Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Nêu và phân tích các cách thức tổ chức một nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.85 KB, 12 trang )

KINH TẾ VĨ MÔ
Xuyên suốt tiến trình lịch sử, mọi xã hội đều phải đối mặt với một vấn đề kinh tế cơ
bản là việc quyết định phải sản xuất cái gì và cho ai trong một thế giới mà các nguồn tài
nguyên bị hạn chế. Trong thế kỷ 20, nhìn chung có hai cơ chế kinh tế đối chọi nhau đã
mang những kết quả rất khác nhau, đó là: nền kinh tế chỉ huy được định hướng từ chính
phủ trung ương và nền kinh tế thị trường được dựa trên doanh nghiệp tư nhân.

A. Nêu và phân tích các cách thức tổ chức một nền kinh tế?
Cách thức tổ chức một nền kinh tế là cách sắp đặt và điều tiết các nhân tố kinh tế,
tác nhân kinh tế, thể chế kinh tế, chính sách kinh tế,… để vấn đề sản xuất cái gì, như thế
nào và cho ai được định hướng theo một hình thức nhất định.
Dưới thời Công xã nguyên thủy, đã từng tồn tại nền kinh tế tập quán truyền thống,
hay bản năng. Trong xã hội này, các vấn để sản xuất được quyết định theo tập quán
truyền thông và truyền từ thế hệ trước cho thế hệ sau.
Hiện nay, một nền kinh tế có thể đi theo ba xu hướng hay nói cách khác là có ba cách
thức tổ chức chính sau:
• Kinh tế thị trường (Free economy): là
nền kinh tế mà trong đó các quyết định
của các cá nhân về tiêu dùng các mặt
hàng nào, các quyết định của các doanh
nghiệp về sản xuất cái gì (mặt hàng
đem lại lợi nhuận cao nhất), sản xuất
cho ai (các hộ gia đình)và sản xuất như
thế nào (bằng những kĩ thuật sản xuất
rẻ nhất) cùng với các quyết định của
người công nhân về việc làm cho ai đều
được thực hiện dưới sự tác động của giá
cả thị trường.

Nền kinh tế thị trường không mang lại các giải
pháp lý tưởng và chính phủ đóng vai trò quan


trọng trong việc giúp khắc phục những vấn đề
mà bản thân cơ chế thị trường tự nó không thể
giải quyết được triệt để. Ngoài ra, cơ chế thị
trường không thể tránh khỏi sức ép từ các vấn
đề về chính sách công trong nền kinh tế toàn cầu
hiện nay – các vấn đề như lạm phát, thất nghiệp,
ô nhiễm, nghèo đói và các rào cản thương mại
quốc tế. Tuy nhiên, nếu so sánh với sự thiếu
thốn kinh niên và tính không hiệu quả vốn có của
nền kinh tế chỉ huy thì cơ chế kinh tế thị trường
tự do mang lại các cơ hội tốt hơn cho việc phát
triển kinh tế, tiến bộ công nghệ và sự thịnh
vượng.
Người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường và
kinh tế chỉ huy phải đưa ra nhiều loại quyết định
giống nhau: họ mua thực phẩm, quần áo, nhà
cửa, phương tiện đi lại và giải trí trong giới hạn
khả năng tài chính của mình, và họ mong muốn
có khả năng mua nhiều hơn nữa. Tuy nhiên,
người tiêu dùng có vai trò quan trọng hơn trong
cơ chế hoạt động tổng quát của nền kinh tế thị
trường so với vai trò của họ trong nền kinh tế chỉ
huy.

• Kinh tế chỉ huy (Command economy):
là nền kinh tế mà trong đó chính phủ
đưa ra mọi quyết định về sản xuất và
phân phối. Cơ quan kế hoạch của chính
phủ quyết định sẽ sản xuất ra cái gì, sản
xuất như thế nào và phân phối cho ai.

Sau đó, các hướng dẫn cụ thể sẽ được phổ biến tới các hộ gia đình và các doanh
nghiệp.
1


• Kinh tế hỗn hợp (Mixed economy): là nền kinh tế mà trong đó chính phủ vận hành
nền kinh tế theo tín hiệu thị trường. Trong nền kinh tế hỗn hợp, chính phủ có thể
hạn chế được những khiếm khuyết cũng như phát huy những ưu điểm của nền kinh
tế kế họach hóa tập trung và nền kinh tế thị trường, thông qua những tác nhân kích
thích về tài chính và tiền tệ. Bên cạnh đó, thể chế tư nhân kiểm soát thông qua bàn
tay vô hình của cơ chế kinh tế thị trường. Do những tính ưu việt đó mà hầu hết các
quốc gia trên thế giới đều áp dụng mô hình kinh tế hỗn hợp. Tùy theo mức độ chính
phủ can thiệp vào nền kinh tế mà một nền kinh tế có thể lệch về hướng thị trường
hay kế hoạch tập trung.
Có thể thấy hiện nay một số quốc gia trên thế giới đều tổ chức nền kinh tế theo những
xu hướng trên. Ví dụ:
- Kinh tế Bắc Triều Tiên vì tính cô lập của nó rất khó khăn để đánh giá một cách
toàn diện và chính xác. Có nhiều nhận định, đánh giá từ phương Tây cho rằng, nền kinh
tế Bắc Triều Tiên là một nền kinh tế yếu kém, tồi tệ và bị cô lập một số khác nhận định
rằng đây là một nền kinh tế lao đao vì lệnh trừng phạt và cấm vận của Liên Hợp Quốc
cũng như khó khăn do ảnh hưởng từ sự sụp đổ của Liên Xô cũ trong giữa những năm
1990. Bắc Triều Tiên áp dụng chính sách điều hành kinh tế bằng những mệnh lệnh từ
cấp cao, ít chịu ảnh hưởng của thị trường. Và thực tế, có những sai lầm về chính sách
cũng như yếu kém trong đánh giá, chỉ đạo, điều hành đã khiến Bắc Triều Tiên từng lâm
vào nạn đói tràn lan những năm 1990 và dẫn đến Bắc Triều Tiên, vốn từng có thời phát
triển hơn Hàn Quốc, nhưng với một số chính sách chưa sát thực tế đã phá hỏng nền
kinh tế tới mức theo phương Tây là không còn khả năng nuôi sống người dân của mình.
- Chính phủ Cuba tuân theo các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa trong tổ chức nền kinh
tế kế hoạch hóa to lớn do nhà nước kiểm soát của họ. Đa số các phương tiện sản xuất
thuộc sở hữu và sự điều hành của chính phủ và đa số lực lượng lao động làm việc cho

các công ty nhà nước. Những năm gần đây, đã có xu hướng chuyển dịch lao động sang
lĩnh vực tư nhân.
- Nền kinh tế Việt Nam đang chủ trương hướng tới nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế, nền kinh ttế Việt Nam vẫn bị chi phối bởi chính sách
của chính phủ. Tuy nhiên trong một số năm trở lại đây, có thể thấy nền kinh tế Việt Nam
đang có những bước chuyển mình trở nên độc lập hơn, thúc đẩy sự tự do phát triển của
các doanh nghiệp tư nhân từ đó nâng cao sức cạnh tranh trong thị trường.
Như vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều chịu sự tác động không ít thì nhiều từ
chính phủ, kể cả Hoa Kì, Liên Xô, Nhật, Trung Quốc… Rõ ràng các quốc gia ngày nay
không mang một hình thức thuần túy nêu trên mà là sự kết hợp của các cách thức tổ chức
khác nhau, hay còn gọi là nền kinh tế hỗn hợp.

2


B. Vai trò của thị trường trong việc thực hiện các chức năng cơ bản
của một nền kinh tế :
Thị trường:
Là nơi mua bán trao đổi các loại hàng hoá; nói cách khác đây là nơi gặp gỡ giữa cung và
cầu. Thị trường cũng là nơi tập trung nhiều nhất các mâu thuẫn của nền kinh tế, là nơi
khởi điểm và kết thúc của quá trình kinh doanh.
Thông qua giá cả thị trường, thị trường thực hiện các chức năng điều tiết và kích thích
của mình trong đó cung- cầu là hai phạm trù kinh tế lớn bao trùm lên thị trường, quan hệ
cung- cầu trên thị trường đã quyết định giá cả trên thị trường.
Thị trường, kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ giữa người với người trong sản
xuất, trao đổi và tiêu dùng, nên mang đậm dấu ấn của quan hệ xã hội, của thể chế chính
trị mà nền kinh tế đó tồn tại
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ giữa mục tiêu tăng cường
tự do cá nhân và mục tiêu công bằng xã hội, giữa đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và nâng
cao chất lượng cuộc sống. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế,

các doanh nghiệp và người tiêu dùng lựa chọn lĩnh vực hoạt động, định ra các phương án
kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao
Vai trò của thị trường đối với nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường có vai trò trung tâm. Nó vừa là mục tiêu của
nhà sản xuất kinh doanh, vừa là môi trường của hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
hoá. Quá trình sản xuất bao gồm 4 khâu: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng thì
thị trường sản phẩm bao gồm 2 khâu phân phối và trao đổi. Đây là những khâu trung
gian vô cùng cần thiết là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là thị trường mà ở đó doanh nghiệp
giữ vai trò là người bạn. Nó là bộ phận trong tổng thể thị trường của ngành và nền kinh
tế.
Cụ thể vai trò của thị trường hàng hoá trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
thể hiện ở các mặt sau:
-Thị trường là nơi tiêu thụ hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp.
-Thị tường định hướng cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Các nhà sản xuất căn vào
mối quan hệ giữa người mua và người bán để giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản.
-Thị trường chính là thước đo để đánh giá, kiểm tra, chứng minh tính đúng đắn của
các chủ trương, chiến lược, kế hoạch và các biện pháp sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
-Thị trường gắn doanh nghiệp với tổng thể nền kinh tế và có khả năng hoà nhập vào
nền kinh tế thế giới.
3


Vai trò chung của thị trường:
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp góp phần vào việc thoả mãn các nhu cầu
của thị trường, kích thích sự ra đời của các nhu cầu mới và nâng cao chất lượng nhu cầu...
Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường thì thị trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường vừa là động lực, vừa là điều
kiện, vừa là thước đo kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp

- Là động lực: Thị trường đặt ra các nhu cầu tiêu dùng, buộc các doanh nghiệp nếu
muốn tồn tại được phải luôn nắm bắt được các nhu cầu đó và định hướng mục tiêu hoạt
động cũng phải xuất phát từ những nhu cầu đó. Ngày nay, mức sống của người dân được
tăng lên một cách rõ rệt do đó khả năng thanh toán của họ cũng cao hơn. Bên cạnh đó,
các đơn vị, các tổ chức kinh tế trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh đua nhau cạnh
tranh dành giật khách hàng một cách gay gắt, bởi vì thị trường có chấp nhận thì doanh
nghiệp mới tồn tại được nếu ngược lại sẽ bị phá sản. Vậy thị trường là động lực sản xuất,
cũng như kinh doanh thương mại của doanh nghiệp.
- Là điều kiện: Thị trường bảo đảm cung ứng có hiệu quả các yếu tố cần thiết để
doanh nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ hoạt động kinh doanh của mình. Nếu doanh nghiệp
có nhu cầu về một loại yếu tố sản xuất hay một loại hàng hóa nào đó thì tình hình cung
ứng trên thị trường sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tiêu cực hoặc tích cực tới hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Vậy thị trường là điều kiện của mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Là thước đo: Thị trường cũng kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của các phương
án hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong qua trình hoạt động kinh doanh thương
mại, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với các trường hợp khó khăn đỏi hỏi phải có sự
tính toán cân nhắc trước khi ra quyết định. Mỗi một quyết định đều ảnh hưởng đến sự
thành công hay thất bại của các doanh nghiệp. Thị trường có chấp nhận, khách hàng có
ưa chuộng sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp thì mới chứng minh được phương án
kinh doanh đó là có hiệu quả và ngược lại. Vậy thị trường là thước đo hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy thông qua thị trường (mà trước hết là hệ thống giá cả), các doanh nghiệp có
thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực. Trên thị trường, giá cả hàng hoá và dịch
vụ, giá cả các yếu tố đầu vào (như máy móc thiết bị, nguồn sản phẩm hàng hóa, đất đai,
lao động, vốn...) luôn luôn biến động nên phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để tạo
ra các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng kịp thời nhu cầu hàng hoá của thị trường và xã hội.
Ngoài ra vai trò của thị trường đối với nền kinh tế còn được hiểu là:
- Thị trường là yếu tố quyết định sự sống còn đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp:

4


Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích của các nhà sản xuất hàng hoá là sản xuất ra
hàng hoá ra để bán, để thoả mãn nhu cầu của người khác. Vì thế các doanh nghiệp không
thể tồn tại một cách đơn lẻ mà mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải gắn với thị
trường. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra không ngừng theo chu kỳ
mua nguyên vật liệu, vật tư, thiết bị… trên thị trường đầu vào, tiến hành sản xuất ra sản
phẩm, sau đó bán chúng trên thị trường đầu ra.
Doanh nghiệp chịu sự chi phối của thị trường hay nói cách khác thị trường đã tác động
và có ảnh hưởng quyết định tới mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Thị trường càng mở rộng và phát triển thì lượng hàng hoá tiêu thụ được càng
nhiều và khả năng phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng cao và ngược
lại. Bởi thế còn thị trường thì còn sản xuất kinh doanh, mất thị trường thì sản xuất kinh
doanh bị đình trệ và các doanh nghiệp sẽ có nguy cơ bị phá sản. Trong nền kinh tế thị
trường hiện đại, có thể khẳng định rằng thị trường có vai trò quyết định tới sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp.
- Thị trường điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá :
Thị trường đóng vải trò hướng dẫn sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Các nhà sản xuất kinh doanh căn cứ vào cung cầu, giá cả thị trường để quyết định sản
xuất kinh doanh cái gì? Như thế nào ? và cho ai? Sản xuất kinh doanh đều phải xuất phát
từ nhu cầu của khách hàng và tìm mọi cách thoả mãn nhu cầu đó chứ không phải xuất
phát từ ý kiến chủ quan của mình. Bởi vì ngày nay nền sản xuất đã phát triển đạt tới trình
độ cao, hàng hoá và dịch vụ được cung ứng ngày càng nhiều và tiêu thụ trở nên khó khăn
hơn trước. Do đó, khách hàng với nhu cầu có khả năng thanh toán của họ, bộ phận chủ
yếu trong thị trường của doanh nghiệp, sẽ dẫn dắt toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Thị trường tồn tại một cách khách quan nên từng doang nghiệp chỉ có thể tìm phương
hướng hoạt động thích ứng với thị trường. Mỗi doanh nghiệp phải trên cơ sở nhận biết
nhu cầu của thị trường kết hợp với khả năng của mình để đề ra chiến lược, kế hoạch và

phương án kinh doanh hợp lý nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường và xã hội.
- Thị trường phản ánh thế và lực của doanh nghiệp :
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trên thương trường đều có một vị thế cạnh tranh nhất
định. Thị phần ( phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm lĩnh được ) phản ánh thế và lực
của doanh nghiệp trên thương trường.
Thị trường mà doanh nghiệp chinh phục được càng lớn chứng tỏ khả năng thu hút
khách hàng càng mạnh, số lượng sản phẩm tiêu thụ được càng nhiều và do đó mà vị thế
của doanh nghiệp càng cao.
Thị trường rộng giúp cho việc tiêu thụ thuận lợi hơn dẫn tới doanh thu và lợi nhuận
nhanh hơn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tái đầu tư hiện đại hoá sản xuất, đa dạng hoá
sản phẩm, tăng thêm khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường. Khi đó thế và lực của
doanh nghiệp cũng được củng cố và phát triển.
5


 Liên hệ nền kinh tế thị trường Việt Nam:
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
Khái niệm
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền
kinh tế – xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa
dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại
bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường
trong thời đại ngày nay, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
phù hợp trên tất cả ba mặt: sở hữu, quản lý, phân phối nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
- Chế độ đa sở hữu và đa thành phần kinh tế:
+ Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nhiều hình thức sở
hữu nhưng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò nền tảng của nền
kinh tế quốc dân.
+ Từ các hình thức sở hữu cơ bản hình thành nhiều thành phần kinh tế với các
hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Trong đó, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo.
- Kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế là chính để nền kinh tế thị trường không ngừng nâng cao đời sống nhân dân,
bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và thực hiện công bằng xã hội
+ Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội
+ Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên
tắc của kinh tế thị trường
+ Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng
quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Bảo đảm tính định hướng, điều khiển hướng tới đích xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế theo phương châm: nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.
+ Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà
nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp
quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy
6


mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của
nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Làm thế nào để phát triển được kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam ?
- Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần. Trong đó, kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân.
- Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý
kinh tế của Nhà nước.
- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
C. Vai trò của chính phủ trong việc ổn định các chức năng cơ bản của một nền
kinh tế
Khi đề cập đến vai trò của chính phủ trong nền kinh tế, chúng ta đương nhiên chấp
nhận rằng chính phủ là người đề ra các luật lệ. Hơn thế nữa chính phủ cũng có những
chức năng có tính chất đặc biệt trong nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, chính phủ có 3 chức năng kinh tế cơ bản: Hiệu quả, công
bằng và ổn định.
I. Chức năng hiệu quả:
Cơ chế thị trường có thể dẫn đến một số thất bại làm giảm hiệu quả của sản xuất và
tiêu dùng. Tình trạng này xuất hiện do cạnh tranh không hoàn hảo hoặc có nhân tố độc
quyền. Khi sức mạnh độc quyền có khả năng tác động đến giá cả ở một thi trường nào đó
thì chúng ta sẽ thấy giá cả thị trường cao hơn mức hiệu quả, làm méo mó yêu cầu và tạo
ra lợi nhuận siêu ngạch. Những lợi nhuận này có thể được sử dụng để mua chuộc ngành
lập pháp đề ra hàng rào thuế quan có lợi cho tập đoàn độc quyền. Để khắc phục tình trạng
này, chính phủ có thể đưa ra các đạo luật chống độc quyền.
Một biểu hiện khác của tính không hiệu quả là “Tác động bên ngoài” - Chỉ những tác
động, những ảnh hưởng diễn ra bên ngoài thị trường hoạt động của doanh nghiệp hoặc cá
nhân nào đó mà doanh nghiệp hoặc cá nhân này không phải trả đúng chi phí hoặc nhận
đúng số tiền cần được trả của những hành động này
VD: một nhà máy điện chạy bằng than nhả khói làm ô nhiễm môi trường xung quanh
mà không phải lệ phí cho những người sống quanh đó
 Chính phủ đề ra luật lệ điều tiết nhằm ngăn chặn các tác động tiêu cực (tác nhân

bên ngoài: thải khí, chất phóng xạ, …)

LUẬT CHỐNG ĐỘC QUYỀN:
Là một đạo luật, một chế định, một số điều luật hoặc một điều luật cụ thể nhằm cấm hoặc hạn chế
hành vi cạnh tranh bất hợp pháp với ý đồ xác lập tư cách độc quyền của các thành viên tham gia thị
trường.
Mục đích: khuyến khích và bảo đảm cạnh tranh lành mạnh.
7


Ở một số nước có LCĐQ, dù nội dung trong hệ thống pháp luật của từng quốc gia có khác nhau,
song nhìn chung chúng đều đề cập đến ba vấn đề cơ bản:
1) Cấm cacten, cacten là những khế ước của các doanh nghiệp hay nghị quyết của một hiệp hội
doanh nghiệp nhằm thoả thuận những điều kiện thống nhất về sản xuất, kinh doanh và vì vậy, nó triệt
tiêu cạnh tranh giữa các thành viên trong cacten. Thông thường, có những cacten về giá cả, về lĩnh vực
hoặc mức độ sản xuất kinh doanh hay về phân chia thị trường tiêu thụ.
2) Kiểm tra, giám sát việc sáp nhập doanh nghiệp. Việc sáp nhập doanh nghiệp dẫn đến hai hậu
quả là giảm bớt số lượng các thành viên tham gia cạnh tranh và hình thành những doanh nghiệp lớn và
những doanh nghiệp này có thể lớn đến mức các doanh nghiệp khác không đủ sức cạnh tranh với họ.
3) Giám sát về sự lạm dụng của các doanh nghiệp có địa vị thống trị thị trường. Trong quá
trình phát triển có thể có doanh nghiệp trở nên lớn mạnh và có sức mạnh thống trị thị trường đối với
một hàng hoá nào đó. Nếu doanh nghiệp này lạm dụng vị thế của mình để thực hiện những hành vi hạn
chế cạnh tranh như đặt điều kiện đối xử giữa những người bạn hàng của mình, tẩy chay hoặc bao vây
kinh tế đối với các doanh nghiệp khác... thì những hành vi đó đều bị cấm.

Ở Việt Nam, hiện nay các nhà làm luật đang quan tâm và tính toán phải ban hành các
quy phạm pháp luật về chống độc quyền, đặc biệt là trong Bộ luật hình sự (chương các tội
phạm về kinh tế).
Ngoài ra, theo tờ trình của Chính phủ, sự cần thiết ban hành Luật Cạnh tranh nhằm tạo
công cụ pháp lý hạn chế cạnh tranh không lành mạnh, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng

trong kinh doanh.
Luật Cạnh tranh đã quy định các hành vi gây hạn chế cạnh tranh bị cấm như: thoả
thuận ấn định giá, phân chia thị trường lạm dụng vị thế độc quyền, vị trí thống lĩnh thị
trường (chiếm trên 30% thị phần)... để áp đặt giá mua, bán bất hợp lý.
Tuy nhiên, trên thực tế, năm 2008 đã liên tiếp xảy ra các vụ việc khá điển hình về các
vi phạm trên như vụ Hiệp hội Thép Việt Nam ra nghị quyết ấn định giá bán (yêu cầu các
thành viên 13,7- 14 triệu đồng/tấn thép), vụ Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam thống nhất
nâng mức phí bảo hiểm lên 3,95%/năm cho tất cả các đối tượng khách hàng.
Thủ tục điều tra khá phức tạp và dài dòng nên không phải doanh nghiệp nào cũng
muốn đâm đơn khiếu kiện.
Chống độc quyền ở Việt Nam phức tạp hơn nhiều so với các quốc gia khác, vì các
công ty có được vị trí độc quyền không từ quá trình cạnh tranh, mà do sự ủng hộ của Nhà
nước.

-

-

LUẬT LỆ ĐIỀU TIẾT
Điều 7. Chương 1: Tổ chức, cá nhân sử dụng thành phần môi trường vào mục đích sản xuất,
kinh doanh trong trường hợp cần thiết phải đóng góp tài chính cho việc bảo vệ môi trường.
Điều 11.Chương 2: Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân trong việc sử
dụng và khai thác hợp lý thành phần môi trường, áp dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch,
tận dụng chất thải tiết kiệm nguyên liệu, sử dụng năng lượng tái sinh, chế phẩm sinh học trong
nghiên cứu khoa học, sản xuất và tiêu dùng.
Điều 15. Chương 2: Tổ chức, cá nhân phải bảo vệ nguồn nước, hệ thống cấp nước, thoát nước,
cây xanh, công trình vệ sinh, thực hiện các quy định về vệ sinh công cộng ở đô thị, nông thôn,
khu dân cư, khu du lịch, khu sản xuất.
Điều 16. Chương 2: Tổ chức, cá nhân trong sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác phải
thực hiện các biện pháp vệ sinh môi trường, phải có thiết bị kỹ thuật để xử lý chất thải, bảo đảm

8


tiêu chuẩn môi trường, phòng, chống suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi
trường.
Chính phủ quy định danh mục tiêu chuẩn môi trường, phân cấp ban hành và kiểm tra việc thực hiện
các tiêu chuẩn đó.

II. Chức năng công bằng:
Trong nền kinh tế thị trường, hàng hóa được phân phối cho những ng có nhiều tiền
nhất chứ không phải theo nhu cầu lớn nhất. Như vậy, ngay cả khi một cơ chế thị trường
đang là hiệu quả thì nó cũng có thể dẫn tới sự bất bình đẳng lớn. Người ta có nhiều tiền
ko chỉ do lao động chăm, lao động giỏi mà còn có thể có nhiều yếu tố như hưởng tài sản
thừa kế, trúng xổ số,…
Do vậy, cần phải có chính sách phân phối lại thu nhập như sử dụng thuế lũy tiến- đánh
thuế người giàu theo tỷ lệ cao hơn người nghèo*, xây dựng hệ thống hỗ trợ thu nhập
nhằm giúp đỡ cho ng già, người tàn tật, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp y tế… Tức là biện
pháp thu thuế sẽ lấy đi một số hàng hóa và dịch vụ của một nhóm người, thu hẹp khả
năng mua sắm của họ và việc chi tiêu các khoản thuế sẽ tăng thêm việc tiêu dùng hàng
hóa và dich vụ của nhóm cư dân khác. Do đó biện pháp thu thuế và chi tiêu của Chính
phủ sẽ ảnh hưởng đến việc phân phối cho ai trong nền kinh tế.


CHÍNH SÁCH PHÂN PHỐI LẠI THU NHẬP:

Phân phối lại thu nhập xã hội là sự can thiệp của Nhà nước thông qua các quy định của pháp luật,
của các chính sách để vận động, thuyết phục những người có thu nhập cao đóng góp để cùng nhà nước
giúp đỡ cộng đồng và những người có thu nhập thấp. Đây là một trong những đặc trưng của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Trong điều kiện kinh tế khó khăn hiện nay, phân phối lại thu nhập là
chính sách rất cần thiết và có ý nghĩa. Phân phối lại thu nhập có thể thực hiện bằng nhiều cách:


Thứ nhất, thông qua chính sách thuế: Gần như tất cả các quy định pháp luật đều có tác dụng
phân phối lại thu nhập nhưng cụ thể và rõ nhất là thuế thu nhập cá nhân và thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế
thu nhập cá nhân động viên thu nhập của những người có thu nhập ở một mức khá cao so với mặt bằng
xã hội. Thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào người mua sắm, sử dụng một số hàng hóa, dịch vụ thuộc diện xa
xỉ. Trong lúc toàn xã hội đang triệt để tiết kiệm thì có thể tính đến việc tăng loại thuế này đồng thời
giảm một số loại thuế khác.

Thứ hai, thông qua các chính sách an sinh xã hội vĩ mô. Bằng luật pháp và các chính sách cụ
thể khác, nhà nước có thể tạo ra cơ chế, hành lang pháp luật để thực hiện các sự chăm lo, hỗ trợ các đối
tượng đặc biệt trong xã hội, như trẻ em, người già yếu, người có công, đồng bào dân tộc thiểu số, bà
con vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn…
Chẳng hạn, chính sách về y tế, giáo dục, bảo hiểm xã hội… mặc dù luôn đảm bảo quyền lợi cho tất
cả mọi thành phần trong xã hội nhưng thường có xu hướng ưu tiên cho những người khó khăn.

Thứ ba, thông qua các cuộc vận động, các phong trào hỗ trợ. Các phong trào “toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa”, “vì người nghèo”, các hoạt động xã hội, từ thiện… một mặt thể hiện
tinh thần nhân ái, đoàn kết, giúp đỡ nhau của các tầng lớp nhân dân đồng thời cũng là sự phân chia lại
thu nhập. Những khoản giúp đỡ người khó khăn của các doanh nghiệp thường được tính vào chi phí để
giảm thuế, coi như là một sự khuyến khích của nhà nước đối với việc làm này.
9



Thứ tư, thông qua việc hỗ trợ cho các đối tượng khó khăn, thuộc diện chính sách. Thời gian
qua, việc miễn, giảm phí khám chữa bệnh cho trẻ dưới 6 tuổi hay hỗ trợ cho người già từ 80 tuổi trở
lên; miễn, giảm học phí cho con em các hộ gia đình thuộc diện nghèo, hộ gia đình các xã đặc biệt khó
khăn, kể cả việc hỗ trợ tiền điện cho các hộ nghèo, trợ cấp cho các đối tượng khó khăn… là những
chính sách an sinh xã hội có ý nghĩa thiết thực, có tác dụng an dân sâu sắc. Trong điều kiện hiện nay, có
thể mở rộng các đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội, cả thường xuyên và đột xuất, đồng thời tăng mức

chi cho các đối tượng này.

Tóm lại, với xu hướng ngày càng giãn xa về khoảng cách thu nhập và mức độ giàu
nghèo hiện nay ở nước ta, nguy cơ về bất bình đẳng trong xã hội ngày một rõ nét. Từ đó
có thể phát sinh những vấn đề xã hội phức tạp, ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của
đất nước. Do đó, một trong những giải pháp mà nhà nước cần quan tâm là nên có các
chính sách phân phối lại thu nhập sao cho hiệu quả, thiết thực để đảm bảo công bằng xã
hội.
Liên hệ đến VN:
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam được xác định là nền kinh tế thị trường định hướng xă hội
chủ nghĩa. Việc phát triển kinh tế không chỉ nhằm mục đích đơn thuần là tăng trưởng kinh tế mà
phải lấy mục tiêu tăng trưởng kinh tế làm cơ sở để phát triển toàn diện con người, giải quyết hài
ḥa những vấn đề kinh tế - xă hội, bảo tồn các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc.

Nhà nước thực hiện kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xă hội ngay trong
từng chính sách phát triển. Nhà nước giải quyết mối quan hệ lợi ích của các tầng lớp xă
hội theo nguyên tắc hiệu suất kinh tế và tăng trưởng, kết hợp với trách nhiệm xă hội nhằm
đảm bảo công bằng và ổn định xă hội trên cơ sở phát triển kinh tế. Đại đa số nhân dân
được hưởng lợi từ thành tựu của kinh tế thị trường và phát triển, khuyến khích người dân
cống hiến và hưởng thụ tương xứng với thành quả sản xuất kinh doanh. Nhà nước tiến
hành đổi mới chính sách tiền lương, chính sách phân phối, điều tiết thu nhập và hoàn
chỉnh chính sách đảm bảo cung ứng các dịch vụ công cộng, thiết yếu, b́nh đẳng cho người
dân về giáo dục, y tế, văn hóa, việc làm... Mặt khác, phát triển kinh tế thị trường để giải
phóng các tiềm năng đất đai, tài nguyên nhưng phải khai thác và sử dụng chúng một cách
hợp lư, bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững.
 Giải pháp của Chính phủ trong việc thực hiện chức năng công bằng đối với
nền kinh tế: Phát triển mạng lưới an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
xây dựng, bảo đảm thực thi có hiệu quả các chính sách xã hội đảm bảo cho các chủ thể thị
trường đạt được mục tiêu lợi nhuận cao, vừa tạo ra môi trường chính trị, xã hội ổn định
hài hòa, làm nền tảng cho phát triển bền vững kinh tế và từng bước thực hiện mục tiêu

định hướng XHCN. Cụ thể là, hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển
sản xuất, tạo việc làm, học nghề, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; việc triển khai
thực hiện các nghị quyết của Chính phủ và Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm
nghèo, trong đó chú trọng các chính sách giảm nghèo đối với các huyện nghèo; bảo đảm
mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông
tin cho người dân, đặc biệt là người lao động có thu nhập thấp, người nghèo, người có
hoàn cảnh khó khăn,...
10


III. Chức năng ổn định
Ngoài chức năng hiệu quả và công bằng, Chính phủ còn có chức năng kinh tế Vĩ mô là
duy trì sự ổn định kinh tế. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản cho thấy có thời kì tăng
trưởng rất mạnh, lạm phát tăng vọt nhưng cũng có thời kỳ suy thoái nặng nề với tỷ lệ thất
nghiệp rất cao. Đó chính là những bước thăng trầm của chu kỳ kinh doanh. Chính phủ có
thể sử dụng các chính sách tài khóa và tiền tệ để tác động đến sản lượng, việc làm và lạm
phát nhằm giảm bớt những dao động của chu kỳ kinh doanh.
Một nền kinh tế chỉ có ba tác nhân nêu trên được coi là nền kinh tế đóng. Tuy nhiên
hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều có kinh tế mở, trong đó có sự tham gia thêm
của người nước ngoài.
* Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh, ổn định nền kinh tế thông qua các công cụ
quản lý kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng là những đòn bẩy tác
động đến nền kinh tế nhằm kiểm soát và hạn chế hậu quả trước các biến động bất lợi của
thị trường. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tài chính đóng vai trò thụ động, thứ yếu
với các mục tiêu kế hoạch và năng lực vật chất được tính theo hiện vật. Chuyển sang nền
kinh tế thị trường nền tài chính đất nước phải chuyển từ cơ chế tài chính vi mô sang cơ
chế tự chủ về tài chính, từ tài chính đơn nhất về sở hữu sang tài chính đa sở hữu. Chính
sách tài chính đối với doanh nghiệp là phân biệt rõ quyền sở hữu nhà nước với quyền sử
dụng tài sản của doanh nghiệp. Nhà nước quản lý vĩ mô về tài chính đối với các doanh
nghiệp thông qua các công cụ như thuế, lãi suất, tỉ giá...

Các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng phát huy vai trò trong việc tạo ra các yếu tố
kích thích hay kìm hãm sự phát triển của các quan hệ kinh tế theo hướng nhất định.
Thông qua các loại công cụ có tính đòn bẩy này. Nhà nước có thể kiềm chế lạm phát,
khắc phục tính chu kỳ, tạo ra được tính ổn định và phát triển bình thường cho nền kinh tế
thị trường. Nhà nước can thiệp vào thị trường trong phạm vi, giới hạn cần thiết và tôn
trọng quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường khi sử dụng công cụ tài chính, tiền
tệ, tín dụng nhằm khống chế sự biến động bất thường của thị trường và ngăn ngừa những
rủi ro, thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân.
Liên hệ đến VN:
Trong việc sử dụng các công cụ tiền tệ, tín dụng để điều tiết nền kinh tế thị trường, Nhà nước
tập trung vào các khâu như ổn định tỷ giá hối đoái, xác định lăi suất trần; quản lư ngoại hối,
tăng sức mua của đồng tiền trong nước đồng thời đảm bảo chế độ tự do hóa thương mại, giá cả.
Nhà nước tiến hành đổi mới chính sách tiền tệ, giá cả cho phù hợp với cơ chế thị trường, kiềm
chế lạm phát ở mức thấp nhất, ổn định sức mua đồng tiền Việt Nam, nâng cao hiệu quả sử dụng
các nguồn vốn.

11


 So sánh: Vai trò của Thị trường và Vai trò của Chính phủ trong việc thực

hiện các chức năng cơ bản của một nền Kinh tế.
Thị trường
 Chuyển đổi nền kinh tế kém phát
triển → nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, định
hướng XHCN
 Xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp → xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN
 Góp phần đẩy nhanh nhịp độ tăng
trưởng kinh tế, góp phần thúc đẩy quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
 Thị trường là nơi tổ chức và cung
ứng hàng hoá và dịch vụ cho đời sống
vật chất và văn hoá của nhân dân
 Góp phần tích luỹ vốn cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở
rộng quan hệ hợp tác và hội nhập
quốc tế, đẩy nhanh tốc độ phát triển
thương mại quốc tế

Chính phủ
 Ổn định hóa kinh tế
- Hạn chế sự dao động của chu kì
kinh doanh nhằm:
→ Giảm thất nghiệp mãn tính
→ Giảm sự ngưng trệ kinh tế
- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế:
→ Xây dựng các chính sách đảm
bảo cho sự tằn trưởng và phát triển
kinh tế bến vững trong dài hạn
 Chính phủ tác động đến việc phân
bổ và sử dụng các nguồn lực để cải
thiện hiệu quả kinh tế
 Đảm bảo sự cạnh tranh công bằng
trên thị trường
 Tối thiểu hóa sự bóp méo kinh tế do

thất bại của thị trường gây ra, tạo lập
môi trường kinh doanh về kinh tế và
pháp lý.

 Tóm lại, vai trò của nhà nước và thị trường đều rất quan trọng trong việc
làm cho một nền kinh tế thực hiện được các chức năng của nó. Nếu như nhà
nước có vai trò nhiều hơn về tác động tạo ra các thay đổi cần thiết thì thị
trường thiên về tạo môi trường cho những tác động ấy được diễn ra, thực
hiện và cho thấy kết quả.

12



×