Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Bài tập học kỳ Luật Lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.82 KB, 9 trang )

Bài tập học kỳ Luật Lao động – Đề số 14

1 Vote
ĐỀ BÀI TẬP SỐ 14 :
1. Phân tích các biện pháp hỗ trợ và giải quyết việc làm cho người lao động.(4 điềm)
2. Chị H là nhân viên thu ngân công ty quảng cáo M theo hợp đồng lao động 1 năm (từ
1/2004 đến 1/2006). Hết thời hạn hợp đồng, chị H tiếp tục làm việc cho công ty, nhưng
công ty chưa ký tiếp hợp đồng lao động với chị.
Trong đợt kiểm tra tài chính của công ty đầu năm 2007, nhân viên của phòng kế toán- tài
chính của công ty phát hiện chị H đã gian lận số tiền 34 triệu đồng bằng cách thu tiền của
một số đơn vị quảng cáo. Có viết hóa đơn chứng từ nhưng không vào sổ thu tiền và
không chuyển tiền cho phòng kế toán.
Sau khi được báo cáo của phòng kế toán – tài chính, công ty M đã yêu cầu chị H truy nộp
số tiền nói trên, nhưng chị H cố tình không trả với lý do công ty cần thành lập Tổ thanh
tra nội bộ làm rõ số tiền nói trên có chính xác không và là tiền của đơn vị nào thuê quảng
cáo.
Vụ việc kéo dài đến tháng 4/2009 nhưn chị H vẫn không chịu trả số tiền nói trên cho
công ty. Trong thời gian từ 2/2007 đến tháng 4/2009, công ty M đã ra quyết định tạm
đình chỉ công việc đối với chị H cho đến khi giải quyết xong vụ việc, hưởng 50% lương.
Đồng thời, chuyển vụ việc sang cho cơ quan điều tra khởi tố và xác định rõ hành vi vi
phạm của chị H.
Đầu tháng 11/2009, sau khi có kết luận của cơ quan Công an về hành vi tham ô của chị H
với số tiền 34 triệu đồng, công ty quyết định sa thải H và yêu cầu H bồi thường cho công
ty số tiền 34 triệu đã chiếm đoạt của công ty.
Hỏi :
a. Công ty M có thể xa thải chị H được hay không ?(1.5 điểm)
b. Khi xa thải H, công ty cần lưu ý những vấn đề gì ? (2 điểm)


c. Việc công ty M cho chị H tạm đình chỉ công việc như trên là đúng hay sai ?(1.5 điểm)


LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay vấn đề việc làm vẫn được xã hội rất quan tâm, hiện nay tốc độ tăng dân số của
nước ta là 1%/năm nhưng điều kiện kinh tế – xã hội không tăng trưởng kịp với tốc độ
tăng của dân số nên vấn đề này vẫn là một vấn đề nan giải. Ngoài ra lao động Việt Nam
chủ yếu là lao động phổ thông 60 – 70%/tổng số lao động, nên việc giải quyết việc làm
càng khó khăn hơn nhiều. Những năm gần đây nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp
hỗ trợ giải quyết việc làm chúng ta hãy cùng xem.
NỘI DUNG
I. Các biện pháp hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao động
Vấn đề giải quyết việc làm rất được nhà nước ta quan tâm, bởi nó không phải chỉ là vấn
đề tạo việc làm cho người lao động mà vấn đề này còn ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế –
xã hội , an ninh chính trị của đất nước. nếu như một số lượng lớn lao động không có việc
làm mà chỉ ngồi ăn thì đương nhiên là việc đầu tiên sẽ ảnh hưởng đến kinh tế, làm kìm
hãm nền kinh tế làm chno kinh tế không phát triển được, một số lượng người nhàn rỗi
không có việc làm sẽ dẫn đế phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, xã hội không ổn định thì chính
trị không thể ổn định được, xã hội không ổn định, tình hình chính trị bất ổn thì làm sao
kinh tế phát triển được. Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp để hỗ trợ giải quyết việc làm
như chính sách việc làm, quỹ hỗ trợ việc làm, thong qua tổ chức hỗ trợ việc làm, dậy
nghề gắn với việc làm và đưa người lao động việt nam đi lao động có thời hạn ở nước
ngoài. Trong đó có ý nghĩa nhất là chính sách việc làm và quỹ hỗ trợ việc làm. Vậy
những chính sách đó được thực hiện như thế nào chúng ta hãy cùng xem.
1. Chương trình việc làm
Chương trình việc làm là một trong những biện pháp để chính phủ thực hiện vấn đề bảo
đảm việc làm, hạn chế thất nghiệp, đây là chương trình có ý nghĩa rất lớn trong việc hỗ
trợ giải quyết việc làm, chương trình do chính phủ cơ quan quản lí hành chính cao nhất
của nhà nước đưa ra, nên nó mang tính bao quát , mang tính định hướng cho các chượng
trình việc làm khác như : quỹ hỗ trợ việc làm; thông qua các tổ chưc hỗ trợ việc làm; do
dàng trong việc hỗ trợ việc làm, nó là chương trình mang tầm vĩ mô từ việc đưa ra những
chương trình mang tầm vĩ mô này nó sẽ được thực hiện thông qua nhiều chương trình

nhỏ hơn do chính phủ quy định, trọng chương trình đó nhà nước định chỉ tiêu tạo việc
làm mới trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm năm và hằng năm, tạo điều kiện
cần thiết, hỗ trợ tài chính, cho vay vốn hoặc giam, miễn thuế và áp đụng các biện pháp


khuyến khích khác để người có khả năng lao động tự giải quyết việc làm, để các tổ chức
đơn vị và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhiều nghề mới nhằm tạo việc
làm cho người lao động.
Chỉ tiêu tạo việc làm mới là quy định của bộ luật lao động về số lượng lao động mới cần
tuyển thêm vào làm việc thường xuyên tại doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị và cá nhân sử
dụng lao động theo hợp đồng lao động thuộc mọi thành phần kinh tế do nhu cầu mới
thành lập hoặc mở rộng thêm quy mô và các mặt hoạt động sắp xếp lại lao động
Nhà nước luôn xây dựng và thực hiện các chỉ tiêu tạo việc làm mới
Trong các chương trình dự an và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội nhất thiết phải có
chỉ tiêu tạo việc làm mới .
Hằng năm, các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị cá nhân có sử dụng lao động phải báo cáo
kết quả thực hiện chỉ tiêu tạo việc làm mới về các bộ, nghành và địa phương.
Hằng năm, các bộ, ngành và các địa phương có trách nhiệm tổng hợp và báo cáo chỉ tiêu
tạo việc làm mới về bộ lao động – thương binhvà xã hội và bộ kế hoạch và đầu tư .
Bộ lao động- thương binh và xã hội phối hợp với bộ kế hoạch và đầu tư có trách nhiệm
hướng dẫn, kiểm tra và báo cáo chính phủ kết quả thực hiện chỉ tiêu tọa việc làm mới
năm năm và hằng năm.
Nhnuw vậy chính phủ luôn tạo việc làm mới thông qua việc thúc đẩy phát triển kinh tế,
kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm. Đây là hướng được xác định
cơ bản và quan trọng nhất.
Duy trì bảo đảm việc làm cho NLD, chống xa thải công nhân hàng loạt. Từng bước xây
dựng bảo hiểm thất nghiệp .
Hiện nay mục tiêu của chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2010 là góp
phần bảo đảm cho 49.5 triệu lao động, tạo việc làm cho 8 triệu lao động trong 5 năm từ
2006 – 2010 giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống 5%. Tạo thành thị trong năm 2010 tạo việc làm

cho 2 – 2.2 triệu lao động. thông qua trương trình mục tiêu quốc gia về việc làm trong đó
tạo việc làm trong nước cho 1.7 – 1.8 triệu lao động theo các dự án vay vốn tạo da từ quỹ
quốc gia về việc làm.
2. Quỹ hỗ trợ việc làm
Quỹ hỗ trợ việc làm là khoản tiền nhà nước dành để hỗ trợ tạo ra việc làm mới hoặc để
các tổ chức cá nhân vay nhằm mục đích tạo ra việc làm. Hiện nay ở nước ta có 3 loại quỹ
việc làm, đó là quỹ quốc gia về việc làm, quỹ giả quyết việc làm ở địa phương và quỹ
việc làm cho người tàn tật.


Quỹ quốc gia về việc làm là biện pháp lý quan trọng của nhà nước trong việc triển khai
thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Nguồn quỹ này bao gồm: Ngân
sách nhà nước, các nguồn hỗ trợ của các tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước, các
nguồn hỗ trợ khác.
Quỹ giải quyết việc làm ở dịa phương là quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm trong địa phương,
nó được hình thành từ các nguồn ngân sách địa phương do hội đồng nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương quyết định, các nguồn hỗ trợ của các tổ chức cá nhân trong và
ngoài nước, các tổ chức hỗ trợ khác. Nhà nước chính sách khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi cho các tổ chức cá nhân trong nước và nước ngoài bao gồm cả người việt nam
định cư ở nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, để giải quyết việc làm cho
người lao động.
Bộ tài chính chủ trì, phối hợp với bộ lao động – thương binh và xã hội và các bộ, ngành
liên quan trình chính phủ ban hành theo thẩm quyền chính sách hỗ trợ tài chính, miễn
giảm thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích để các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị
và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tạo việc làm cho người lao động.
Bộ khoa học và công nghệ chủ trì, phối hợp với bộ lao động – Thương Binh và xã hội
nghiên cứu trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền chính sách khuyến
khích phát triển công nghệ mới, kỷ thuật mới thu hút nhiều Lao Động.
Ủy ban Dân Tộc chủ trì phối hợp với Bộ Lao Động xã hội – Thương Binh và xã hội
nghiên cứu trình Chính phủ ban hành hoặc theo thẩm quyền chính sách ưu đãi về giải

quyết việc làm để thu hút và sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ Lao Động – Thương
Binh vá xã hội và các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu ban hành chính sách khuyến
khích tạo việc làm ở nông thôn.
Những năm gần đây nguồn quỹ này đã được bổ xung để sử dụng hieeji quả hơn. Ta có
thể thấy trong hai năm 2006và 2007 chính phủ đã phê duyệt nguồn vốn bổ sung 485 tỷ
đồng cho quỹ quốc gia về việc làm để phân cho 64 tỉnh thành và các tổ chức đoàn thể
chính trị xã hội, cộng với nguồn vốn thu hồi quay vòng đã góp phần đưa doanh số ch vay
hăng năm từ 1.200 – 1.400 tỷ đồng, cùng với gần 300 tỷ đồng nguồn vốn quỹ giả quyết
việc làm của 30 địa phương đã thực hiện cho vay hàng chục nghìn dự án của các cơ sở
kinh doanh và hộ gia đình góp phần tạo việc làm cho 350.000 lao động/năm.
3. Tổ chức giới thiệu việc làm
Nhà nước ta còn thực hiện một số chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm như tổ chức giới
thiệu viêc làm gồm các trung tâm hỗ trợ việc làm va doanh nghiệp chuyên hoạt động giới
thiệu việc làm. Các tổ chức giới thiệu việc làm có nhiệm vụ tư vấn, giới thiệu việc làm
cho NLĐ, cung ứng và giúp tuyển dụng theo yêu cầu của NSDLĐ, thu thập và cung ưng
thông tin về thị trường lao động, có quyền dậy nghề gắn với tạo việc làm. Trung tâm hỗ


trợ việc làm tổ chức do nhà nước, tổ chức chính trị xã hội thành lập là đơn vị sự nghiệp
của nhà nước
4. Dậy nghề gắn với việc làm và đưa người lao động việt nam đi lao động có thời hạn
ở nước ngoài năng của
Hiện nay với điều kiên khá thuận lợi nhiều trung tâm dậy nghề gắn với việc làm ngày
càng mởi ra rất nhiều, điều này tao điệu kiện thuận lợi để người lao động tự mình lựa
chon nghành nghề cho phù hợp với khả năngcủa ban thân để chọn cho mình một cong
việc phù hợp nhất, cùng với đó hiện nay việc dậy nghề để đưa người lao động Việt Nam
đi lao động có thời hạn ở nước ngoài. Như chúng ta biết điều kiện kinh tế nước ta còn
kém phát triển nên việc việc tao ra việc làm mới cũng rất hạn chế, vì vậy tìm một thị
trường lao động mới là hướng đi tích cực cho việc giải quyết tình trạng việc làm hiện

nay. Chính vì vậy việc đưa lao động Việt Nam đi lao động có thời hạn ở nước ngoài luôn
được quan tâm, hiện nay nhà nước ta đa không ngừng tìm thị trường lao động mới để đưa
người lao động đi lao động có thời hạn ở nước ngoài. Nhà nước tổ chức dậy nghề gắn với
việc làm và tổ chức đưa người lao động Việt Nam đi lao động có thời hạn ở nước ngoài.
Nhưng biện pháp này đều chủ yếu sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, những
chính sách này đều là những chính sách từ chính sách quốc gia về việc làm. Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Lao Động – Thương Binh và xã hội nghiên
cứu trình Chính phủ ban hành theo thẩm quyền chính sách vay vốn để lao động đi làm
việc có thời hạn ở nước ngoài, tujwj tạo việc làm và khuyến khích thu hút nhiều lao động.
Bộ Giáo Dục và Đao tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Lao Động – Thương Binh và xã hội và
các Bộ, nghành khác có liên quan nghiên cứu trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành
theo thẩm quyền: Chính sách khuyến khích người lao động học tập, bồi dưỡng nâng cao
trình độ đáp ứng phát triển sản xuất và công nghệ mới; Chính scahs giải quyết việc làm
cho sinh viên, học sinh đã tốt nghiệp đại học, cao đăng, trung học chuyên nghiệp.
Hiện nay với khoảng trên 500.000 lao động làm việc trên 40 quốc gia vùng lãnh thổ,
chúng ta có thể thấy mục tiêu trong năm 2009 Nước ta đã đưa 90.000 lao động đi xuất
khẩu năm 2008 cả nước đã giải quyết việc làm cho 1.35 triệu lao động trong đó thông qua
Chương trình phát triển kinh tế – xã hội là 1.1 triệu lao động xuất khẩu lao động 85.000
trong đó thị trường lao động chủ yếu của nước ta là ở 4 thị trường đó là Đài Loan, Hàn
Quốc , Malaysia và Nhật Bản . So với mức kế hoạch năm 2007 thì năm 2009 vượt mức
hơn 80 ngàn người .
Như vậy ta có thể thấy nhà nước đã có nhiều biện pháp để hỗ trợ giải quyết hơn nữa vấn
đề giải quyết việc làm.
II. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Công ty có thể xa thải chị H không?
Công ty M có thể xa thải chị H, như ta thấy chị H là nhân viên thu ngân của công ty
quảng cáo M theo hợp đồng lao động 1 năm ( từ 1/2005 đến 1/2006). Hết thời hạn hợp
đồng, chị H vẫn tiếp tục làm việc cho công ty, nhưng công ty chưa ký kết hợp đồng với



chị. Trong đợt kiểm tra tài chính của công ty đầu năm 2007, nhân viên phòng kế toán –
tài chính của công ty phát hiện chị H đã gian lận số tiền 34 triệu đồng của công ty. Sau
khi phát hiện sự việc công ty đã yêu cầu chị hoàn trả lại cho công ty, nhưng chị H không
tra với lý do công ty cần thành lập tổ thanh tra nội bộ làm rõ số tiền nói trên có chính xác
không và là tiền của những đơn vị nào thuê, vụ việc kéo dài tháng 4/2009 nhưng chị H
vẫn không trả số tiền trên của công ty. Trong thời gian từ 2/2007 đến tháng 4/2009, công
ty M đã ra wuyets định tạm đình chỉ công việc đối với chị H cho đến khi giải quyết xong
vụ việc, đồng thời chuyển vụ việc sang cho cơ quan điều tra khởi tố và xac định rõ hành
vi vi phạm của chị H.
Đầu tháng 11/2009, cơ quan công an kết luận chị H có hành vi tham ô thì việc công ty
giải quyết xa thải là phù hợp, bởi theo Điều 85 BLLĐ “hình thức xử lý kỷ luật xa thải chỉ
được ap dụng trong những trường hợp sau đây:
a, Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc
có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp;
b, Người lao động bị sử lý kỷ luật keo dài thời hạn nâng lương, chuyển làm công việc
khác mà tái phạm trong thời hạn chưa xóa kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật chách chức mà tái
phạm;
c, Người lao động tự ý bỏ việc năm ngày cộng dồntronh một tháng hoặc 20 ngày cộng
dồn trong một năm mà không có lý do chính đáng…”.
Như vậy, việc chị H lấy 34 triệu đồng của công ty M, chính là hành vi vi tham ô tài sản
của công ty, số tiền 34 triệu đồng không hề nhỏ chút nào, nhưng thế nào được gọi là hanh
vi gây thiệt hai nghiêm thì chưa được nói rõ và mỗi loại hình doanh nghiệp có thể quy
định trong thỏa ước của doanh nghiệp có thể quy định khác nhau mức thiệt hại để tiến
hành kỷ luật, nhưng theo Điều 14 nghị đinh 41/CP có quy định “mức thiệt hại coi là
không nghiêm trọng theo điều 89 (quy định bồi thường thiệt hại theo vật chất do người
lao động làm hư hỏng hoặc làm mất dụng cụ trang thiết bị và các tài sản khác của doanh
nghiệp) của bộ luật lao động là mức thiệt hại gây ra dưới 5 triệu đồng”. Nhưng vậy mặc
dù Điều 85 không quy định như thế nào là gây thiệt hại nghiêm trọng cho công ty nhưng
điều này dường như được ngầm quy định tại Điều 14 Nghị định 41/CP hướng dẫn áp
dụng điều 89 của BLLĐ. Như vậy khoản tiền 34 triệu không thể gọi là nhỏ được, như

vậy khi mà cơ quan công an đã có kết luân là chị H tham ô thì công ty hoàn toàn có đầy
đủ lí do để xa thải theo điều 85 BLLĐ. Nhưng vì vụ việc diễn ra lâu theo điều 86 BLLĐ
“ Thời hiệu để xử lý vi phạm kỉ luật lao động tối đa là ba tháng, kể từ ngày xảy ra vi
phạm, trường hợp đặc biệt cũng không được quá sáu tháng”. Như vậy vụ việc trên diễn ra
từ đầu năm 2007 mà đến tháng 11/2009 mới làm dõ được như vậy khi làm dõ được vụ
việc thì đã quá sáu tháng kể từ ngày phát hiện vụ việc. Nhưng theo điều 8 Nghị định
41/CP ngày 06/7/1995 đã sửa đổi bổ sung theo quy định tại khoản 3 điều 1 Nghị định
33/2003/NĐ-CP:
Thời hiệu để xử lý kỷ luật lao động theo quy định tại điều 86 xủa bộ luật lao động được
quy định như sau:


1. thời hiệu để xử lý vi phạm kỷ luật lao động tối đa là ba tháng, kể từ ngày xảy ra hoặc
phát hiện vi phạm, trường hợp có hành vi vi phạm liên quan đến tài chính, tài sản, tiết lộ
bí mật công nghệ, kinh doanh của doanh nghiệp thì thời hiệu xử lý kỷ luật lao động tối đa
là 6 tháng.
2. không được xu lý kỷ luật lao động đối với người lao động đang trong thời gian:
a, Nghỉ ốm đâu, điều dưỡng, nghỉ việc được sự đồng ý của người sử dụng lao động.
b. Bị tạm giam, tạm giữ.
c. chờ kết quả của cơ quan có thẩm quyền điều tra, xác minh và kết luận đối với hành vi
vi phạm được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 85 của Bộ Luật Lao Động.
d. Người lao động nữ có thai; nghỉ thai sản; nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Người lao
động nam phải nuôi con nhỏ dưới 12 tháng.
Khi hết thời hạn quy định tại các điểm a, b, c khoản 2 điều này, nếu còn thời hiệu để xử
lý kỷ luật thì người sử dụng lao động tiến hành sử lý kỷ luật ngay, nếu hết thời hiệu thì
được khôi phục thời hiệu để xử lý kỷ luật lao động nhưng tối đa không được quá 30 ngày
kể từ ngày hết thời gian nêu trên…”. Như vậy với hướng dẫn áp dụng trên thì công ty M
hoàn toàn có thể tiến hành xử lý kỷ luật chị H theo đúng quy định của pháp luật.
2. Khi sa thải H, công ty cần lưu ý vấn đề gì?
Chị H đã vi phạm quy định tại điều 85 BLLĐ nên chị H có thể bị công ty M xa thải. Mặc

dù chị H là người vi phạm nhưng pháp luật luôn chú ý bảo vệ người lao động nên muốn
tiến hành thủ tục xa thải công ty M cần chú ý một số vấn đề. Khi tiến hành xa thải công ti
phải xem xét chị H đã hoàn trả lại số tiền tham ô cho công ti hay chưa, và nếu như chị H
đã hoàn trả lại số tiền cho công ti rồi thì việc tiến hành xa thải đối với chị H có cần thiết
nữa không, liệu có thể thây bằng một hình thức xử lí khác nhẹ hơn được không. Nếu như
công ti vẫn quyết định xa thải thi phải làm dõ được mấy vấn đề sau. Vì vụ việc đã diễn ra
khá lâu, vụ việc được phát hiện từ đầu năm 2007 mà đến tháng 11/2009 mới tiến hành xa
thải được nên khi tiến hành xa thải công ty phai đưa ra chứng cứ chứng minh rõ lỗi của
chị H để tiến hành xa thải, trong trường hợp này kết luận điều tra của cơ quan Công an là
chứng cứ rất quan trọng. Khi tiến hành xa thải thì công ti phải xem xét xem chị H có
thuộc các điểm quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định 41/CP không, nếu như chị H thuộc
trường hợp quy định tai các điểm này thì công ti không thể tiến hành xa thải được ngay.
Khi tiến hành xa thải phải tiến hành theo đúng trình tự thủ tục. Theo quy định tại điều 87
BLLĐ “ khi tiến hành xử lý vi phạm kỷ luật lao động người sử dựng lao động phải
chứng minh lỗi của người lao động.
Người lao động có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc
người khác bào chữa.


Khi xem xét xư lý kỷ luật lao động phải có mặt đương sự và phải có sự tham gia của đại
diện ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp.
Việc xem xét

xử lý kỷ luật lao động phải được ghi thành biên bản“.
Như vậy khi tiến hành kỉ luật xa thải đầu tiên công ty M phải tiến
hành họp để xét kỷ luật, và phải có mặt của chị H, đại diện ban chấp hành công đoàn,
việc xem xét kỷ luật phải được ghi thành văn bản. Việc xa thải của công ty M chính là
việc người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Nên cần phải tiến
hành các thủ tục theo khoản 2 điều 38 BLLĐ
“ trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo các điểm a, b, và c khoản 1

điều này, người sử dụng lao động phải trao đổi, nhất trí với ban chấp hành công đoàn cơ
sở, trong trường hợp không nhất trí hai bên phải báo cáo với cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày báo cho cơ quan quản lí nhà nước về lao động
địa phương biết, người sử dụng lao động mới có quyền quyền quyết định và phải chịu
trách nhiệm trước quyết định của mình. Trong trường hợp không nhất trí với quyết định
của người sử dụng lao động, ban chấp hành cơ sở người sử dụng lao động có quyền yêu
cầu giải quyết tranh chấp lao động theo trình tự mà pháp luật quy định”.
Như vây theo quy định trên công ty M với tư cách là người sử dựng lao động phải trao
đổi với ban chấp hành công đoàn, nếu như ban chấp hành công đoàn đồng ý với quyết
định của người sử dụng lao động thi việc tiến hành kỷ luật xa thải được tiến hành như
sau, khi tiến hành xem xét kỷ luật lao động phải có mặt của đương sự (chị H) và phải có
sự tham gia của đại diện Ban Chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp, việc xem
xét kỉ luật lao động phải được ghi thành biên bản. Nếu như ban chấp hanh công đoàn
không nhất trí thì người sử dụng hay công ty M phải thông báo với cơ quan lý nhà nước
về lao động ở địa phương biết, sau khi thông báo được 30 ngày công ty mới có quyền kỷ
luật xa thải chị H được. Chi H phải hoàn trả lại cho công ty 34 triệu đồng, công ty phải
giải quyết những quyền lợi chi H liên quan cho chị H như tiền bảo hiểm xã hội
Với hình thưc kỉ luật của công ty M nếu chị H không đồng ý với quyết định trên của công
ty thì chị H có thể khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
3. Việc công ty M cho chị H tạm đình chỉ công việc như trên là đúng hay sai?
Theo quy định của pháp luật, người sử dụng lao động có thế tạm đình chỉ công việc của
người lao động Theo quy định tại điều 92 BLLĐ “ Người sử dụng lao động có quyền
tạm đình chỉ công việc của người lap động khi vụ việc vi phạm có những tình tiết phức
tạp, nếu xét thấy để người lao động tiếp tục làm việc sẽ gây khó khăn cho việc xác minh,
sau khi tham khảo ý kiến của ban chấp hành cơ sở.
Thời hạn tạm đình chỉ không được quá 15 ngày, trường hợp đặc biệt cũng không được
quá ba tháng. Trong thời gian đó, người lao động được tạm ứng 50% tiền lương trước khi
bị đình chỉ công việc. . . “. Như vậy ta có thể thấy pháp luật thừa nhận việc có thể cho
người lao động tạm đình chỉ công việc, nhưng thời gian tạm đình chỉ là 15 ngày, trường
hợp đặc biệt thì không được quá ba tháng. Trong tình huống của bài thì trong thời gian từ



2/2007 đến tháng 4/2009, công ty M đã ra quyết định tạm đình chỉ công việc đối với chị
H cho đến khi giải quyết xong vụ việc, hưởng 50 % lương. Theo bài đến tháng 11/2009
vụ việc mới được làm rõ như vậy là việc tạm đình chỉ được thực hiện đến thán 11/2009.
Trong tình huống của bài không nói rõ là công ti ra quyết định đình chỉ vào thời gian nào
như vậy. Nếu như việc đình chỉ được tiến hành trong khoảng thời gian tư tháng 2/2007
đến tháng 4/2009 với thời gian tiến hành đình chỉ như trên thì công ty đã vi phạm thời
hạn tam đình chỉ đối với chị H bởi thời gian tạm đình chỉ tối đa không được quá ba
tháng, nếu giả sử đến tháng 4/2009 công ti mới ra quyết định tạm đình chi thì đến tháng
7/2009 là hết thời hạn tạm đình chỉ theo quy định của pháp luật.
Như vậy việc tạm đình chỉ của công ti quảng cáo M là sai, việc tạm đình chỉ công việc
của chị H và cho chị hưởng 50% tiền lương chỉ được áp dụng trong thời gian ba tháng
tạm đình chỉ, sau thời hạn ba tháng từ khi có quyết định tạm đình chỉ thì công ti M phải
nhận chị H vào lại làm việc và phải cho chị H hưởng 100% lương của mình như trước khi
bị tạm đình chỉ. Khi bị xa thải chị H có quyền yêu cầu công ti M bồi thường lại cho chị
khoản tiền này.
III. KẾT LUẬN
Như vậy qua những nhận định trên, thì ta có thể hiểu hơn vấn đề việc làm hiện nay cũng
như các biện pháp mà nhà nước hỗ trợ giải quyết việc làm. Nhưng do điều kiện tăng
trưởng kinh tế không tăng kịp với tốc độ tăng dân số nên vấn đề việc làm sẽ vẫn chưa thể
giải quyết triệt để được, như vậy để giải quyết hiệu quả vấn đề việc làm thì vẫn cấn phải
có thời gian.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình luật lao động Việt Nam- Trường Đại Học Luật Hà Nội – NXB Công An
Nhân Dân
2. Bộ Luật Lao Động Việt Nam – NXB Lao Động – Xã Hội
3. Hướng dẫn áp dụng Các Điều của bộ Luật Lao Động – Trung Tâm TTTV Pháp Luật
Tân Việt – NXB Lao Động
4. Nghị Định 33/2003/CP




×