Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

những giải pháp kích cầu tiêu dùng của việt nam nói chung và tỉnh thái nguyên nói riêng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.65 KB, 27 trang )

Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 1
KHOA SAU ĐẠI HỌC TRƯỜNG ĐH KINH TẾ & QTKD TN
ĐỀ TÀI: Những giải pháp kích cầu tiêu dùng của Việt
nam nói chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
Người hướng dẫn khoa học: TS.Đỗ Quang Quý
Người thực hiện: Nguyễn Thị Minh Phương
Lớp: CHQLKT.K2
Thái Nguyên - 2010
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 2
Phần I: Tổng quan về kích cầu 3
I. Nguyên lý của tổng cầu 3
II. Kinh nghiệm kích cầu của thế giới và Việt nam 5
Phần II: Thực trạng phát triển kinh tế của Việt nam nói
chung và của tỉnh Thái Nguyên nói riêng
8
I. Thực trạng phát triển kinh tế ở Việt nam hiện nay 8
II. Những chính sách kích cầu tiêu dùng của Việt Nam nói
chung và của tỉnh Thái Nguyên nói riêng
14
Phần III: Giải pháp kích cầu của Việt nam nói chung và
của tỉnh Thái Nguyên nói riêng
19
I. Định hướng phát triển kinh tế của Việt nam nói chung
và của tỉnh Thái Nguyên nói riêng
19
II. Lựa chọn, đề xuất giải pháp. 23
Kết luận 26
Tài liệu tham khảo 27
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 2


MỞ ĐẦU
Để chống đỡ sức tàn phá khủng khiếp của “cơn bão” khủng hoảng tài chính toàn
cầu kéo theo suy thoái kinh tế thế giới thời gian qua, một trong những giải pháp
được hầu hết các nước trên thế giới (trong đó có Việt Nam) áp dụng là gói kích cầu,
hay nói chính xác hơn là kích thích kinh tế. Nhờ vậy, cho đến nay, kinh tế thế giới
đã xuất hiện những tín hiệu tích cực trên nhiều lĩnh vực, kinh tế Việt Nam cũng đã
qua giai đoạn khó khăn nhất và đang trong quá trình hồi phục.
Hàng loạt các giải pháp kích cầu đã được “tung ra”, nhằm ưu tiên cho việc ngăn
chặn suy giảm kinh tế. Nhiều chuyên gia đã đề xuất kích cầu cần nghiêng thêm về
tiêu dùng. Đề xuất này xuất phát từ nhiều căn cứ.
Trước hết, tăng trưởng kinh tế suy giảm do hai yếu tố chủ yếu. Ở đầu vào do
vốn đầu tư. Ở đầu ra do tiêu thụ sản phẩm. Yếu tố vốn hiện đã có hướng giải quyết,
bởi hàng loạt các giải pháp kích cầu vừa qua, từ việc cấp bù lãi suất, đến việc bảo
lãnh tín dụng,… Việc giảm, giãn thuế cũng có tác động làm tăng tích lũy và do đó
có tác động như đầu tư,… Yếu tố tiêu thụ tuy cũng được thể hiện trên ba mặt: Một
mặt, đầu tư của ngành này, sản phẩm này sẽ có tác động tiêu thụ của ngành kia, sản
phẩm kia. Mặt khác, nó cũng có tác dụng gián tiếp, thông qua việc giải quyết công
ăn việc làm cho người lao động trên cơ sở đó tăng sức mua có khả năng thanh toán
của dân cư. Mặt khác nữa là trên cơ sở giảm chi phí để giảm giá bán và kích thích
tiêu dùng.
Trong điều kiện xuất khẩu bị sụt giảm cả về lượng, cả về giá làm cho kim ngạch
xuất khẩu bị sụt giảm “kép”, thì tiêu thụ trong nước sẽ trở thành cứu cánh. Muốn
tiêu thụ trong nước tăng thì phải tăng tiêu dùng, trong đó tăng tổng mức bán lẻ hàng
hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng.
Chính vì ý nghĩa và vai trò to lớn của chính sách kích cầu đối với
tiến trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam nên em có hứng thú
đặc biệt với đề tài “Những giải pháp kích cầu trong tiêu dùng của Việt
nam”. Nội dung đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 phần:
Phần I: Tổng quan về kích cầu
Phần II: Thực trạng phát triển kinh tế của Việt nam nói chung

và Thái Nguyên nói riêng
Phần III: Những giải pháp kích cầu tiêu dùng của Việt nam nói
chung và Thái Nguyên nói riêng.
Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã cố gắng hết sức, song không thể
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp chân thành
của thầy và tất cả các bạn để bài tiểu luận có thể hoàn thành một cách tốt nhất.
Xin chân thành cảm ơn.
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 3
Phần I
TỔNG QUAN VỀ KÍCH CẦU
I. NGUYÊN LÝ CỦA TỔNG CẦU
Tổng cầu, trong kinh tế học, là lượng nhu cầu có khả năng tài chính của toàn bộ
nền kinh tế đối với các hàng hóa cuối cùng.
Tổng cầu bao gồm nhu cầu trong nước và nhu cầu nước ngoài. Nhu cầu trong
nước lại bao gồm đầu tư của xí nghiệp, tiêu dùng của cá nhân, chi tiêu ròng của
chính phủ (chênh lệch giữa chi tiêu chính phủ và thu của chính phủ từ thuế). Nhu
cầu nước ngoài chính là xuất khẩu ròng (chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu).
Giả định rằng, trong toàn nền kinh tế, toàn bộ tiết kiệm sẽ được sử dụng để đầu
tư. Khi đó, tổng cầu cũng chính là thu nhập quốc dân
Chủ nghĩa Keynes cho rằng nếu quản lý được tổng cầu thì sẽ giữ được ổn định
kinh tế vĩ mô và đạt được tăng trưởng kinh tế tối ưu. Hoạt động này gọi là chính
sách quản lý tổng cầu hay chính sách Keynes, với hai phương tiện chính là chính
sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chủ trương này đối lập với quan điểm của kinh
tế học trọng cung trọng thị cải cách mặt cung của nền kinh tế.
Tổng cầu là lượng hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trên lãnh thổ một
nước(GDP) mà các tác nhân kinh tế sẵn sàng và có khả năng mua tại mỗi mức giá.
Trong nền kinh tế mở thì tổng cầu bao gồm 4 nhân tố:
C: Tiêu dùng của các hộ gia đình
I: Đầu tư của doanh nghiệp
G: Chi tiêu của chính phủ

NX: Xuất khẩu ròng
Phương trình đường tổng cầu trong một nền kinh tế mở có dạng:
AD = C + I + G + NX
Đường tổng cầu (AD):
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 4
Đường tổng cầu dốc xuống. Được giải thích bởi ảnh hưởng của giá đối với tiêu
dùng, đầu tư, xuất khẩu ròng:
Mức giá và tiêu dùng(Hiệu ứng Pigou): với mức giá thấp, lượng tiền mà các hộ
gia đình nắm giữ có giá trị hơn, các hộ gia đình cảm thấy giàu có hơn nên họ chi
tiêu nhiều hơn trước => tăng tiêu dùng.
Mức giá và đầu tư (hiệu ứng Keynes): Với mức giá thấp các hộ gia đình cần giữ
ít tiền hơn để tiêu dùng. Nên họ cho vay số tiền thừa, làm lãi suất giảm => kích
thích đầu tư.
Mức giá và xuất khẩu ròng(Hiệu ứng tỷ giá hối đoái): với mức giá thấp, làm cho
hàng trong nước rẻ tương đối so với hàng ngoại. Điều này có tác dụng khuyến khích
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu =>tăng xuất khẩu ròng.
=>Kết luận: Cả ba hiệu ứng này đã cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa giá
và sản lượng hàng hóa. Hay: đường tổng cầu dốc xuống.
Đường tổng cầu sẽ dịch chuyển khi có sự thay đổi về lượng tổng cầu tại mỗi
mức giá.
Tổng cầu là mối quan hệ giữa cầu GDP thực tế và mức giá.
Tổng chi tiêu là số lượng của cầu GDP thực tế tại một mức giá nhất định.
Các tác nhân chi phối cầu:
• Giá cả của hàng hóa dịch vụ: giá cả và cầu nghịch biến
• Giá cả hàng hóa tương tự hoặc có khả năng thay thế
Giá hàng hóa thay thế đối với một mặt hàng nào đó biến động, thì cầu về
hàng hóa này sẽ biến động theo và sự biến động diễn ra theo hướng thuận chiều.
• Thu nhập của người tiêu dùng
YD tăng thì AD tăng và ngược lại.
• Số lượng người mua trên thị trường

Số người tiêu dùng càng đông thì AD càng lớn và ngược lại.
• Sở thích của người tiêu dùng
Đây là mối quan hệ tỷ lệ thuận, và quan hệ này rất khó định lượng.
• Sự biến động của chính cơ cấu tổng cầu
Như trên đã biết tổng cầu gồm ba bộ phận hợp thành là cầu về đầu tư, cầu
tiêu dùng và nhu cầu nước ngoài. Nhưng cầu đầu tư và cầu tiêu dùng là những nhân
tố quyết định tổng cầu.
a. Sự biến động của cầu đầu tư và ảnh hưởng của nó tới tổng cầu
Cầu đầu tư tỷ lệ thuận với AD.
Đầu tư tăng sẽ làm biến đổi nội dung vật chất của tổng cầu: Cầu đầu tư tăng
làm cho tỷ lệ tích lũy sẽ tăng lên, tỷ lệ tiêu dùng giảm xuống ⇒ các sản phẩm
phục vụ đầu tư tăng như nguyên, nhiên vật liệu,… tăng lên ⇒ từ đó nền sản
xuất sẽ chuyển từ nền sản xuất nhiều tư liệu sinh hoạt sang nền sản xuất nhiều
tư liệu sản xuất.
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 5
b. Sự ảnh hưởng của cầu tiêu dùng đến tổng cầu
* Các nhân tố chi phối cầu tiêu dùng
- Tổng cung: đây là nhân tố cơ bản nhất, quyết định sự gia tăng quỹ tiêu
dùng, vì về cơ bản tiêu dùng bị hạn chế bởi trình độ phát triển của sản xuất.
- Tỷ lệ các bộ phận khi phân phối thu nhập quốc dân.
Sản xuất phát triển và thu nhập quốc dân tăng lên mới chỉ là tiền đề để tăng
quỹ tiêu dùng.
Trong điều kiện nhất định, sự tăng của quỹ tiêu dùng còn do tỷ lệ giá trị sản
xuất cuối cùng dành cho tích lũy và tiêu dùng quyết định.
Nguyên tắc xác định mức tối đa của quỹ tiêu dùng là phải đảm bảo mức tối
thiểu của quỹ tích lũy nghĩa là phải đảm bảo cho các doanh nghiệp tiến hành tái sản
xuất giản đơn một cách bình thường. Mức tối thiểu của quỹ tiêu dùng do cơ cấu dân
cư và tỷ lệ tăng dân số tự nhiên quyết định. Nguyên tắc xác định mức tối thiểu của
quỹ tiêu dùng là phải đảm bảo mức tiêu dùng bình quân đầu người trong thời gian
kế hoạch không thấp hơn mức tối thiểu. Nếu thấp hơn mức tối thiểu thì sẽ ảnh

hưởng tới việc cải thiện tố chất người lao động.
- Giá trị, giá trị sử dụng và giá cả của hàng tiêu dùng:
Giá trị của hàng hóa thể hiện đẳng cấp chất lượng, giá cả tỷ lệ nghịch với với
cầu tiêu dùng.
- Một số nhân tố khác: thể chế phân phối thu nhập quốc dân là một nhân tố
quan trọng có ảnh hưởng tới việc hình thành quỹ tiêu dùng trong thực tế đó là thuế,
chế độ tiền lương, tiền công tối thiểu, tâm lý, tập quán,….
* Ảnh hưởng của cầu tiêu dùng tới tổng cầu
Cầu tiêu dùng tăng ⇒ giảm tích lũy ⇒ giảm đầu tư ⇒ giảm tổng cầu.
Cầu tiêu dùng giảm ⇒ tăng tích lũy ⇒ tăng đầu tư ⇒ tăng tổng cầu.
• Sự ảnh hưởng của cầu xuất khẩu tới tổng cầu
Xuất khẩu (X) tăng lên thì tổng cầu tăng và ngược lại.
Ngoài ra, còn có một số nhân tố khác tác động tới AD đó là: nhập khẩu (IM),
mức cung tiền (MS), tiết kiệm (S), thuế trực thu (Td).
II. KINH NGHIỆM KÍCH CẦU CỦA THẾ GIỚI VÀ VIỆT
NAM
Chính sách kích cầu dựa trên cơ sở lý luận của nhà kinh tế John Maynard
Keynes lại được thực hiện rộng rãi ở khắp mọi nước trên thế giới vì cuộc khủng
hoảng tài chính ở Mỹ lan rộng khắp
1. GDP của Trung Quốc trong hai quý đầu năm 2009 đã tăng 7,9%,
nhờ các gói kích cầu có hiệu quả nhanh.
Các giải pháp kích cầu của Trung Quốc tập trung nhiều vào bất động sản -
lĩnh vực này đóng góp 9,2% GDP của nước này. Trong 11 tháng của năm 2008,
Chính phủ Trung Quốc đã rót vào bất động sản 387,5 tỷ USD ( 2,7 nghìn tỷ
Nhân dân tệ) trong đó có 280 triệu USD trong gói kích cầu chung của Chính
phủ, công bố vào tháng 11/2008.
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 6
Khoản tiền này Trung Quốc đầu tư để xây dựng nhà ở cho người thu nhập
thấp ở thành thị, khuyến khích mua nhà ở, khuyến khích các doanh nghiệp trong
lĩnh vực bất động sản, thúc đẩy ổn định thị trường bất động sản ở các địa

phương, cải thiện quá trình giám sát thị trường bất động sản.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng tung 4.000 tỷ Nhân dân tệ (công bố tháng
11/2008) kích cầu cho các lĩnh vực khác, đặc biệt là cắt giảm thuế đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa - bộ phận có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nước
này. Trong số 4,3 triệu doanh nghiệp nhỏ và vừa sở hữu tư nhân thì có tới 95%
hoạt động xuất khẩu, đóng góp gần 60% tổng sản phẩm quốc nội, 50% nguồn
thu từ thuế, 68% xuất khẩu và 75% công việc mới mỗi năm.
Qua một thời gian thực hiện các gói giải pháp kích cầu của Trung Quốc,
nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng bước đầu có thể rút ra bài học kinh nghiệm
quan trọng:
Trung Quốc đã sử dụng gói kích cầu để ứng phó với khủng hoảng theo hướng
tạo tiền đề để cải tổ toàn diện nền kinh tế; đổi mới cơ cấu và công nghệ, tăng
năng suất lao động; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục. Thứ hai, tăng
cường đầu tư vào nông thôn. Thứ ba, có những giải pháp cụ thể giúp đỡ người
nghèo.
Công tác kiểm tra, giám sát để đảm bảo các khoản đầu tư của Chính phủ
được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả. Trung Quốc đã lập 24 tổ kiểm tra
gồm các thành phần ủy ban cải cách, đại diện các bộ, ngành. Tổ kiểm tra đã đến
từng địa phương, từng công trình đầu tư cụ thể… kiểm tra tiến độ, không để xảy
ra lãng phí, tham nhũng.
2. Việt Nam không có năng lực cao để kích cầu các hoạt động kinh tế
nội địa của mình nhằm cân bằng lại sụt giảm từ xuất khẩu.
Bài của Abe de Ramos trên tạp chí Far Eastern Economic Review hôm
20/01/2010 gọi các nước Asean trong đó có Việt Nam là “những tiểu hổ trúng
thương”.
Theo tác giả, một nhà nghiên cứu ở Asia Society tại Hong Kong thì các nước
như Việt Nam và Philippines có nguy cơ không giành lại được vị thế “hổ châu
Á” của họ.
Bài viết cho rằng chiến lược thúc đẩy các hoạt động kinh tế nội địa của hai
nước này dựa trên chính sách kích cầu của chính phủ.

Nhưng với khủng hoảng tại châu Á ngày càng sâu rộng, các gói kích cầu nói
chung ở châu Á cũng đã khiến các nền kinh tế khu vực bị kéo căng hết cỡ.
Tác động vào thị trường bằng chính sách tiền tệ sẽ không còn chỗ để phát huy
hiệu quả.
Mặt khác, theo Abe de Ramos, trần thuế thấp, tham nhũng gây thâm hụt tài
chính chỉ làm cho cán cân thu chi của chính quyền thêm yếu kém.
Các nước còn khả năng vay như Thái Lan và Malaysia sẽ còn có thể gọi quỹ
nhưng với chi phí cao hơn vì rủi ro nhiều hơn.
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 7
Thực tế, sự khác biệt giữa các nước đang phát triển trong khối Asean và các
nước còn lại trong vùng chính là sức mạnh của nền kinh tế nội địa.
Tiêu dùng nội địa tính bằng tỷ lệ của GDP không nhích lên bao nhiêu từ
1990.
Tất nhiên, đầu tư và chi phí công cao, giống như Ấn Độ và Trung Quốc cũng
cân bằng lại.
Tuy thế, trong cả vùng Đông Nam Á, từ Việt Nam, các chỉ số đầu tư và chi từ
quỹ nhà nước đều thấp.
Nội lực quá yếu
Việt Nam được tác giả đánh giá là “người mới đến” trong cuộc chơi tự do hóa
mậu dịch.
Với tất cả các nước trong vùng, và cũng đúng trong trường hợp Việt Nam và
Philippines, tiền ngoại hối do công nhân lao động ở nước ngoài gửi về đóng một
vai trò quan trọng để cân bằng nền kinh tế.
Nhưng đây cũng là một điểm gây nguy cơ cho các nước này.
Về ngắn hạn, việc các nước phát triển ngưng tuyển lao động từ Đông Nam Á
sẽ khiến nguồn tiền này cạn đi.
Về lâu dài, hiện tượng ngoại hối chứng tỏ các nước này không đủ khả năng
tạo ra sự thịnh vượng ngay trong biên giới của họ.
“Họ đã thất bại trong quá trình sáng tạo và dựng lên những công nghệ có sức
cạnh tranh của chính mình”.

So với Đông Nam Á, Trung Quốc và Ấn Độ đều lợi dụng đầu tư nước ngoài
để tạo ra những tập đoàn vươn được ra quốc tế.
Còn Đông Nam Á thì không làm được điều này.
Kết luận lại, tác giả cho rằng cuộc suy thoái hiện nay đang thách thức các
chính phủ Asean phải xem lại viễn kiến về tương lai, làm sao để nền kinh tế nội
địa của họ có đủ sức quyết định số phận của mình.
Như vậy , kích cầu phải đi kèm chính sách tiền tệ phù hợp.
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 8
Phần II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM NÓI
CHUNG VÀ CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN NÓI RIÊNG
I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
1. Thực trạng phát triển kinh tế Việt nam hiện nay:
Năm 2009, kinh tế nước ta phát triển trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn hơn
các năm trước. Ở trong nước, thiên tai xẩy ra trên diện rộng với mức độ rất nặng nề.
Cả năm có 11 cơn bão tràn qua lãnh thổ, trong đó có những cơn gây lũ lụt, ngập úng
sâu và dài ngày tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, gây thiệt hại hết sức
nghiêm trọng. Dịch bệnh, nhất là cúm A/H1N1, sốt xuất huyết, sâu bệnh bùng phát
ở nhiều vùng và địa phương. Ở ngoài nước, thị trường giá cả thế giới biến động
phức tạp. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động trực
tiếp đến nhiều ngành kinh tế nước ta như công nghiệp, xuất khẩu, thu hút vốn đầu
tư, du lịch. Thuận lợi tuy có nhưng không nhiều.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị, Quốc Hội, Chính phủ đã kịp thời đề ra các
quyết sách thích hợp và cụ thể bằng các chủ trương, chính sách kinh tế, tài chính
nhằm vượt qua khó khăn, phát huy thuận lợi, tập trung mọi nguồn lực cho phát triển
kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Tháng 12-2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết
số 30 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng
trưởng, bảo đảm an sinh xã hội. Gói kích cầu hỗ trợ các doanh nghiệp và hộ gia đình
được thực hiện với nhiều giải pháp thích ứng như giảm lãi suất cơ bản, hỗ trợ lãi

suất vay vốn lưu động 4%/năm, bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
giãn thời gian nộp thuế… Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự nỗ
lực cố gắng của các bộ, ngành, địa phương, các cơ sở sản xuất và doanh nghiệp vẫn
duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả năm tăng 5,2%, vượt chỉ tiêu Quốc hội
đề ra (5%). Tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp nhất trong vòng 10 năm gần đây
(năm 2008 tăng 6,18%, năm 2007 tăng 8,46%, 2006 tăng 8,23%…), nhưng Việt
Nam vẫn được thế giới đánh giá là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao
trong khu vực châu Á (sau Trung Quốc tăng 7,8%). Diễn biến trong năm, xu hướng
tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước: quý I tăng 3,14%, quý II tăng 4,46%, quý
III tăng 5,76% và quý IV ước tăng 6,8%. Cả 3 khu vực kinh tế đều đạt tốc độ tăng
trưởng dương, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2%, khu vực
công nghiệp và xây dựng tăng 5% và khu vực dịch vụ tăng trên 6,5%.
Mức tăng trưởng như trên cho thấy, xu hướng phục hồi của nền kinh tế nước
ta năm 2009 là rõ nét. Kết quả đó đánh dấu sự thành công bước đầu của Chính phủ
trong chỉ đạo, điều hành vĩ mô nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế. Đến nay, có thể
khẳng định chắc chắn rằng Việt Nam đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ
nhất của thế giới trong vòng 80 năm qua và bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng.
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 9
Do tăng trưởng kinh tế khá nên tình hình tài chính ổn định. Tổng thu ngân
sách cả năm ước đạt 390 nghìn tỉ đồng. Các khoản thu lớn đều đạt và vượt dự toán
cả năm và tăng so với năm 2008. Thu nội địa tăng 5%, thu cân đối ngân sách từ hoạt
động xuất nhập khẩu tăng 3,5%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp nhà
nước tăng 10%, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô)
bằng 90%, thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước tăng 3%, thu
phí xăng dầu tăng 45%, thu phí và lệ phí tăng 5%.
Tổng chi ngân sách nhà nước cả năm đạt 104% dự toán cả năm, trong đó chi
đầu tư phát triển tăng 8%; (riêng đầu tư xây dựng cơ bản tăng 9%); chi phát triển sự
nghiệp kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể tăng
5%, chi trả nợ và viện trợ tăng 3%.

Tuy nhiên, điều đáng lo ngại trong cân đối ngân sách nhà nước năm 2009 là
bội chi ngân sách nhà nước còn cao – 6,9% GDP, trong khi khoản bội chi này chưa
tính đến các khoản chi từ nguồn trái phiếu chính phủ, các khoản chính phủ vay về
cho doanh nghiệp vay lại. Năm 2008, khi lạm phát gần 20% bội chi ngân sách chỉ có
5%, nhưng năm nay lạm phát dưới 6,9% mà bội chi ngân sách như trên là quá lớn,
rất đáng phải suy nghĩ. Tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP bằng 29,7%, tuy nhiên,
theo đánh giá của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới (WB), thì vẫn nằm trong mức
an toàn. Nhưng, nếu tính thêm yếu tố tỷ giá hối đoái tăng, thì tổng nợ nước ngoài
lên tới mức cao hơn tổng thu ngân sách nhà nước năm 2009, là điều đáng quan ngại.
Các ngành sản xuất và dịch vụ tiếp tục tăng trưởng khá nhưng chưa đều và
chưa vững.
Sản xuất nông nghiệp phát triển và tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất nông,
lâm nghiệp và thủy sản năm 2009 ước tăng 4,2% so năm 2008 (năm 2008 tăng
5,6%), trong đó nông nghiệp tăng 3,5%, lâm nghiệp tăng 2,8% và thủy sản tăng
4,5%. Trong bối cảnh có nhiều khó khăn do thiên tai lớn gây thiệt hại nặng nề, nhất
là ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, thì đây là điều rất đáng ghi nhận, song hạn
chế vẫn còn nhiều.
Trong trồng trọt, sản lượng lúa cả năm ước đạt 39,3 triệu tấn, là mức cao nhất
từ trước đến nay và tăng hơn nửa triệu tấn so với năm 2008. Mặc dù diện tích gieo
cấy giảm do rét đậm trong vụ đông xuân các tỉnh phía Bắc và ảnh hưởng của mưa lũ
lớn trong vụ hè thu và vụ mùa, nhưng nhờ năng suất lúa tăng nên sản lượng tăng cả
3 vụ trong năm. Sản xuất ngô tiếp tục phát triển toàn diện cả diện tích, năng suất nên
sản lượng tăng khoảng 400 nghìn tấn so với năm 2008.
Sản lượng lương thực có hạt năm 2009 đạt trên 44 triệu tấn, tăng khoảng 700
nghìn tấn so với năm 2008, là mức cao nhất từ trước đến nay. Lương thực bình quân
nhân khẩu đạt khoảng 513 kg/người, tăng 11 kg so với năm 2008 (502kg), dù dân số
tăng hơn 1 triệu người. Do đó an ninh lương thực quốc gia được bảo đảm ổn định
trong mọi tình huống. Lượng gạo xuất khẩu cả năm đạt hơn 6 triệu tấn, tăng 33% so
với năm 2008. Thiếu đói giáp hạt giảm 31% về số hộ, giảm 27,6% về số khẩu so với
năm 2008, dù thiên tai, bão lũ gây thiệt hại nặng nề hơn. Sản xuất rau, màu, cây

Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 10
công nghiệp, cây ăn quả tiếp tục phát triển và tăng trưởng khá. Sản lượng cà-phê
nhân vượt 1 triệu tấn, cao su mủ khô trên 700 tấn…
Chăn nuôi phát triển toàn diện cả về gia súc, gia cầm. Giá trị sản xuất chăn
nuôi năm 2009 ước tăng 7,5% và cao hơn tốc độ tăng năm 2008 (6%) và các năm
trước đó.
Lâm nghiệp vẫn phát triển trong khó khăn. Diện tích trồng rừng tập trung đạt
trên 220 nghìn ha, tăng 5% so với năm 2008, sản lượng gỗ khai thác đạt 3.520 nghìn
m3. Diện tích rừng bị cháy, bị phá chỉ có 3.500 ha, tỷ lệ rừng được che phủ đạt
39,5%, cao hơn năm 2008.
Tuy bão lũ nhiều, nhưng nuôi trồng và đánh bắt thủy sản vẫn phát triển và
tăng trưởng tốt. Sản lượng thủy sản cả năm đạt trên 4,9 triệu tấn, tăng 4,5% so với
năm 2008, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 2,6 triệu tấn, sản lượng đánh bắt trên
2,3 triệu tấn, đều cao hơn năm 2008. Sản xuất thủy sản không chỉ đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trong nước, mà còn tăng số lượng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu thủy
sản cả năm ước đạt 4,3 tỉ USD, mức cao nhất từ trước đến nay và tăng so với năm
2008.
Tuy nhiên, hạn chế của nông, lâm nghiệp và thủy sản 2009 là tính bền vững
chưa cao. Trong sản xuất, xu hướng tự phát chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi
còn phổ biến. Diện tích lúa vụ thu đông (vụ 3 ở vùng đồng bằng sông Cửu Long)
vẫn phát triển tự phát, chưa ổn định. Sản lượng các cây trồng khác tăng – giảm
không ổn định, nhất là cây vụ đông ở vùng đồng bằng sông Hồng, như cây bông,
mía, cà-phê, cao-su… Chăn nuôi trâu, bò đều giảm và tình trạng nhập bò ngoại
(Thái Lan) với số lượng lớn không qua kiểm dịch đang tiềm ẩn nguy cơ lây lan dịch
bệnh, nhưng chưa có biện pháp quản lý của các ngành, các địa phương. Nuôi trồng
và khai thác thủy sản vẫn chưa ổn định cả về diện tích mặt nước, kỹ thuật, con
giống, ngư trường, ngư cụ, tàu thuyền… nên tốc độ tăng trưởng đã chậm lại so với
các năm trước.
Thị trường tiêu thụ, nhất là xuất khẩu gặp nhiều khó khăn do tác động của
khủng khoảng kinh tế toàn cầu. Mặc dù lượng nông sản xuất khẩu nước ta năm 2009

tăng, nhưng kim ngạch lại giảm do giá giảm: Lượng gạo tăng 33% nhưng kim ngạch
giảm 5,8%, cà-phê tăng 15,5% về lượng nhưng giảm 17,4% về trị giá, thủy sản xuất
khẩu cũng tăng chậm.
Sản xuất công nghiệp bắt đầu phục hồi và tăng trưởng dần qua các quý. Giá
trị sản xuất công nghiệp cả năm ước đạt 8%, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà
nước tăng 3,7%, khu vực ngoài nhà nước tăng trên 10% và khu vực FDI tăng trên
8%. Các tốc độ này thấp hơn tốc độ tăng của các năm trước do tác động tiêu cực của
khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, nét tiến bộ đáng ghi nhận là tốc độ tăng
trưởng công nghiệp quý sau cao hơn quý trước: Quý I tăng 2,2%, quý II tăng 7%, 6
tháng đầu năm tăng 4,3%, quý III tăng 8,5%, 9 tháng tăng 6,5%. Trong 34 sản phẩm
công nghiệp chủ yếu có 18 sản phẩm tăng so với năm 2008. Một số tỉnh, thành phố
vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, trong đó Thanh Hóa tăng 13%, Quảng
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 11
Ninh tăng 13%, Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 10%. Tuy nhiên, công nghiệp vẫn hồi phục
chưa đều, chưa vững. Giá trị sản xuất công nghiệp của nhiều mặt hàng và địa
phương giảm mạnh so với năm 2008 do ảnh hưởng của thị trường tiêu thụ, nhất là
xuất khẩu, như: phân hóa học, khí đốt thiên nhiên, xe chở khách, khí hóa lỏng, vải
dệt từ sợi bông, quần áo người lớn. Các tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp lớn
hoặc có nhiều khu công nghiệp tập trung, nhiều dự án FDI, là những địa phương có
giá trị sản xuất công nghiệp tăng chậm hoặc ít bị giảm sút so với năm 2008.
Đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước đạt kế hoạch đề ra, trong đó vốn trung
ương vượt kế hoạch 5%. Thu hút vốn FDI giảm mạnh (70%) so với năm 2008, chỉ
đạt trên 22 tỉ USD. Trong đó, vốn đăng ký mới đạt trên 17 tỉ USD, vốn đăng ký bổ
sung đạt trên 5 tỉ USD. Tuy nhiên, tỷ lệ vốn thực hiện đạt khá, bằng 47% (10 tỉ
USD) vốn đăng ký, cao hơn năm 2008 (18%).
Hạn chế khác của đầu tư nước ngoài trong năm 2009 là tỷ trọng vốn đầu tư
vào bất động sản tăng quá nhanh: từ 25% năm 2007, 36,8% năm 2008 lên tới 60%
năm 2009. Với cơ cấu đầu tư như vậy, khu vực FDI không tạo thêm nhiều việc làm
và ít có khả năng tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, không đẩy mạnh được xuất
khẩu.

Về sử dụng vốn đầu tư phát triển đã có khởi sắc song chưa đều, chưa vững.
Chủ trương kích cầu thông qua nhiều giải pháp hỗ trợ lãi suất cho vay theo Quyết
định số 131/QĐ-TTg là đúng đắn, đã góp phần giải cứu cho nhiều doanh nghiệp
vượt qua khó khăn, duy trì sản xuất kinh doanh. Song hạn chế, bất cập vẫn còn.
Thực tế chỉ có khoảng 20% doanh nghiệp được vay vốn hỗ trợ lãi suất theo Quyết
định trên, 80% số doanh nghiệp còn lại và khu vực hộ gia đình nông dân sản xuất
nông nghiệp và kinh tế nông thôn ít được hưởng lợi từ chủ trương kích cầu. Điều
này đã gây ra bất bình đẳng trong quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp, hộ gia
đình và giảm đi ý nghĩa của chủ trương kích cầu của Chính phủ.
Hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư nói chung chưa cao. Tổng mức đầu tư toàn
xã hội năm 2009 bằng 42,2% GDP (kế hoạch là 39,5%), chỉ số ICOR lên đến 8 là
quá cao, so với mức 6,6 của năm 2008
Thị trường, giá cả khá ổn định nhưng sức mua tăng chậm. Tổng mức bán lẻ
hàng hóa và dịch vụ năm 2009 tăng 18%, (nếu trừ yếu tố giá thì còn tăng 10%). Tốc
độ này thấp hơn các năm trước, trong đó kinh doanh thương nghiệp tăng 19,1%,
khách sạn nhà hàng tăng 18,8%, dịch vụ tăng 20,2% và du lịch tăng 1,3% so với
năm 2008. Thị trường trầm lắng và sức mua tăng chậm, nhất là khu vực nông thôn.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả năm ước đạt 57 tỉ USD, giảm 11% so với
năm 2008, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 6,7%, khu vực FDI giảm
15,5% (kể cả dầu thô), nếu không kể dầu thô thì khu vực FDI chỉ giảm 4%. Một số
mặt hàng xuất khẩu tăng trong năm là gạo, cà-phê, than đá, dầu thô, cao-su. Nét mới
trong xuất khẩu năm 2009 là thị trường Hoa Kỳ đạt kim ngạch lớn nhất, gần 10 tỉ
USD (tăng mạnh so với các năm trước), EU đạt 8 tỉ USD và thị trường ASEAN gần
8 tỉ USD.
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 12
Kim ngạch nhập khẩu cả năm ước đạt 69 tỉ USD, giảm 17% so với năm 2008,
bao gồm khu vực kinh tế trong nước giảm 20%, khu vực FDI giảm 13%. Các mặt
hàng nhập khẩu năm 2009 chủ yếu là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, phụ
liệu dệt may… phục vụ sản xuất và hàng tiêu dùng thiết yếu, nhưng có xu hướng
giảm cả lượng và giá. Thị trường nhập khẩu lớn nhất vẫn là Trung Quốc, Nhật

Bản…
Nhập siêu cả năm là 12 tỉ USD, giảm 33% so với năm 2008 (18 tỉ USD).
Nguyên nhân giảm nhập siêu, một mặt, do lượng hàng hóa nhập khẩu giảm hoặc
tăng chậm; mặt khác, chủ yếu do giá giảm. Tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất
khẩu cả năm là 16,39% (năm 2008 là 29%). Tính bền vững của thị trường xuất –
nhập khẩu năm 2009 vẫn chưa ổn định, nhập khẩu giảm mạnh nhưng mức nhập siêu
vẫn cao là điều đáng suy nghĩ.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12-2009 tăng 6,28% so với tháng 12-2008.
Mục tiêu kiềm chế lạm phát được bảo đảm ổn định hơn hẳn năm 2008 (tăng 19,8%).
Đáng chú ý là giá cả nhóm hàng ăn uống và dịch vụ ăn uống chỉ tăng 3,8%, trong đó
giá lương thực tăng thấp nhất (2%), nhóm thực phẩm tăng 3,5%, nên thị trường
lương thực, thực phẩm nói chung ổn định. Nhóm hàng tăng giá cao nhất là nhà ở và
vật liệu xây dựng, kế đến là đồ dùng và dịch vụ khác, đồ uống, thuốc lá và giáo dục.
Giá USD tăng nhẹ: 8,5%, trong khi giá vàng tăng mạnh: 50% so với tháng
12-2008. Vấn đề đáng lo ngại của CPI trong năm 2009 là tính bền vững chưa cao.
Tình trạng sốt giá vàng, giá USD và cả giá lương thực ở mức độ khác nhau diễn ra
trong năm, một mặt, do giá thế giới biến động; mặt khác, do công tác quản lý, tuyên
truyền còn nhiều bất cập.
Hoạt động du lịch tăng chậm. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam cả năm đạt
3,8 triệu lượt người, bằng 88% so với năm 2008. Các nước và vùng lãnh thổ có
nhiều khách du lịch đến nước ta những năm trước, năm nay đều giảm, trong đó có
Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản,… Hoạt động du lịch trong nước cũng
trong tình trạng đó với số lượt khách và doanh thu từ du lịch, nghỉ dưỡng đều tăng
chậm hơn năm 2008. Nguyên nhân một phần do tác động tiêu cực của khủng hoảng
kinh tế thế giới, mặt khác do chất lượng và sản phẩm du lịch nước ta còn hạn chế,
bất cập.
Tóm lại, kinh tế nước ta năm 2009 về cơ bản đã phục hồi và tăng trưởng hợp
lý, nhất là những tháng cuối năm. Trong bối cảnh tác động tiêu cực của khủng
hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, những kết quả đạt được là rất đáng ghi nhận.
Các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB… đều đánh giá cao kết quả này,

như IMF nhận định: Trong năm 2009 tăng trưởng dự kiến 5,2% của Việt Nam được
xem là rất khả quan so với các nền kinh tế khác. Tuy nhiên, đánh giá của Chính phủ
trong báo cáo trước Quốc Hội khóa XII kỳ họp thứ sáu cũng thừa nhận: Tăng trưởng
chủ yếu vẫn theo chiều rộng, năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh còn
thấp. Việc điều hành tỷ giá và ngoại hối chưa thật linh hoạt, dẫn đến găm giữ USD,
cán cân thanh toán bị thâm hụt (dự báo 1,9 tỉ USD). Bội chi ngân sách tăng và chính
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 13
sách tiền tệ nới lỏng luôn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao trở lại. Tình hình này đang
đặt ra cho năm 2010 những vấn đề mới cần nghiên cứu và giải đáp.
2. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên hiện nay
Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm gần đây có nhiều thuận
lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, một số ngành nghề trọng điểm đều có sự
tăng về năng lực sản xuất; các thành phần kinh tế đều có sự tăng trưởng, nhất là kinh
tế ngoài quốc doanh đã khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế nhiều thành
phần song cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: thiên tai, dịch
bệnh gia súc; giá cả đầu vào ở hầu hết các ngành sản xuất đều tăng làm cho chi phí
sản xuất tăng cao đã đẩy giá thành sản phẩm tăng lên, ảnh hưởng không nhỏ tới sức
cạnh tranh; kết cấu cơ sở hạ tầng, nhất là kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn miền
núi tuy đã cải thiện nhưng vẫn thiếu và xuống cấp; lĩnh vực xã hội còn nhiều bức
xúc, tai nạn giao thông tuy có nhiều biện pháp nhằm kiềm chế nhưng vẫn chưa có
xu hướng giảm Song với sự chỉ đạo quyết tâm và nỗ lực cố gắng các cấp, các
ngành và nhân dân toàn tỉnh nên tình hình kinh tế xã hội đã thu được kết quả đáng
kể, kinh tế tiếp tục phát triển theo chiều hướng tích cực
Năm 2009, hầu hết các mục tiêu kinh tế-xã hội đều đạt và vượt kế hoạch đề
ra:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) trên địa bàn 12,46%, vượt mục tiêu kế
hoạch đề ra và là năm có tốc độ tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay. Đóng góp
vào mức tăng trưởng chung 12,46% thì khu vực công nghiệp và xây dựng vẫn duy
trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất với mức đóng góp lớn nhất là 6,81%,
trong đó giá trị sản xuất công nghiệp đạt 7.095 tỷ đồng, mức sản xuất của các thành

phần kinh tế đều có sự tăng trưởng, nhất là khu vực ngoài quốc doanh; tiếp đến là
khu vực dịch vụ, mức đóng góp 4,11% vào tốc độ tăng chung, trong đó nhóm
ngành dịch vụ kinh tế tăng 13,8%, riêng ngành thương nghiệp tăng 16%, vận tải,
bưu điện tăng 17,89%, các ngành dịch vụ xã hội tăng 10,15% và khu vực nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản có mức đóng góp là 1,24%, riêng ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ
lớn nhất và có vai trò quyết định đến tốc độ tăng trưởng chung của khu vực này,
mức đóng góp của ngành nông nghiệp tăng khoảng 4,75% so với năm 2006.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, GDP bình quân đầu người cũng có
sự tăng đáng kể, năm 2009 đạt 10,6 triệu đồng/người/năm, tăng 1,5 triệu
đồng/người/năm. Cơ cấu kinh tế trên địa bàn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích
cực. Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng khu vực Công nghiệp – Xây dựng
tăng nhanh và cao hơn nhiều so với mức bình quân chung , khu vực Dịch vụ tăng
xấp xỉ mức bình quân chung toàn tỉnh, trong khi đó khu vục Nông lâm nghiệp và
thuỷ sản tăng chậm nên cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng khu
vực Nông lâm thuỷ sản và tăng tỷ trọng khu vực Công nghiệp – Xây dựng.
Đánh giá chung, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh những năm gần
đây, đặc biệt là năm 2009, tiếp tục phát triển theo hướng tích cực, các chỉ tiêu kinh
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 14
tế - xã hội chủ yếu của tỉnh đều hoàn thành so với kế hoạch và tăng khá so với cùng
kỳ. Một số lĩnh vực xã hội cũng có sự cải thiện đáng kể.
II. NHỮNG CHÍNH SÁCH KÍCH CẦU CỦA VIỆT NAM VÀ
TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
1. Một số giải pháp kích cầu hiện nay ở nước ta
Trên thực tế, bất cứ một giải pháp kích cầu tầm vĩ mô nào cũng xoay quanh 2
trục sản xuất và tiêu dùng, đều có những ưu điểm và nhược điểm, thậm chí trong
nhiều trường hợp người ta không thể chọn lựa cái tốt nhất mà bắt buộc phải chọn
lựa giải pháp ít xấu hơn. Dưới đây, chúng tôi xin đề xuất một số suy nghĩ bước đầu
về giải pháp thuộc 2 nhóm kích cầu sản xuất và kích cầu tiêu dùng nhằm giải quyết
“đầu vào” và “đầu ra” của sản phẩm hàng hóa gắn với lao động, việc làm và thu
nhập của dân cư trong thời kỳ suy giảm kinh tế toàn cầu.

1. Ngày 15/01/2009, Chính phủ đã quyết định các phương án sử dụng khoản
kích cầu 1 tỷ USD (17.000 tỷ VND) để hỗ trợ 4% lãi suất vốn vay cho các khoản
vay ngắn hạn trong thời gian tối đa là 8 tháng, kết thúc vào ngày 31/12/2009. Đối
tượng được hưởng là các DN nhỏ và vừa, có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng, sử dụng
không quá 300 công nhân, không có nợ đọng thuế và không có nợ tín dụng quá hạn.
2. Ngày 04/04/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định cho các tổ
chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn và sẽ được Nhà nước hỗ trợ lãi suất tiền vay
4%/năm trong khoảng thời gian tối đa 24 tháng, với tổng số lãi hỗ trợ là 20.000 tỷ
VND. Việc hỗ trợ lãi suất này được thực hiện từ ngày 01/04/2009 đến hết ngày
31/12/2011.
Gói kích cầu thứ hai này có quy mô lớn hơn, thời hạn dài hơn (tới 2 năm),
điều kiện nới lỏng hơn (DN và cả HTX có vốn dưới 20 tỷ đồng, sử dụng dưới 500
lao động, có thể nợ thuế và tín dụng quá hạn nhưng có dự án phù hợp vẫn được xét
cho vay) và lĩnh vực cho vay cũng được mở rộng hơn.
3. Chính phủ cũng thiết lập cơ chế bảo lãnh tín dụng cho DN. Ngân hàng
Phát triển Việt Nam (VDB) là đơn vị duy nhất được giao thực hiện giải pháp bảo
lãnh tín dụng cho đối tượng là các DN thuộc các thành phần kinh tế. VDB có thể
đảm bảo 100% khoản vay bằng USD hay VND. Những DN có vốn điều lệ 20 tỷ
VND tương đương 1,1 triệu USD với số lao động sử dụng không quá 500 người mới
đủ điều kiện tham gia vào chương trình này. DN không được phép có khoản nợ
ngân hàng hay nợ thuế nào quá hạn. Không giống như chương trình hỗ trợ lãi suất,
VDB có toàn quyền quyết định DN nào sẽ được nhận bảo lãnh tín dụng.
4. Chính phủ thực hiện miễn, giảm, giãn một số loại thuế, và kéo dài thời hạn
nộp thuế xuất nhập khẩu, ước tính có khoảng 28.000 tỷ đồng để kích cầu nhờ thực
hiện chính sách giảm thuế. Giảm 50% thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với 19 nhóm
mặt hàng tiêu thụ nội địa (Quyết định 16/2009/QĐ-TTg) và hoãn thu thuế thu nhập
cá nhân trong 5 tháng đầu năm 2009. Tạm hoàn 90% số thuế GTGT đầu vào khi
chưa có chứng từ và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán. Giãn thời hạn nộp
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 15
thuế GTGT đến 180 ngày đối với hàng nhập khẩu là thiết bị, máy móc trong nước

chưa sản xuất được, phải nhập khẩu để tạo tài sản cố định của DN. Đối với thuế
nhập khẩu, thực hiện giảm thuế cho nhiều mặt hàng là nguyên liệu đầu vào và hàng
tiêu dùng.
Để thực hiện chính sách kích cầu, Chính phủ đã cho phép giảm 30% số thuế
thu nhập DN (TNDN) phải nộp của quý IV/2008 và cả năm 2009 của DN nhỏ và
vừa. Đồng thời, giãn thời hạn nộp thuế TNDN trong thời gian 9 tháng của năm 2009
đối với thu nhập từ các hoạt động: sản xuất sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất, sản
xuất vật liệu xây dựng, dịch vụ du lịch, kinh doanh lương thực, phân bón,
5. Đẩy mạnh, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đồng thời phát triển mạng lưới
phân phối, hệ thống bán lẻ, nhất là ở vùng sâu vùng xa để cung cấp vật tư và hàng
tiêu dùng thiết yếu.
6. Về chính sách tài chính, tiền tệ, sẽ tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn
tín dụng cho các DN. Tiếp tục hạ lãi suất cơ bản và cho phép các tổ chức tín dụng,
các quỹ tín dụng nhân dân cho vay theo lãi suất thỏa thuận.
7. Chính phủ sẽ điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ theo nguyên tắc linh hoạt, nhằm
khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
Tổng nguồn lực sử dụng để kích cầu đầu tư và tiêu dùng của Việt Nam là rất
lớn, nếu tính thêm cả 17.000 tỷ đồng tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng cho DN thì
tổng giá trị các gói kích cầu của Chính phủ Việt Nam hiện nay lên đến 160.000 tỷ
đồng, tương đương 9 tỷ USD, chiếm gần 10% GDP của Việt Nam hiện nay.
2. Tác động của các giải pháp kích cầu ở nước ta
Nhằm đối phó với khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, đầu
năm 2009, Việt Nam đã kịp thời triển khai các gói kích cầu. Cụ thể, Chính phủ đã
dùng quỹ tài chính lớn trực tiếp chi cho các hoạt động kích cầu đầu tư và tiêu dùng,
chống suy giảm kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội.
* Một số tác động tích cực
Có thể nói, gói kích cầu trước hết có hiệu ứng tâm lý tích cực, làm tăng tức
thời lòng tin của các DN, các ngân hàng và nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào
trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ các DN đang gặp khó khăn, cũng như
tin vào triển vọng thị trường và môi trường đầu tư Việt Nam.

Gói kích cầu đã trực tiếp hỗ trợ DN tiếp cận được các nguồn vốn ngân hàng
với chi phí rẻ hơn, từ đó giảm bớt chi phí kinh doanh, góp phần giảm giá thành sản
phẩm, tăng cạnh tranh và khả năng tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ trên thị trường;
Nhiều DN nhận được sự hỗ trợ kịp thời của gói kích cầu đã có thêm cơ hội
giữ vững và mở rộng sản xuất, từ đó góp phần giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm
bảo ổn định xã hội.
Những hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại quốc gia được tài trợ từ gói
kích cầu nếu thực hiện có hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến việc tăng dòng vốn
chảy vào Việt Nam, mở rộng thị trường đầu ra cho DN và nền kinh tế, từ đó trực
tiếp góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 16
Một trong những yếu tố chính của gói kích thích kinh tế là khoản hỗ trợ lãi
suất 4% đối với vay vốn ngắn hạn, qua điều tra thực tế cho thấy hiệu quả rất cao.
Mục tiêu của Chính phủ thông qua chương trình hỗ trợ này là duy trì lạm phát ở
mức thấp, hỗ trợ sản xuất kinh doanh của các DN, hạn chế việc sa thải lao động.
Các DN có toàn quyền quyết định vốn vay để sản xuất, kinh doanh sao cho hiệu quả
nhất (điều này cũng đem lại hiệu quả cho cả nền kinh tế). Nhà nước chỉ hỗ trợ lãi
suất cho các khoản vay nhằm mục đích giúp cho các DN giảm bớt gánh nặng chi phí
tài chính, nhờ đó khuyến khích DN tiếp tục duy trì sản xuất, kinh doanh, tuyển dụng
lao động.
Về kết quả thực hiện hỗ trợ lãi suất, tính đến ngày tính đến ngày 2/07/2009,
dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất bằng đồng Việt Nam là 372.272,09 tỷ đồng.
Ngoài sự nỗ lực, năng động, sáng tạo của từng DN thì những chính sách kích
cầu của Chính phủ được coi là một trong những giải pháp kịp thời giúp hoạt động
sản xuất, kinh doanh của DN vượt khó đạt kết quả khả quan, từng bước đi vào ổn
định và phát triển.
Những tác động nói trên có thể được minh chứng bằng một số ví dụ thực tế:
Công ty cổ phần Việt Vương (DN chuyên sản xuất cột ăng-ten, cột điện,… tại Phú
Thọ), số vốn vay hỗ trợ lãi suất mà Công ty tiếp cận được là 15 tỷ đồng cùng với số
tiền được giãn thuế trong năm 2009 là 1 tỷ đồng đã giúp Công ty duy trì hoạt động

và đến thời điểm này đang đẩy mạnh sản xuất để kịp giao hàng trong sáu tháng cuối
năm.
Còn với Công ty cổ phần Chế biến Nông lâm sản Yên Thành (huyện Yên
Bình, tỉnh Yên Bái), vốn hỗ trợ lãi suất được vay là 1,2 tỷ đồng đã tạo điều kiện cho
Công ty tăng giá thu mua măng nguyên liệu của nông dân để có đủ nguyên liệu sản
xuất, đáp ứng kịp thời cho đơn hàng xuất khẩu 10 container sản phẩm măng chế
biến của đối tác Đài Loan (Trung Quốc). Giám đốc Nguyễn Ðức Dũng cho biết: Do
Công ty là DN nhỏ nên toàn bộ phần vốn lưu động đều phải đi vay ngân hàng. Năm
2008, có thời điểm, Công ty phải vay ngân hàng 700 triệu đồng với lãi suất
21%/năm, nên làm bao nhiêu cũng chỉ đủ để trả lãi vay ngân hàng. Nay nhờ vốn hỗ
trợ lãi suất, Công ty đã khôi phục sản xuất, duy trì việc làm cho người lao động.
* Những vấn đề đang và sẽ phát sinh
Thứ nhất, số tiền cung ứng đưa vào lưu thông rất lớn, nếu triển khai chậm và
không có giới hạn về thời gian thì khi kinh tế hồi phục trở lại sẽ tiềm ẩn rủi ro lạm
phát cao. Sau khi lạm phát được đẩy lùi từ cuối năm 2008 do chính sách thắt chặt
tiền tệ của Chính phủ, thì nguy cơ tái lạm phát lại đang xuất hiện trở lại dưới tác
động của các chính sách kích thích tăng trưởng kinh tế.
Nguy cơ tái lạm phát sẽ đậm nét hơn bắt đầu từ nửa cuối năm 2009 do kết
quả trực tiếp có độ trễ của các gói kích cầu của Việt Nam và cả thế giới từ đầu năm
đến nay kèm với các chính sách nới lỏng tiền tệ, làm gia tăng tổng cung tiền cho nền
kinh tế. Nếu lượng tiền này không được đưa vào sản xuất tạo ra hàng hóa đối ứng sẽ
gây ra tình trạng lạm phát. Về mặt tiền tệ, dư âm lạm phát 20% của năm 2008 vẫn
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 17
còn đó, nên chính sách tiền tệ cần được mở rộng một cách thận trọng để tránh kích
hoạt một làn sóng lạm phát mới.
Thứ hai, giảm thuế GTGT về lý thuyết là để hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ trên
thị trường có giá thấp hơn, nhờ đó tăng cầu cho sản phẩm. Song, việc xác định giá
bán hàng hóa trên thị trường thuộc quyền của người bán. Do đó, không phải trường
hợp nào giảm thuế cũng đồng nghĩa với việc giảm giá hàng hóa, dịch vụ. Các nhà
làm chính sách kỳ vọng rằng việc hoãn thuế thu nhập cá nhân sẽ giúp tăng thu nhập

khả dụng, nhờ đó tăng chi tiêu của người tiêu dùng. Rõ ràng, về mặt lý thuyết, đây
là những kỳ vọng hợp lý.
Tuy nhiên, trên thực tế có thể những chính sách này không kích được tiêu
dùng như kỳ vọng vì phản ứng của thị trường, của DN và của người tiêu dùng có thể
rất khác so với tính toán của các nhà làm chính sách. Bên cạnh đó, cần lưu ý thêm là
chính sách tỷ giá cố định trong khi VND bị định giá cao so với USD sẽ khuyến
khích nhập khẩu hàng tiêu dùng. Hơn nữa, rất khác với Trung Quốc, nền kinh tế của
Việt Nam nhỏ, lại có tỷ lệ nhập khẩu trong tổng tiêu dùng cao nên không thể kích
cầu đơn giản chỉ bằng cách tăng chi tiêu vì khi ấy một phần lớn nhu cầu tăng thêm
sẽ được thoả mãn bởi hàng nhập khẩu chứ ít có tác dụng kích thích sản xuất trong
nước.
Một điểm nữa cũng cần đặc biệt lưu ý khi thực hiện chính sách kích cầu, đó
là khi tất cả các thị trường xuất khẩu cạnh tranh chính của Việt Nam và Trung Quốc
(Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản) đều giảm cầu thì xu hướng hàng Trung Quốc tràn vào thị
trường Việt Nam sẽ càng gia tăng mạnh, tạo ra một sức ép rất lớn đối với sản xuất
trong nước. Điều này đã từng xẩy ra cách đây 10 năm, trong những năm 1998 -
1999, khi chúng ta bơm tiền để kích cầu thì lượng xe máy Trung Quốc tiêu thụ ở
Việt Nam tăng lên gấp 3 lần, từ khoảng 500-600 ngàn chiếc/năm tăng lên đến 1,8-2
triệu chiếc/năm. Hàng Việt Nam nói chung có sức cạnh tranh kém hàng Trung
Quốc, bởi vậy kích cầu trong điều kiện Trung Quốc cũng đang ráo riết, khẩn trương
tung ra các gói kích cầu lớn để kích thích tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu
(Năm 2009, Trung Quốc đặt kế hoạch đạt tăng trưởng kinh tế 8%, gói kích cầu gần
600 tỷ USD) lại càng trở nên khó khăn hơn.
Nếu không có định hướng và giải pháp tốt thì đối tượng được ưu đãi “kích
cầu” chủ yếu sẽ chính là hàng Trung Quốc (Việt Nam chủ yếu nhập siêu từ Trung
Quốc, năm 2008 Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc trên 11,1 tỷ USD). Hiện nay,
Trung Quốc cũng đang thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất, hỗ trợ vốn cho các DN
của Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài. Do đó, khi
thực hiện kích cầu, chúng ta cần phải tính đến cả tác động của hàng Trung Quốc
tràn vào Việt Nam để vừa kích cầu hợp lý, vừa giữ được thị trường nội địa.

Thứ ba, chính sách bù lãi suất có một số hạn chế tiềm tàng có thể nhận thấy,
cụ thể là: chính sách này không trực tiếp giúp giải quyết khó khăn lớn nhất của DN
hiện nay là thiếu nhu cầu thị trường; chính sách này có thể không đến được những
đối tượng cần hỗ trợ, thậm chí có thể hỗ trợ nhầm đối tượng do tình trạng bất cân
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 18
xứng về thông tin giữa Ngân hàng Nhà nước với ngân hàng thương mại và giữa
ngân hàng thương mại với DN.
Ngân hàng thương mại rất khó kiểm soát việc sử dụng đúng mục đích của
đồng vốn do tính có thể hoán đổi mục đích sử dụng của đồng tiền; Đồng thời, chi
phí cho công tác hậu kiểm của Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ rất tốn kém khi chỉ
trong vòng hơn một tuần, riêng 5 ngân hàng thương mại có sở hữu nhà nước đã cho
vay 32.000 tỷ đồng trong chương trình hỗ trợ lãi suất. Với tốc độ tăng trưởng tín
dụng nhanh như vậy, việc kiểm soát kịp thời và đầy đủ của Ngân hàng Nhà nước là
rất khó khăn và tốn kém.
Giữa các ngân hàng thương mại và khách hàng, việc thiếu thông tin sẽ khiến
nhiệm vụ của ngân hàng thương mại trong việc bảo đảm khách hàng sử dụng vốn hỗ
trợ đúng mục đích cũng trở nên khó khăn, đặc biệt là đối với các DN có hoạt động
phức tạp và có quan hệ tín dụng với nhiều ngân hàng. Nếu không kiểm soát chặt
chẽ, các khoản vay này có khả năng được sử dụng không đúng mục đích. Vốn vay
được hỗ trợ lãi suất có thể được DN dùng để đầu cơ mua cổ phiếu, tích trữ vàng,
ngoại tệ mạnh hoặc đầu tư quá mức vào bất động sản thay vì đưa vào sản xuất kinh
doanh.
Thứ tư, tác động của giải pháp hỗ trợ lãi suất đối với các tổ chức, cá nhân
vay vốn trung dài hạn thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất, kinh doanh cũng
rất hạn chế trong giai đoạn hiện nay. Bởi lẽ, ít có chủ DN dám mạo hiểm vay vốn
ngân hàng trung và dài hạn để đầu tư cho một dự án khi thị trường tiêu thụ hàng
hóa, dịch vụ trầm lắng. Khó khăn chủ yếu của DN hiện nay không phải là vốn mà là
thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước và ngoài nước, thiếu đơn hàng và hợp đồng
sản xuất.
Không có đầu ra cho sản phẩm hàng hóa sản xuất ra, nên sản xuất bị thu hẹp,

hoặc ngừng sản xuất, người lao động bị mất việc làm, ảnh hưởng đến an sinh xã hội.
Bởi vậy, để chính sách kích cầu phát huy được hiệu quả thì phải tạo được đầu ra cho
sản phẩm của DN. Nếu không tăng được nhu cầu thị trường, thì dù có kích thích
như thế nào cũng không phát huy tác dụng, không giúp ngăn chặn đà suy giảm kinh
tế, vì không có cầu thì DN càng cung nhiều, càng lỗ vốn.
Thứ năm, nền kinh tế Việt Nam có đặc thù phải dựa vào máy móc thiết bị và
nguyên vật liệu từ bên ngoài sẽ không thể chịu nổi sức ép từ việc gia tăng đầu tư quá
mức. Một khi tổng cầu nội địa tăng cao đặc biệt là cầu đầu tư sẽ khiến cho nhu cầu
nhập khẩu tăng vọt điều này gây thâm hụt thương mại thêm trầm trọng.
Khối lượng dự trữ ngoại tệ khiêm tốn khiến cho Việt Nam không thể giữ ổn
định tỷ giá hối đoái khi sức ép giảm giá VND tăng mạnh do nhu cầu nhập khẩu tăng
vọt. Khi VND bị mất giá đáng kể thì các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ và DN
sẽ ngày một phình to. Đây là những hệ lụy nguy hiểm và cần được cân nhắc trong
thời gian tới khi đưa ra các gói kích thích kinh tế lớn.
Thứ sáu, toàn bộ qui trình kiểm tra, giám sát, theo dõi và đánh giá việc thực
hiện các giải pháp kích cầu đã không được thiết kế và vận hành một cách đồng bộ.
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 19
Định hướng chính sách kích cầu hiện nay không rõ ràng và không có sự phân định
giữa các khái niệm kích cầu hay kích cung, kích cầu hay giải cứu,…
Tất cả các gói chính sách ấy đều được gộp vào dưới cái tên “kích cầu” trong
khi thiết kế của nó, hay tác động thực tế của nó, chưa chắc đã nhằm làm tăng tổng
cầu trong nền kinh tế. Ví dụ chính sách hỗ trợ lãi suất sẽ là kích cầu nếu DN vay
vốn đó để đầu tư. Nhưng nếu DN vay vốn đó để đảo nợ thì sẽ không còn gọi là kích
cầu được nữa, mặc dù nó vẫn có thể có tác dụng tích cực nào đó. Vấn đề không phải
là đảo nợ là xấu hay tốt mà là chúng ta không theo dõi được tiến trình đó và có sự
mâu thuẫn giữa chính sách dự định và thực tế chính sách. Về nguyên tắc thì hỗ trợ
lãi suất cấm đảo nợ nhưng thực tế thì việc này vẫn diễn ra mà không thể kiểm soát
được.
Phần III
NHƯNG GIẢI PHÁP KÍCH CẦU CỦA VIỆT NAM NÓI CHUNG

VÀ CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN NÓI RIÊNG
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt nam nói chung:
Dự báo năm 2010 kinh tế nước ta có triển vọng tăng trưởng cao hơn năm
2009, nhưng vẫn thấp hơn các năm trước khủng hoảng kinh tế thế giới vì những lý
do dưới đây:
Thứ nhất, kinh tế thế giới đã hồi phục sau khủng hoảng nhưng vẫn tăng
trưởng chậm. Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), thương mại toàn cầu sẽ
hồi phục vào giữa năm 2010 khi đạt mức tăng trưởng 3,2% do sức cầu của nhiều
nền kinh tế lớn sẽ tăng trở lại. Trong lĩnh vực đầu tư, mặc dù luồng vốn FDI có khả
năng sẽ tăng trở lại, nhưng sẽ phụ thuộc nhiều vào đà phục hồi của kinh tế thế giới.
Năm 2010, châu Á được đánh giá là khu vực sẽ phục hồi sớm nhất, trong đó
đáng chú ý là sự phục hồi của kinh tế Trung Quốc. Đà phục hồi của kinh tế thế giới
và châu Á sẽ phụ thuộc nhiều vào sự phục hồi của kinh tế Mỹ, đặc biệt là lĩnh vực
tài chính – tiền tệ và bất động sản tại nước này. Tuy nhiên, theo dự báo, kinh tế Mỹ
vẫn phục hồi chậm (dự báo sẽ theo mô hình chữ U có đáy kéo dài). Như vậy, tình
trạng thiếu vốn của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam sẽ còn diễn ra,
xuất khẩu sẽ còn gặp khó khăn.
Thứ hai, ở trong nước, tuy kinh tế nước ta đã phục hồi và tăng trưởng khá
trong quý IV- 2009, nhưng khó khăn và thách thức vẫn còn nhiều: thiếu vốn; thị
trường xuất khẩu hàng hóa và thu hút khách du lịch nước ta phụ thuộc vào Hoa Kỳ,
EU, Nhật Bản, Hàn Quốc…, nhưng trong năm 2010 nền kinh tế các nước này vẫn
tăng trưởng chậm; nhu cầu tiêu dùng của người dân sau khủng hoảng kinh tế cũng
tăng chậm hơn, cơ cấu mặt hàng cũng thay đổi, trong khi đó hàng hóa và sản phẩm
dịch vụ của nước ta chất lượng chưa cao, giá cả kém cạnh tranh, lại chậm đổi mới
theo yêu cầu thị trường, nên khả năng xuất khẩu bị hạn chế. Việc liên tục thực hiện
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 20
chính sách tiền tệ nới lỏng, tăng mạnh cung tiền có thể dẫn đến nguy cơ lạm phát.
Bên cạnh đó, thâm hụt ngân sách tăng mạnh trong năm 2009 do Chính phủ tiếp tục
thực hiện các kế hoạch kích thích kinh tế là những bất cập cần điều chỉnh.

Nhưng nước ta cũng có những thuận lợi: Kinh tế nước ta tuy chịu tác động
tiêu cực từ sự suy thoái kinh tế thế giới, nhưng mức độ không nhiều. Nông nghiệp là
ngành ít chịu ảnh hưởng nhất và cũng là ngành phát triển toàn diện và tăng trưởng
cao liên tục trong năm 2008, 2009 và dự báo cả năm 2010. Tình hình chính trị, xã
hội ổn định và sự đồng thuận cao đã và đang là nhân tố tích cực để các doanh
nghiệp, hộ gia đình yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Nguồn vốn ODA
của các nhà tài trợ năm 2010 đạt mức cao góp phần hạn chế khó khăn về vốn trong
nước. Những tháng cuối năm 2009 đã xuất hiện những tín hiệu tích cực ở hầu hết
các lĩnh vực kinh tế. Xu hướng phục hồi kinh tế cùng với việc cải thiện môi trường
đầu tư, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu của Chính phủ đã tác động đến
niềm tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Số doanh nghiệp thành lập mới
đang tiếp tục tăng lên vào cuối năm 2009 là tín hiệu đáng mừng.
Xuất phát từ bối cảnh đó, Quốc hội Khóa XII, kỳ họp thứ sáu đã thông qua
Nghị quyết về các chỉ tiêu kinh tế năm 2010 khá hợp lý: GDP tăng 6,5%, thu nhập
bình quân đầu người 1.200 USD, chỉ số CPI tăng 7%, tổng kim ngạch xuất khẩu
tăng 6% so 2009, tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 41% GDP. Tổng thu ngân
sách nhà nước là 456,4 nghìn tỉ đồng, tăng 16,8% so với năm 2009, tổng chi ngân
sách 581,9 nghìn tỉ đồng, tăng 9,2%.
Căn cứ vào thực trạng và xu hướng phát triển kinh tế năm 2009 và bối cảnh
kinh tế thế giới và trong nước năm 2010, dự báo khả năng đạt được các chỉ tiêu trên
đây là hiện thực. Nông nghiệp vẫn là ngành có triển vọng năm 2010 tiếp tục tăng
trưởng trên 6% về giá trị sản xuất và 4% về giá trị tăng thêm so với năm 2009. Sản
xuất công nghiệp sẽ phục hồi với tốc độ nhanh dần và cả năm tăng khoảng 13% về
giá trị sản xuất và 7% giá trị tăng thêm. Kim ngạch xuất khẩu ước đạt mục tiêu đề ra
(6%) do thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc phục hồi nhưng chậm. Chỉ số
giá tiêu dùng đạt dưới 10%. Tình hình tài chính có triển vọng ổn định, thu chi ngân
sách đạt chỉ tiêu đề ra, nhưng bội chi ngân sách có khả năng cao hơn năm 2009 do
ảnh hưởng của các gói kích cầu hỗ trợ các doanh nghiệp năm 2009 và 2010.
Để biến các triển vọng trên đây thành hiện thực, năm 2010 cần thực hiện
đồng bộ hệ thống nhiều giải pháp kinh tế, tài chính, cơ chế, chính sách, quản lý, điều

hành, tổ chức chỉ đạo của các ngành, các cấp và triển khai của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế. Một số hướng cần tập trung ưu tiên là:
- Tập trung giải ngân tốt, có chất lượng các nguồn vốn đầu tư phát triển trong
nước và nước ngoài. Là năm cuối của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, năm có nhiều
sự kiện lịch sử lớn, nên nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, các doanh nghiệp, của dân,
viện trợ ODA, vốn kiều bào gửi về nước, vốn FDI có triển vọng tăng nhanh và đạt
mức cao. Đó là nguồn lực quý không phải năm nào cũng có nên cần có cơ chế,
chính sách và giải pháp để quản lý, giải ngân sớm, sử dụng có hiệu quả, chống thất
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 21
thoát, lãng phí. Đây là vấn đề rất quan trọng, vì muốn đạt được tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao đồng thời ổn định được các cân đối vĩ mô thì phải nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của nền kinh tế.
- Mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Năm 2010 là năm cuối của kế
hoạch 5 năm 2006 – 2010 và chiến lược 10 năm 2001 – 2010, nên các ngành, địa
phương sẽ tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp và dịch vụ sau khi hồi phục kinh tế. Vì vậy, lượng hàng hóa và sản phẩm
dịch vụ tung ra thị trường sẽ tăng nhanh, đòi hỏi thị trường tiêu thụ tăng tương ứng.
Vì vậy, việc chăm lo tổ chức thu mua, nâng cao chất lượng hàng hóa Việt Nam theo
tiêu chuẩn quốc tế, giữ thương hiệu và uy tín một số hàng hóa chủ lực, sắp xếp lại
cơ cấu hàng hóa năm 2010 là giải pháp vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa có ý
nghĩa chiến lược lâu dài nhằm mở rộng thị trường thế giới.
- Đổi mới cơ chế chính sách kinh tế – tài chính nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất, hộ gia đình phát triển theo hướng bền vững, tăng chất lượng,
giảm chi phí để tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Cần ban
hành các cơ chế, chính sách có tính khả thi nhằm tái cơ cấu nền kinh tế trong hệ
thống các ngành sản xuất và dịch vụ.
- Tập trung nguồn lực của Nhà nước và nhân dân để khắc phục nhanh hậu
quả nặng nề của thiên tai ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên do cơn bão số 11
gây ra, đồng thời có biện pháp khắc phục hạn hán, thiếu nước ở các địa phương phía
Bắc, nhất là vùng đồng bằng sông Hồng, để bảo đảm vụ đông xuân 2010 đạt năng

suất cao.
- Đi đôi với phát triển kinh tế, năm 2010 Nhà nước cần tập trung cao độ
nguồn lực vốn và lao động đầu tư xây dựng mới và nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế
– xã hội theo yêu cầu phát triển bền vững, nhất là hệ thống giao thông, thủy lợi,
điện, nước sạch, vệ sinh môi trường, giáo dục – đào tạo, y tế, văn hóa. Tăng trưởng
kinh tế gắn với bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường
sinh thái cần được quán triệt trong mọi cấp, mọi ngành./.
2. Định hướng phát triển kinh tế xã hội tỉnh Thái Nguyên nói riêng
Xây dựng tỉnh Thái Nguyên trở thành một trong những trung tâm kinh tế
(công nghiệp, thương mại, du lịch), văn hoá, giáo dục, y tế của Vùng trung du và
miền núi Bắc Bộ; có hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối hiện đại và đồng bộ; có nền
văn hoá lành mạnh và đậm đà bản sắc dân tộc; quốc phòng – an ninh vững mạnh;
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao. Với mục tiêu
cụ thể như sau:
a) Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 2006 – 2010 đạt 12% -
13%/năm, thời kỳ 2011-2015 đạt 12,0 – 12,5%/năm và thời kỳ 2016 – 2020 đạt 11 –
12%/năm; trong đó, tăng trưởng bình quân của các ngành trong cả thời kỳ 2006 –
2020: nông, lâm nghiệp, thuỷ sản đạt 5 - 5,5%/năm, công nghiệp – xây dựng đạt
13,5% - 14,5%/năm, dịch vụ đạt 12,5%/năm.
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 22
b) GDP bình quân đầu người đạt trên 800 USD vào năm 2010, 1.300 – 1.400
USD vào năm 2015 và 2.200 – 2.300 USD vào năm 2020.
c) Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công
nghiệp, xây dựng, dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp (nông nghiệp, lâm
nghiệp, thuỷ sản), cụ thể: công nghiệp và xây dựng chiếm 45%, dịch vụ chiếm 38 –
39%, nông nghiệp chiếm 16-17% vào năm 2010; tương ứng đạt 46 – 47%, 39 –
40%, 13 – 14% vào năm 2015; đạt 47 – 48%, 42 – 43%, 9 – 10% vào năm 2020.
d) Kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 65 – 66 triệu USD vào năm 2010, đạt
trên 132 triệu USD vào năm 2015 và trên 250 triệu USD vào năm 2020; tốc độ tăng
xuất khẩu bình quân trong cả thời kỳ 2006 – 2020 đạt 15 – 16% năm.

đ) Thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.500 – 1.550 tỷ đồng vào năm 2010, 4.000
– 4.100 tỷ đồng vào năm 2015 và trên 10.000 tỷ đồng vào năm 2020; tốc độ tăng thu
ngân sách trên địa bàn bình quân trong cả thời kỳ 2006 – 2020 đạt trên 20%/năm.
e) Tốc độ tăng dân số trong cả thời kỳ 2006 – 2020 đạt 0,9%/năm; trong đó,
tốc độ tăng dân số tự nhiên đạt 0,8 – 0,82%/năm và tăng cơ học đạt 0,08% -
0,1%/năm.
g) Trước năm 2020, hoàn thành phổ cập giáo dục trung học phổ thông cho
95% dân số trong độ tuổi đi học ở khu vực thành phố, thị xã, thị trấn (trong đó 15%
học nghề, 15% giáo dục chuyên nghiệp, 70% tốt nghiệp phổ thông và bổ túc) và
85% dân số trong độ tuổi đi học ở khu vực nông thôn; kiên cố hoá toàn bộ trường,
lớp học; mỗi huyện có ít nhất 03 trường trung học phổ thông.
h) Bảo đảm đủ cơ sở khám, chữa bệnh và nhân viên y tế; ưu tiên đầu tư cải
tạo, nâng cấp và xây dựng mới các cơ sở khám, chữa bệnh ở cả ba tuyến: tỉnh,
huyện, xã; phấn đấu tăng tuổi thọ trung bình lên 72 tuổi vào năm 2010 và trên 75
tuổi vào năm 2020.
i) Giải quyết việc làm bình quân hàng năm cho ít nhất 15.000 lao động trong
thời kỳ 2006 – 2010 và cho 12.000 – 13.000 lao động trong thời kỳ 2011 – 2020;
bảo đảm trên 95% lao động trong độ tuổi có việc làm vào năm 2010; tỷ lệ lao động
qua đào tạo đạt 38 – 40% vào năm 2010 và đạt 68 – 70% vào năm 2020; tỷ lệ hộ
nghèo (theo chuẩn nghèo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày
08/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ) giảm xuống còn dưới 15% vào năm 2010 và
còn 2,5 – 3% vào năm 2020; chênh lệch giữa các vùng, các tầng lớp dân cư trong
việc thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản được thu hẹp; chỉ số phát triển con người
(HDI) tăng lên trên 0,7% vào năm 2010 và trên 0,8% vào năm 2020.
k) Bảo đảm trên 90% số hộ gia đình được dùng nước sạch vào năm 2010 và
nâng tỷ lệ này lên 100% vào trước năm 2020; 100% số hộ có điện sử dụng vào trước
năm 2010.
l) Tỷ lệ đô thị hoá đạt 35% vào năm 2010 và đạt 45% vào năm 2020.
m) Nâng cao chất lượng rừng và tỷ lệ che phủ rừng đạt 50% vào năm 2020.
n) Bảo đảm môi trường sạch cho cả khu vực đô thị và nông thôn.

Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 23
o) Tốc độ đổi mới công nghệ bình quân thời kỳ 2006 – 2010 đạt 14 –
16%/năm và thời kỳ 2011 – 2020 đạt 16 – 18%/năm.
Với quyết tâm tăng trưởng cao từ 12,5% một năm trở lên, Thái Nguyên sẽ
tiếp tục mời gọi các doanh nghiệp đầu tư có tiềm năng vào các lĩnh vực: Sản xuất
công nghiệp có nguồn gốc từ sắt thép, các lĩnh vực sản xuất phụ tùng ô tô, xe máy,
điện, điện tử và các sản phẩm từ chè; Các dự án đầu tư lớn để nâng cấp Khu du lịch
Hồ Núi Cốc lên thành Khu du lịch trọng điểm Quốc gia; Khu Du lịch sinh thái – lịch
sử Thần Sa Võ Nhai, Hồ Suối Lạnh; Các Dự án Sân golf ở Hồ Núi Cốc, khu Sinh
thái Lương Sơn – thành phố Thái Nguyên, khu Hồ Suối Lạnh – Phổ Yên, Hồ thuỷ
lợi – thuỷ điện Văn Lăng; Xây dựng mới, cải tạo các chung cư, xây dựng nhà ở cho
công nhân thuê ở các Khu công nghiệp tập trung, các Siêu thị và các Trung tâm
Thương mại, Nhà hàng, khách sạn 3 sao trở lên; Các dự án thành lập hoặc hợp tác
đầu tư về Trường Đại học Quốc tế với các ngành học thiết thực, Bênh viện Quốc tế
với các chuyên khoa sâu tại Thái Nguyên. Ngoài ra, Đầu tư vào hạ tầng xe buýt
cũng là một lĩnh vực đang ưu tiên (Thái Nguyên là tỉnh chưa phải bù lỗ cho vận tải
xe buýt).
II. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP KÍCH CẦU
Những bất ổn vĩ mô có tính nội tại cùng với tác động của khủng hoảng kinh
tế thế giới đã giúp chúng ta nhận diện rõ những yếu kém nội tại, có tính cơ cấu của
nền kinh tế. Đây chính là lúc chúng ta cần sáng suốt và đẩy mạnh quyết tâm khắc
phục những yếu kém nội tại, thực hiện những cải cách có tính cơ cấu tuy rất khó
khăn nhưng hứa hẹn sẽ đưa Việt Nam trở lại quỹ đạo tăng trưởng nhanh và bền
vững
Thứ nhất, về nhận thức tình hình: Nền kinh tế Việt Nam đang ghi nhận
những tín hiệu phục hồi tích cực là kết quả triển khai quyết liệt và đồng bộ 5 nhóm
giải pháp theo tinh thần Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11-12-2008 của Chính
phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng
trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội mà tâm điểm là gói kích cầu của Chính phủ.
Gói kích cầu này mang tính chất đối phó tình thế trong thời gian ngắn, giúp đưa nền

kinh tế Việt Nam ra khỏi khó khăn và bắt đầu phục hồi. Trong bối cảnh kinh tế
trong và ngoài nước thời gian tới vẫn còn rất nhiều khó khăn thách thức, để có thể
bứt phá và tạo đà tăng trưởng mạnh, bền vững trong dài hạn đòi hỏi, một mặt, phải
tiếp tục duy trì thực hiện có hiệu quả gói kích thích kinh tế thứ nhất; mặt khác, cần
bổ sung gói kích thích thứ hai tập trung cho các mục tiêu trung và dài hạn, tái cấu
trúc nền kinh tế.
Thứ hai, đối với gói kích thích kinh tế đang thực hiện: Các cơ quan chức
năng cần rà soát, đánh giá tổng thể những kết quả, hiệu quả mà gói kích cầu mang
lại cũng như những tồn tại, vướng mắc và kịp thời có biện pháp chấn chỉnh để tiếp
tục triển khai trong thời gian tới. Bên cạnh đó, nghiên cứu điều chỉnh liều lượng của
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 24
gói kích thích cho phù hợp với những diễn biến mới của tình hình kinh tế trong
nước và thế giới. Theo đó có thể:
(a) Giảm dần hỗ trợ lãi suất ngắn hạn từ 4% hiện nay xuống mức 1% - 2% và
kết thúc đúng thời hạn là 31-12-2009, nhưng vẫn tiếp tục gói hỗ trợ lãi suất trung,
dài hạn; đồng thời giảm bớt các thủ tục hành chính quá cứng nhắc trong hoạt động
cho vay, nhất là đối với khu vực nông thôn và đối tượng là các hộ nông dân đầu tư
máy móc, thiết bị trong sản xuất nông nghiệp (theo đánh giá của các ngân hàng, dư
nợ cho vay đối với khu vực này tuy thấp, nhưng tỷ lệ nợ xấu thấp nhất, trong hỗ trợ
lãi suất lại thường thiếu các thủ tục theo quy định nên khó tiếp cận vốn);
(b) Tiếp tục duy trì kế hoạch thực hiện nhóm giải pháp thông qua chính sách
tài khóa (giảm, giãn và miễn một số loại thuế ) và gói giải pháp bảo đảm an sinh xã
hội.
Thứ ba, nghiên cứu xây dựng gói kích thích kinh tế mới phù hợp với điều
kiện, khả năng và các cân đối vĩ mô của nền kinh tế; tập trung cho các mục tiêu
trung và dài hạn, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công
nghiệp và dịch vụ trong GDP; cấu trúc lại các ngành, các lĩnh vực kinh tế của nước
ta trên cơ sở lợi thế cạnh tranh trong hội nhập; hình thành các vùng kinh tế dựa trên
tiềm năng, lợi thế vùng gắn với nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế; trên cơ sở
đó điều chỉnh phân bổ nguồn lực để tập trung phát triển những ngành công nghiệp,

nông nghiệp, dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao, có tiềm năng phát triển và những
lĩnh vực nền tảng như kết cấu hạ tầng, giáo dục và khoa học - công nghệ.
Đề xuất nội dung của gói kích thích kinh tế mới:
(1) Sử dụng công cụ tài khóa và tiền tệ kết hợp với đẩy mạnh cải cách hành
chính, nhưng thiên về chính sách tài khóa hơn;
(2) Quy mô nhỏ hơn gói kích thích kinh tế đang thực hiện trên cơ sở cân đối
vĩ mô (tăng trưởng kinh tế, lạm phát, khả năng ngân sách );
(3) Đối với kích cầu qua chính sách tài khoá: (a) Đẩy mạnh đầu tư công trong
các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm quốc gia, hạ tầng khu vực nông thôn và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; (b) Cắt
giảm thuế (như thuế VAT) cho nhiều mặt hàng thiết yếu cho tiêu dùng hằng ngày để
vừa có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh vừa bảo đảm an sinh xã hội cho người
có thu nhập thấp; Giãn thời gian nộp thuế (thu nhập doanh nghiệp, nhập khẩu ) để
hỗ trợ doanh nghiệp;
(4) Đối với kích cầu qua chính sách tiền tệ: (i) Nghiên cứu riêng một gói kích
cầu quy mô hạn chế và có điều kiện, dành riêng cho khu vực doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Đây là khu vực đặc biệt cần vốn, hiện chưa được tiếp cận thông thoáng với
nguồn vốn kích cầu lần thứ nhất, trong khi đó lại tạo ra phần lớn việc làm, và là
"đệm" an sinh xã hội quan trọng cho kinh tế Việt Nam hiện nay; (ii) Mức lãi suất hỗ
trợ thấp hơn so với hiện nay, thời gian từ 12 tới 18 tháng và có thể gia hạn thêm từ 3
đến 6 tháng; (iii) Phương pháp cho vay cần kết hợp giữa "tài trợ dự án" (không đòi
hỏi tài sản thế chấp, mà dựa vào năng lực khả thi thương mại) và hỗ trợ kỹ thuật dự
Tiểu luận KT Vĩ mô- NMP 25

×