền tự vận động, và với tư cách là như thế, nó trở thành tư bản. Nó ra khỏi
lĩnh vực lưu thông rồi trở lại lưu thông, tự duy trì và sinh sôi nảy nở trong lưu
thông, quay trở về dưới dạng đã lớn lên và lại không ngừng bắt đầu cũng một
vòng chu chuyển ấy. [1, 233 - 234]
Vậy là, tiền không đứng yên một chỗ, mà nó phải luôn gắn với lưu thông và
vận động theo công thức T – H – T’, giá trị của nó không những được bảo tồn mà còn
được “sinh sôi nảy nở” liên tục trong lưu thông. Từ đó nảy sinh mâu thuẫn của công
thức chung của tư bản.
3. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản



Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở
bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải
trong lưu thông.[1, 249]
3.1. Thực chất của mâu thuẫn.
Trong lưu thông hàng hóa thông thường, thể hiện mối quan hệ giữa
người mua và người bán, giữa một người chủ tiền và người chủ hàng hóa, quá
trình đó xuất hiện thêm một người trung gian chuyên mua hàng hóa của người
này và bán hàng hóa đó lại cho người khác, C.Mác đã giả định người trung gian
đó là nhà tư bản.
C.Mác viết: Với tư cách là nhà tư bản, tôi mua hàng hóa của A và sau đó
bán lại nó cho B, còn với tư cách là người chủ hàng hóa giản đơn, thì tôi bán
hàng hóa cho B rồi sau đó mua lại hàng hóa của A.[1, 235].

Quá trình mua và bán đó có thể đảo ngược và tồn tại liên tục, bắt đầu
bằng việc mua, kết thúc bằng việc bán hoặc bắt đầu bằng việc bán, kết thúc
bằng việc mua… Sự đảo ngược trình tự đó dù thế nào đi nữa thì đó chỉ là công
việc mua và bán hàng hóa một cách giản đơn, thông thường. Sự thay đổi này chỉ
đặc biệt đối với người sở hữu tiền tệ muốn biến tiền thành tư bản, còn đối với
người bán thì sự vận động của tư bản chỉ là một sự lưu thông hàng hóa thông
thường.
Đến đây C.Mác có một kết luận: Sau khi đảo ngược trình tự, chúng ta
vẫn tuyệt nhiên không ra khỏi lĩnh vực lưu thông hàng hóa giản đơn, và vì vậy
chúng ta phải xét xem, theo bản chất của nó, lĩnh vực ấy có cho phép những giá
trị tham gia vào lĩnh vực ấy tăng lên hay không, nghĩa là có cho phép hình
thành một giá trị thặng dư hay không.[1, 236]

Bắt đầu làm rõ mâu thuẫn của công thức chung của tư bản, C.Mác viết:
Hình thái lưu thông trong đó con nhộng tiền chuyển hóa thành tư bản, mâu
thuẫn với hết thảy các quy luật đã trình bày trước đây về bản chất của hàng
hóa, giá trị, tiền và bản thân lưu thông.[1, 234]


Trong lưu thông, tiền được dùng để biểu hiện giá trị của các hàng
hóa thông qua giá cả, người mua và người bán sẽ cùng được lợi khi thỏa
mãn về giá trị sử dụng của hàng hóa.
Để giải thích cho vấn đề này, C.Mác lấy ví dụ giữa người sản xuất
rượu vang và người sản xuất lúa mì: Một người có nhiều rượu vang nhưng lại
không có lúa mì, giao dịch với một người khác có nhiều lúa mì nhưng lại không

có rượu vang, và giữa họ với nhau đã diễn ra việc trao đổi một số lúa mì có một
giá trị là 50, lấy một giá trị là 50 dưới hình thức rượu vang. Sự trao đổi đó
không phải là việc làm tăng thêm giá trị trao đổi với người thứ nhất cũng như
đối với người thứ hai, bởi vì trước khi trao đổi thì mỗi người trong bọn họ đều
đã có một giá trị ngang với giá trị mà người ấy nhận được nhờ sự giao dịch đó
(Mercier de la Revière).[1, 237]
Như vậy, vấn đề cũng sẽ không thay đổi một chút nào nếu với tư cách là
phương tiện lưu thông, tiền đứng ra làm trung gian giữa các hàng hóa, và những
hành vi mua và bán tách rời nhau một cách rõ rệt. Giá trị của hàng hóa được
biểu thị bằng giá cả của chúng trước khi chúng đi vào lưu thông, do đó, nó là
một tiền đề của lưu thông chứ không phải là kết quả của lưu thông.[1, 237]
Liên hệ lại nội dung đã nghiên cứu ở phần một, chúng ta đã nắm rõ,

hàng hóa có hai nhân tố đó là giá trị sử dụng và giá trị, hàng hóa là kết quả
của quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị. Do đó, không phải trong
trao đổi thì sản phẩm của lao động mới trở thành hàng hóa, mà nó đã là
hàng hóa khi tham gia vào quá trình trao đổi. Giá trị là do lao động trừu
tượng tạo ra, nó ra đời trong quá trình sản xuất hàng hóa. Còn tiền là hình
thái biểu hiện của giá trị, do đó ngay sau khi ra khỏi sản xuất, hàng hóa đã
thể hiện thành một số lượng vàng nhất định (vàng trong tưởng tượng) và
trong lưu thông, hàng hóa từ một số lượng vàng tưởng tượng chuyển hóa
thành một số lượng vàng thật, chứ trong lưu thông không phát sinh thêm gì
nữa.
C.Mác nhìn nhận lưu thông một cách hoàn toàn khác hẳn: đối với
C.Mác, lưu thông khác với sản xuất về nguyên tắc. Lưu thông là sự thay đổi



các hình thái giá trị, còn sản xuất tạo ra giá trị… Lưu thông giá trị là một
quá trình thuần túy hình thức, là quá trình thay đổi những hình thái mà giá
trị vốn có trong các giai đoạn khác nhau, và giá trị khoác vào rồi lại vứt bỏ
đi trong khi lặp lại quá trình tuần hoàn.[4, 186]
Như vậy, theo học thuyết giá trị thì giá trị được tạo ra trong lao động sản
xuất, nhưng qua phân tích mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản thì giá
trị tăng thêm được tạo ra trong lưu thông. Cho nên, có thể nói tư bản không thể
xuất hiện từ lưu thông, nhưng thực tế ta thấy nó có thực trong lưu thông, vì vậy
nó không nằm ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông, nhưng bản
thân lưu thông không tạo ra nó.

Mác tiếp tục nghiên cứu lưu thông và chứng minh rằng, giá trị và do đó
cả giá trị thặng dư quyết không thể ra đời từ lưu thông.
3.2. Tư bản không thể sinh ra trong lưu thông
Trường hợp 1: Trao đổi ngang giá.
Mác viết: Trao đổi hàng hóa là một sự trao đổi những vật ngang giá, và
do đó không thể là một phương tiện để làm tăng giá trị. Vì thế, những mưu toan
coi lưu thông hàng hóa là một nguồn giá trị thặng dư, phần lớn đều che đậy một
sự lẫn lộn giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. [1, 239]
Sự lẫn lộn đó đã được Mác dẫn chứng bằng quan điểm của nhà kinh
kinh tế học người Pháp, Công-đi-i-ắc, như sau: Thật là sai nếu cho rằng trong sự
trao đổi hàng hóa, người ta đổi lấy một giá trị lấy một giá trị bằng nó. Trái lại,
mỗi một bên trong hai bên giao dịch bao giờ cũng đổi một giá trị nhỏ hơn lấy

một giá trị lớn hơn…[1, 239]
Như vậy, Công-đi-i-ắc không những lẫn lộn giá trị sử dụng với giá
trị trao đổi, mà còn thay thế một cách thật sự trẻ con một xã hội có nền sản
xuất hàng hóa phát triển, bằng một trạng thái xã hội trong đó người sản
xuất tự sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình và chỉ ném vào lưu
thông số dư còn lại sau khi đã thỏa mãn nhu cầu của bản thân.[1, 239]


Theo C.Mác thì các nhà kinh tế học hiện đại cũng thường theo những sai
lầm của Công-đi-i-ắc,luôn chứng minh lưu thông là nguồn gốc của giá trị
thặng dư.
Với quan điểm sai lầm đó, C.Mác đã có một nhận xét rất chính xác,

đó là: Người ta không trả cho hàng hóa hai lần: một lần cho giá trị sử dụng
của chúng, một lần khác cho giá trị của chúng. Và nếu giá trị sử dụng của
hàng hóa có ích cho người mua hơn là cho người bán, thì hình thái tiền của
chúng lại có ích cho người bán hơn là cho người mua.[1, 240]
C.Mác viết: Nếu những hàng hóa, hoặc hàng hóa và tiền có cùng một
giá trị trao đổi, tức là những vật ngang giá, được người ta đem trao đổi với
nhau, thì rõ ràng là không ai rút được từ lưu thông ra nhiều giá trị hơn là số đã
bỏ vào trong đó. Trong trường hợp ấy không diễn ra việc hình thành giá trị thặng dư.[1,
240]
Vậy, trường hợp trao đổi ngang giá là không tạo ra giá trị thặng dư.
Trường hợp hai: Trao đổi không ngang giá.
Một là, hàng hóa được bán cao hơn giá trị của nó.

Bây giờ, chúng ta hãy cho rằng người bán có một đặc quyền thần bí nào
đó để bán hàng hóa cao hơn giá trị của chúng[1, 241]
C.Mác đưa ra ví dụ:
Bán một hàng hóa lấy 110 khi trị giá của chúng chỉ là 100, về mặt
danh nghĩa, ở đây đã được cộng thêm 10% vào giá cả. Lúc này người bán thu
được một giá trị thặng dư là 10.
Nhưng theo nhu cầu, sau khi làm người bán, thì anh ta quay trở lại
làm người mua. Thế là trường hợp trên lặp lại, người bán cũng được cái đặc
quyền bán hàng hóa đắt lên 10%, người chủ hàng hóa đó được lợi 10. Với tư cách là
người mua, anh ta đã mất đi 10.
Qua đó ví dụ đó, C.Mác đã khẳng định: Trên thực tế, toàn bộ sự việc sẽ dẫn
đến chỗ là tất cả các chủ hàng hóa đều bán lẫn cho nhau những hàng hóa của họ với

10% đắt hơn giá trị của chúng, nhưng điều này cũng hoàn toàn giống như là tất
cả các hàng hóa đều được bán theo giá trị của chúng. Việc cộng thêm có tính


chất danh nghĩa và phổ biến như vậy vào giá cả các hàng hóa cũng có một tác
dụng giống như là việc lấy bạc chẳng hạn, chứ không phải lấy vàng, để đo giá
trị của các hàng hóa. Tên gọi bằng tiền, tức là giá cả của các hàng hóa, tăng lên,
nhưng tỷ lệ giá trị của chúng vẫn không thay đổi.[1, 241 – 242]
Hai là, hàng hóa bán thấp hơn giá trị của nó.
Ngược lại, chúng ta hãy giả định rằng người mua có đặc quyền mua
hàng hóa dưới giá trị của chúng.[1, 242]
Chẳng hạn như:

Trước hết, với tư cách là người bán, anh ta bán một hàng hóa lấy 90
trong khi trị giá của chúng là 100, về mặt danh nghĩa, anh ta đã mất 10%,
người chủ hàng hóa bị thiệt 10.
Sau đó, với tư cách là người mua, cũng lặp lại như trên, người bán
bán thấp hơn 10%, người chủ hàng hóa bị thiệt 10. Với tư cách là người mua, anh ta
đã được lợi 10.
Như vậy là không thể giải thích được sự hình thành giá trị thặng dư và
do đó, sự chuyển hóa của tiền thành tư bản, bằng việc người bán bán hàng hóa
của mình cao hơn giá trị của chúng hoặc bằng việc người mua mua hàng hóa
thấp hơn giá trị của chúng.[1, 242]
Vậy là, trường hợp này cũng không có sức thuyết phục, bởi vì bất cứ
người sở hữu hàng hóa nào cũng đều lần lượt khi thì là người bán, khi thì là

người mua. Vì thế, cái mà họ được lợi khi là người bán (hàng hóa bán cao hơn
giá trị), thì cũng chính là cái mà họ sẽ bị mất đi khi họ là người mua, vì người
bán hàng cho họ cũng bán cao hơn giá trị của hàng hóa đó. Ngược lại, cái mà họ
được lợi khi là người mua (hàng hóa bán thấp hơn giá trị), thì cũng chính là cái
mà họ sẽ bị mất đi khi họ là người bán, vì họ phải bán thấp hơn giá trị.
Như vậy, trường hợp trao đổi không ngang giá cũng không tạo ra giá trị thặng
dư.
Trường hợp 3: Giả định xuất hiện một quan hệ đặc biệt, giữa người
sản xuất và một giai cấp chỉ mua mà không bán, tức là chỉ tiêu dùng mà
không sản xuất.



Những kẻ triệt để tán thành cái ảo tưởng cho rằng giá trị thặng dư
phát sinh do chỗ nâng cao giá cả danh nghĩa lên, hay do đặc quyền của
những người bán được bán hàng hóa quá đắt, - những kẻ đó giả định rằng có
một giai cấp chỉ mua mà không bán, tức là chỉ tiêu dùng mà không sản xuất.
[1, 243]
Đối với trường hợp này, C.Mác nhận xét: Vấn đề sẽ không giản đơn hơn
một chút nào nếu người ta lén lút đưa vào đó những quan hệ xa lạ với nó:
Những người tiêu dùng - bằng con đường trao đổi trực tiếp hay gián tiếp sẵn sàng trả cho hàng hóa một số nào đó lớn hơn tất cả những bộ phận cấu
thành của số tư bản tốn kém để sản xuất ra những hàng hóa ấy (To-ren-xơ).[1,
242 – 243]
Bởi vì, trong lưu thông, người sản xuất và người tiêu dùng đối diện với
nhau với tư cách là người bán và người mua. Cho nên, khẳng định rằng đối với

những người sản xuất, giá trị thặng dư xuất hiện do chỗ những người tiêu dùng
trả cho các hàng hóa cao hơn giá trị của chúng thì cũng chỉ có nghĩa là ngụy
trang cái luận điểm giản đơn nói rằng: với tư cách là người bán, người chủ hàng
hóa có đặc quyền bán giá đắt hơn.[1, 243]
Chúng ta cũng sẽ không tiến thêm được một bước nào nếu chúng ta giả
định rằng người chủ hàng hóa, dưới tên gọi là người sản xuất, sẽ bán hàng hóa
của mình cao hơn giá trị, và dưới tên gọi là người tiêu dùng thì sẽ mua hàng hóa
đắt hơn giá trị của chúng. Chúng ta chưa thể giải thích được sự tồn tại của
một giai cấp như thế.[1, 243]
Theo C.Mác: Số tiền mà một giai cấp đó dùng để mua những hàng hóa
một cách thường xuyên, phải thường xuyên chạy từ bản thân những người
chủ hàng hóa ấy về tay giai cấp này, không qua trao đổi mà trên cơ sở quyền

lực hay một sự cưỡng chế nào đó. Và việc bán hàng hóa cho giai cấp ấy cao hơn
giá trị của chúng chỉ có nghĩa là hoàn lại cho mình một phần số tiền đã cho
không mà thôi.[1, 243 – 244]
Mác lấy ví dụ như: Các thành phố ở Tiểu Á hàng năm phải nộp cống vật
bằng tiền cho La Mã cổ đại. Với số tiền đó, La Mã đã mua hàng hóa của những


thành phố ấy, và mua với giá quá đắt. Như vậy, người Tiểu Á đã đánh lừa người
La Mã và bằng con đường thương mại, đã lấy lại một phần tiền cống mà họ đã
phải nộp cho những người đi chinh phục họ. Nhưng kẻ bị đánh lừa cuối cùng
vẫn là những người Tiểu Á. Trước sau, hàng hóa của họ cũng vẫn được trả bằng
tiền của chính họ. Đó hoàn toàn không phải là một phương pháp làm giàu hay

tạo ra giá trị thặng dư.[1, 244]
Trường hợp 4: Xuất hiện một kẻ bịp bợm chuyên mua rẻ bán đắt.
Người chủ hàng hóa A có thể là một kẻ bịp bợm khôn khéo tới mức là bao
giờ bán cũng lường gạt được những đồng nghiệp B và C của hắn, trong khi đó thì với
tất cả lòng mong muốn của mình, những người này vẫn không thể trả thù lại được.[1,
244]
Mác lấy ví dụ: A bán cho B rượu vang với một giá trị 40 p.xt., và qua trao đổi
lại có được một số lúa mì với giá trị là 50 p. xt.. A đã chuyển hóa 40. p. xt. của mình thành
50 p.xt., đã biến một số tiền ít hơn thành một số tiền nhiều hơn và đã biến hàng
hóa của mình thành tư bản. Chúng ta hãy xét vấn đề kỹ hơn. Trước khi trao đổi,
có 40 p.xt. rượu vang trong tay A và 50 p.xt. lúa mì trong tay B, còn tổng giá trị
là 90 p.xt.. Sau khi trao đổi, chúng ta vẫn có cũng tổng giá trị 90 p.xt. đó. Giá trị

nằm trong lưu thông không tăng thêm lên được một nguyên tử nào; chỉ có sự
phân phối giá trị đó giữa A và B là thay đổi.[1, 244 – 245]
Ở đây, đối với bên A là giá trị thặng dư, còn bên B lại là giá trị thiếu
hụt, con số cộng ở bên này là con số trừ đối với bên khác. Rõ ràng là không thể
làm tăng được tổng số những giá trị đang lưu thông bằng bất kỳ một sự thay đổi
nào trong việc phân phối những giá trị ấy.[1, 245]
Như vậy, nếu người ta trao đổi những vật ngang giá thì chẳng nảy sinh
một giá trị thặng dư nào, và nếu người ta trao đổi những vật không ngang giá
thì cũng chẳng nảy sinh một chút giá trị thặng dư nào. Lưu thông, hay trao đổi
hàng hóa, không tạo ra một giá trị nào cả.[1, 245 – 246]
Khi phân tích hình thái cơ bản của tư bản, cái hình thái trong đó tư bản
quyết định tổ chức kinh tế của xã hội hiện đại, C.Mác đã sử dụng phương pháp

trừu tượng hóa khoa học, tạm thời bỏ qua những hình thái phổ biến nhất, có thể


nói là những hình thái cổ sơ nhất của tư bản, tức là tư bản thương nghiệp và tư
bản cho vay nặng lãi.[1, 246]
Bởi vì, trong tư bản thương nghiệp theo đúng nghĩa của nó, hình thái
T – H – T’, mua vào để bán ra đắt hơn, thể hiện ra dưới một dạng thuần túy
nhất. Mặt khác, toàn bộ sự vận động của tư bản đó đều diễn ra trong giới hạn
lĩnh vực lưu thông. Nhưng vì không thể nào lấy bản thân lưu thông để giải
thích sự chuyển hóa của tiền thành tư bản, giải thích sự hình thành giá trị
thặng dư, cho nên hình như không thể có được tư bản thương nghiệp khi
người ta trao đổi những vật ngang giá; vì thế sự tồn tại của tư bản thương

nghiệp chỉ có thể được coi là kết quả của sự lừa gạt hai chiều của người thương
nhân xen vào ăn bám giữa những người sản xuất hàng hóa đang mua và bán.[1,
246 – 247]
Điều mà chúng ta vừa nói về tư bản thương nghiệp lại càng có thể áp
dụng cho tư bản cho vay nặng lãi. Tư bản cho vay, cũng giống như tư bản
thương nghiệp, là những hình thái phái sinh, và đồng thời chúng ta cũng sẽ thấy
tại sao trong lịch sử, hai loại tư bản đó lại xuất hiện trước hình thái cơ bản hiện
đại của tư bản.[1, 247 – 248]
Qua phân tích các giả định, chúng ta thấy, giá trị thặng dư không thể
xuất hiện từ lưu thông, do đó muốn cho nó phát sinh ở đằng sau lưu thông phải
xảy ra một cái gì không có ở trong bản thân quá trình lưu thông.[1, 248]
3.3. Tư bản không thể sinh ra ở bên ngoài lưu thông

Nếu xét ở ngoài lưu thông, thì chỉ còn quan hệ giữa người chủ hàng hóa
với hàng hóa của bản thân anh ta. Hàng hóa đó chứa đựng một lượng lao động
nhất định của bản thân anh ta, lượng lao động đó được đo theo đúng những quy luật
xã hội nhất định và được biểu hiện trong giá cả của hàng hóa.[1, 248]
Thứ nhất, ví dụ: Trong một giá cả là 10 p. xt.. Lao động của anh ta không
biểu hiện trong giá trị của hàng hóa cộng thêm với một phần tăng thêm nào đó
của giá trị ấy, không biểu hiện ra trong một giá trị lớn hơn chính bản thân nó.
Như vậy là bằng lao động của mình, người chủ hàng hóa có thể tạo ra giá trị
nhưng không phải là những giá trị tăng lên. [1, 248]


Thứ hai, anh ta có thể nâng cao giá trị của một hàng hóa bằng cách dùng

một lao động mới để thêm một giá trị mới vào giá trị hiện có. Ví dụ như bằng
cách lấy da thuộc để làm giầy ống chẳng hạn. Cũng một chất ấy bây giờ lại có
nhiều giá trị hơn, vì nó chứa đựng một lượng lao động lớn hơn. Vì vậy, giầy
ống có nhiều giá trị hơn da thuộc, nhưng giá trị của da thuộc vẫn y như trước.
Nó không tăng lên, nó không gắn thêm giá trị thặng dư vào nó trong thời gian
sản xuất giầy.[1, 248 – 249]
Như vậy là người sản xuất hàng hóa không thể làm tăng thêm giá trị, và
do đó, không thể biến tiền hay hàng hóa thành tư bản ở bên ngoài lĩnh vực lưu
thông mà không tiếp xúc với những người chủ hàng hóa khác.[1, 249]
Tóm lại, qua phân tích, chúng ta thấy rõ, tiền với tư cách là tư bản luôn
luôn vận động, sinh sôi và nảy nở. Nhà tư bản đưa tiền vào lưu thông mua để
mua hàng hóa, nhưng hàng hóa được mua ở đây không phải là hàng hóa thông

thường, mà hàng hóa bao gồm tư tiệu sản xuất và sức lao động. Chính việc tiêu
dùng hàng hóa sức lao động đó, bằng cách kết hợp nó với tư tiệu sản xuất đã tạo
ra giá trị và giá trị thặng dư kết tinh trong sản phẩm.
C.Mác viết: Như vậy là cái giá trị do hắn ứng ra dưới hình thái tiền, bây
giờ tồn tại dưới hình thái hiện vật, khiến cho giá trị đó có thể tự thực hiện thành
giá trị đẻ ra giá trị thặng dư (dưới dạng hàng hóa).[2, 49]
Trong đó, sức lao động … là điều kiện căn bản để cho giá trị ứng ra
dưới hình thái tiền được thực tế chuyển hóa thành tư bản, thành giá trị đẻ ra giá
trị thặng dư.[2, 51]
Lao động thặng dư của sức lao động là lao động không công cho nhà tư
bản, và vì thế, nó tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản, nghĩa là một giá trị mà
nhà tư bản không phải trả bằng vật ngang giá. Do đó, sản phẩm không phải chỉ

là hàng hóa, mà là một hàng hóa đã mang trong mình một giá trị thặng dư.[2,
63]
Thông qua quá trình lưu thông, hàng hóa sản xuất ra bán được trên thị
trường thì nhà tư bản mới thu được giá trị thặng dư đó, tức là giá trị thặng dư đã


được biểu hiện ra thông qua lưu thông, chứ lưu thông không đẻ ra giá trị thặng
dư.
Mác viết: Hàng hóa trở thành tư bản hàng hóa với tư cách là hình thái
tồn tại chức năng của giá trị tư bản đã tăng thêm giá trị, trực tiếp do bản thân
quá trình sản xuất đẻ ra. Dưới hình thái hàng hóa, tư bản nhất định phải hoàn
thành chức năng hàng hóa. Tất cả các vật phẩm cấu thành tư bản đó, ngay từ

đầu đều được sản xuất cho thị trường, đều phải được đem bán đi, phải được
chuyển hóa thành tiền.[2, 64]. Bán và mua hàng hóa không sáng tạo ra giá trị,
cũng như giá trị thặng dư.[3, 427]
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN.
Thông qua nghiên cứu vấn đề về lưu thông hàng hòa và tiền tệ C.Mác đã
chỉ ra cho chúng ta thấy công thức chung của tư bản là tiền trong lưu thông
hàng hóa giản đơn vận động theo công thức: H - T - H (Hàng - Tiền - Hàng)
còn tiền trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thì theo công thức: T - H - T’
(Tiền - Hàng - Tiền'). Ông đã so sánh hai công thức này và phá hiện điểm khác
cơ bản là lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng hành vi bán (H - T tức là
Hàng - Tiền) và kết thúc bằng hành vi mua (T - H tức là Tiền - Hàng), ngoài ra
điểm xuất phát và điểm kết thúc đều là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung

gian, mục đích là giá trị sử dụng. Trong khi đó, lưu thông của tư bản bắt đầu
bằng hành vi mua (T - H tức Tiền - Hàng) và kết thúc bằng hành vi bán (H - T’
tức Hàng - Tiền'), ở sơ đồ này, tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc,
còn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian. Mục đích của lưu thông tư bản là giá
trị, và giá trị lớn hơn.
Như vậy thì tư bản phải vận động theo công thức T-H-T’ để có giá trị
mới. T' (tức là Tiền sau một vòng lưu thông sẽ được tính bằng công thức: T’ =
T + ΔT, trong đó: ΔT là số tiền trội hơn (giá trị lớn hơn) được gọi là giá trị
thặng dư (C.Mác ký hiệu nó bằng m). Còn số tiền ứng ra ban đầu (Tiền ban
đầu dùng để mua hàng ở đầu chu trình lưu thông này) với mục đích thu được



giá trị thặng dư trở thành tư bản và tiền chỉ biến thành tư bản khi được dùng để
mang lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
C.Mác cũng chỉ luôn cho chúng ta thấy mâu thuẫn trong công thức
chung, đó là giá trị thặng dư vừa không được sinh ra trong quá trình lưu thông
nhưng lại được sinh ra trong quá trình lưu thông. Trong công thức chung của
chủ nghĩa tư bản chỉ có 2 nhân tố là Hàng (H) và Tiền (T) và quá trình lưu
thông thì cũng là sự sắp xếp theo trật tự khác nhau của 2 nhân tố này và không
có một sự tác động nào bên ngoài hay có một tham số khác trong công thức này
nhưng vẫn phát sinh ra nhân tố mới là T' tức là số tiền trội hơn (ΔT) hay giá trị
thặng dư (m). Nếu xét đơn thuần bề ngoài thì giá trị thặng dư có vẽ được sinh ra
trong lưu thông vì phát sinh không ngoài công thức này (với hai đại lượng cơ
bản là Hàng và Tiền). Tuy nhiên, nếu mua - bán ngang giá thì chỉ có sự thay đổi

hình thái của giá trị từ tiền thành hàng hoặc từ hàng thành tiền. Còn tổng số giá
trị trong tay mỗi người tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Trong
trường hợp trao đổi không ngang giá, hàng hóa có thể bán cao hơn hoặc thấp
hơn giá trị thực của nói nhưng cũng chưa thể kết luận là có giá trị mới vì trong
nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất đều vừa là người bán, vừa là người
mua (tính chung tổng thể). Cái lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù lại cái thiệt khi
mua hoặc ngược lại. Trong trường hợp có những kẻ chuyên mua rẻ, mua may,
bán đắt hay lừa lọc, ép giá, nói thách, nói xạo để được lợi thì chính bản thân
người thực hiện hành vi đó được lợi nhưng tổng giá trị toàn xã hội cũng không
hề tăng lên, bởi vì số giá trị mà những người này thu được chẳng qua chỉ là sự
ăn chặn, đánh cắp số giá trị của người khác. Điều này cũng tương tự như việc
lưu thông tiền tệ trong sòng bài, chiếu bạc có người thắng, người thua nhưng

quan trọng là người thắng thì lấy tiền từ kẻ thua (tiền chuyển từ tay người này
qua tay người kia) chứ không sinh lợi thêm như nhiều người vẫn vọng tưởng.
Như vậy lưu thông và bản thân tiền tệ trong lưu thông không hề tạo ra giá trị
hay giá trị mới. Nhưng mặt khác, nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu
thông, tức là đứng ngoài lưu thông (ví dụ như đem chôn, cất, dấu, tích trữ, tàng


trữ, không đầu tư gì cả....) thì cũng không thể làm cho tiền của mình tăng thêm
lên được (sẽ không có hiện tượng lãi mẹ đẻ lãi con).
Từ phân tích này C.Mác kết luận: Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ
lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện
trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông. Đó là mâu thuẫn của

công thức chung của tư bản. Chính Các Mác là người đầu tiên phân tích và giải
quyết mâu thuẫn đó bằng một phát hiện tiếp theo đó là hàng hóa sức lao động.
Mặt khác, qua nghiên cứu thấy rằng sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống
nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và quá trình lưu thông, giữa quá trình
tạo ra giá trị thặng dư và quá trình thực hiện giá trị thặng dư. Vì vậy, nó là tiền
đề là cơ sở cho nghiên cứu những nọi dung tiếp theo của Bộ tư bản, như: Sự sản
xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối , sự sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối, sự
chuyển hóa ủa giá trị sức lao động, hay giá cả sức lao động thành tiền công, quá
trình tích lũy tư bản, sự chuyển hó giá trị thặng dư thành tư bản...Nghiên cứu
quá trình lưu thông để xác định rõ hơn nữa vị trí của lưu thông và tác dụng tích
cực của nó đối với sản xuất cũng như đối với nền kinh tế góp phần thúc đẩy nền
kinh tế phát triển nhanh, bền vững sớm đưa đất nước ta ngày càng phát triển.

Việc nghiên cứu quá trình lưu thông của tư bản còn cung cấp cho chúng
ta một số cơ sở lý luận chung về vấn đề này để nghiên cứu nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa, chẳng hạn như lý luận về tư bản cố định và tư bản lưu động, thời
gian sản xuất, thời gian lưu thông,... Vì lưu thông tư bản là quá trình biến tư bản
từ hình thái tiền tệ sang hình thái hàng hoá và từ hình thái hàng hoá sang hình
thái tiền tệ. Theo nghĩa rộng thì lưu thông tư bản chính là sự vận động của tư
bản qua ba giai đoạn: hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản xuất, cho
nên lưu thông là khâu quan trọng mà chúng ta đề cập tới. Nếu xử lý tốt khâu
này thì nền kinh tế sẽ thuận lợi trong việc sử dụng vốn, rút ngắn thời gian chu
kỳ vốn quay vòng, các khâu trao đổi và mua bán khác..
Ý NGHĨA THỰC TIỄN



Trong thực tiễn nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thực hiện quá
trình sản xuất kinh doanh, mục tiêu là thu được lợi nhuận và lợi nhuận tối đa.
Do đó, một mặt, tiền phải là nguồn vốn luôn luôn vận động, phải nằm trong lưu
thông để đầu tư thực hiện các quá trình sản xuất và mở rộng sản xuất, quá trình
đó diễn ra một cách liên tục và tạo ra hàng hóa ngày càng nhiều đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng của tiêu dùng xã hội. Mặt khác, với tư cách là hàng hóa, thì
hàng hóa được sản xuất ra đó phải mang ra thị trường bán và thu về một lượng
tiền cao hơn số tiền vốn đầu tư ban đầu, lúc đó nhà doanh nghiệp mới thu được
lợi nhuận cho mình.
Thực chất mỗi nền sản xuất hàng hóa phát triển thì sản xuất hàng hóa
phải gắn với lưu thông, thông qua lưu thông thì hàng hóa sản xuất ra giá trị và

tạo ra giá trị thặng dư, trên cơ sở đó mới có tiền để trả lương cho công nhân,
thực hiện các chính sách khuyến khích người lao động. Đồng thời tăng quy mô
tích lũy để tái đầu tư mở rộng sản xuất xã hôi, tạo ra nhiều sản phẩm, cũng như
của cải vật chất cho xã hội. Tiếp tục phải tăng năng suất lao động, mở rộng thị
trường tiêu thụ và lưu thông hàng hóa, có như vậy mới thúc đẩy được sản xuất
lớn, tạo được sự cạnh tranh lớn trên thị trường trong và ngoài nước.


KẾT LUẬN
Vậy, tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất
hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời
không phải trong lưu thông.[1, 249]

Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản, mâu thuẫn này phải
được giải quyết trên hai cơ sở:
Trước hết, sự chuyển hóa của tiền thành tư bản phải được giải thích
trên cơ sở lấy việc trao đổi vật ngang giá làm điểm xuất phát.[1, 249]
Tiếp theo đó, người chủ tiền chỉ là nhà tư bản trong trạng thái nhộng,
phải mua và bán những hàng hóa ấy theo giá trị của chúng, nhưng ở cuối quá
trình ấy, hắn ta lại thu được nhiều giá trị hơn là số mà hắn đã bỏ vào đó. Việc
hắn chuyển hóa thành con bướm phải diễn ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng
thời lại không phải ở trong lĩnh vực lưu thông.[1, 250]


Thứ nhất, tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông, bằng việc xem xét

bốn trường hợp:
Một là, trao đổi ngang giá. Hàng hóa và tiền có cùng một giá trị, nên
không ai rút được từ lưu thông ra nhiều giá trị hơn so với số đã bỏ ra.
Hai là, trao đổi không ngang giá. Mọi người đều bán cao hoặc thấp hơn
giá trị, cũng không làm tăng giá trị. Bởi vì trong kinh tế hàng hóa, mỗi người
đều là người bán đồng thời lại là người mua, nếu được lợi khi bán sẽ bị thiệt khi
mua, hoặc được lợi khi mua sẽ bị thiệt khi bán, cho nên trường hợp này cũng
giống như trường hợp bán đúng giá trị.
Ba là, xuất hiện một quan hệ đặc biệt, giữa người sản xuất và một giai
cấp chỉ mua mà không bán, tức là chỉ tiêu dùng mà không sản xuất. Hàng hóa
trước sau cũng được trả bằng tiền của chính người sản xuất, hoàn toàn không
phải là một phương pháp tạo ra giá trị thặng dư.

Bốn là, trường hợp một kẻ bịp bợm chuyên lừa gạt mọi người bằng mua
rẻ, bán đắt. Tình huống này chỉ diễn ra sự phân phối giá trị có lợi cho kẻ bịp
bợm đó và thiệt hại cho những người bị lừa gạt, còn giá trị nằm trong lưu thông
không tăng thêm được một nguyên tử nào.
Thứ hai, nếu tiền để ngoài lưu thông thì cũng không thể sinh ra tư bản.
Do đó, phải đưa tiền vào lưu thông để mua các yếu tố sản xuất và làm ra hàng
hóa để bán thì mới có thể thu được giá trị thặng dư. Nhưng không phải nó xuất
hiện từ hành vi mua – bán đó, mà nó xuất hiện từ sử dụng một hàng hóa đặc biệt
đã mua được trên thị trường đưa vào quá trình sản xuất, thứ hàng hóa đặc biệt
này có đặc tính là trong quá trình tiêu dùng nó sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị
của chính bản thân nó.
Như vậy là tư bản vừa sinh ra trong quá trình lưu thông, lại vừa không

thể sinh ra trong quá trình lưu thông. C. Mác là người đầu tiên phân tích và giải
quyết mâu thuẫn đó bằng lý luận về hàng hóa sức lao động. Và vấn đề này được
C.Mác nghiên cứu làm rõ hơn trong quyển hai bộ “Tư bản”.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].

C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật,

[2].


Hà Nội, 1993, tập 23.
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật,

[3].

Hà Nội, 1994, tập 24.
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật,

[4].

Hà Nội, 1994, tập 25, phần I.
Đ. I. Rô - Den - Be, Giới thiệu quyển 1 bộ “Tư bản” của Các Mác,


[5].

Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1969.
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình Kinh tế
chính trị Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.


×