Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tiểu luận kinh tế vĩ mô những giải pháp kích cầu tiêu dùng của việt nam nói chung và tỉnh vĩnh phúc nói riêng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.42 KB, 26 trang )

KHOA SAU ĐẠI HỌC

TRƯỜNG ĐH KINH TẾ & QTKD TN

ĐỀ TÀI: Những

giải pháp kích cầu tiêu dùng của Việt
Nam nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.

Người hướng dẫn khoa học: TS.Đỗ Quang Quý
Người thực hiện:
Dương Quang Minh
Lớp: QLKT.K11E

Vĩnh Phúc - 2014


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu

2

Phần I: Tổng quan về kích cầu

4

I. Nguyên lý của tổng cầu

4



II. Kinh nghiệm kích cầu của thế giới và Việt nam

7

Phần II: Thực trạng phát triển kinh tế của Việt nam nói
chung và của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng
I. Thực trạng phát triển kinh tế ở Việt nam hiện nay

9
9

II. Những chính sách kích cầu của Việt Nam nói chung và
tác động của nó

13

Phần III: Giải pháp kích cầu của Việt nam nói chung và
của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng

19

I. Định hướng phát triển kinh tế của Việt nam nói chung
và của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng

19

II.Đề xuất một số giải pháp kích cầu.

21


Kết luận

24

Tài liệu tham khảo

25

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

2


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
MỞ ĐẦU
Trước tình hình khủng hoảng tài chính toàn cầu kéo theo suy thoái kinh tế thế
giới thời gian qua, một trong những giải pháp được hầu hết các nước trên thế giới
(trong đó có Việt Nam) áp dụng là gói kích cầu, hay nói chính xác hơn là kích thích
kinh tế. Nhờ vậy, cho đến nay, kinh tế thế giới đã xuất hiện những tín hiệu tích cực
trên nhiều lĩnh vực, kinh tế Việt Nam cũng đã qua giai đoạn khó khăn nhất và đang
trong quá trình hồi phục.
Hàng loạt các giải pháp kích cầu đã được “tung ra”, nhằm ưu tiên cho việc ngăn
chặn suy giảm kinh tế. Nhiều chuyên gia đã đề xuất kích cầu cần nghiêng thêm về
tiêu dùng. Đề xuất này xuất phát từ nhiều căn cứ.
Trước hết, tăng trưởng kinh tế suy giảm do hai yếu tố chủ yếu. Ở đầu vào do
vốn đầu tư. Ở đầu ra do tiêu thụ sản phẩm. Yếu tố vốn hiện đã có hướng giải quyết,
bởi hàng loạt các giải pháp kích cầu vừa qua, từ việc cấp bù lãi suất, đến việc bảo
lãnh tín dụng,…Việc giảm, giãn thuế cũng có tác động làm tăng tích lũy và do đó có
tác động như đầu tư,…Yếu tố tiêu thụ tuy cũng được thể hiện trên ba mặt: Một mặt,

đầu tư của ngành này, sản phẩm này sẽ có tác động tiêu thụ của ngành kia, sản phẩm
kia. Mặt khác, nó cũng có tác dụng gián tiếp, thông qua việc giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động trên cơ sở đó tăng sức mua có khả năng thanh toán của dân
cư. Mặt khác nữa là trên cơ sở giảm chi phí để giảm giá bán và kích thích tiêu dùng.
Trong điều kiện xuất khẩu bị sụt giảm cả về lượng, cả về giá làm cho kim ngạch
xuất khẩu bị sụt giảm “kép”, thì tiêu thụ trong nước sẽ trở thành cứu cánh. Muốn
tiêu thụ trong nước tăng thì phải tăng tiêu dùng, trong đó tăng tổng mức bán lẻ hàng
hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng.
Chính vì ý nghĩa và vai trò to lớn của chính sách kích cầu đối với tiến trình phát
triển kinh tế xã hội của Việt Nam nên em có hứng thú đặc biệt với đề tài “Những
giải pháp kích cầu trong tiêu dùng của Việt nam”. Nội dung đề tài ngoài phần mở
đầu và kết luận gồm 3 phần:
Phần I: Tổng quan về kích cầu
Phần II: Thực trạng phát triển kinh tế của Việt nam nói chung và Vĩnh
Phúc nói riêng
Phần III: Những giải pháp kích cầu tiêu dùng của Việt nam nói chung và
Vĩnh Phúc nói riêng.

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

3


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã cố gắng hết sức, song không thể
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp chân thành
của thầy và tất cả các bạn để bài tiểu luận có thể hoàn thành một cách tốt nhất.
Xin chân thành cảm ơn.

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E


4


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Phần I
TỔNG QUAN VỀ KÍCH CẦU
I. NGUYÊN LÝ CỦA TỔNG CẦU
Tổng cầu, trong kinh tế học, là lượng nhu cầu có khả năng tài chính của toàn bộ
nền kinh tế đối với các hàng hóa cuối cùng.
Tổng cầu bao gồm nhu cầu trong nước và nhu cầu nước ngoài. Nhu cầu trong
nước lại bao gồm đầu tư của xí nghiệp, tiêu dùng của cá nhân, chi tiêu ròng của
chính phủ (chênh lệch giữa chi tiêu chính phủ và thu của chính phủ từ thuế). Nhu
cầu nước ngoài chính là xuất khẩu ròng (chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu).
Giả định rằng, trong toàn nền kinh tế, toàn bộ tiết kiệm sẽ được sử dụng để đầu
tư. Khi đó, tổng cầu cũng chính là thu nhập quốc dân
Chủ nghĩa Keynes cho rằng nếu quản lý được tổng cầu thì sẽ giữ được ổn định
kinh tế vĩ mô và đạt được tăng trưởng kinh tế tối ưu. Hoạt động này gọi là chính
sách quản lý tổng cầu hay chính sách Keynes, với hai phương tiện chính là chính
sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chủ trương này đối lập với quan điểm của kinh
tế học trọng cung trọng thị cải cách mặt cung của nền kinh tế.
Tổng cầu là lượng hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trên lãnh thổ một
nước(GDP) mà các tác nhân kinh tế sẵn sàng và có khả năng mua tại mỗi mức giá.
Trong nền kinh tế mở thì tổng cầu bao gồm 4 nhân tố:
C: Tiêu dùng của các hộ gia đình
I: Đầu tư của doanh nghiệp
G: Chi tiêu của chính phủ
NX: Xuất khẩu ròng
Phương trình đường tổng cầu trong một nền kinh tế mở có dạng:
AD = C + I + G + NX

Đường tổng cầu (AD):

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

5


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô

Đường tổng cầu dốc xuống. Được giải thích bởi ảnh hưởng của giá đối với tiêu
dùng, đầu tư, xuất khẩu ròng:
Mức giá và tiêu dùng(Hiệu ứng Pigou): với mức giá thấp, lượng tiền mà các hộ
gia đình nắm giữ có giá trị hơn, các hộ gia đình cảm thấy giàu có hơn nên họ chi
tiêu nhiều hơn trước => tăng tiêu dùng.
Mức giá và đầu tư (hiệu ứng Keynes): Với mức giá thấp các hộ gia đình cần giữ
ít tiền hơn để tiêu dùng. Nên họ cho vay số tiền thừa, làm lãi suất giảm => kích
thích đầu tư.
Mức giá và xuất khẩu ròng(Hiệu ứng tỷ giá hối đoái): với mức giá thấp, làm cho
hàng trong nước rẻ tương đối so với hàng ngoại. Điều này có tác dụng khuyến khích
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu =>tăng xuất khẩu ròng.
=>Kết luận: Cả ba hiệu ứng này đã cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa giá
và sản lượng hàng hóa. Hay: đường tổng cầu dốc xuống.
Đường tổng cầu sẽ dịch chuyển khi có sự thay đổi về lượng tổng cầu tại mỗi
mức giá.
Tổng cầu là mối quan hệ giữa cầu GDP thực tế và mức giá.
Tổng chi tiêu là số lượng của cầu GDP thực tế tại một mức giá nhất định.
Các tác nhân chi phối cầu:
• Giá cả của hàng hóa dịch vụ: giá cả và cầu nghịch biến
• Giá cả hàng hóa tương tự hoặc có khả năng thay thế
Giá hàng hóa thay thế đối với một mặt hàng nào đó biến động, thì cầu về

hàng hóa này sẽ biến động theo và sự biến động diễn ra theo hướng thuận chiều.
• Thu nhập của người tiêu dùng
YD tăng thì AD tăng và ngược lại.
• Số lượng người mua trên thị trường
Số người tiêu dùng càng đông thì AD càng lớn và ngược lại.
• Sở thích của người tiêu dùng
Đây là mối quan hệ tỷ lệ thuận, và quan hệ này rất khó định lượng.

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

6


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
• Sự biến động của chính cơ cấu tổng cầu
Như trên đã biết tổng cầu gồm ba bộ phận hợp thành là cầu về đầu tư, cầu tiêu
dùng và nhu cầu nước ngoài. Nhưng cầu đầu tư và cầu tiêu dùng là những nhân tố
quyết định tổng cầu.
a. Sự biến động của cầu đầu tư và ảnh hưởng của nó tới tổng cầu
Cầu đầu tư tỷ lệ thuận với AD.
Đầu tư tăng sẽ làm biến đổi nội dung vật chất của tổng cầu: Cầu đầu tư tăng làm
cho tỷ lệ tích lũy sẽ tăng lên, tỷ lệ tiêu dùng giảm xuống ⇒ các sản phẩm phục vụ
đầu tư tăng như nguyên, nhiên vật liệu,… tăng lên ⇒ từ đó nền sản xuất sẽ chuyển
từ nền sản xuất nhiều tư liệu sinh hoạt sang nền sản xuất nhiều tư liệu sản xuất.
b. Sự ảnh hưởng của cầu tiêu dùng đến tổng cầu
* Các nhân tố chi phối cầu tiêu dùng
- Tổng cung: đây là nhân tố cơ bản nhất, quyết định sự gia tăng quỹ tiêu
dùng, vì về cơ bản tiêu dùng bị hạn chế bởi trình độ phát triển của sản xuất.
- Tỷ lệ các bộ phận khi phân phối thu nhập quốc dân.
Sản xuất phát triển và thu nhập quốc dân tăng lên mới chỉ là tiền đề để tăng quỹ

tiêu dùng.
Trong điều kiện nhất định, sự tăng của quỹ tiêu dùng còn do tỷ lệ giá trị sản xuất
cuối cùng dành cho tích lũy và tiêu dùng quyết định.
Nguyên tắc xác định mức tối đa của quỹ tiêu dùng là phải đảm bảo mức tối
thiểu của quỹ tích lũy nghĩa là phải đảm bảo cho các doanh nghiệp tiến hành tái sản
xuất giản đơn một cách bình thường. Mức tối thiểu của quỹ tiêu dùng do cơ cấu dân
cư và tỷ lệ tăng dân số tự nhiên quyết định. Nguyên tắc xác định mức tối thiểu của
quỹ tiêu dùng là phải đảm bảo mức tiêu dùng bình quân đầu người trong thời gian
kế hoạch không thấp hơn mức tối thiểu. Nếu thấp hơn mức tối thiểu thì sẽ ảnh
hưởng tới việc cải thiện tố chất người lao động.
- Giá trị, giá trị sử dụng và giá cả của hàng tiêu dùng:
Giá trị của hàng hóa thể hiện đẳng cấp chất lượng, giá cả tỷ lệ nghịch với với
cầu tiêu dùng.
- Một số nhân tố khác: thể chế phân phối thu nhập quốc dân là một nhân tố quan
trọng có ảnh hưởng tới việc hình thành quỹ tiêu dùng trong thực tế đó là thuế, chế
độ tiền lương, tiền công tối thiểu, tâm lý, tập quán,….
* Ảnh hưởng của cầu tiêu dùng tới tổng cầu
Cầu tiêu dùng tăng ⇒ giảm tích lũy ⇒ giảm đầu tư ⇒ giảm tổng cầu.
Cầu tiêu dùng giảm ⇒ tăng tích lũy ⇒ tăng đầu tư ⇒ tăng tổng cầu.
* Sự ảnh hưởng của cầu xuất khẩu tới tổng cầu
Xuất khẩu (X) tăng lên thì tổng cầu tăng và ngược lại.

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

7


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Ngoài ra, còn có một số nhân tố khác tác động tới AD đó là: nhập khẩu (IM),
mức cung tiền (MS), tiết kiệm (S), thuế trực thu (Td).

II. KINH NGHIỆM KÍCH CẦU CỦA THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
Chính sách kích cầu dựa trên cơ sở lý luận của nhà kinh tế John Maynard
Keynes lại được thực hiện rộng rãi ở khắp mọi nước trên thế giới vì cuộc khủng
hoảng tài chính ở Mỹ lan rộng khắp
1. GDP của Trung Quốc trong hai quý đầu năm 2009 đã tăng 7,9%, nhờ
các gói kích cầu có hiệu quả nhanh.
Các giải pháp kích cầu của Trung Quốc tập trung nhiều vào bất động sản - lĩnh
vực này đóng góp 9,2% GDP của nước này. Trong 11 tháng của năm 2008, Chính
phủ Trung Quốc đã rót vào bất động sản 387,5 tỷ USD ( 2,7 nghìn tỷ Nhân dân tệ)
trong đó có 280 triệu USD trong gói kích cầu chung của Chính phủ, công bố vào
tháng 11/2008.
Khoản tiền này Trung Quốc đầu tư để xây dựng nhà ở cho người thu nhập thấp
ở thành thị, khuyến khích mua nhà ở, khuyến khích các doanh nghiệp trong lĩnh vực
bất động sản, thúc đẩy ổn định thị trường bất động sản ở các địa phương, cải thiện
quá trình giám sát thị trường bất động sản.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng tung 4.000 tỷ Nhân dân tệ (công bố tháng 11/2008)
kích cầu cho các lĩnh vực khác, đặc biệt là cắt giảm thuế đối với doanh nghiệp nhỏ
và vừa - bộ phận có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nước này. Trong số 4,3
triệu doanh nghiệp nhỏ và vừa sở hữu tư nhân thì có tới 95% hoạt động xuất khẩu,
đóng góp gần 60% tổng sản phẩm quốc nội, 50% nguồn thu từ thuế, 68% xuất khẩu
và 75% công việc mới mỗi năm.
Qua một thời gian thực hiện các gói giải pháp kích cầu của Trung Quốc, nhiều
chuyên gia kinh tế cho rằng bước đầu có thể rút ra bài học kinh nghiệm quan trọng:
Trung Quốc đã sử dụng gói kích cầu để ứng phó với khủng hoảng theo hướng tạo
tiền đề để cải tổ toàn diện nền kinh tế; đổi mới cơ cấu và công nghệ, tăng năng suất
lao động; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục. Thứ hai, tăng cường đầu tư
vào nông thôn. Thứ ba, có những giải pháp cụ thể giúp đỡ người nghèo.
Công tác kiểm tra, giám sát để đảm bảo các khoản đầu tư của Chính phủ được
sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả. Trung Quốc đã lập 24 tổ kiểm tra gồm các
thành phần ủy ban cải cách, đại diện các bộ, ngành. Tổ kiểm tra đã đến từng địa

phương, từng công trình đầu tư cụ thể… kiểm tra tiến độ, không để xảy ra lãng phí,
tham nhũng.
2. Việt Nam không có năng lực cao để kích cầu các hoạt động kinh tế nội
địa của mình nhằm cân bằng lại sụt giảm từ xuất khẩu.
Bài của Abe de Ramos trên tạp chí Far Eastern Economic Review hôm
20/01/2010 gọi các nước Asean trong đó có Việt Nam là “những tiểu hổ trúng
thương”.

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

8


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Theo tác giả, một nhà nghiên cứu ở Asia Society tại Hong Kong thì các nước
như Việt Nam và Philippines có nguy cơ không giành lại được vị thế “hổ châu Á”
của họ.
Bài viết cho rằng chiến lược thúc đẩy các hoạt động kinh tế nội địa của hai nước
này dựa trên chính sách kích cầu của chính phủ.
Nhưng với khủng hoảng tại châu Á ngày càng sâu rộng, các gói kích cầu nói
chung ở châu Á cũng đã khiến các nền kinh tế khu vực bị kéo căng hết cỡ.
Tác động vào thị trường bằng chính sách tiền tệ sẽ không còn chỗ để phát huy
hiệu quả.
Mặt khác, theo Abe de Ramos, trần thuế thấp, tham nhũng gây thâm hụt tài
chính chỉ làm cho cán cân thu chi của chính quyền thêm yếu kém.
Các nước còn khả năng vay như Thái Lan và Malaysia sẽ còn có thể gọi quỹ
nhưng với chi phí cao hơn vì rủi ro nhiều hơn.
Thực tế, sự khác biệt giữa các nước đang phát triển trong khối Asean và các
nước còn lại trong vùng chính là sức mạnh của nền kinh tế nội địa.
Tiêu dùng nội địa tính bằng tỷ lệ của GDP không nhích lên bao nhiêu từ 1990.

Tất nhiên, đầu tư và chi phí công cao, giống như Ấn Độ và Trung Quốc cũng
cân bằng lại.
Tuy thế, trong cả vùng Đông Nam Á, từ Việt Nam, các chỉ số đầu tư và chi từ
quỹ nhà nước đều thấp.
Việt Nam được tác giả đánh giá là “người mới đến” trong cuộc chơi tự do hóa
mậu dịch. Với tất cả các nước trong vùng, và cũng đúng trong trường hợp Việt Nam
và Philippines, tiền ngoại hối do công nhân lao động ở nước ngoài gửi về đóng một
vai trò quan trọng để cân bằng nền kinh tế.
Nhưng đây cũng là một điểm gây nguy cơ cho các nước này.
Về ngắn hạn, việc các nước phát triển ngưng tuyển lao động từ Đông Nam Á sẽ
khiến nguồn tiền này cạn đi.
Về lâu dài, hiện tượng ngoại hối chứng tỏ các nước này không đủ khả năng tạo
ra sự thịnh vượng ngay trong biên giới của họ. “Họ đã thất bại trong quá trình sáng
tạo và dựng lên những công nghệ có sức cạnh tranh của chính mình”.
So với Đông Nam Á, Trung Quốc và Ấn Độ đều lợi dụng đầu tư nước ngoài để
tạo ra những tập đoàn vươn được ra quốc tế.
Còn Đông Nam Á thì không làm được điều này.
Kết luận lại, tác giả cho rằng cuộc suy thoái hiện nay đang thách thức các chính
phủ Asean phải xem lại viễn kiến về tương lai, làm sao để nền kinh tế nội địa của họ
có đủ sức quyết định số phận của mình.
Như vậy , kích cầu phải đi kèm chính sách tiền tệ phù hợp.

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

9


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Phần II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM NÓI

CHUNG VÀ CỦA TỈNH VĨNH PHÚC NÓI RIÊNG
I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
1. Thực trạng phát triển kinh tế Việt nam hiện nay:
Ngay năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2011 - 2015, Chính phủ đã đặt ra mục tiêu vừa ổn định kinh tế vĩ mô, vừa đạt
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Mục tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2011 đã được thông qua tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XII là: “Tăng tính ổn
định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và
chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế; phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2010,
nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo đảm an sinh và
phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị; tiếp tục
củng cố quốc phòng; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả
công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế”.
Nghị quyết số 02/2011/NQ-CP của Chính phủ ngày 09/01/2011 về những
giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách
nhà nước (ngân sách nhà nước) năm 2011, đã thể hiện sự quyết tâm cao của Chính
phủ thực hiện vượt mức các chỉ tiêu Quốc hội đã đề ra. Tuy nhiên, đầu năm 2011,
tình hình kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp: lạm phát tăng, giá dầu thô, giá
nguyên vật liệu cơ bản đầu vào của sản xuất, giá lương thực, thực phẩm và giá vàng
trên thị trường thế giới tiếp tục xu hướng tăng cao đã tác động không nhỏ đến nền
kinh tế trong nước.
Trước tình hình đó, ngày 24/02/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
11/2011/NQ-CP về các nhóm giải pháp chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm,
cấp bách hiện nay là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã
hội. Theo đó, các giải pháp trọng tâm là: (i) chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng;
(ii) chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà
nước; (iii) thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập
siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng; (iv) điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ
hộ nghèo; (v) tăng cường bảo đảm an sinh xã hội.

Nhờ những điều chỉnh chính sách kịp thời của Chính phủ theo hướng tăng
cường ổn định kinh tế vĩ mô, nền kinh tế đã có những chuyển biến theo hướng ổn
định hơn nhưng nhìn chung vẫn còn rất nhiều khó khăn. Tuy lạm phát có xu hướng
giảm trong nửa cuối của năm 2011 nhưng tính chung cả năm vẫn cao khi chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) tăng 18,13%, cao hơn mục tiêu cuối năm đề ra là 18%.
Vốn đầu tư xã hội/GDP năm 2011 đạt 33,3% thấp hơn kế hoạch đã đặt ra

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

10


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
40% là nguyên nhân góp phần làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm. Cùng
với đó, lãi suất chưa giảm nhiều; nhu cầu ngoại tệ và sức ép tỷ giá cuối năm còn
lớn; nhiều doanh nghiệp (DN) còn rất khó khăn... Hệ quả là mức tăng trưởng kinh tế
của cả năm 2011 chỉ đạt 5,89%, thấp hơn so với chỉ tiêu điều hành là 6%.
Bước sang năm 2012, kinh tế - tài chính của Việt Nam tiếp tục bị ảnh hưởng
bởi sự bất ổn của kinh tế thế giới, do khủng hoảng tài chính và nợ công ở châu Âu
chưa được giải quyết. Suy thoái tại khu vực đồng Euro cùng với khủng hoảng tín
dụng và tình trạng thất nghiệp gia tăng, khiến cho hoạt động sản xuất và thương mại
toàn cầu bị tác động mạnh, giá cả hàng hóa diễn biến phức tạp.
Những bất lợi từ sự sụt giảm của kinh tế thế giới đã ảnh hưởng xấu đến hoạt
động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư trong nước. Thị trường tiêu thụ hàng
hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao, sức mua trong dân giảm. Tỷ lệ nợ xấu ngân
hàng ở mức đáng lo ngại. Nhiều DN, nhất là DN nhỏ và vừa phải thu hẹp sản xuất,
dừng hoạt động hoặc giải thể.
Trước bối cảnh đó, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày
03/01/2012 với mục tiêu là: “Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy
trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền

kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phúc lợi xã hội,
an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, củng cố
quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả
hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế”.
Mục tiêu đề ra trong năm 2012 đã đi đúng hướng theo mục tiêu kế hoạch 5
năm phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2015. Theo đó, chúng ta sẵn sàng chấp nhận hy
sinh tăng trưởng “duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý” để đổi lấy là “ổn định kinh tế vĩ
mô”, từng bước đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu và nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế.
Giai đoạn này có nhiều quan điểm khác nhau về cách điều hành nền kinh tế
của Chính phủ. Có ý kiến cho rằng, Chính phủ đã kiên định chính sách tiền tệ thắt
chặt nhằm tạo ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát. Cũng có ý kiến khác cho
rằng, giai đoạn này, do tổng cầu của nền kinh tế suy giảm ở cả trong và ngoài nước,
hàng tồn kho của các DN bắt đầu gia tăng làm giảm nhu cầu mở rộng sản xuất kinh
doanh. Nợ xấu bắt đầu lộ ra là những “khối u” ngăn chặn dòng chảy tiền tệ.
Vì vậy, nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế không cao mà chủ yếu là nhu
cầu vay để đảo nợ. Tình trạng phổ biến là những DN đủ điều kiện vay vốn thì không
muốn vay, do tổng cầu suy giảm, trong khi những DN cần vay vốn để đảo nợ lại
không đủ điều kiện được vay. Nhóm ý kiến này cho rằng, đây là nguyên nhân làm
cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng chậm và tín dụng tăng trưởng thấp chứ không
hoàn toàn từ chính sách tiền tệ của Chính phủ.

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

11


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Kết quả là nhiều DN gặp khó khăn dẫn đến phá sản hoặc tạm dừng, thu hẹp
sản xuất, công ăn việc làm, thu nhập của người lao động bị ảnh hưởng. Số lượng

DN giải thể, phá sản, ngừng hoạt động năm 2012 là 54.261. Để ổn định kinh tế vĩ
mô, tháo gỡ khó khăn cho các DN, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, Chính
phủ ban hành Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/05/2012 về một số giải pháp tháo
gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường.
Những giải pháp này tập trung vào miễn, giảm, gia hạn nộp thuế cho các DN
nhằm giúp DN vượt qua khó khăn. Với việc ban hành, triển khai thực hiện Nghị
quyết 13/NQ-CP của Chính phủ kịp thời đã giúp kiểm soát được CPI của năm 2012
tăng 6,81%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 18,13% năm 2011 và 11,75% năm
2010; lãi suất ngân hàng giảm dần. Tăng trưởng trong các lĩnh vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản đạt cao hơn so với kế hoạch. Điểm nổi bật là lần đầu tiên trong
năm 2012 Việt Nam xuất siêu, đạt mức 780 triệu USD.
Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, đây là kết quả không bền vững
và chưa phải là xu thế chuyển đổi. Nguyên nhân xuất siêu là do nhu cầu tiêu thụ
trong nước giảm khiến nhu cầu nhập khẩu hàng tiêu dùng cũng như tư liệu sản xuất
giảm. Tốc độ tăng nhập khẩu trong năm 2012 chỉ dừng lại ở mức 6,6% (chỉ số giá
nhập khẩu giảm 0,33%), so với tốc độ tăng 25,83% của năm 2011. Trong khi đó,
xuất khẩu tăng chủ yếu do sự gia tăng đột biến của mặt hàng điện thoại, máy vi tính
và linh kiện (chủ yếu từ nhà sản xuất Samsung) đã khiến tốc độ tăng xuất khẩu của
năm 2012 duy trì ở mức 18,2% bất chấp chỉ số giá xuất khẩu trong năm giảm
0,54%.
Mặc dù đã hạ mục tiêu tăng trưởng kinh tế xuống mức “hợp lý” 6% nhưng
tăng trưởng kinh tế cả năm 2012 chỉ đạt 5,03%. Tổng phương tiện thanh toán tăng
22,4% trong khi dư nợ tín dụng cả năm chỉ tăng 8,91%. Chỉ số hàng tồn kho ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo tăng; Tồn kho bất động sản và nợ xấu vẫn ở mức cao;
Khu vực DN, động lực chính tạo ra của cải, vật chất, việc làm gặp nhiều khó khăn;
Áp lực lạm phát và nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô còn lớn; Lãi suất, nợ xấu vẫn còn
cao; Sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn.
Đời sống của người dân, nhất là đối tượng chính sách, người nghèo, người
lao động có thu nhập thấp vẫn còn khó khăn. Tình hình kinh tế dự báo vẫn còn
nhiều thách thức. Nhận thức rõ được những khó khăn tiềm ẩn, năm 2013, Chính phủ

đã trình Quốc hội và ban hành Nghịquyết số31/2012/QH13 về Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2013, với mục tiêu tổng quát là: “Tăng cường ổn định kinh tế vĩ
mô; lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012. Đẩy mạnh thực hiện 3 đột
phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Bảo
đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội
nhập quốc tế. Tăng cường quốc phòng, an ninh và bảo đảm ổn định chính trị - xã
hội. Tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo”.

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

12


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Trước tình trạng các DN tiếp tục gặp nhiều khó khăn, ngày 07/01/2013,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó
khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. Các giải pháp
này bao gồm: (i) gia hạn nộp thuế thu nhập DN (TNDN): gia hạn 6 tháng đối với số
thuế TNDN phải nộp trong quý I/2013 và 3 tháng đối với số thuế TNDN phải nộp
trong quý II và quý III/2013; (ii) gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT): 6 tháng
đối với số thuế GTGT phải nộp trong quý I/2013.
Các giải pháp khuyến khích về thuế này áp dụng cho DN vừa và nhỏ; DN sử
dụng nhiều lao động trong một số lĩnh vực; DN bán, cho thuê tài chính nhà ở và DN
sản xuất sắt, thép, xi măng, vật liệu xây dựng. Theo ước tính của Chính phủ, tổng số
thuế gia hạn lên tới khoảng 9.100 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Thủ tướng trình Quốc hội
giảm thuế suất thuế TNDN xuống còn 20% đối với DN vừa và nhỏ và 10% đối với
DN tham gia đầu tư, bán hoặc cho thuê nhà ở xã hội đối với những người có thu
nhập thấp, bắt đầu từ ngày 01/07/2013. Các giải pháp này đã được Quốc hội thông
qua và đã được triển khai với những kết quả bước đầu.
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát tiếp tục được kiểm soát, đến tháng

11/2013 CPI tăng 5,5%. Tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 11/2013 đạt 9%. Mặt
bằng lãi suất giảm, lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 7 - 9%/năm.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 11 tháng đầu năm 2013 ước đạt 121 tỷ USD, tăng
16,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 39,9 tỷ
USD, tăng 3,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 81,2 tỷ
USD, tăng 23,5%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu trong 11 tháng đầu năm 2013 ước đạt 121,1
tỷ USD, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Khu vực kinh tế trong
nước đạt 52,2 tỷ USD, tăng 6%; Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 68,9 tỷ
USD, tăng 26%. Vốn FDI trong 11 tháng đầu năm nay vào Việt Nam cả đăng ký cấp
mới và tăng thêm là 20,82 tỷ USD, tăng 54,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều lĩnh vực chuyển biến, tăng trưởng còn
chậm, chưa vững chắc, nhất là công nghiệp và nông nghiệp. Lạm phát tuy đã được
kiểm soát nhưng nguy cơ tiềm ẩn còn cao. Sản xuất kinh doanh vẫn gặp nhiều khó
khăn, nợ xấu tuy đã giảm xuống so với trước nhưng vẫn còn ở mức cao. Tiêu thụ
hàng hóa, nhất là các mặt hàng nông sản chủ lực như lúa gạo, thủy sản tiếp tục gặp
nhiều khó khăn do giá giảm, sức mua giảm, chính sách bảo hộ thương mại của một
số thị trường lớn...
2. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm gần đây có nhiều thuận
lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, một số ngành nghề trọng điểm đều có sự
tăng về năng lực sản xuất; các thành phần kinh tế đều có sự tăng trưởng, nhất là kinh

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

13


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
tế ngoài quốc doanh đã khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế nhiều thành

phần... song cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: thiên tai, dịch
bệnh gia súc; giá cả đầu vào ở hầu hết các ngành sản xuất đều tăng làm cho chi phí
sản xuất tăng cao đã đẩy giá thành sản phẩm tăng lên, ảnh hưởng không nhỏ tới sức
cạnh tranh; kết cấu cơ sở hạ tầng, nhất là kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn miền
núi tuy đã cải thiện nhưng vẫn thiếu và xuống cấp; lĩnh vực xã hội còn nhiều bức
xúc, tai nạn giao thông tuy có nhiều biện pháp nhằm kiềm chế nhưng vẫn chưa có
xu hướng giảm... Song với sự chỉ đạo quyết tâm và nỗ lực cố gắng các cấp, các
ngành và nhân dân toàn tỉnh nên tình hình kinh tế xã hội đã thu được kết quả đáng
kể, kinh tế tiếp tục phát triển theo chiều hướng tích cực ...
Tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập vào năm 1997. Tại thời điểm tái lập tỉnh thu Ngân
sách khoảng 100 tỷ/năm; thu nhập bình quân đầu người 140USD/người/năm. Tính
chung cả giai đoạn 2001 - 2010, GDP Vĩnh Phúc tăng trưởng bình quân 16,5%/năm,
trong đó: nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 6,0%/năm; công nghiệp, xây dựng tăng
20,7%/năm; dịch vụ tăng 17,1%/năm. Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng GDP của
Vĩnh Phúc luôn đạt mức cao so với các tỉnh Vùng Đồng bằng sông Hồng và Vùng
Kinh tế trọng điểm phía Bắc, tăng gấp hơn 2 lần so với tốc độ trung bình của cả
nước.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế trên địa bàn tiếp tục
chuyển dịch theo hướng tích cực. Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng khu vực
Công nghiệp – Xây dựng tăng nhanh và cao hơn nhiều so với mức bình quân
chung , khu vực Dịch vụ tăng xấp xỉ mức bình quân chung toàn tỉnh, trong khi đó
khu vục Nông lâm nghiệp và thuỷ sản tăng chậm nên cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng giảm tỷ trọng khu vực Nông lâm thuỷ sản và tăng tỷ trọng khu vực
Công nghiệp – Xây dựng.
Đánh giá chung, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh những năm gần
đây tiếp tục phát triển theo hướng tích cực, các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của
tỉnh đều hoàn thành so với kế hoạch và tăng khá so với cùng kỳ. Một số lĩnh vực xã
hội cũng có sự cải thiện đáng kể.
II. NHỮNG CHÍNH SÁCH KÍCH CẦU CỦA VIỆT NAM NÓI
CHUNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ.

1. Một số giải pháp kích cầu hiện nay ở nước ta
Trên thực tế, bất cứ một giải pháp kích cầu tầm vĩ mô nào cũng xoay quanh 2
trục sản xuất và tiêu dùng, đều có những ưu điểm và nhược điểm, thậm chí trong
nhiều trường hợp người ta không thể chọn lựa cái tốt nhất mà bắt buộc phải chọn
lựa giải pháp ít xấu hơn. Dưới đây, chúng tôi xin đề xuất một số suy nghĩ bước đầu
về giải pháp thuộc 2 nhóm kích cầu sản xuất và kích cầu tiêu dùng nhằm giải quyết
“đầu vào” và “đầu ra” của sản phẩm hàng hóa gắn với lao động, việc làm và thu
nhập của dân cư trong thời kỳ suy giảm kinh tế toàn cầu.

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

14


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
1. Ngày 15/01/2009, Chính phủ đã quyết định các phương án sử dụng khoản
kích cầu 1 tỷ USD (17.000 tỷ VND) để hỗ trợ 4% lãi suất vốn vay cho các khoản
vay ngắn hạn trong thời gian tối đa là 8 tháng, kết thúc vào ngày 31/12/2009. Đối
tượng được hưởng là các DN nhỏ và vừa, có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng, sử dụng
không quá 300 công nhân, không có nợ đọng thuế và không có nợ tín dụng quá hạn.
2. Ngày 04/04/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định cho các tổ
chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn và sẽ được Nhà nước hỗ trợ lãi suất tiền vay
4%/năm trong khoảng thời gian tối đa 24 tháng, với tổng số lãi hỗ trợ là 20.000 tỷ
VND. Việc hỗ trợ lãi suất này được thực hiện từ ngày 01/04/2009 đến hết ngày
31/12/2011.
Gói kích cầu thứ hai này có quy mô lớn hơn, thời hạn dài hơn (tới 2 năm),
điều kiện nới lỏng hơn (DN và cả HTX có vốn dưới 20 tỷ đồng, sử dụng dưới 500
lao động, có thể nợ thuế và tín dụng quá hạn nhưng có dự án phù hợp vẫn được xét
cho vay) và lĩnh vực cho vay cũng được mở rộng hơn.
3. Chính phủ cũng thiết lập cơ chế bảo lãnh tín dụng cho DN. Ngân hàng

Phát triển Việt Nam (VDB) là đơn vị duy nhất được giao thực hiện giải pháp bảo
lãnh tín dụng cho đối tượng là các DN thuộc các thành phần kinh tế. VDB có thể
đảm bảo 100% khoản vay bằng USD hay VND. Những DN có vốn điều lệ 20 tỷ
VND tương đương 1,1 triệu USD với số lao động sử dụng không quá 500 người mới
đủ điều kiện tham gia vào chương trình này. DN không được phép có khoản nợ
ngân hàng hay nợ thuế nào quá hạn. Không giống như chương trình hỗ trợ lãi suất,
VDB có toàn quyền quyết định DN nào sẽ được nhận bảo lãnh tín dụng.
4. Chính phủ thực hiện miễn, giảm, giãn một số loại thuế, và kéo dài thời hạn
nộp thuế xuất nhập khẩu, ước tính có khoảng 28.000 tỷ đồng để kích cầu nhờ thực
hiện chính sách giảm thuế. Giảm 50% thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với 19 nhóm
mặt hàng tiêu thụ nội địa (Quyết định 16/2009/QĐ-TTg) và hoãn thu thuế thu nhập
cá nhân trong 5 tháng đầu năm 2009. Tạm hoàn 90% số thuế GTGT đầu vào khi
chưa có chứng từ và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán. Giãn thời hạn nộp
thuế GTGT đến 180 ngày đối với hàng nhập khẩu là thiết bị, máy móc trong nước
chưa sản xuất được, phải nhập khẩu để tạo tài sản cố định của DN. Đối với thuế
nhập khẩu, thực hiện giảm thuế cho nhiều mặt hàng là nguyên liệu đầu vào và hàng
tiêu dùng.
5. Đẩy mạnh, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đồng thời phát triển mạng lưới
phân phối, hệ thống bán lẻ, nhất là ở vùng sâu vùng xa để cung cấp vật tư và hàng
tiêu dùng thiết yếu.
6. Về chính sách tài chính, tiền tệ, sẽ tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn
tín dụng cho các DN. Tiếp tục hạ lãi suất cơ bản và cho phép các tổ chức tín dụng,
các quỹ tín dụng nhân dân cho vay theo lãi suất thỏa thuận.

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

15


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô

7. Chính phủ sẽ điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ theo nguyên tắc linh hoạt, nhằm
khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
Tổng nguồn lực sử dụng để kích cầu đầu tư và tiêu dùng của Việt Nam là rất
lớn, nếu tính thêm cả 17.000 tỷ đồng tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng cho DN thì
tổng giá trị các gói kích cầu của Chính phủ Việt Nam hiện nay lên đến 160.000 tỷ
đồng, tương đương 9 tỷ USD, chiếm gần 10% GDP của Việt Nam hiện nay.
2. Tác động của các giải pháp kích cầu ở nước ta
Nhằm đối phó với khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, đầu
năm 2014, Việt Nam đã kịp thời triển khai các gói kích cầu. Cụ thể, Chính phủ đã
dùng quỹ tài chính lớn trực tiếp chi cho các hoạt động kích cầu đầu tư và tiêu dùng,
chống suy giảm kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội.
* Một số tác động tích cực
Có thể nói, gói kích cầu trước hết có hiệu ứng tâm lý tích cực, làm tăng tức
thời lòng tin của các DN, các ngân hàng và nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào
trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ các DN đang gặp khó khăn, cũng như
tin vào triển vọng thị trường và môi trường đầu tư Việt Nam.
Gói kích cầu đã trực tiếp hỗ trợ DN tiếp cận được các nguồn vốn ngân hàng
với chi phí rẻ hơn, từ đó giảm bớt chi phí kinh doanh, góp phần giảm giá thành sản
phẩm, tăng cạnh tranh và khả năng tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ trên thị trường;
Nhiều DN nhận được sự hỗ trợ kịp thời của gói kích cầu đã có thêm cơ hội
giữ vững và mở rộng sản xuất, từ đó góp phần giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm
bảo ổn định xã hội.
Những hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại quốc gia được tài trợ từ gói
kích cầu nếu thực hiện có hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến việc tăng dòng vốn
chảy vào Việt Nam, mở rộng thị trường đầu ra cho DN và nền kinh tế, từ đó trực
tiếp góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước...
Một trong những yếu tố chính của gói kích thích kinh tế là khoản hỗ trợ lãi
suất 4% đối với vay vốn ngắn hạn, qua điều tra thực tế cho thấy hiệu quả rất cao.
Mục tiêu của Chính phủ thông qua chương trình hỗ trợ này là duy trì lạm phát ở
mức thấp, hỗ trợ sản xuất kinh doanh của các DN, hạn chế việc sa thải lao động.

Các DN có toàn quyền quyết định vốn vay để sản xuất, kinh doanh sao cho hiệu quả
nhất (điều này cũng đem lại hiệu quả cho cả nền kinh tế). Nhà nước chỉ hỗ trợ lãi
suất cho các khoản vay nhằm mục đích giúp cho các DN giảm bớt gánh nặng chi phí
tài chính, nhờ đó khuyến khích DN tiếp tục duy trì sản xuất, kinh doanh, tuyển dụng
lao động. .
Ngoài sự nỗ lực, năng động, sáng tạo của từng DN thì những chính sách kích
cầu của Chính phủ được coi là một trong những giải pháp kịp thời giúp hoạt động

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

16


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
sản xuất, kinh doanh của DN vượt khó đạt kết quả khả quan, từng bước đi vào ổn
định và phát triển.
Những tác động nói trên có thể được minh chứng bằng một số ví dụ thực tế:
Công ty cổ phần Việt Vương (DN chuyên sản xuất cột ăng-ten, cột điện,… tại Phú
Thọ), số vốn vay hỗ trợ lãi suất mà Công ty tiếp cận được là 15 tỷ đồng cùng với số
tiền được giãn thuế trong năm 2009 là 1 tỷ đồng đã giúp Công ty duy trì hoạt động
và đến thời điểm này đang đẩy mạnh sản xuất để kịp giao hàng trong sáu tháng cuối
năm.
Còn với Công ty cổ phần Chế biến Nông lâm sản Yên Thành (huyện Yên
Bình, tỉnh Yên Bái), vốn hỗ trợ lãi suất được vay là 1,2 tỷ đồng đã tạo điều kiện cho
Công ty tăng giá thu mua măng nguyên liệu của nông dân để có đủ nguyên liệu sản
xuất, đáp ứng kịp thời cho đơn hàng xuất khẩu 10 container sản phẩm măng chế
biến của đối tác Đài Loan (Trung Quốc). Giám đốc Nguyễn Ðức Dũng cho biết: Do
Công ty là DN nhỏ nên toàn bộ phần vốn lưu động đều phải đi vay ngân hàng. Năm
2008, có thời điểm, Công ty phải vay ngân hàng 700 triệu đồng với lãi suất
21%/năm, nên làm bao nhiêu cũng chỉ đủ để trả lãi vay ngân hàng. Nay nhờ vốn hỗ

trợ lãi suất, Công ty đã khôi phục sản xuất, duy trì việc làm cho người lao động.
* Những vấn đề đang và sẽ phát sinh
Thứ nhất, số tiền cung ứng đưa vào lưu thông rất lớn, nếu triển khai chậm và
không có giới hạn về thời gian thì khi kinh tế hồi phục trở lại sẽ tiềm ẩn rủi ro lạm
phát cao. Sau khi lạm phát được đẩy lùi từ cuối năm 2008 do chính sách thắt chặt
tiền tệ của Chính phủ, thì nguy cơ tái lạm phát lại đang xuất hiện trở lại dưới tác
động của các chính sách kích thích tăng trưởng kinh tế.
Nguy cơ tái lạm phát sẽ đậm nét hơn bắt đầu từ nửa cuối năm 2009 do kết
quả trực tiếp có độ trễ của các gói kích cầu của Việt Nam và cả thế giới từ đầu năm
đến nay kèm với các chính sách nới lỏng tiền tệ, làm gia tăng tổng cung tiền cho nền
kinh tế. Nếu lượng tiền này không được đưa vào sản xuất tạo ra hàng hóa đối ứng sẽ
gây ra tình trạng lạm phát. Về mặt tiền tệ, dư âm lạm phát 20% của năm 2008 vẫn
còn đó, nên chính sách tiền tệ cần được mở rộng một cách thận trọng để tránh kích
hoạt một làn sóng lạm phát mới.
Thứ hai, giảm thuế GTGT về lý thuyết là để hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ trên
thị trường có giá thấp hơn, nhờ đó tăng cầu cho sản phẩm. Song, việc xác định giá
bán hàng hóa trên thị trường thuộc quyền của người bán. Do đó, không phải trường
hợp nào giảm thuế cũng đồng nghĩa với việc giảm giá hàng hóa, dịch vụ. Các nhà
làm chính sách kỳ vọng rằng việc hoãn thuế thu nhập cá nhân sẽ giúp tăng thu nhập
khả dụng, nhờ đó tăng chi tiêu của người tiêu dùng. Rõ ràng, về mặt lý thuyết, đây
là những kỳ vọng hợp lý.

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

17


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Tuy nhiên, trên thực tế có thể những chính sách này không kích được tiêu
dùng như kỳ vọng vì phản ứng của thị trường, của DN và của người tiêu dùng có thể

rất khác so với tính toán của các nhà làm chính sách. Bên cạnh đó, cần lưu ý thêm là
chính sách tỷ giá cố định trong khi VND bị định giá cao so với USD sẽ khuyến
khích nhập khẩu hàng tiêu dùng. Hơn nữa, rất khác với Trung Quốc, nền kinh tế của
Việt Nam nhỏ, lại có tỷ lệ nhập khẩu trong tổng tiêu dùng cao nên không thể kích
cầu đơn giản chỉ bằng cách tăng chi tiêu vì khi ấy một phần lớn nhu cầu tăng thêm
sẽ được thoả mãn bởi hàng nhập khẩu chứ ít có tác dụng kích thích sản xuất trong
nước.
Một điểm nữa cũng cần đặc biệt lưu ý khi thực hiện chính sách kích cầu, đó
là khi tất cả các thị trường xuất khẩu cạnh tranh chính của Việt Nam và Trung Quốc
(Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản) đều giảm cầu thì xu hướng hàng Trung Quốc tràn vào thị
trường Việt Nam sẽ càng gia tăng mạnh, tạo ra một sức ép rất lớn đối với sản xuất
trong nước. Điều này đã từng xẩy ra cách đây 10 năm, trong những năm 1998 1999, khi chúng ta bơm tiền để kích cầu thì lượng xe máy Trung Quốc tiêu thụ ở
Việt Nam tăng lên gấp 3 lần, từ khoảng 500-600 ngàn chiếc/năm tăng lên đến 1,8-2
triệu chiếc/năm. Hàng Việt Nam nói chung có sức cạnh tranh kém hàng Trung
Quốc, bởi vậy kích cầu trong điều kiện Trung Quốc cũng đang ráo riết, khẩn trương
tung ra các gói kích cầu lớn để kích thích tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu
(Năm 2009, Trung Quốc đặt kế hoạch đạt tăng trưởng kinh tế 8%, gói kích cầu gần
600 tỷ USD) lại càng trở nên khó khăn hơn.
Nếu không có định hướng và giải pháp tốt thì đối tượng được ưu đãi “kích
cầu” chủ yếu sẽ chính là hàng Trung Quốc (Việt Nam chủ yếu nhập siêu từ Trung
Quốc, năm 2008 Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc trên 11,1 tỷ USD). Hiện nay,
Trung Quốc cũng đang thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất, hỗ trợ vốn cho các DN
của Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài. Do đó, khi
thực hiện kích cầu, chúng ta cần phải tính đến cả tác động của hàng Trung Quốc
tràn vào Việt Nam để vừa kích cầu hợp lý, vừa giữ được thị trường nội địa.
Thứ ba, chính sách bù lãi suất có một số hạn chế tiềm tàng có thể nhận thấy,
cụ thể là: chính sách này không trực tiếp giúp giải quyết khó khăn lớn nhất của DN
hiện nay là thiếu nhu cầu thị trường; chính sách này có thể không đến được những
đối tượng cần hỗ trợ, thậm chí có thể hỗ trợ nhầm đối tượng do tình trạng bất cân
xứng về thông tin giữa Ngân hàng Nhà nước với ngân hàng thương mại và giữa

ngân hàng thương mại với DN.
Ngân hàng thương mại rất khó kiểm soát việc sử dụng đúng mục đích của
đồng vốn do tính có thể hoán đổi mục đích sử dụng của đồng tiền; Đồng thời, chi
phí cho công tác hậu kiểm của Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ rất tốn kém khi chỉ
trong vòng hơn một tuần, riêng 5 ngân hàng thương mại có sở hữu nhà nước đã cho
vay 32.000 tỷ đồng trong chương trình hỗ trợ lãi suất. Với tốc độ tăng trưởng tín

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

18


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
dụng nhanh như vậy, việc kiểm soát kịp thời và đầy đủ của Ngân hàng Nhà nước là
rất khó khăn và tốn kém.
Giữa các ngân hàng thương mại và khách hàng, việc thiếu thông tin sẽ khiến
nhiệm vụ của ngân hàng thương mại trong việc bảo đảm khách hàng sử dụng vốn hỗ
trợ đúng mục đích cũng trở nên khó khăn, đặc biệt là đối với các DN có hoạt động
phức tạp và có quan hệ tín dụng với nhiều ngân hàng. Nếu không kiểm soát chặt
chẽ, các khoản vay này có khả năng được sử dụng không đúng mục đích. Vốn vay
được hỗ trợ lãi suất có thể được DN dùng để đầu cơ mua cổ phiếu, tích trữ vàng,
ngoại tệ mạnh hoặc đầu tư quá mức vào bất động sản thay vì đưa vào sản xuất kinh
doanh.
Thứ tư, tác động của giải pháp hỗ trợ lãi suất đối với các tổ chức, cá nhân
vay vốn trung dài hạn thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất, kinh doanh cũng
rất hạn chế trong giai đoạn hiện nay. Bởi lẽ, ít có chủ DN dám mạo hiểm vay vốn
ngân hàng trung và dài hạn để đầu tư cho một dự án khi thị trường tiêu thụ hàng
hóa, dịch vụ trầm lắng. Khó khăn chủ yếu của DN hiện nay không phải là vốn mà là
thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước và ngoài nước, thiếu đơn hàng và hợp đồng
sản xuất.

Không có đầu ra cho sản phẩm hàng hóa sản xuất ra, nên sản xuất bị thu hẹp,
hoặc ngừng sản xuất, người lao động bị mất việc làm, ảnh hưởng đến an sinh xã hội.
Bởi vậy, để chính sách kích cầu phát huy được hiệu quả thì phải tạo được đầu ra cho
sản phẩm của DN. Nếu không tăng được nhu cầu thị trường, thì dù có kích thích
như thế nào cũng không phát huy tác dụng, không giúp ngăn chặn đà suy giảm kinh
tế, vì không có cầu thì DN càng cung nhiều, càng lỗ vốn.
Thứ năm, nền kinh tế Việt Nam có đặc thù phải dựa vào máy móc thiết bị và
nguyên vật liệu từ bên ngoài sẽ không thể chịu nổi sức ép từ việc gia tăng đầu tư quá
mức. Một khi tổng cầu nội địa tăng cao đặc biệt là cầu đầu tư sẽ khiến cho nhu cầu
nhập khẩu tăng vọt điều này gây thâm hụt thương mại thêm trầm trọng.
Khối lượng dự trữ ngoại tệ khiêm tốn khiến cho Việt Nam không thể giữ ổn
định tỷ giá hối đoái khi sức ép giảm giá VND tăng mạnh do nhu cầu nhập khẩu tăng
vọt. Khi VND bị mất giá đáng kể thì các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ và DN
sẽ ngày một phình to. Đây là những hệ lụy nguy hiểm và cần được cân nhắc trong
thời gian tới khi đưa ra các gói kích thích kinh tế lớn.
Thứ sáu, toàn bộ qui trình kiểm tra, giám sát, theo dõi và đánh giá việc thực
hiện các giải pháp kích cầu đã không được thiết kế và vận hành một cách đồng bộ.
Định hướng chính sách kích cầu hiện nay không rõ ràng và không có sự phân định
giữa các khái niệm kích cầu hay kích cung, kích cầu hay giải cứu,…
Tất cả các gói chính sách ấy đều được gộp vào dưới cái tên “kích cầu” trong
khi thiết kế của nó, hay tác động thực tế của nó, chưa chắc đã nhằm làm tăng tổng
cầu trong nền kinh tế. Ví dụ chính sách hỗ trợ lãi suất sẽ là kích cầu nếu DN vay

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

19


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
vốn đó để đầu tư. Nhưng nếu DN vay vốn đó để đảo nợ thì sẽ không còn gọi là kích

cầu được nữa, mặc dù nó vẫn có thể có tác dụng tích cực nào đó. Vấn đề không phải
là đảo nợ là xấu hay tốt mà là chúng ta không theo dõi được tiến trình đó và có sự
mâu thuẫn giữa chính sách dự định và thực tế chính sách. Về nguyên tắc thì hỗ trợ
lãi suất cấm đảo nợ nhưng thực tế thì việc này vẫn diễn ra mà không thể kiểm soát
được.
Phần III
GIẢI PHÁP KÍCH CẦU CỦA VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ CỦA
TỈNH VĨNH PHÚC NÓI RIÊNG
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
NÓI CHUNG VÀ CỦA TỈNH VĨNH PHÚC NÓI RIÊNG.
1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt nam nói chung:
Dự báo năm 2014 kinh tế nước ta có triển vọng tăng trưởng cao hơn năm
2013, nhưng vẫn thấp hơn các năm trước khủng hoảng kinh tế thế giới vì những lý
do dưới đây:
Thứ nhất, kinh tế thế giới đã hồi phục sau khủng hoảng nhưng vẫn tăng
trưởng chậm. Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), thương mại toàn cầu sẽ
hồi phục vào giữa năm 2010 khi đạt mức tăng trưởng 3,2% do sức cầu của nhiều
nền kinh tế lớn sẽ tăng trở lại. Trong lĩnh vực đầu tư, mặc dù luồng vốn FDI có khả
năng sẽ tăng trở lại, nhưng sẽ phụ thuộc nhiều vào đà phục hồi của kinh tế thế giới.
Năm 2014, châu Á được đánh giá là khu vực sẽ phục hồi sớm nhất, trong đó
đáng chú ý là sự phục hồi của kinh tế Trung Quốc. Đà phục hồi của kinh tế thế giới
và châu Á sẽ phụ thuộc nhiều vào sự phục hồi của kinh tế Mỹ, đặc biệt là lĩnh vực
tài chính – tiền tệ và bất động sản tại nước này. Tuy nhiên, theo dự báo, kinh tế Mỹ
vẫn phục hồi chậm (dự báo sẽ theo mô hình chữ U có đáy kéo dài). Như vậy, tình
trạng thiếu vốn của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam sẽ còn diễn ra,
xuất khẩu sẽ còn gặp khó khăn.
Thứ hai, ở trong nước, tuy kinh tế nước ta đã phục hồi và tăng trưởng khá
trong quý IV- 2013, nhưng khó khăn và thách thức vẫn còn nhiều: thiếu vốn; thị
trường xuất khẩu hàng hóa và thu hút khách du lịch nước ta phụ thuộc vào Hoa Kỳ,
EU, Nhật Bản, Hàn Quốc…, nhưng trong năm 2014 nền kinh tế các nước này vẫn

tăng trưởng chậm; nhu cầu tiêu dùng của người dân sau khủng hoảng kinh tế cũng
tăng chậm hơn, cơ cấu mặt hàng cũng thay đổi, trong khi đó hàng hóa và sản phẩm
dịch vụ của nước ta chất lượng chưa cao, giá cả kém cạnh tranh, lại chậm đổi mới
theo yêu cầu thị trường, nên khả năng xuất khẩu bị hạn chế. Việc liên tục thực hiện
chính sách tiền tệ nới lỏng, tăng mạnh cung tiền có thể dẫn đến nguy cơ lạm phát.
Nhưng nước ta cũng có những thuận lợi: Kinh tế nước ta tuy chịu tác động
tiêu cực từ sự suy thoái kinh tế thế giới, nhưng mức độ không nhiều. Nông nghiệp là

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

20


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
ngành ít chịu ảnh hưởng nhất và cũng là ngành phát triển toàn diện và tăng trưởng
cao liên tục trong năm 2012, 2013 và dự báo cả năm 2014. Tình hình chính trị, xã
hội ổn định và sự đồng thuận cao đã và đang là nhân tố tích cực để các doanh
nghiệp, hộ gia đình yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Những tháng
cuối năm 2013 đã xuất hiện những tín hiệu tích cực ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế.
Xu hướng phục hồi kinh tế cùng với việc cải thiện môi trường đầu tư, mở rộng thị
trường trong nước và xuất khẩu của Chính phủ đã tác động đến niềm tin của các nhà
đầu tư trong và ngoài nước. Số doanh nghiệp thành lập mới đang tiếp tục tăng lên
vào cuối năm 2014 là tín hiệu đáng mừng.
Để biến các triển vọng trên đây thành hiện thực, năm 2014 cần thực hiện
đồng bộ hệ thống nhiều giải pháp kinh tế, tài chính, cơ chế, chính sách, quản lý, điều
hành, tổ chức chỉ đạo của các ngành, các cấp và triển khai của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế. Một số hướng cần tập trung ưu tiên là:
- Tập trung giải ngân tốt, có chất lượng các nguồn vốn đầu tư phát triển trong
nước và nước ngoài.
- Mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Năm 2014 là năm của kế hoạch 5

năm 2011 – 2015 nên các ngành, địa phương sẽ tập trung nguồn lực cho đầu tư phát
triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ sau khi hồi phục kinh tế. Vì vậy,
lượng hàng hóa và sản phẩm dịch vụ tung ra thị trường sẽ tăng nhanh, đòi hỏi thị
trường tiêu thụ tăng tương ứng. Vì vậy, việc chăm lo tổ chức thu mua, nâng cao chất
lượng hàng hóa Việt Nam theo tiêu chuẩn quốc tế, giữ thương hiệu và uy tín một số
hàng hóa chủ lực, sắp xếp lại cơ cấu hàng hóa năm 2014 là giải pháp vừa mang tính
cấp bách trước mắt, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài nhằm mở rộng thị trường thế
giới.
- Đổi mới cơ chế chính sách kinh tế – tài chính nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất, hộ gia đình phát triển theo hướng bền vững, tăng chất lượng,
giảm chi phí để tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Cần ban
hành các cơ chế, chính sách có tính khả thi nhằm tái cơ cấu nền kinh tế trong hệ
thống các ngành sản xuất và dịch vụ.
- Đi đôi với phát triển kinh tế, năm 2014 Nhà nước cần tập trung cao độ
nguồn lực vốn và lao động đầu tư xây dựng mới và nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế
– xã hội theo yêu cầu phát triển bền vững, nhất là hệ thống giao thông, thủy lợi,
điện, nước sạch, vệ sinh môi trường, giáo dục – đào tạo, y tế, văn hóa. Tăng trưởng
kinh tế gắn với bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường
sinh thái cần được quán triệt trong mọi cấp, mọi ngành./.
2. Định hướng phát triển kinh tế xã hội tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng
Xây dựng tỉnh Vĩnh Phúc trở thành một trong những trung tâm kinh tế (công
nghiệp, thương mại, du lịch), văn hoá, giáo dục, y tế của Vùng trung du và miền núi

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

21


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Bắc Bộ; có hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối hiện đại và đồng bộ; có nền văn hoá

lành mạnh và đậm đà bản sắc dân tộc; quốc phòng – an ninh vững mạnh; đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao. Với mục tiêu cụ thể
như sau:
- Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP-giá SS2010) tăng 6,0% 6,5%; trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng khoảng 2,5 - 3,0%; công nghiệp
và xây dựng tăng 6,0 - 6,5%; dịch vụ tăng 7,5 - 8,0% (bao gồm cả thuế nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ).
- Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - xây dựng 60,0%; nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
10,1% ; dịch vụ 29,9% (bao gồm cả thuế nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ).
- GRDP bình quân đầu người (theo giá hiện hành) đạt khoảng 62 triệu đồng.
- Tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tăng 12% so với năm 2013.
- Huy động vốn đầu tư toàn xã hội đạt 15.000 tỷ đồng.
- Tổng thu ngân sách trên địa bàn phấn đấu đạt trên 17.818 tỷ đồng, trong đó:
Thu nội địa đạt 14.398 tỷ đồng. Chi ngân sách địa phương 9.571,4 tỷ đồng.
- Phấn đấu thu hút 15 dự án FDI, với tổng vốn đầu tư 150 - 180 triệu USD và
15 dự án DDI, với tổng vốn đầu tư 1.500 tỷ đồng.
- Mức giảm tỷ lệ sinh: 0,25%o.
- Số bác sỹ/vạn dân: 8,4 bác sỹ.
- Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,0%.
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi: 11%.
- Số lao động được giải quyết việc làm mới 19.000 - 21.000 lao động;
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 62 - 63%.
- Tỷ lệ dân số đô thị được cấp nước sạch 95% ; tỷ lệ dân số nông thôn được
cấp nước hợp vệ sinh là 81%.
- Tỷ lệ che phủ rừng đạt 25%.
- Tỷ lệ chất thải rắn đô thị được thu gom đạt 92,9%.
Với quyết tâm tăng trưởng cao, Vĩnh Phúc sẽ tiếp tục mời gọi các doanh
nghiệp đầu tư có tiềm năng vào các lĩnh vực: Sản xuất công nghiệp, các lĩnh vực sản
xuất phụ tùng ô tô, xe máy, điện, điện tử; Các dự án đầu tư lớn để nâng cấp Khu du
lịch Hồ Đại Lải, khu du lịch Tam Đảo, khu danh thắng Tây Thiên lên thành Khu du
lịch trọng điểm.; Xây dựng mới, cải tạo các chung cư, xây dựng nhà ở cho công

nhân thuê ở các Khu công nghiệp tập trung, các Siêu thị và các Trung tâm Thương
mại, Nhà hàng, khách sạn 3 sao trở lên; Các dự án thành lập hoặc hợp tác đầu tư về
Bênh viện Quốc tế với các chuyên khoa sâu tại Vĩnh Phúc.
II. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP KÍCH CẦU
Những bất ổn vĩ mô có tính nội tại cùng với tác động của khủng hoảng kinh
tế thế giới đã giúp chúng ta nhận diện rõ những yếu kém nội tại, có tính cơ cấu của
nền kinh tế. Đây chính là lúc chúng ta cần sáng suốt và đẩy mạnh quyết tâm khắc

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

22


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
phục những yếu kém nội tại, thực hiện những cải cách có tính cơ cấu tuy rất khó
khăn nhưng hứa hẹn sẽ đưa Việt Nam trở lại quỹ đạo tăng trưởng nhanh và bền
vững
Thứ nhất, về nhận thức tình hình: Nền kinh tế Việt Nam đang ghi nhận
những tín hiệu phục hồi tích cực. Gói kích cầu này mang tính chất đối phó tình thế
trong thời gian ngắn, giúp đưa nền kinh tế Việt Nam ra khỏi khó khăn và bắt đầu
phục hồi. Trong bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước thời gian tới vẫn còn rất nhiều
khó khăn thách thức, để có thể bứt phá và tạo đà tăng trưởng mạnh, bền vững trong
dài hạn đòi hỏi, một mặt, phải tiếp tục duy trì thực hiện có hiệu quả gói kích thích
kinh tế thứ nhất; mặt khác, cần bổ sung gói kích thích thứ hai tập trung cho các mục
tiêu trung và dài hạn, tái cấu trúc nền kinh tế.
Thứ hai, đối với gói kích thích kinh tế đang thực hiện: Các cơ quan chức
năng cần rà soát, đánh giá tổng thể những kết quả, hiệu quả mà gói kích cầu mang
lại cũng như những tồn tại, vướng mắc và kịp thời có biện pháp chấn chỉnh để tiếp
tục triển khai trong thời gian tới. Bên cạnh đó, nghiên cứu điều chỉnh liều lượng của
gói kích thích cho phù hợp với những diễn biến mới của tình hình kinh tế trong

nước và thế giới. Theo đó có thể:
(a) Giảm dần hỗ trợ lãi suất ngắn hạn, nhưng vẫn tiếp tục gói hỗ trợ lãi suất
trung, dài hạn; đồng thời giảm bớt các thủ tục hành chính quá cứng nhắc trong hoạt
động cho vay, nhất là đối với khu vực nông thôn và đối tượng là các hộ nông dân
đầu tư máy móc, thiết bị trong sản xuất nông nghiệp (theo đánh giá của các ngân
hàng, dư nợ cho vay đối với khu vực này tuy thấp, nhưng tỷ lệ nợ xấu thấp nhất,
trong hỗ trợ lãi suất lại thường thiếu các thủ tục theo quy định nên khó tiếp cận
vốn);
(b) Tiếp tục duy trì kế hoạch thực hiện nhóm giải pháp thông qua chính sách
tài khóa (giảm, giãn và miễn một số loại thuế...) và gói giải pháp bảo đảm an sinh xã
hội.
Thứ ba, nghiên cứu xây dựng gói kích thích kinh tế mới phù hợp với điều
kiện, khả năng và các cân đối vĩ mô của nền kinh tế; tập trung cho các mục tiêu
trung và dài hạn, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công
nghiệp và dịch vụ trong GDP; cấu trúc lại các ngành, các lĩnh vực kinh tế của nước
ta trên cơ sở lợi thế cạnh tranh trong hội nhập; hình thành các vùng kinh tế dựa trên
tiềm năng, lợi thế vùng gắn với nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế; trên cơ sở
đó điều chỉnh phân bổ nguồn lực để tập trung phát triển những ngành công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao, có tiềm năng phát triển và những
lĩnh vực nền tảng như kết cấu hạ tầng, giáo dục và khoa học - công nghệ.
Đề xuất nội dung của gói kích thích kinh tế mới:
(1) Sử dụng công cụ tài khóa và tiền tệ kết hợp với đẩy mạnh cải cách hành
chính, nhưng thiên về chính sách tài khóa hơn;

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

23


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô

(2) Quy mô nhỏ hơn gói kích thích kinh tế đang thực hiện trên cơ sở cân đối
vĩ mô (tăng trưởng kinh tế, lạm phát, khả năng ngân sách...);
(3) Đối với kích cầu qua chính sách tài khoá:
(a) Đẩy mạnh đầu tư công trong các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm
quốc gia, hạ tầng khu vực nông thôn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế;
(b) Cắt giảm thuế (như thuế VAT) cho nhiều mặt hàng thiết yếu cho tiêu
dùng hằng ngày để vừa có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh vừa bảo đảm an
sinh xã hội cho người có thu nhập thấp; Giãn thời gian nộp thuế (thu nhập doanh
nghiệp, nhập khẩu...) để hỗ trợ doanh nghiệp;
(4) Đối với kích cầu qua chính sách tiền tệ:
(a) Nghiên cứu riêng một gói kích cầu quy mô hạn chế và có điều kiện, dành
riêng cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là khu vực đặc biệt cần vốn, hiện
chưa được tiếp cận thông thoáng với nguồn vốn kích cầu lần thứ nhất, trong khi đó
lại tạo ra phần lớn việc làm, và là "đệm" an sinh xã hội quan trọng cho kinh tế Việt
Nam hiện nay;
(b) Mức lãi suất hỗ trợ thấp hơn so với hiện nay, thời gian từ 12 tới 18 tháng
và có thể gia hạn thêm từ 3 đến 6 tháng;
(c) Phương pháp cho vay cần kết hợp giữa "tài trợ dự án" (không đòi hỏi tài
sản thế chấp, mà dựa vào năng lực khả thi thương mại) và hỗ trợ kỹ thuật dự án (đưa
nguồn lực chuyên gia kỹ thuật, tài chính, pháp lý tới các doanh nghiệp có tiềm năng,
cần vốn, nhưng chưa đủ điều kiện kỹ thuật để tiếp cận vốn).
Thứ tư, tiến hành các chính sách hỗ trợ khác để khắc phục những hạn chế đã
xuất hiện trong quá trình thực hiện gói kích cầu thời gian qua; đồng thời bảo đảm
cân đối kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững:
(1) Thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành đối với nhóm giải pháp tiền tệ
nhằm giám sát hoạt động cho vay, bảo đảm hỗ trợ đúng đối tượng và sử dụng đúng
mục đích; các đoàn kiểm tra đối với nhóm giải pháp tài chính đi kiểm tra các địa
phương, công trình đầu tư cụ thể để chống lãng phí, tham nhũng và đầu tư sai mục
đích;

(2) Tiếp tục điều tiết linh hoạt, cẩn trọng thị trường tài chính - tiền tệ, nhất là
tăng trưởng tín dụng; kiểm soát tỷ lệ nợ xấu và những dấu hiệu tiêu cực, dòng vốn
nóng vào, ra nền kinh tế một cách bất thường; điều hành lãi suất và tỷ giá
VND/USD linh hoạt theo tín hiệu thị trường;
(3) Áp dụng các biện pháp kiểm soát nhập siêu, nhất là đối với các mặt hàng
xa xỉ như ô-tô, điện thoại di động...;
(4) Tiến hành nhiều đợt phát hành trái phiếu và đẩy mạnh cổ phần hóa (IPO)
các công ty, tập đoàn lớn của Nhà nước để thu hút tiền mặt trong lưu thông, tập
trung vốn sử dụng có trọng tâm, trọng điểm theo các kế hoạch kích thích kinh tế;

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

24


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
(5) Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về chủ trương, chính sách
kinh tế của Chính phủ, đặc biệt là thông tin đầy đủ, kịp thời về các kế hoạch, chính
sách kích thích kinh tế để người dân hiểu, ủng hộ và thực hiện đúng, hiệu quả, tránh
hiện tượng đầu cơ thông tin để trục lợi cá nhân./.
KẾT LUẬN
Có thể thấy, sau khi Chính phủ có chủ trương đẩy mạnh kích cầu tiêu dùng
cho toàn dân và lãi suất ngân hàng được cân đối về mức hợp lý, thị trường vay tiêu
dùng đang bắt đầu sôi động và hứa hẹn một cuộc cạnh tranh quyết liệt.
Nếu giải quyết tốt chính sách kích cầu tiêu dùng sẽ đem lại luồng sinh khí
mới cho sự phát triển kinh tế và tăng an sinh xã hội.

Dương Quang Minh Lớp QLKT K11E

25



×